Mục 3
Bí Tích Thánh
Thể
Articulus 3
Sacramentum Eucharistiae
1322. Bí tích Thánh Thể hoàn tất việc khai tâm Kitô giáo. Những
người đã được nâng lên hàng tư tế vương giả nhờ bí tích Rửa Tội, và được nên
đồng hình đồng dạng với Đức Kitô cách sâu xa hơn nhờ bí tích Thêm Sức, nay nhờ
bí tích Thánh Thể được tham dự vào chính hy tế của Chúa cùng với toàn thể cộng
đoàn.
1323. “Đang khi ăn bữa Tiệc ly, trong đêm Người bị nộp, Đấng Cứu Độ
chúng ta đã thiết lập Hy tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy tế
thập giá trường tồn qua các thời đại, cho tới khi Người đến, và cũng để ủy thác
cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh, việc tưởng nhớ sự Chết và Sống lại
của Người: Đây là bí tích tình yêu, là dấu chỉ sự hợp nhất, là mối dây bác ái,
là bữa tiệc Vượt Qua, nơi chúng ta lãnh nhận Đức Kitô, linh hồn được tràn đầy
ân sủng và nhận được bảo đảm cho vinh quang tương lai”[1].
I. THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH VÀ TỘT ĐỈNH
CỦA ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
EUCHARISTIA – FONS
ET CULMEN VITAE ECCLESIALIS
1324. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời
sống Kitô giáo[2].
“Những bí tích khác cũng như mọi thừa tác vụ trong Hội Thánh, và các hoạt động
tông đồ, đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và quy hướng về bí tích đó. Thật
vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội
Thánh, đó là chính Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta”[3].
1325. “Việc hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa và sự hợp nhất
của dân Thiên Chúa, nhờ hai điều đó mà Hội Thánh tồn tại, được diễn tả cách xác
đáng và thực hiện cách kỳ diệu nhờ bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, hành
động Thiên Chúa thánh hoá trần gian trong Đức Kitô và việc phụng tự mà con
người dâng lên Đức Kitô và nhờ Người mà dâng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh
Thần, cả hai đều đạt tới tột đỉnh”[4].
1326. Sau cùng, nhờ việc cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta
đã được kết hợp với phụng vụ trên trời và tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu,
trong đó “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
1327. Tóm lại, bí tích Thánh Thể là bản toát yếu và tổng luận của
đức tin của chúng ta: “Cách chúng ta suy nghĩ phù hợp với bí tích Thánh Thể, và
ngược lại bí tích Thánh Thể xác nhận cách suy nghĩ của chúng ta”[5].
II. BÍ TÍCH THÁNH THỂ ĐƯỢC GỌI THẾ NÀO?
QUOMODO HOC APPELLATUR
SACRAMENTUM?
1328. Sự phong phú vô tận của bí tích này được diễn tả qua nhiều
tên gọi khác nhau mà người ta dành cho bí tích này. Mỗi một trong các tên gọi
đó gợi lên một số phương diện. Người ta gọi bí tích Thánh Thể là:
Lễ Tạ Ơn, bởi vì đây chính
là hành động cảm tạ Thiên Chúa. Các từ Eucharistein (Lc 22,19;
1 Cr 11,24) và eulogein (Mt 26,26; Mc 14,22) nhắc lại những
lời chúc tụng của dân Do Thái – nhất là trong bữa ăn – để tung hô các kỳ công
của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
1329. Bữa ăn tối của Chúa[6],
bởi vì Hội Thánh tưởng niệm bữa Tiệc Ly Chúa cùng ăn với các
môn đệ Người hôm trước ngày Người chịu nạn, và đây như là việc tham dự trước
vào Tiệc Cưới của Con Chiên[7] trong
thành Giêrusalem thiên quốc.
Việc Bẻ Bánh, vì nghi thức
này, nét đặc thù của bữa ăn Do Thái, đã được Chúa Giêsu sử dụng khi Người dâng
lời chúc tụng và phân phối bánh với tư cách người chủ tiệc[8],
đặc biệt trong bữa Tiệc Ly[9].
Nhờ cử chỉ này, các môn đệ nhận ra Người sau khi Người sống lại[10];
và các Kitô hữu tiên khởi đã dùng thuật ngữ “Bẻ Bánh” để nói về các buổi cử
hành Thánh Thể của họ[11].
Như vậy họ muốn nói lên rằng, tất cả những ai cùng ăn một tấm bánh duy nhất
được bẻ ra, là Đức Kitô, thì được hiệp thông với Người và làm thành một thân
thể trong Người[12].
Cộng đoàn Thánh Thể (Synaxis),
bởi vì bí tích Thánh Thể được cử hành trong cộng đoàn các tín hữu, đó là cách
diễn tả hữu hình về Hội Thánh[13].
1330. Việc Tưởng Niệm cuộc khổ nạn và phục sinh của
Chúa.
Hy tế thánh, bởi vì hy tế duy
nhất của Đức Kitô Đấng Cứu Độ được hiện tại hoá và bao gồm cả lễ vật của Hội
Thánh. Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Hy tế Thánh lễ, “lễ
tế ngợi khen” (Dt 13,15)[14], lễ
tế thiêng liêng,[15] hy
tế tinh tuyền[16] và
thánh thiện, bởi vì bí tích này hoàn tất và vượt trên mọi hy tế của Giao
Ước cũ.
Phụng vụ thánh và
thần linh, bởi vì tất cả phụng vụ của Hội Thánh có trung tâm và cách
diễn tả cô đọng nhất trong việc cử hành bí tích này; cũng theo nghĩa đó bí tích
Thánh Thể còn được gọi là cuộc cử hành Các mầu nhiệm thánh. Bí tích
này cũng được gọi là Bí Tích Cực Thánh, bởi vì là bí tích của các
bí tích. Danh xưng này để chỉ các hình dạng Thánh Thể được lưu giữ trong Nhà
Tạm.
1331. Sự hiệp lễ, bởi vì nhờ bí tích này, chúng ta được
kết hợp với Đức Kitô, là Đấng cho chúng ta tham dự vào Mình và Máu Người, để
làm thành một thân thể duy nhất[17];
bí tích này cũng được gọi là Những sự thánh (ta hagia;
sancta)[18] – đây
là ý nghĩa đầu tiên của mầu nhiệm “các Thánh thông công” mà Tín biểu của các
Tông Đồ nói đến –, Bánh các Thiên thần, Bánh bởi trời, Thuốc trường
sinh[19], Của
ăn đàng…
1332. Thánh Lễ (Lễ Misa), bởi vì
phụng vụ trong đó mầu nhiệm cứu độ được hoàn tất, được kết thúc bằng việc sai
các tín hữu ra đi (missio), để họ chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong
đời sống hằng ngày của họ.
III. BÍ TÍCH THÁNH THỂ TRONG NHIỆM CỤC CỨU ĐỘ
EUCHARISTIA IN
OECONOMIA SALUTIS
Các dấu chỉ là bánh và rượu
1333. Ở trung tâm việc cử hành bí tích Thánh Thể có bánh và rượu,
mà nhờ lời của Đức Kitô và việc khẩn cầu Chúa Thánh Thần, sẽ trở thành Mình và
Máu của Đức Kitô. Trung thành với mệnh lệnh của Chúa, để nhớ đến Người, cho tới
khi Người lại đến trong vinh quang, Hội Thánh tiếp tục làm điều Chúa đã làm hôm
trước ngày Người chịu khổ hình: “Người cầm lấy bánh...”, “Người cầm lấy chén
rượu...”. Các dấu chỉ là bánh và rượu, khi đã trở nên Mình và Máu Đức Kitô cách
mầu nhiệm, vẫn tiếp tục nói lên sự thiện hảo của công trình tạo dựng. Vì vậy
trong phần Dâng lễ, chúng ta tạ ơn Đấng Tạo Hoá vì đã ban bánh và rượu[20],
là kết quả của “công lao của con người,” nhưng trước hết đó là “hoa mầu ruộng đất”
và “sản phẩm từ cây nho”, tức là những hồng ân của Đấng Tạo Hoá. Hội Thánh nhận
ra cử chỉ của Melchisedech, là vua và là tư tế, ông “mang bánh và rượu ra” (St
14,18), là hình ảnh tiên báo cho hiến lễ của mình[21].
1334. Thời Giao Ước cũ, trong số các hoa trái đầu mùa của ruộng
đất, bánh và rượu được dâng lên làm lễ vật, với tính cách một dấu chỉ của lòng
biết ơn đối với Đấng Tạo Hoá. Nhưng chúng còn mang một ý nghĩa mới trong bối
cảnh cuộc Xuất Hành: Các bánh không men mà người Do Thái hằng năm vẫn ăn trong
dịp lễ Vượt Qua, gợi nhớ đến sự vội vã của cuộc ra đi thoát khỏi Ai Cập; kỷ
niệm về manna trong sa mạc luôn nhắc nhớ dân Israel rằng họ sống bằng bánh là
Lời Chúa[22].
Cuối cùng, bánh ăn hằng ngày là sản phẩm của Đất hứa, là bảo chứng việc Thiên
Chúa trung tín với các lời hứa của Ngài. “Chén chúc tụng” (1 Cr 10,16) vào cuối
bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, đã thêm cho rượu một ý nghĩa cánh chung
ngoài niềm vui lễ hội, đó là sự trông chờ Đấng Messia đến tái tạo Giêrusalem.
Khi thiết lập bí tích Thánh Thể của Người, Chúa Giêsu đã ban một ý nghĩa mới và
dứt khoát cho việc dâng lời chúc tụng trên bánh và chén rượu.
1335. Các phép lạ hóa bánh ra nhiều, khi Chúa dâng lời chúc tụng,
bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ Người để nuôi dưỡng đám đông, là hình ảnh
tiên báo sự vô cùng phong phú của tấm bánh duy nhất là Thánh Thể của Người[23].
Dấu chỉ nước hoá thành rượu ở Cana[24] đã
loan báo Giờ vinh quang của Chúa Giêsu. Dấu chỉ này biểu lộ sự hoàn tất của bữa
tiệc cưới trong Nước của Chúa Cha, nơi các tín hữu uống rượu mới[25] đã
trở thành Máu Đức Kitô.
1336. Lời loan báo đầu tiên về bí tích Thánh Thể đã gây chia rẽ các
môn đệ, giống như lời loan báo về cuộc khổ nạn đã làm cho họ vấp phạm: “Lời này
chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Thánh Thể và Thánh Giá là những hòn
đá gây vấp ngã. Vẫn là cùng một mầu nhiệm, và mầu nhiệm đó không ngừng là cớ
gây chia rẽ. “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67): Câu
hỏi này của Chúa vang vọng qua các thời đại, với tính cách một lời mời gọi của
tình yêu của Người để khám phá ra rằng, chỉ một mình Người mới có “những lời
đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68), và việc đón nhận hồng ân Thánh Thể của
Người trong đức tin là đón nhận chính Người.
Việc thiết lập bí tích Thánh Thể
1337. Khi yêu thương những kẻ thuộc về mình, Chúa đã yêu họ đến
cùng. Khi biết đã đến Giờ lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha mình, trong một bữa
tiệc, Người đã rửa chân cho họ và ban cho họ giới luật yêu thương[26].
Để lưu lại cho họ bảo chứng của tình yêu này, để không bao giờ lìa xa những kẻ
thuộc về mình, và để họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua của Người, Người đã
thiết lập bí tích Thánh Thể, với tính cách một việc để nhớ đến cái Chết và sự
Sống lại của Người, và Người truyền cho các Tông Đồ Người, “những vị Người đặt
làm tư tế của Giao Ước Mới”[27] phải
cử hành bí tích này cho tới khi Người lại đến.
1338. Ba Tin Mừng Nhất Lãm và thánh Phaolô lưu truyền cho chúng ta
bản tường thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể; về phần mình, thánh Gioan
thuật lại những lời của Chúa Giêsu tại hội đường Capharnaum, những lời đó thật
sự chuẩn bị cho việc thiết lập bí tích Thánh Thể: chính Đức Kitô tự xưng mình
là Bánh Hằng Sống, từ trời xuống[28].
1339. Chúa Giêsu chọn thời gian mừng lễ Vượt Qua để thực hiện điều
Người đã báo trước ở Capharnaum: Người ban Mình và Máu Người cho các môn đệ của
Người:
“Đã đến ngày lễ
Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Chúa Giêsu sai ông Phêrô với
ông Gioan đi và dặn: ‘Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua’… Các ông
ra đi ... và dọn tiệc Vượt Qua. Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu vào bàn cùng với các
Tông Đồ. Người nói với các ông: ‘Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua
này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy
sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn
trong Nước Thiên Chúa’... Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao
cho các ông và nói: ‘Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc
này, mà tưởng nhớ đến Thầy’. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như
vậy và nói: ‘Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em’”
(Lc 22,7-20)[29].
1340. Khi cử hành bữa Tiệc Ly với các Tông Đồ của Người trong khung
cảnh bữa tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu đã ban cho lễ Vượt Qua của người Do Thái một
ý nghĩa dứt khoát. Quả thật, cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu để về cùng Cha Người,
qua cái Chết và sự Sống lại, thật sự là cuộc Vượt Qua mới, được tham dự trước
trong bữa Tiệc Ly và được cử hành trong bí tích Thánh Thể, cuộc Vượt Qua đó
hoàn thành lễ Vượt Qua của người Do Thái và tham dự trước vào lễ Vượt Qua chung
cuộc của Hội Thánh trong vinh quang Nước Thiên Chúa.
“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
1341. Mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền phải lặp lại những cử chỉ và lời
nói của Người “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), không chỉ đòi hỏi phải nhớ
đến Chúa Giêsu và những gì Người đã làm. Mệnh lệnh này nhắm đến việc cử hành
phụng vụ, do các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài, để tưởng
niệm Đức Kitô, tưởng niệm cuộc đời của Người, cái Chết và sự Sống lại
của Người, và việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha.
1342. Ngay từ đầu, Hội Thánh đã trung thành tuân giữ mệnh lệnh này
của Chúa. Về Hội Thánh tại Giêrusalem có bài tường thuật như sau:
“Các tín hữu chuyên
cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham
dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng... Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày
chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn
sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46).
1343. Đặc biệt vào “ngày thứ nhất trong tuần”, nghĩa là ngày Chúa
Nhật, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các Kitô hữu tụ họp để “bẻ bánh” (Cv 20,7). Từ
đó đến nay, việc cử hành bí tích Thánh Thể tiếp tục tồn tại y như vậy, đến độ
ngày nay chúng ta vẫn gặp được việc cử hành đó, ở bất cứ đâu trong Hội Thánh,
với cùng một cấu trúc căn bản. Bí tích Thánh Thể vẫn mãi mãi là trung tâm của
đời sống Hội Thánh.
1344. Như vậy, từ cử hành này sang cử hành khác để loan báo mầu
nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu, “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), dân Thiên
Chúa trên đường lữ hành, “qua đường hẹp của thập giá”[30],
đang tiến về bàn tiệc thiên quốc, nơi tất cả mọi người được tuyển chọn sẽ ngồi
vào bàn tiệc của Nước Thiên Chúa.
IV. CỬ HÀNH PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
CELEBRATIO
LITURGICA EUCHARISTIAE
Thánh lễ của mọi thời đại
1345. Từ thế kỷ II, chúng ta có chứng từ của thánh Justinô tử đạo
về những nét chính của việc cử hành thánh lễ. Những nét chính đó vẫn được giữ
nguyên cho đến ngày nay, trong tất cả các truyền thống phụng vụ lớn. Để giải
thích cho hoàng đế ngoại giáo Antôniô Piô (138-161) những gì các Kitô hữu đã
làm, thánh Justinô viết vào khoảng năm 155 như sau:
“Vào ngày Mặt Trời
như người ta thường gọi, mọi người ở thành phố hay ở nông thôn đều họp lại một
nơi.
Và người ta đọc ký
sự của các Tông Đồ hoặc sách của các Tiên tri, tuỳ thời gian cho phép.
Khi người đọc kết
thúc, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích mọi người bắt chước những
điều tốt lành đó.
Sau đó, tất cả
chúng tôi cùng đứng dậy và dâng lời cầu nguyện[31] cho
chính chúng tôi... và cho mọi người khác ở khắp nơi, … để chúng tôi sống ngay
chính trong các việc làm và trong việc tuân giữ các giới răn, hầu chúng tôi đạt
được ơn cứu độ vĩnh cửu.
Khi kết thúc việc
cầu nguyện, chúng tôi trao hôn bình an cho nhau.
Tiếp đến, người ta
mang đến cho vị chủ sự bánh và một chén rượu có pha nước.
Vị chủ sự cầm lấy
bánh rượu, dâng lời tán tụng và tôn vinh Cha của vũ trụ, nhân danh Chúa Con và
Chúa Thánh Thần và đọc một kinh tạ ơn dài (tiếng Hy Lạp: eucharistian)
về việc chúng tôi được coi là xứng đáng với các hồng ân này.
Khi vị chủ sự kết
thúc các lời nguyện và việc tạ ơn, mọi người hiện diện đồng thanh đáp: Amen.
Sau khi vị chủ sự
hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân đã đáp lại, thì các vị mà chúng tôi gọi là
phó tế, phân phát bánh và rượu có pha nước ‘đã được thánh thể hoá’ (‘eucharistizata’)
cho mỗi người hiện diện tham dự và đem đến cho những người vắng mặt”[32].
1346. Phụng vụ Thánh lễ diễn tiến theo một cấu trúc căn bản đã được
duy trì qua các thế kỷ cho đến thời đại chúng ta. Phụng vụ Thánh lễ được triển
khai trong hai phần chính, làm thành một thể thống nhất:
– Tập họp, Phụng
vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời nguyện phổ quát;
– Phụng vụ
Thánh Thể với việc tiến dâng bánh rượu; kinh tạ ơn thánh hiến [Kinh
nguyện Thánh Thể] và hiệp lễ.
Phụng Vụ Lời Chúa
và Phụng Vụ Thánh Thể cùng tạo thành “một hành vi phụng tự duy nhất”[33];
thật vậy, bàn tiệc được dọn ra cho chúng ta trong Thánh Lễ vừa là bàn tiệc Lời
Thiên Chúa, vừa là bàn tiệc Mình Chúa”[34].
1347. Đó không phải là diễn tiến bữa tiệc Vượt Qua của Chúa Giêsu
phục sinh với các môn đệ Người sao? Khi đi đường, Người giải thích Kinh Thánh
cho họ, rồi khi vào bàn ăn với họ, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và
bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30)[35].
Diễn tiến việc cử hành
1348. Tất cả mọi người tập họp lại. Các Kitô hữu tập
họp lại một nơi để cử hành Thánh Thể. Trong đó, chính Đức Kitô đứng đầu cộng
đoàn, Người là nhân vật hoạt động chính của bí tích Thánh Thể. Người là Thượng
tế của Giao Ước Mới. Chính Người chủ trì cách vô hình mọi việc cử hành Thánh
Thể. Thay mặt Người, Giám mục hay linh mục (hành động trong cương vị
của Đức Kitô là Đầu) chủ trì cộng đoàn, lên tiếng sau các bài đọc, đón nhận
lễ vật và đọc Kinh nguyện Thánh Thể. Mọi người đều có phần chủ
động của mình trong cuộc cử hành, mỗi người theo cách của mình: người thì đọc
Sách Thánh, người thì mang lễ vật, người thì trao Mình Thánh Chúa và toàn dân
biểu lộ sự tham dự của mình bằng lời đáp Amen.
1349. Phụng vụ Lời Chúa gồm “các tác phẩm của các Tiên
tri”, nghĩa là Cựu Ước, và “ký sự của các Tông Đồ”, nghĩa là các thánh thư và
các sách Tin Mừng; sau đó là bài giảng để khuyến khích việc đón nhận các lời này
xét như đó thật sự là Lời Chúa[36],
và đem ra thực hành, tiếp đến là lời chuyển cầu cho mọi người, theo lời thánh
Tông Đồ dạy: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài
van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền”
(1 Tm 2,1-2).
1350. Dâng lễ vật (offertorium). Người ta mang,
hay đôi khi rước cách long trọng, bánh và rượu lên bàn thờ. Bánh rượu này sẽ
được chủ tế, nhân danh Đức Kitô, dâng lên trong Hy tế Thánh Thể, để trở thành
Mình Máu Đức Kitô. Đây chính là cử chỉ của Đức Kitô, trong bữa Tiệc Ly, “cầm
lấy bánh và chén rượu”. “Chỉ có Hội Thánh mới dâng lên Đấng Tạo Hoá lễ vật tinh
tuyền này, khi dâng lên Ngài cùng với lời tạ ơn, lễ vật từ các thụ tạo của
Ngài”[37].
Việc dâng lễ vật trên bàn thờ lặp lại cử chỉ của Melchisedech và phó dâng các
tặng phẩm của Đấng Tạo Hoá vào tay Đức Kitô. Trong hy tế của Người, chính Đức
Kitô kiện toàn mọi cố gắng dâng hy tế của con người.
1351. Từ thuở ban đầu, khi mang bánh và rượu đến cử hành thánh lễ,
các Kitô hữu cũng mang theo tặng phẩm của mình để chia sẻ với những người túng
thiếu. Tục lệ quyên góp[38] này,
nay vẫn còn, được gợi hứng từ gương mẫu của Đức Kitô, Đấng trở nên nghèo để làm
cho chúng ta nên giàu có[39]:
“Những ai sung túc
mà muốn thì cho tuỳ ý mình, và những gì quyên góp được, sẽ được trao cho vị chủ
sự, và ngài sẽ giúp đỡ cho các cô nhi quả phụ, những người vì bệnh tật hay vì
một lý do nào khác phải thiếu thốn, các tù nhân, các di dân, tắt một lời, ngài
cứu giúp cho tất cả những ai đang túng thiếu”[40].
1352. Kinh nguyện Thánh Thể. Với kinh nguyện Thánh Thể,
lời kinh tạ ơn và thánh hiến, chúng ta bước vào trung tâm và tột đỉnh của cuộc
cử hành:
Trong Kinh
Tiền Tụng, Hội Thánh dâng lời tạ ơn Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, trong Chúa
Thánh Thần, về tất cả các công trình của Ngài, các công trình tạo dựng, cứu
chuộc và thánh hóa. Lúc đó toàn thể cộng đoàn kết hợp với lời ca vô tận của Hội
Thánh trên trời, các Thiên thần và toàn thể các Thánh, tán tụng Thiên Chúa ba
lần thánh.
1353. Trong Kinh Epiclesis, Hội Thánh khẩn cầu Chúa Cha
sai Thần Khí của Ngài (hay quyền năng chúc lành của Ngài[41])
xuống trên bánh rượu để nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu trở nên
Mình Máu Chúa Giêsu Kitô, và để những ai tham dự bí tích Thánh Thể được trở
thành một thân thể và một tinh thần duy nhất (một số truyền thống phụng vụ đặt
lời kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần sau Kinh Tưởng Niệm).
Trong phần tường
thuật việc Chúa thiết lập bí tích Thánh Thể, sức mạnh của lời nói và hành
động của Đức Kitô, và quyền năng của Chúa Thánh Thần, làm cho Mình và Máu Đức
Kitô, là hy tế Người đã dâng trên thập giá một lần cho mãi mãi, hiện diện cách
bí tích dưới hình bánh hình rượu.
1354. Trong Kinh Tưởng Niệm tiếp theo sau đó, Hội
Thánh kính nhớ cuộc khổ nạn, sự phục sinh và sự quang lâm vinh hiển của Đức
Kitô Giêsu; Hội Thánh trình lên Chúa Cha hy tế là Con của Ngài, Đấng giao hoà
chúng ta với Ngài.
Trong các lời
chuyển cầu, Hội Thánh cho thấy bí tích Thánh Thể được cử hành trong sự
hiệp thông với toàn thể Hội Thánh trên trời dưới thế, với kẻ sống và người
chết, và trong sự hiệp thông với các vị mục tử của Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng,
Đức Giám mục giáo phận, hàng linh mục và phó tế của ngài và tất cả các Giám mục
toàn cầu cùng với các Giáo Hội của các ngài.
1355. Trong phần Hiệp lễ, trước đó có kinh Lạy Cha và
nghi thức bẻ bánh, các tín hữu lãnh nhận “bánh bởi trời” và “chén cứu độ”, là
Mình và Máu Thánh Đức Kitô, Đấng tự hiến “để cho thế gian được sống” (Ga 6,51):
“Bởi vì bánh này và
rượu này, theo cách nói xưa là ‘đã được thánh thể hoá’ (‘eucharistizata’)[42], nên chúng
tôi gọi lương thực này là Thánh Thể, không ai được chia sẻ lương thực này,
ngoài kẻ tin rằng giáo lý của chúng tôi là chân thật, và đã được Rửa Tội để
được tha thứ tội lỗi và được tái sinh, và sống như Đức Kitô đã dạy”[43].
V. HY TẾ BÍ TÍCH: TẠ ƠN, TƯỞNG NIỆM, HIỆN DIỆN
SACRIFICIUM
SACRAMENTALE:
GRATIARUM ACTIO, MEMORIALE, PRAESENTIA
1356. Nếu ngay từ ban đầu, các Kitô hữu đã cử hành thánh lễ với một
hình thức về căn bản không thay đổi, dù trải qua nhiều khác biệt lớn về thời
đại và các nền phụng vụ, thì chính là bởi vì chúng ta biết mình bị ràng buộc
bởi mệnh lệnh Chúa đã ban, hôm trước ngày Người chịu khổ hình: “Anh em hãy làm
việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11,24-25).
1357. Chúng ta chu toàn mệnh lệnh này của Chúa, khi chúng ta cử
hành việc tưởng niệm hy tế của Người. Khi làm điều này, chúng
ta dâng lên Chúa Cha những gì mà chính Ngài đã ban cho chúng ta: các
tặng phẩm từ cuộc tạo dựng của Ngài, là bánh và rượu, nhờ quyền năng của Chúa
Thánh Thần và các lời của Đức Kitô, trở nên Mình và Máu Đức Kitô: như thế, Đức
Kitô hiện diện một cách thật sự và mầu nhiệm.
1358. Vì vậy, chúng ta phải khảo sát bí tích Thánh Thể với tính
cách là:
– việc tạ ơn và ca
ngợi Chúa Cha;
– việc tưởng niệm
hy tế của Đức Kitô và của thân thể Người;
– sự hiện diện của
Đức Kitô, nhờ quyền năng của Lời Người và quyền năng của Thần Khí Người.
Việc tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha
1359. Thánh Thể, là bí tích của ơn cứu độ được Đức Kitô thực hiện
trên thập giá, cũng là hy tế ca ngợi để tạ ơn vì công trình tạo dựng. Trong hy
tế Thánh Thể, toàn bộ công trình tạo dựng được Thiên Chúa yêu thương được trình
lên Chúa Cha qua cái Chết và sự Sống lại của Đức Kitô. Nhờ Đức Kitô, Hội Thánh
có thể dâng hy tế ca ngợi để tạ ơn vì tất cả những gì là tốt, là đẹp, là đúng
mà Thiên Chúa đã thực hiện trong công trình tạo dựng và trong nhân loại.
1360. Bí tích Thánh Thể là hy tế để tạ ơn Chúa Cha, là lời chúc
tụng qua đó Hội Thánh diễn tả lòng tri ân của mình đối với Thiên Chúa vì mọi
điều Ngài ban, vì mọi điều Ngài đã thực hiện trong công trình tạo dựng, cứu
chuộc và thánh hóa. Bí tích Thánh Thể trước hết có nghĩa là tạ ơn.
1361. Bí tích Thánh Thể cũng là hy tế ca ngợi, qua đó Hội Thánh
nhân danh toàn thể thụ tạo ca tụng vinh quang Thiên Chúa. Hy tế ca ngợi này chỉ
có thể được thực hiện nhờ Đức Kitô: Người kết hợp các tín hữu vào bản thân
Người, vào lời ca ngợi của Người, vào sự chuyển cầu của Người, và như vậy hy tế
ca ngợi được dâng lên Chúa Cha nhờ Đức Kitô, với Người,
để được chấp nhận trong Người.
Việc tưởng niệm hy tế của Đức Kitô và của Thân Thể Người là Hội Thánh
1362. Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức
Kitô, là hiện tại hoá hy tế duy nhất của Người, và dâng hy tế duy nhất đó cách
bí tích, trong phụng vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong tất cả các Kinh
nguyện Thánh Thể, chúng ta đều thấy, sau các lời tường thuật về việc Chúa thiết
lập Thánh Thể, một kinh nguyện được gọi là kinh Tưởng Niệm (anamnesis hoặc memoriale).
1363. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh, tưởng niệm không
chỉ là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn là công bố các kỳ công
Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người[44].
Khi cử hành phụng vụ về các biến cố này, chúng hiện diện và được hiện tại hoá
một cách nào đó. Dân Israel hiểu về việc mình được giải thoát khỏi Ai Cập theo
cách như vậy: Mỗi lần lễ Vượt Qua được cử hành, các biến cố thời Xuất Hành lại
hiện diện trong ký ức của các tín hữu, để họ điều chỉnh cuộc sống của mình cho
phù hợp với các biến cố đó.
1364. Việc tưởng niệm trong Giao Ước mới mang một ý nghĩa mới. Khi
cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, thì
cuộc Vượt Qua này trở nên hiện diện: Hy tế mà Đức Kitô dâng lên một lần cho mãi
mãi trên thập giá, luôn luôn được hiện tại hoá[45].
“Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó ‘Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua
của chúng ta’ (1 Cr 5,7), được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc
chúng ta được thực hiện”[46].
1365. Bởi vì là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô,
nên bí tích Thánh Thể cũng là một hy tế. Tính chất hy tế của
bí tích Thánh Thể được biểu lộ trong chính các lời thiết lập bí tích này: “Đây
là Mình Thầy, hiến tế vì anh em”. “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy,
máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20). Trong bí tích Thánh Thể, Đức Kitô ban chính
thân mình đã bị nộp vì chúng ta trên thập giá, ban chính máu mà Người đã đổ ra
“cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
1366. Vì vậy, bí tích Thánh Thể là một Hy tế bởi vì bí tích
này làm cho Hy tế thập giá hiện diện, bởi vì bí
tích này là việc tưởng niệm Hy tế đó, và bởi vì bí tích này áp
dụng hiệu quả của Hy tế đó:
Đức Kitô “là Thiên
Chúa và Chúa chúng ta, … đã tự hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên bàn thờ
thập giá một lần cho mãi mãi, để thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho loài
người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của Người không chấm dứt chức tư tế của Người
[Dt 7,24.27], nên trong bữa Tiệc Ly, ‘trong đêm bị nộp’ [1 Cr 11,23], … Người
đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh một hy tế hữu hình (như
bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu hình này, hy tế đẫm máu được thực
hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện diện, và việc tưởng niệm hy tế
đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ
được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày”[47].
1367. Hy tế của Đức Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế
duy nhất. “Cũng cùng một hiến vật, cũng cùng một Đấng xưa đã tự hiến trên
thập giá, nay cũng chính Người dâng lên qua thừa tác vụ tư tế, chỉ khác biệt về
cách tiến dâng”[48]:
“Vì trong hy tế thần linh được thực hiện trong thánh lễ, cũng chính Đức Kitô
Đấng đã tự hiến một lần bằng cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, nay được hiến
dâng và sát tế một cách không đổ máu, nên hy tế này thật sự có giá trị đền tội”[49].
1368. Bí tích Thánh Thể cũng là hy tế của Hội Thánh. Hội
Thánh, là Thân Thể của Đức Kitô, tham dự vào lễ tế của Đấng là Đầu của mình.
Cùng với Người, toàn thể Hội Thánh được dâng lên. Hội Thánh kết hợp mình với
việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha, để cầu cho tất cả mọi người. Trong bí
tích Thánh Thể, hy tế của Đức Kitô cũng trở thành hy tế của các chi thể trong
Thân Thể Người. Đời sống của các tín hữu, lời ca ngợi, sự đau khổ, lời cầu
nguyện, việc lao động của họ, được kết hợp với cùng những khía cạnh đó trong
đời sống của Đức Kitô và với toàn bộ lễ tế của Người, và như vậy chúng có một
giá trị mới. Hy tế của Đức Kitô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho mọi thế hệ
Kitô hữu khả năng được kết hợp với lễ tế của Người.
Trong các hang toại
đạo, Hội Thánh thường được diễn tả như một người nữ đang cầu nguyện, hai tay
giang ra trong cử chỉ cầu nguyện. Như Đức Kitô giang tay trên thập giá, thì nhờ
Người, với Người và trong Người, Hội Thánh dâng chính mình và chuyển cầu cho
tất cả mọi người.
1369. Toàn thể Hội Thánh được kết hợp với lễ tế và lời chuyển
cầu của Đức Kitô. Đảm nhận thừa tác vụ của thánh Phêrô trong Hội
Thánh, Đức Giáo Hoàng được liên kết với mọi cử hành Thánh lễ,
trong đó, ngài được nhắc đến với tư cách là dấu chỉ và thừa tác viên của sự hợp
nhất của Hội Thánh toàn cầu. Giám mục địa phương luôn có trách
nhiệm về Thánh lễ, cả khi một linh mục cử hành; tên ngài được
đọc lên trong Thánh lễ để nói lên rằng ngài đứng đầu Giáo Hội địa phương, giữa
hàng linh mục và với sự trợ giúp của các phó tế. Cộng đoàn
cũng chuyển cầu cho tất cả các thừa tác viên đang dâng lễ cho cộng đoàn và cùng
với cộng đoàn:
“Bí tích Thánh Thể
chỉ được coi là thành sự khi được cử hành dưới sự chủ tọa của Giám mục hay của
người được ngài giao trách nhiệm”[50].
“Qua thừa tác vụ
của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất trong sự kết
hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, hy tế này nhờ tay các
linh mục, nhân danh toàn thể Hội Thánh, được dâng lên trong thánh lễ một cách
bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa đến”[51].
1370. Không những các chi thể của Đức Kitô còn ở trần gian, mà cả
những vị đang hưởng vinh quang trên trời cũng được
kết hợp với lễ tế của Đức Kitô: Hội Thánh dâng hy tế Thánh Thể trong sự hiệp
thông với Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, và nhớ đến ngài cũng như đến tất cả các
Thánh nam nữ. Trong Thánh lễ, Hội Thánh một cách nào đó đứng dưới Thánh Giá,
cùng với Mẹ Maria, kết hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Kitô.
1371. Hy tế Thánh Thể cũng được dâng lên để cầu cho các tín
hữu đã qua đời, “cho những người đã chết trong Đức Kitô mà chưa được thanh
luyện trọn vẹn”[52],
để họ được vào hưởng ánh sáng và bình an của Đức Kitô:
“Các con hãy chôn
xác này ở bất cứ nơi đâu: đừng lo lắng gì về chuyện đó; mẹ chỉ xin các con điều
này, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ tới mẹ nơi bàn thờ của Chúa”[53].
“Sau đó [trong Kinh
nguyện Thánh Thể] chúng ta cầu cho các Giáo hoàng và các Giám mục đã an nghỉ,
và cách chung, cho các tín hữu đã qua đời giữa chúng ta, vì chúng ta tin rằng
các linh hồn sẽ được trợ giúp tối đa nhờ lời cầu nguyện cho họ, khi Của Lễ hiến
tế thánh và đáng kính sợ đang hiện diện… Khi dâng lên Thiên Chúa những lời
chuyển cầu của chúng ta cho những người đã an giấc, dù họ là những tội nhân,
chúng ta dâng chính Đức Kitô bị sát tế vì tội lỗi chúng ta, để xin ơn giao hoà
với Thiên Chúa, Bạn của loài người, cho họ và cho chúng ta”[54].
1372. Thánh Augustinô tóm tắt một cách tuyệt vời giáo lý này, một
giáo lý thúc giục chúng ta tham dự ngày càng trọn vẹn hơn vào hy tế của Đấng
Cứu Chuộc chúng ta mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ:
“Chính toàn thể đô
thành đã được cứu chuộc, tức là cộng đoàn và tập thể các Thánh, là một hy tế
phổ quát được dâng lên Thiên Chúa nhờ vị Thượng Tế, Đấng trong hình dạng một kẻ
nô lệ, đã tự hiến mình chịu khổ nạn vì chúng ta, để chúng ta trở thành Thân thể
của Đấng là Đầu cao cả dường ấy… Đây là hy tế của các Kitô hữu: ‘Chúng ta cũng
vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô’ (Rm 12,5). Hy tế này
được Hội Thánh tiếp tục cử hành qua bí tích bàn thờ mà các tín hữu đã biết,
trong đó Hội Thánh hiến dâng chính mình trong Hy tế mà Hội Thánh tiến dâng”[55].
Sự hiện diện của Đức Kitô nhờ quyền năng của Lời Người và của Chúa Thánh
Thần
1373. “Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại, và đang ngự
bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8,34) đang hiện diện trong
Hội Thánh Người dưới nhiều hình thức[56]:
trong Lời của Người, trong kinh nguyện của Hội Thánh Người, “ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20), trong
những người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người bị cầm tù[57],
trong các bí tích mà chính Người là tác giả, trong Hy tế Thánh lễ và trong con
người thừa tác viên. Nhưng “nhất là Người hiện diện dưới
các hình dạng Thánh Thể”[58].
1374. Cách thức hiện diện của Đức Kitô dưới các hình dạng Thánh Thể
là độc nhất vô nhị. Người nâng bí tích Thánh Thể vượt lên trên các bí tích khác
và vì vậy bí tích này là “như sự trọn hảo của đời sống thiêng liêng và cùng
đích của mọi bí tích”[59].
Trong bí tích Thánh Thể cực thánh, Mình và Máu cùng với linh hồn và thần tính
của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và như vậy là Đức Kitô toàn
thể (totus Christus), hiện diện một cách đích
thực, thật sự, và theo bản thể[60]. “Sự hiện diện này được gọi là
‘thật sự’, không theo nghĩa loại trừ, nghĩa là không coi các hình thức hiện
diện khác như không ‘thật sự’, nhưng theo nghĩa đặc biệt, bởi vì đây là
cách hiện diện theo bản thể, và qua đó Đức Kitô toàn thể và trọn
vẹn (totus atque integer Christus), vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện
diện một cách chắc chắn”[61].
1375. Trong bí tích này, Đức Kitô hiện diện nhờ sự biến đổi bánh
và rượu thành Mình và Máu Đức Kitô. Các Giáo phụ mạnh mẽ khẳng định đức tin của
Hội Thánh vào hiệu lực của lời Đức Kitô và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần
trong việc thực hiện sự biến đổi này. Thánh Gioan Kim Khẩu tuyên bố:
“Không phải người
ta, nhưng chính Đức Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh vì chúng ta, làm cho các lễ
vật trở thành Mình và Máu Đức Kitô. Vị tư tế, hình ảnh của Đức Kitô, đọc các
lời này, nhưng hiệu quả và ân sủng là do Thiên Chúa. Ngài đọc ‘Này là
Mình Thầy’. Lời này biến đổi các lễ vật”[62].
Và thánh Ambrôsiô nói về sự biến đổi như sau:
Chúng ta hãy tin
chắc rằng: “Đây không phải là vấn đề bản chất đã tạo ra, nhưng là điều lời chúc
lành đã thánh hiến. Sức mạnh của lời chúc lành vượt trên sức mạnh của bản chất,
vì nhờ lời chúc lành mà chính bản chất đã biến đổi”[63].
“Lời Đức Kitô có khả năng làm ra, từ hư không, cái trước đó chưa từng hiện hữu,
chẳng lẽ lời đó lại không thể biến đổi những sự vật đang hiện hữu thành những
sự vật trước đó chưa có hay sao? Việc ban bản chất đầu tiên cho sự vật cũng
tương đương như biến đổi bản chất của chúng”[64].
1376. Công đồng Triđentinô đã tóm tắt đức tin công giáo bằng lời
tuyên bố: “Vì Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, đã phán dạy: Điều Người dâng
lên dưới hình bánh, đích thực là Thân Mình Người, nên Hội Thánh luôn luôn xác
tín như vậy, và thánh Công đồng này một lần nữa tuyên bố: Nhờ lời thánh hiến
bánh và rượu đã diễn ra sự biến đổi trọn vẹn bản thể bánh thành bản thể Mình
Thánh Đức Kitô, Chúa chúng ta, và biến đổi trọn vẹn bản thể rượu thành bản thể
Máu Thánh Người; Hội Thánh công giáo gọi việc biến đổi này một cách thích hợp
và chính xác là sự biến đổi bản thể (transsubstantiatio)[65].
1377. Sự hiện diện Thánh Thể của Đức Kitô băt đầu từ lúc thánh hiến
[a momento consecrationis, quen gọi là lúc truyền phép] và kéo dài bao lâu các
hình dạng Thánh Thể còn tồn tại. Đức Kitô hiện diện trọn vẹn trong mỗi hình
bánh và rượu, và trong mỗi phần nhỏ của hình bánh và rượu, như vậy việc bẻ bánh
không phân chia Đức Kitô[66].
1378. Việc tôn thờ Thánh Thể. Trong phụng vụ Thánh lễ,
chúng ta bày tỏ đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong các hình
bánh và rượu bằng nhiều cách, như bái gối hay cúi mình sâu để tỏ dấu tôn thờ
Chúa. “Hội Thánh Công giáo đã và vẫn luôn tôn thờ Thánh Thể, không chỉ trong mà
còn ngoài Thánh lễ nữa, bằng cách bảo quản hết sức cẩn thận Bánh đã được thánh
hiến (consecratas Hostias), đặt lên cho các tín hữu tôn thờ cách long trọng, và
rước kiệu Thánh Thể với đông đảo dân chúng vui mừng tham dự”[67].
1379. Nhà Tạm, trước hết được dùng để lưu giữ Thánh Thể cách xứng
đáng để có thể mang đến cho các bệnh nhân và những người vắng mặt rước lễ ngoài
thánh lễ. Nhờ đào sâu đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong bí
tích Thánh Thể, Hội Thánh ý thức về ý nghĩa của việc thinh lặng tôn thờ Đức
Kitô hiện diện trong các hình dạng Thánh Thể. Vì vậy, Nhà Tạm phải đặt nơi đặc
biệt xứng đáng trong nhà thờ, và phải được thiết kế như thế nào để nêu cao và
bày tỏ chân lý về sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong Bí tích Cực thánh
này.
1380. Thật rất thích hợp, việc Đức Kitô đã muốn hiện diện với Hội
Thánh của Người theo cách thức độc nhất vô nhị này. Bởi vì Đức Kitô dưới hình
dạng hữu hình, đã rời bỏ những kẻ thuộc về Người, nên Người muốn ban cho chúng
ta sự hiện diện cách bí tích của Người; bởi vì Người đã tự hiến trên thập giá
để cứu độ chúng ta, nên Người muốn chúng ta tưởng niệm tình yêu mà Người đã yêu
thương ta “đến cùng” (Ga 13,1), đến độ ban cả mạng sống mình. Thật vậy, trong
sự hiện diện bí tích của Người, Người vẫn ở giữa chúng ta cách mầu nhiệm với tư
cách là Đấng đã yêu mến và nộp mình vì chúng ta[68],
và Người hiện diện dưới những dấu chỉ diễn tả và truyền thông tình yêu này:
“Quả thật, Hội
Thánh và trần gian rất cần sự tôn thờ bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đang chờ
đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Đừng từ chối thời gian đến gặp Người
để tôn thờ, để chiêm ngắm tràn đầy đức tin và sẵn sàng đền tạ những tội lỗi và
tội ác nặng nề của trần gian. Chúng ta hãy không ngừng tôn thờ Thánh Thể”[69].
1381. Thánh Tôma đã nói: “Không thể nhận biết bằng giác quan Mình
thật và Máu thật của Đức Kitô hiện diện trong bí tích này, nhưng chỉ
bằng đức tin, một đức tin dựa vào thẩm quyền của Thiên Chúa. Vì thế,
khi chú giải câu Luca 22,19: ‘Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con’, thánh
Cyrillô đã nói: ‘Bạn đừng hồ nghi điều này có thật hay không, nhưng tốt hơn nên
đón nhận bằng đức tin các lời của Đấng Cứu Độ, bởi vì Người là chân lý, Người
không lừa dối bao giờ’”[70]:
“Con sốt sắng thờ lạy Chúa, ôi Thần tính ẩn mình
đang thật sự hiện diện dưới các hình dạng này;
trọn vẹn tâm hồn con suy phục Chúa,
bởi vì khi chiêm ngắm Chúa, trọn hồn con biến tan.
Thị giác, vị giác và xúc giác
không chạm được đến Chúa,
nhưng chỉ tin vững điều đã được nghe dạy;
con tin tất cả những gì Con Thiên Chúa đã nói,
không gì thật hơn lời chân lý này”[71].
Nguồn: http://giaolyductin.net
[1] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 47: AAS 56 (1964) 113.
[2] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.
[3] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum
ordinis, 5: AAS 58 (1966) 997.
[4] Thánh bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum
mysterium, 6: AAS 59 (1967) 545.
[5] Thánh Irênê, Adversus haereses, 4,
18, 5: SC 100 (PG 7, 1028).
[6] X. 1 Cr 11,20.
[7] X. Kh 19,9.
[8] X. Mt 14,19; 15,36; Mc 8,6.19.
[9] X. Mt 26,26; 1 Cr 11,24.
[10] X. Lc 24,13-35.
[11] X. Cv 2,42.46; 20,7.11.
[12] X. 1 Cr 10,16-17.
[13] X. 1 Cr 11,17-34.
[14] X. Tv 116,13.17.
[15] X. 1 Pr 2,5.
[16] X. Ml 1,11.
[17] X. 1 Cr 10,16-17.
[18] X. Constitutiones apostolicae, 8,
13. 12: SC 336, 208 (Funk, Didaschalia et Constitutiones Apostolorum, 1,
516); Didaché, 9, 5: SC 248, 178 (Funk, Patres
apostolici, 1, 22); Ibid., 10,6: SC 248, 180
(Funk, Patres apostolici, 1, 24).
[19] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad Ephesios, 20,
2: SC 10bis, 76 (Funk 1, 230).
[20] X. Tv 104,13-15.
[21] X. Kinh nguyện Thánh Thể I còn gọi là Lễ Quy
Rôma, 95: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis
Vaticanis 1970) 453.
[22] X. Đnl 8,3.
[23] X. Mt 14,13-21; 15,32-39.
[24] X. Ga 2,11.
[25] X. Mc 14,25.
[26] X. Ga 13,1-17.
[27] X. CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de ss.
Missae Sacrificio, c. 1: DS 1740.
[28] X. Ga 6.
[29] X. Mt 26,17-29; Mc 14,12-25; 1 Cr 11,23-25.
[30] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1
: AAS 58 (1966) 947.
[31] Thánh Justinô, Apologia, 1, 67 : CA
1, 184-186 (PG 6, 429).
[32] Thánh Justinô, Apologia, 1, 65 : CA
1, 176-180 (PG 6, 428).
[33] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 56: AAS 56 (1964) 115.
[34] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei
Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827.
[35] X. Lc 24,13-35.
[36] X. 1 Tx 2,13.
[37] Thánh Irênê, Adversus haereses, 4,
18, 4: SC 100, 606 (PG 7, 1027); x. Ml 1,11.
[38] X. 1 Cr 16,1.
[39] X. 2 Cr 8,9.
[40] Thánh Justinô, Apologia, 1, 67 : CA
1, 186-188 (PG 6, 429).
[41] X. Kinh nguyện Thánh Thể I còn gọi là Lễ Quy
Rôma, 90: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis
Vaticanis 1970) 451.
[42] X. Thánh Justinô, Apologia, 1, 65:
CA 1, 180 (PG 6, 428).
[43] Thánh Justinô, Apologia, 1, 66: CA
1, 180 (PG 6, 428).
[44] X. Xh 13,3.
[45] X. Dt 7, 25-27.
[46] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
[47] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de ss.
Missae sacrificio, c.1: DS 1740.
[48] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de ss.
Missae sacrificio, c. 2: DS 1743.
[49] Ibid.
[50] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad
Smyrnaeos, 8, 1: SC 10bis, 138 (Funk 1, 282).
[51] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum
Ordinis, 2: AAS 58 (1966) 993.
[52] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de ss.
Missae sacrificio, c. 2: DS 1743.
[53] Thánh Augustinô, Confessiones, 9, 11,
27 : CCL 27, 149 (PL 32, 775); lời thánh nữ Mônica, trước khi chết,
trối cho anh em thánh Augustinô.
[54] Thánh Cyrillô Giêrusalem, Catecheses
mystagogicae, 5, 9-10: SC 126, 158-160 (PG 30, 1116-1117).
[55] Thánh Augustinô, De civitate Dei, 10,6:
CSEL 40/1, 456 (PL 41, 284).
[56] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[57] X. Mt 25,31-46.
[58] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 7: AAS 56 (1964) 100-101.
[59] Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III,
q. 73, a. 3, c: Ed. Leon. 12, 140.
[60] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de ss.
Eucharistia, c. 1: DS 1651.
[61] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium
Fidei, 39: AAS 57 (1965) 764.
[62] Thánh Gioan Kim Khẩu, De proditione Iudae
homilia, 1, 6: PG 49, 380.
[63] Thánh Ambrôsiô, De mysteriis, 9,
50: CSEL 73, 110 (PL 16, 405).
[64] Ibid., 9, 52: CSEL 73, 112 (PL 16, 407).
[65] CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de ss.
Eucharistia, c. 4: DS 1642.
[66] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de ss.
Eucharistia, c. 3: DS 1641.
[67] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium
Fidei, 56: AAS 57 (1965) 769.
[68] X. Gl 2,20.
[69] ĐGH Gioan Phaolô II, Thư Dominicae Cenae, 3:
AAS 72 (1980) 119; x. Enchiridion Vaticanum, 7, 177.
[70] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium
Fidei, 18: AAS 57 (1965) 757; x. Thánh Tôma Aquinô, Summa
theologiae, III, q. 75, a. 1, c: Ed. Leon. 12, 156; Thánh Cyrillô
Alexandria, Commentarius in Lucam, 22,19: PG 72, 912.
[71] AHMA 50, 589.