CHƯƠNG HAI

CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH

CAPUT SECUNDUM
SACRAMENTA SANATIONIS





1420. Nhờ các bí tích khai tâm Kitô giáo, con người lãnh nhận được sự sống mới trong Đức Kitô. Nhưng chúng ta mang sự sống này “trong những bình sành” (2 Cr 4,7). Sự sống này hiện nay còn “đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3). Chúng ta còn sống trong ngôi nhà ở dưới đất của chúng ta[1], vẫn còn gánh chịu khổ đau, bệnh tật và cái chết. Sự sống mới này của con cái Thiên Chúa có thể bị suy yếu và thậm chí bị mất đi do tội lỗi.


1421. Chúa Giêsu Kitô, vị thầy thuốc chữa lành linh hồn và thân xác chúng ta, Đấng đã tha tội cho người bại liệt và ban ơn cứu độ cho cả thân xác của người ấy[2], đã muốn Hội Thánh Người, bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, tiếp tục công cuộc chữa lành và cứu độ của Người, cả cho các chi thể của Người. Đó là mục đích của hai bí tích chữa lành: bí tích Thống Hối và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.


*******

Mục 4

Bí tích Thống Hối và Giao Hòa

Articulus 4
Sacramentum Poenitentiae et Reconciliationis





1422. “Những ai đến với bí tích Thống Hối đều nhận được, do lòng khoan dung của Thiên Chúa, sự tha thứ cho việc họ đã xúc phạm đến Ngài và đồng thời, được giao hoà với Hội Thánh, vốn đã bị tội lỗi làm tổn thương, nhưng vẫn nỗ lực lấy tình yêu, gương mẫu và kinh nguyện mà làm cho họ được hối cải”[3].



I. BÍ TÍCH NÀY ĐƯỢC GỌI THẾ NÀO?

QUOMODO HOC SACRAMENTUM APPELLATUR?



1423. Bí tích này được gọi là bí tích của sự hối cải: bởi vì nó thực hiện cách bí tích lời kêu gọi hối cải của Chúa Giêsu[4], sự trở về với Chúa Cha, Đấng mà người ta đã lìa xa khi phạm tội[5].

Bí tích này được gọi là bí tích Thống Hối, bởi vì nó cống hiến một tiến trình hối cải, có chiều kích cá nhân và giáo hội, cho tội nhân Kitô hữu thống hối và đền tội.


1424. Bí tích này được gọi là bí tích xưng tội: bởi vì việc thú nhận, xưng thú các tội lỗi trước một tư tế là yếu tố căn bản của bí tích này. Theo một ý nghĩa thâm sâu hơn, bí tích này cũng là một việc “tuyên xưng”, nhận biết và ca ngợi sự thánh thiện của Thiên Chúa và lòng khoan dung của Ngài đối với con người là tội nhân.

Bí tích này được gọi là bí tích ban ơn tha thứ, vì nhờ lời xá giải bí tích của vị tư tế, Thiên Chúa ban cho hối nhân ơn “tha thứ và bình an”[6].

Bí tích này được gọi là bí tích Giao Hoà, vì ban cho tội nhân tình yêu của Thiên Chúa, Đấng giao hoà: “Anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2 Cr 5,20). Ai sống bởi tình yêu thương xót của Thiên Chúa, sẽ sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi: “Hãy đi làm hoà với người anh em ấy đã” (Mt 5,24).



II. TẠI SAO CẦN BÍ TÍCH GIAO HOÀ
SAU KHI ĐÃ LÃNH NHẬN BÍ TÍCH RỬA TỘI?

CUR SACRAMENTUM QUODDAM
RECONCILIATIONIS POST BAPTISMUM?



1425. “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6,11). Phải ý thức sự cao cả của hồng ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong các bí tích khai tâm Kitô giáo, thì mới hiểu được rằng tội lỗi là một điều đối nghịch lại với một người đã mặc lấy Đức Kitô[7]. Nhưng thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8). Chính Chúa cũng đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con” (Lc 11,4), và Người kết hợp việc chúng ta tha thứ cho nhau những xúc phạm lẫn nhau với ơn Thiên Chúa tha thứ các tội lỗi chúng ta.


1426. Việc hối cải trở về với Đức Kitô, việc tái sinh trong bí tích Rửa Tội, hồng ân của Chúa Thánh Thần, Mình và Máu Đức Kitô được lãnh nhận làm lương thực, làm cho chúng ta trở nên “tinh tuyền thánh thiện trước thánh nhan Thiên Chúa” (Ep 1,4), cũng như chính Hội Thánh, là Hiền Thê của Đức Kitô, cũng “thánh thiện và tinh tuyền” trước mặt Người (Ep 5,27). Tuy nhiên, sự sống mới được lãnh nhận trong cuộc khai tâm Kitô giáo không tiêu huỷ sự mỏng giòn và yếu đuối của bản tính con người, cũng như sự hướng chiều theo tội lỗi, mà truyền thống gọi là dục vọng (concupiscentia)vốn tồn tại nơi những người đã chịu Phép Rửa, để với sự trợ lực của ân sủng của Đức Kitô, họ vượt qua được những thử thách trong cuộc chiến đấu của đời sống Kitô hữu[8]. Đây là cuộc chiến đấu của sự hối cải nhằm đạt tới sự thánh thiện và đời sống vĩnh cửu mà Chúa không ngừng mời gọi chúng ta[9].



III. SỰ HỐI CẢI CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHỊU PHÉP RỬA

BAPTIZATORUM CONVERSIO



1427. Chúa Giêsu kêu gọi hối cải. Lời kêu gọi này là một phần cốt yếu của việc loan báo Nước Thiên Chúa: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Trong việc rao giảng của Hội Thánh, lời kêu gọi này trước hết nhằm đến những người chưa biết Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Như vậy, bí tích Rửa Tội là vị trí đầu tiên và căn bản của việc hối cải. Chính nhờ tin vào Tin Mừng và nhờ bí tích Rửa Tội[10] mà người ta từ bỏ sự dữ và đạt được ơn cứu độ, nghĩa là được ơn tha thứ mọi tội lỗi và được hưởng hồng ân sự sống mới.


1428. Lời kêu gọi hối cải của Đức Kitô vẫn tiếp tục vang vọng trong đời sống các Kitô hữu. Cuộc hối cải thứ hai này là một nhiệm vụ liên tục của toàn thể Hội Thánh vì “mang trong lòng mình những tội nhân, vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh luyện, Hội Thánh phải không ngừng thống hối và canh tân”[11]. Nỗ lực hối cải này không chỉ là công việc của con người. Việc thống hối là hành động của một “tâm hồn tan nát”[12] được ân sủng lôi kéo và thúc đẩy[13], để đáp lại tình yêu thương xót của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước[14].


1429. Có thể lấy cuộc hối cải của thánh Phêrô, sau khi chối Thầy mình ba lần, làm bằng chứng cho điều đó. Cái nhìn của lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu khiến ông khóc lóc thống hối[15] và, sau khi Chúa sống lại, ông đã ba lần khẳng định tình yêu của ông đối với Người[16]. Cuộc hối cải thứ hai cũng mang chiều kích cộng đoàn. Điều này được thấy rõ trong lời kêu gọi của Chúa với toàn thể Hội Thánh: “Hãy hối cải!” (Kh 2,5.16).

Thánh Ambrôsiô nói về hai cuộc hối cải: “Hội Thánh có nước và nước mắt, nước của bí tích Rửa Tội, và nước mắt của bí tích Thống Hối”[17].



IV. THỐNG HỐI NỘI TÂM

INTERIOR POENITENTIA



1430. Cũng như các tiên tri thuở trước, lời kêu gọi hối cải và thống hối của Chúa Giêsu không nhằm trước tiên đến những việc bên ngoài, “mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu”, giữ chay và khổ chế, nhưng nhằm đến sự hối cải tâm hồn, sự thống hối nội tâm. Nếu không có sự hối cải nội tâm, các việc thống hối bên ngoài sẽ vô hiệu và dối trá; ngược lại, sự hối cải nội tâm thúc đẩy diễn tả tâm tình ấy bằng những dấu chỉ hữu hình, bằng những cử chỉ và những việc làm thống hối[18].


1431. Thống hối nội tâm là định hướng mới cách triệt để cho cả cuộc đời, là trở về, là trở lại cùng Thiên Chúa với cả tâm hồn, đoạn tuyệt với tội lỗi, quay lưng với sự dữ, và ghê tởm những hành động xấu xa chúng ta đã phạm. Đồng thời thống hối nội tâm cũng bao gồm ước muốn và quyết tâm thay đổi đời sống, với niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và lòng tin tưởng vào sự trợ giúp của ân sủng của Ngài. Cuộc hối cải nội tâm này được kèm theo bằng sự đau khổ và buồn phiền hữu ích được các Giáo phụ gọi là nỗi thống khổ của tâm hồn, sự cắn rứt của trái tim[19].


1432. Lòng người nặng nề và cứng cỏi. Con người phải được Thiên Chúa ban cho một trái tim mới[20]. Hối cải trước hết là công trình của ân sủng của Thiên Chúa, Đấng làm cho lòng chúng ta trở lại với Ngài: “Xin đưa chúng con về với Ngài, lạy Chúa, để chúng con trở về” (Ac 5,21). Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta bắt đầu lại. Tâm hồn chúng ta, một khi khám phá ra sự cao cả của tình yêu Thiên Chúa, sẽ bị chấn động vì sự khủng khiếp và nặng nề của tội lỗi và bắt đầu sợ không dám phạm tội xúc phạm Thiên Chúa và sợ bị xa lìa Ngài. Lòng người hối cải, khi nhìn lên Đấng đã bị tội lỗi chúng ta đâm thâu[21].

“Hãy chiêm ngắm Máu Đức Kitô và nhận biết rằng Máu ấy quý giá biết bao đối với Thiên Chúa là Cha Người, Máu ấy, khi đổ ra để cứu độ chúng ta, đã mang lại cho toàn thế giới ơn thống hối”[22].


1433. Khởi từ cuộc Vượt Qua, Chúa Thánh Thần tố cáo thế gian về tội lỗi, vì thế gian đã không tin vào Đấng[23] Chúa Cha đã sai đến. Nhưng cũng chính Chúa Thánh Thần, Đấng tố cáo tội lỗi, lại là Đấng An Ủi[24], Đấng ban cho tâm hồn con người ân sủng để họ thống hối và hối cải[25].



V. NHIỀU HÌNH THỨC THỐNG HỐI
TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

MULTIPLICES POENITENTIAE FORMAE IN VITA CHRISTIANA



1434. Việc thống hối nội tâm của Kitô hữu có thể được biểu lộ bằng nhiều cách rất khác nhau. Kinh Thánh và các Giáo phụ nhấn mạnh nhất ba hình thức: giữ chay, cầu nguyện và bố thí[26] là những cách diễn tả sự hối cải đối với bản thân, đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Bên cạnh sự thanh tẩy triệt để bằng bí tích Rửa Tội hoặc bằng việc tử đạo, các ngài còn nói đến những phương thế để đạt được ơn tha thứ tội lỗi, đó là cố gắng giao hoà với anh em, những giọt lệ thống hối, chăm lo cho ơn cứu độ của tha nhân[27], khẩn cầu các thánh và thực hành bác ái, “vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 Pr 4,8).


1435. Việc hối cải được thực hiện trong đời sống hằng ngày bằng những hành động giao hoà, quan tâm đến người nghèo, thực thi và bảo vệ công lý và lẽ phải[28], bằng việc thú nhận lỗi lầm với anh em, sửa lỗi cho nhau, kiểm điểm đời sống, tự vấn lương tâm, linh hướng, chấp nhận đau khổ, kiên trì khi bị bách hại vì lẽ công chính. Con đường chắc chắn nhất của sự thống hối là vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa Giêsu[29].


1436. Bí tích Thánh Thể và bí tích Thống Hối. Việc hối cải và thống hối hằng ngày gặp được nguồn mạch và lương thực của mình nơi bí tích Thánh Thể, bởi vì nơi Thánh Thể, hy lễ của Đức Kitô hiện diện, hy lễ này giao hoà chúng ta với Thiên Chúa; nhờ bí tích Thánh Thể, những ai sống bởi sức sống của Đức Kitô sẽ được nuôi dưỡng và được bổ sức; bí tích này là “thuốc giải độc, giải thoát chúng ta khỏi các lỗi phạm hằng ngày và gìn giữ chúng ta khỏi các tội trọng”[30].


1437. Việc đọc Kinh Thánh, đọc các Giờ Kinh phụng vụ và kinh Lạy Cha, bất cứ hành vi chân thành nào trong việc phụng tự và đạo đức, đều khơi dậy nơi chúng ta tinh thần hối cải và thống hối và góp phần đem lại ơn tha tội cho chúng ta.


1438. Những thời gian và những ngày thống hối trong năm phụng vụ (mùa Chay, mỗi ngày thứ sáu tưởng niệm Chúa chịu chết), là những thời điểm đặc biệt để thực hành việc thống hối trong Hội Thánh[31]. Những thời gian này đặc biệt thích hợp cho các cuộc linh thao, các buổi cử hành phụng vụ thống hối, các cuộc hành hương thống hối, những việc hãm mình tự nguyện như giữ chay và bố thí, chia sẻ huynh đệ (các công tác từ thiện và truyền giáo).


1439. Chúa Giêsu đã mô tả tiến trình hối cải và thống hối một cách tuyệt vời trong dụ ngôn quen được gọi là dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” mà trọng tâm của nó là “Người cha nhân hậu”[32]: sự quyến rũ của một thứ tự do sai lạc, việc rời bỏ nhà cha; sự đau khổ cùng cực sau khi phung phí tất cả tài sản; sự nhục nhã sâu xa khi thấy mình phải đi chăn heo, và còn tệ hơn nữa, ước muốn ăn cám heo mà không được; việc suy nghĩ lại về những điều thiện hảo đã bị đánh mất; sự hối hận và quyết định nhận mình có lỗi trước mặt cha; con đường trở về; việc đón nhận bao dung của người cha; niềm vui của người cha: Đó là những nét tiêu biểu của tiến trình hối cải. Áo đẹp, nhẫn và tiệc mừng là những biểu tượng của một đời sống mới, thanh sạch. xứng đáng, tràn ngập niềm vui, đó là đời sống của người trở về cùng Thiên Chúa, giữa lòng gia đình của Ngài, là Hội Thánh. Chỉ trái tim Đức Kitô, Đấng thấu suốt các tầng sâu thẳm của tình yêu của Cha Người, mới có thể mạc khải cho chúng ta tận đáy lòng thương xót của Thiên Chúa một cách đơn sơ và đầy vẻ đẹp như vậy.



VI. BÍ TÍCH THỐNG HỐI VÀ GIAO HOÀ

SACRAMENTUM POENITENTIAE ET RECONCILIATIONIS



1440. Trước hết, tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, là cắt đứt sự hiệp thông với Ngài. Đồng thời tội làm tổn thương cho sự hiệp thông với Hội Thánh. Vì vậy, việc hối cải vừa mang lại ơn tha thứ của Thiên Chúa và đồng thời, vừa mang lại sự giao hoà với Hội Thánh, đó là điều bí tích Thống Hối và Giao hoà diễn tả và thực hiện trong phụng vụ[33].



Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội


1441. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội[34]. Bởi vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nên Người nói về mình: “Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội” (Mc 2,10), và Người thực thi quyền thần linh này: “Con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5)[35]. Hơn nữa, dựa vào quyền bính thần linh của mình, Đức Kitô còn ban quyền đó cho những con người[36] để họ thực thi quyền tha tội nhân danh Người.


1442. Đức Kitô đã muốn toàn thể Hội Thánh của Người, trong kinh nguyện, đời sống và các hoạt động của mình, là dấu chỉ và dụng cụ cho ơn tha thứ và giao hoà mà Người đã thủ đắc cho chúng ta, bằng máu châu báu của Người. Tuy nhiên, Người đã ủy thác việc thực thi quyền tha tội cho thừa tác vụ Tông Đồ. Chính thừa tác vụ này đã lãnh nhận “chức vụ giao hoà” (2 Cr 5,18). Vị Tông Đồ được sai đi nhân danh Đức Kitô; và chính Thiên Chúa, qua vị Tông Đồ, khuyên bảo và nài xin: “Hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2 Cr 5,20).



Giao hoà với Hội Thánh


1443. Trong đời sống công khai của Người, Chúa Giêsu không những đã tha tội, mà còn biểu lộ hiệu quả của việc tha tội này: Người đã đưa các tội nhân được tha thứ về lại với cộng đoàn dân Thiên Chúa, cộng đoàn mà tội lỗi đã khiến họ phải xa lìa, hay thậm chí khiến họ bị loại trừ. Một dấu chỉ tỏ tường của việc này là, Chúa Giêsu đã đón nhận các tội nhân vào bàn tiệc của Người, hơn nữa, chính Người ngồi đồng bàn với họ, cử chỉ này, một cách hùng hồn, vừa diễn tả ơn tha thứ của Thiên Chúa[37] và đồng thời, vừa nói lên sự trở về giữa lòng dân Thiên Chúa[38].


1444. Khi Chúa ban cho các Tông Đồ được tham dự vào quyền riêng của Người là quyền tha tội, Người cũng ban cho họ quyền giao hoà các tội nhân với Hội Thánh. Chiều kích giáo hội của nhiệm vụ này của các Tông Đồ được diễn tả cách đặc biệt trong những lời long trọng Đức Kitô nói với ông Phêrô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Nhiệm vụ cầm buộc và tháo cởi, đã được ban cho thánh Phêrô, cũng được ban cho tập thể các Tông Đồ, kết hợp với vị thủ lãnh của mình (x. Mt 18,18; 28,16-20)”[39].


1445. Các thuật ngữ cầm buộc  tháo cởi có nghĩa là: ai bị anh em loại ra khỏi sự hiệp thông với anh em, thì người ấy cũng bị loại ra khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa; ai được anh em đón nhận lại vào sự hiệp thông với anh em, thì Thiên Chúa cũng đón nhận lại người ấy vào sự hiệp thông với Ngài. Việc giao hoà với Hội Thánh không thể tách biệt khỏi sự giao hoà với Thiên Chúa.



Bí tích của sự tha thứ


1446. Đức Kitô đã thiết lập bí tích Thống Hối này cho tất cả các chi thể của Hội Thánh Người, là những tội nhân, trước hết cho những kẻ, sau bí tích Rửa Tội, lại rơi vào tội trọng, và như thế đánh mất ân sủng Phép Rửa và làm tổn thương cho sự hiệp thông của Hội Thánh. Bí tích Thống Hối cho những người này cơ hội mới để hối cải và tìm lại được ơn công chính hoá. Các Giáo phụ trình bày bí tích này như “cái phao (cứu độ) thứ hai sau khi đắm tàu, tức là sau khi đánh mất ân sủng”[40].


1447. Qua các thế kỷ, hình thức cụ thể, qua đó Hội Thánh thực thi quyền tha tội đã lãnh nhận từ Chúa, đã có nhiều thay đổi. Trong các thế kỷ đầu, việc giao hoà cho các Kitô hữu nào đã phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng sau khi họ đã lãnh Phép Rửa (thí dụ thờ ngẫu tượng, giết người hay ngoại tình), được liên kết với một kỷ luật rất khắt khe; theo kỷ luật này, hối nhân phải làm việc đền tội công khai vì các tội lỗi của họ, thường kéo dài nhiều năm, trước khi họ được lãnh nhận ơn giao hoà. Thật ra cũng rất ít người bị liệt vào “hàng hối nhân” (chỉ liên quan tới một số tội nặng nề) và trong một số miền, hối nhân chỉ được nhận ơn giao hoà một lần trong đời. Vào thế kỷ thứ 7, các nhà truyền giáo người Ailen, dựa theo truyền thống các đan viện Đông phương, đã mang vào lục địa Châu Âu hình thức “thống hối riêng”, không đòi hỏi những việc thống hối công khai và kéo dài trước khi được giao hoà với Hội Thánh. Từ đó, bí tích được thực hiện cách kín đáo giữa hối nhân và tư tế. Cách thực hành mới này dự liệu người ta có thể được giao hoà nhiều lần và như vậy mở đường cho việc năng lãnh nhận bí tích này. Cách thực hành này cũng cho phép gom vào trong cùng một cử hành bí tích, việc tha thứ các tội trọng và các tội nhẹ. Trong những nét chính, Hội Thánh vẫn còn thực hành hình thức thống hối này cho tới ngày nay.


1448. Mặc dầu có những thay đổi về kỷ luật và việc cử hành qua các thế kỷ, người ta nhận thấy bí tích này vẫn giữ nguyên một cấu trúc căn bản. Bí tích này gồm hai yếu tố cốt yếu như nhau: một đàng, là các hành động của con người hối cải dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần: thống hối, thú tội và đền tội; đàng khác, là hành động của Thiên Chúa qua sự can thiệp của Hội Thánh. Hội Thánh, qua Giám mục và các linh mục của ngài, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, ban ơn tha tội và ấn định việc đền tội, Hội Thánh cũng cầu nguyện cho tội nhân và cùng làm việc thống hối với họ. Như vậy tội nhân được chữa lành và được hiệp thông lại với Hội Thánh.


1449. Công thức giải tội trong Giáo Hội La tinh diễn tả những yếu tố cốt yếu của bí tích này: Chúa Cha hay thương xót là nguồn mạch của ơn tha thứ. Ngài thực hiện việc giao hoà với các tội nhân nhờ cuộc Vượt Qua của Con Ngài và nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần, qua lời cầu nguyện và thừa tác vụ của Hội Thánh:

“Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa, mà giao hoà thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội; xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh, mà ban cho anh (chị) ơn tha thứ và bình an. Vậy, tôi tha tội cho anh (chị) nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”[41].



VII. CÁC HÀNH VI CỦA HỐI NHÂN

POENITENTIS ACTUS



1450. “Việc thống hối đòi buộc tội nhân tự nguyện chịu đựng mọi sự; ăn năn tội trong trái tim, xưng tội ra ngoài miệng, khiêm tốn trong việc làm và đền tội một cách có hiệu quả”[42].



Ăn năn tội


1451. Trong các hành vi của hối nhân, đầu tiên là ăn năn tội. Đó là “đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa”[43].


1452. Khi sự ăn năn tội xuất phát từ lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì được gọi là ăn năn tội “cách trọn” (ăn năn do đức mến). Cách ăn năn tội này xoá bỏ các tội nhẹ; và cũng đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nếu hối nhân quyết tâm đi xưng tội càng sớm càng tốt[44].


1453. Ăn năn tội “cách chẳng trọn” (hoặc hối hận) cũng là một hồng ân của Thiên Chúa, một thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Nó phát sinh khi thấy sự xấu xa của tội lỗi hoặc vì sợ bị luận phạt đời đời và sợ các hình phạt khác mà kẻ tội lỗi phải chịu (ăn năn do sợ hãi). Sự khích động lương tâm như vậy có thể là khởi đầu của một tiến trình nội tâm, tiến trình này sẽ được hoàn tất dưới tác động của ân sủng nhờ ơn xá giải bí tích. Việc ăn năn tội cách chẳng trọn tự nó không đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nhưng chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha tội trong bí tích Thống Hối[45].


1454. Để lãnh nhận bí tích Giao Hoà, hối nhân cần chuẩn bị bằng việc xét mình dưới ánh sáng Lời Chúa. Những bản văn thích hợp nhất cho việc này được tìm thấy trong Mười Điều Răn và trong giáo huấn luân lý của các sách Tin Mừng và các Thư Tông Đồ: trong Bài giảng trên núi, trong những giáo huấn của các Tông Đồ[46].



Xưng tội


1455. Việc xưng tội (cáo mình), ngay trên bình diện thuần túy nhân loại, giải thoát chúng ta và làm cho chúng ta giao hoà với người khác cách dễ dàng hơn. Qua việc xưng tội, con người nhìn thẳng vào tội lỗi mình đã phạm, nhận lấy trách nhiệm về các tội đó, và từ đó một lần nữa mở lòng cho Thiên Chúa và cho sự hiệp thông với Hội Thánh để có thể có một tương lai mới.


1456. Việc xưng tội với một tư tế là phần cốt yếu của bí tích Thống Hối: “Khi xưng tội, các hối nhân phải kể tất cả các tội trọng mà họ ý thức được sau khi xét mình kỹ lưỡng, dù những tội trọng này rất thầm kín và chỉ phạm đến hai điều cuối của Thập Giới[47], vì những tội này làm tổn thương linh hồn cách trầm trọng hơn, và chúng còn nguy hiểm hơn những tội phạm cách tỏ tường”[48]:

“Mỗi khi các Kitô hữu cố gắng xưng thú tất cả các tội lỗi mà họ nhớ được, chắc chắn là họ đã trình bày tất cả cho lòng thương xót Chúa để được tha thứ. Còn những ai làm khác đi và cố tình giấu một số tội, thì họ đã chẳng trình bày điều gì cho lòng nhân hậu Chúa để được tha thứ qua vị tư tế. ‘Vì nếu bệnh nhân xấu hổ không cho thầy thuốc coi vết thương, thì thuốc không chữa được điều mà nó không biết’”[49].


1457. Theo luật Hội Thánh, “mọi tín hữu, sau khi đến tuổi khôn, buộc phải xưng các tội trọng của mình một cách trung thực, một năm ít là một lần”[50]. Ai ý thức mình đã phạm tội trọng, thì không được rước lễ, mặc dầu đã hết sức ăn năn, trước khi lãnh nhận ơn xá giải bí tích[51], trừ khi có lý do hệ trọng để rước lễ và không thể đến với một cha giải tội[52]. Trẻ em phải lãnh nhận bí tích Thống Hối trước khi rước lễ lần đầu[53].


1458. Việc xưng các lỗi phạm hằng ngày (các tội nhẹ), tuy không thật sự cần thiết, vẫn được Hội Thánh thiết tha khuyến khích[54]. Quả thật, việc năng xưng các tội nhẹ giúp chúng ta rèn luyện lương tâm, để chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu, để cho Đức Kitô chữa lành chúng ta, và để chúng ta tiến tới trong đời sống theo Chúa Thánh Thần. Năng hưởng nhờ hồng ân của lòng thương xót của Chúa Cha qua bí tích này, chúng ta được thúc đẩy để trở nên hay thương xót như Ngài[55]:

“Ai thú nhận và xưng tội mình là đã cộng tác với Thiên Chúa. Thiên Chúa tố cáo các tội của bạn; nếu chính bạn cũng cáo tội mình, thì bạn được kết hợp với Thiên Chúa. Con người và tội nhân là như hai thực tại: khi nói về con người, thì đó là việc Thiên Chúa làm; khi nói về tội nhân, thì đó là chuyện chính con người làm. Bạn hãy phá đi điều bạn đã làm, để Thiên Chúa cứu độ điều Ngài đã làm…. Khi bạn bắt đầu ghét điều bạn đã làm, lúc đó những việc tốt đẹp của bạn khởi sự, bởi vì bạn đã cáo mình về các việc xấu của bạn. Xưng thú các việc xấu là bắt đầu các việc tốt. Bạn đang thực hiện sự thật và bạn đang đến cùng Ánh sáng”[56].



Việc đền tội


1459. Có nhiều tội gây thiệt hại cho tha nhân. Phải làm hết sức có thể, để sửa sai lại (thí dụ, trả lại đồ vật đã lấy cắp, phục hồi danh dự cho người mình đã vu khống, bồi thường các thương tích). Riêng đức công bằng đã đòi hỏi điều đó. Nhưng hơn nữa, tội lỗi gây thương tổn và làm suy yếu chính tội nhân, và cả mối liên hệ giữa họ với Thiên Chúa và với tha nhân. Việc xá giải xoá bỏ tội lỗi, nhưng không mang lại phương dược cho mọi xáo trộn do tội lỗi gây nên[57]. Được giải thoát khỏi tội lỗi, tội nhân còn phải hồi phục đầy đủ sức khoẻ thiêng liêng. Vì vậy, họ còn phải làm một việc gì đó để sửa lại tội lỗi của họ: phải “đền bù” cách thích hợp hoặc “đền tạ” về các tội lỗi của mình. Việc đền tội này cũng được gọi là “thống hối”.


1460. Việc đền tội, mà vị giải tội ấn định, phải chú ý đến tình trạng riêng của hối nhân và mưu cầu điều thiện hảo thiêng liêng cho họ. Bao nhiêu có thể, việc đền tội phải tương xứng với sự trầm trọng và bản chất của các tội đã phạm. Có thể đền tội bằng cách cầu nguyện, dâng cúng, bằng những việc từ thiện, phục vụ tha nhân, bằng các việc hãm mình, hy sinh, và nhất là kiên trì đón nhận thánh giá chúng ta phải vác. Những việc đền tội như thế giúp chúng ta nên giống Đức Kitô, Đấng duy nhất, đã đền bù tội lỗi chúng ta[58] một lần cho mãi mãi. Chúng sẽ làm cho chúng ta trở nên đồng thừa tự với Đức Kitô phục sinh, bởi vì “chúng ta cùng chịu đau khổ với Người” (Rm 8,17)[59]:

“Chúng ta không thể làm việc đền tội để đền vì tội lỗi chúng ta, nếu không nhờ Chúa Giêsu Kitô: tự sức mình chúng ta không thể làm được gì, nhưng cùng với Người là ‘Đấng ban sức mạnh cho chúng ta, chúng ta làm được mọi việc’[60]. Con người không có gì để tự phụ, nhưng tất cả vinh quang của chúng ta là ở nơi Đức Kitô, … trong Người, chúng ta đền tội, bằng cách ‘làm ra những hoa quả xứng đáng của lòng thống hối’[61], do Người, những hoa quả ấy có sức mạnh; bởi Người, chúng được dâng lên Chúa Cha; và nhờ Người, chúng được Chúa Cha chấp nhận”[62].



VIII. THỪA TÁC VIÊN CỦA BÍ TÍCH THỐNG HỐI

HUIUS SACRAMENTI MINISTER



1461. Bởi vì Đức Kitô đã trao cho các Tông Đồ của Người thừa tác vụ giao hoà[63], nên các giám mục, những người kế nhiệm các ngài, và các linh mục, là những cộng sự viên của các giám mục, tiếp tục thi hành thừa tác vụ này. Thật vậy, các giám mục và các linh mục, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, có quyền tha tất cả tội lỗi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.


1462. Việc xá giải tội lỗi giao hoà chúng ta với Thiên Chúa và cũng giao hoà với Hội Thánh. Vì vậy, Giám mục, vị thủ lãnh hữu hình của Giáo Hội địa phương, từ rất xa xưa, vẫn được coi là người có quyền và có thừa tác vụ giao hoà một cách chính yếu: ngài là người điều phối kỷ luật thống hối[64]. Các linh mục, là cộng sự viên của ngài, thi hành thừa tác vụ này trong phạm vi năng quyền mà họ lãnh nhận hoặc do giám mục của mình (hay do bề trên dòng tu) hoặc do Đức Giáo Hoàng, theo luật Hội Thánh[65].


1463. Có một số tội nặng đặc biệt, ai phạm sẽ bị vạ tuyệt thông, là hình phạt nặng nhất theo giáo luật, cấm không cho nhận lãnh các bí tích và không được thi hành một số tác vụ trong Hội Thánh[66], và việc xá giải hình phạt này chỉ có thể được ban, theo giáo luật, do Đức Giáo Hoàng, do Giám mục giáo phận hay do các linh mục được các vị trên ủy quyền[67]. Trong trường hợp nguy tử, bất cứ linh mục nào, dù không có năng quyền giải tội, vẫn có thể tha hết mọi tội và mọi vạ tuyệt thông[68].


1464. Các tư tế phải khuyến khích các tín hữu đến với bí tích Thống Hối, và phải tỏ ra luôn sẵn sàng cử hành bí tích này mỗi khi các Kitô hữu yêu cầu một cách hợp lý[69].


1465. Khi cử hành bí tích Thống Hối, tư tế chu toàn thừa tác vụ của vị Mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, của người Samaritanô nhân hậu băng bó các vết thương, của người Cha chờ đợi đứa con hoang đàng và đón nhận nó khi nó trở về, của vị thẩm phán công chính không thiên vị ai, và xét xử vừa công bằng vừa hay thương xót. Tắt một lời, tư tế là dấu chỉ và là dụng cụ của tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.


1466. Vị giải tội không phải là chủ nhân, nhưng là thừa tác viên của ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thừa tác viên của bí tích này phải gắn bó mình với ý hướng và tình yêu của Đức Kitô[70]. Ngài phải có một sự hiểu biết đã được kiểm chứng về luân lý Kitô giáo, có kinh nghiệm về các vấn đề nhân bản, biết tôn trọng và dịu dàng đối với người sa ngã; ngài phải yêu mến sự thật, trung thành với Huấn Quyền của Hội Thánh và kiên trì giúp hối nhân được chữa lành và trưởng thành đầy đủ. Ngài phải cầu nguyện và đền tội cho hối nhân, trong khi phó thác họ cho lòng thương xót của Chúa.


1467. Vì sự thánh thiêng và cao cả rất hiển nhiên của thừa tác vụ này và vì sự tôn trọng phải có đối với con người, Hội Thánh tuyên bố rằng mọi tư tế nghe xưng tội, bắt buộc phải giữ bí mật tuyệt đối về các tội mà hối nhân đã xưng với họ, nếu lỗi phạm sẽ bị những hình phạt nghiêm khắc nhất[71]. Các linh mục cũng không được sử dụng những hiểu biết do việc xưng tội cung cấp cho họ về đời sống của các hối nhân. Bí mật này, không chấp nhận các luật trừ, được gọi là “ấn tín bí tích”, bởi vì tất cả những gì hối nhân đã bày tỏ với linh mục, đều được “niêm ấn” bởi bí tích.



IX. CÁC HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH THỐNG HỐI

EFFECTUS HUIUS SACRAMENTI



1468. “Tất cả hiệu quả của bí tích Thống Hối là đưa chúng ta về lại trong ân sủng của Thiên Chúa và kết hợp chúng ta với Ngài bằng tình thân nghĩa thắm thiết”[72]. Vì vậy, mục đích và hiệu quả của bí tích này là sự giao hoà với Thiên Chúa. Nơi những người lãnh nhận bí tích Thống Hối với lòng ăn năn và sự chuẩn bị đạo đức, “bí tích này sẽ mang lại sự bình an và thư thái trong lương tâm, kèm theo là niềm an ủi dào dạt trong tâm hồn”[73]. Thật vậy, bí tích Giao Hoà với Thiên Chúa mang lại một “cuộc phục sinh thiêng liêng” thật sự, hoàn trả lại phẩm giá và những điều thiện hảo cho đời sống làm con Thiên Chúa, mà cao qúi nhất là tình thân nghĩa với Thiên Chúa[74].


1469. Bí tích này giao hoà chúng ta với Hội Thánh. Tội lỗi làm suy yếu hay cắt đứt sự hiệp thông huynh đệ. Bí tích Thống Hối canh tân hoặc tái tạo sự hiệp thông đó. Theo nghĩa này, bí tích không những chữa lành hối nhân, làm cho họ được hiệp thông lại với Hội Thánh, mà còn có một hiệu quả mang lại sức sống cho đời sống Hội Thánh, vốn đã phải chịu đựng tội lỗi của một trong các chi thể của mình[75]. Tội nhân, một khi đã được phục hồi hay được củng cố trong mầu nhiệm các thánh thông công, thì được tăng cường nhờ sự hiệp thông các gia sản thiêng liêng giữa mọi chi thể sống động của Thân Thể Đức Kitô, hoặc còn đang trên đường lữ hành, hoặc đã ở nơi quê hương thiên quốc[76]:

“Nhưng phải thêm rằng việc giao hoà này với Thiên Chúa như còn dẫn tới những sự giao hoà khác, để hàn gắn nhiều đổ vỡ khác do tội gây ra: khi được tha thứ, hối nhân giao hoà với chính mình nơi phần thâm sâu nhất của hữu thể mình, nơi người đó tìm lại được sự thật nội tại của mình; hối nhân được giao hoà với anh em mà một cách nào đó họ đã xúc phạm và gây thương tổn; hối nhân được giao hoà với Hội Thánh; hối nhân được giao hoà với tất cả các thụ tạo”[77].


1470. Trong bí tích này, khi phó mình cho sự phán xét đầy thương xót của Thiên Chúa, một cách nào đó, tội nhân tham dự trước vào sự phán xét mà họ phải chịu khi cuộc đời ở trần gian của họ kết thúc. Vì bây giờ, trong cuộc đời này, chúng ta còn được chọn lựa giữa cõi sống và cõi chết: nếu không nhờ con đường hối cải, chúng ta không thể vào được Nước Thiên Chúa, nơi mà vì tội trọng chúng ta bị loại trừ ra khỏi đó[78]. Khi ăn năn trở lại với Đức Kitô nhờ Thống Hối và đức tin, tội nhân sẽ từ cõi chết bước vào cõi sống và “khỏi bị xét xử" (Ga 5,24).



X. CÁC ÂN XÁ

INDULGENTIAE



1471. Giáo lý và việc thực hành về các ân xá trong Hội Thánh liên hệ mật thiết với các hiệu quả của bí tích Thống Hối.


Ân xá là gì?

“Ân xá là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù những tội đó đã được tha thứ. Để hưởng nhờ ân xá, Kitô hữu phải hội đủ những điều kiện được thẩm quyền của Hội Thánh quy định, vì với tư cách là thừa tác viên của Ơn cứu chuộc, Hội Thánh có thẩm quyền phân phát và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức Kitô và các Thánh”[79].

“Ân xá có thể là từng phần hay toàn phần, tuỳ theo mức độ giải thoát từng phần hay trọn vẹn các hình phạt tạm đáng phải chịu vì tội”[80]. “Tín hữu nào cũng có thể hưởng các ân xá … cho chính mình, hay cho những người đã qua đời”[81].



Những hình phạt do tội


1472. Để hiểu giáo lý và việc thực hành này của Hội Thánh, chúng ta phải biết tội lỗi có hậu quả kép. Tội trọng làm cho chúng ta không được hiệp thông với Thiên Chúa, và do đó làm cho chúng ta không còn khả năng hưởng sự sống muôn đời; sự mất mát này được gọi là “hình phạt đời đời” do tội lỗi. Mặt khác, bất cứ tội nào, dù là tội nhẹ, đều kéo theo nó một sự quyến luyến lệch lạc với các thụ tạo, nên cần được thanh tẩy, hoặc ngay ở đời này, hoặc sau khi chết, trong tình trạng được gọi là luyện ngục. Sự thanh tẩy này giải thoát khỏi điều được gọi là “hình phạt tạm” do tội. Hai hình phạt này không được coi như một cách báo thù nào đó do Thiên Chúa giáng xuống từ bên ngoài, nhưng đúng hơn phải coi như là xuất phát từ chính bản chất của tội. Việc hối cải do đức mến nồng nàn có thể đưa đến một sự thanh tẩy trọn vẹn cho tội nhân, đến độ không còn hình phạt nào tồn tại nữa[82].


1473. Sự tha thứ tội lỗi và tái lập hiệp thông với Thiên Chúa khiến chúng ta được tha các hình phạt đời đời do tội. Nhưng những hình phạt tạm do tội vẫn còn. Kitô hữu, trong khi nhẫn nại chịu đựng những đau khổ và thử thách đủ loại, và trong việc đón nhận cái chết với tâm hồn thanh thản khi ngày đó đến, phải cố gắng đón nhận những hình phạt tạm do tội như là một ân sủng; họ phải cố gắng cởi bỏ hoàn toàn “con người cũ” và mặc lấy “con người mới”[83], nhờ những công việc đầy tình thương xót và bác ái, cũng như nhờ cầu nguyện và nhiều việc thống hối khác nhau.



Trong mầu nhiệm “các thánh thông công”


1474. Kitô hữu không đơn độc khi cố gắng thanh tẩy mình khỏi tội lỗi và thánh hóa bản thân với sự trợ giúp của ơn Chúa. “Đời sống của mỗi con cái Thiên Chúa được kết hợp một cách lạ lùng, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, với đời sống của tất cả các anh em Kitô hữu trong sự hợp nhất siêu nhiên của Nhiệm Thể Đức Kitô, như trong một con người huyền nhiệm”[84].


1475. Trong mầu nhiệm “các thánh thông công”, “giữa các tín hữu, cả những vị đã đạt tới quê hương thiên quốc, cả những người còn đền tội nơi luyện ngục, cả những người đang lữ hành trên trần gian, có một dây liên kết vững bền trong tình yêu và một sự trao đổi dồi dào tất cả các điều thiện hảo”[85]. Trong sự trao đổi kỳ diệu này, sự thánh thiện của một người sinh lợi cho những người khác, vượt xa sự thiệt hại mà tội lỗi của một người có thể gây ra cho những người khác. Như vậy, sự trở về với mầu nhiệm “các thánh thông công” cho phép tội nhân thống hối được thanh tẩy khỏi các hình phạt do tội một cách nhanh chóng và hữu hiệu hơn.


1476. Chúng ta gọi những điều thiện hảo thiêng liêng của mầu nhiệm “các Thánh thông công” là kho tàng của Hội Thánh, “thật ra đây không phải là như tổng số các điều thiện hảo giống như tổng số của cải vật chất được tích lũy qua bao thế kỷ, nhưng là giá trị vô cùng vô tận trước nhan Thiên Chúa của những việc đền tội và những công phúc của Chúa Kitô, tất cả được dâng lên để toàn thể nhân loại được giải thoát khỏi tội lỗi và được hiệp thông với Chúa Cha; chính Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc, trong Người có, và có một cách dư dật, những việc đền tội và những công phúc do Ơn cứu chuộc của Người”[86].


1477. “Ngoài ra, kho tàng này còn bao gồm giá trị vô lượng vô biên và luôn luôn mới trước nhan Thiên Chúa của những lời cầu nguyện và những việc lành của Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc và của tất cả các Thánh. Là những người bước theo chân Chúa Kitô nhờ ân sủng của Người, các ngài đã thánh hoá bản thân, và chu toàn công việc được Chúa Cha chấp nhận; đến độ, khi hành động để chính mình được cứu độ, các ngài cũng góp phần làm cho các anh em mình được cứu độ trong sự hợp nhất của nhiệm thể”[87].



Nhận được ân xá của Thiên Chúa nhờ Hội Thánh


1478. “Người ta nhận được ân xá nhờ Hội Thánh; Hội Thánh, nhờ quyền cầm buộc và tháo cởi do Chúa Giêsu Kitô ban, can thiệp vì lợi ích của một Kitô hữu nào đó và mở cho họ kho tàng công phúc của Đức Kitô và của các thánh, để họ nhận được nơi Chúa Cha giàu lòng thương xót ơn tha thứ những hình phạt tạm họ đáng phải chịu do tội. Như vậy, Hội Thánh không những muốn giúp đỡ tín hữu đó, mà còn thúc đẩy họ làm những việc đạo đức, thống hối và bác ái”[88].


1479. Bởi vì các tín hữu đã qua đời đang chịu thanh luyện cũng là những thành viên trong mầu nhiệm các thánh thông công, nên chúng ta có thể giúp họ, ngoài các cách khác, bằng cách lãnh nhận các ân xá (để nhường) cho họ, nhờ đó, họ được tha các hình phạt tạm họ đang phải chịu do tội lỗi của họ.



XI. CỬ HÀNH BÍ TÍCH THỐNG HỐI

CELEBRATIO SACRAMENTI POENITENTIAE


1480. Cũng như tất cả các bí tích, bí tích Thống Hối là một hành động phụng vụ. Đây là những yếu tố thông thường của việc cử hành: Lời chào hỏi và chúc lành của tư tế, việc đọc Lời Chúa để soi sáng lương tâm và khơi dậy lòng ăn năn, và việc khuyên nhủ thống hối; việc xưng tội gồm nhìn nhận tội lỗi và xưng ra với tư tế; tư tế ấn định và hối nhân chấp nhận việc đền tội; lời xá giải của tư tế; hối nhân ca ngợi tạ ơn và ra về với phép lành của tư tế.


1481. Phụng vụ Byzantin có nhiều công thức xá giải, mang hình thức cầu khẩn, diễn tả cách tuyệt vời mầu nhiệm tha thứ: “Thiên Chúa đã dùng tiên tri Nathan mà tha thứ cho Đavid khi ông xưng thú tội mình. Ngài đã tha thứ cho ông Phêrô khi ông khóc lóc đau đớn, đã tha thứ cho người kỹ nữ khi cô nhỏ lệ trên chân Chúa, đã tha thứ cho người thu thuế và cho đứa con hoang đàng. Xin chính Thiên Chúa tha thứ cho bạn, qua tôi, là kẻ tội lỗi, ở đời này và đời sau, và không kết án bạn, khi đòi bạn phải ra trước toà phán xét khủng khiếp của Ngài, Ngài là Đấng được chúc tụng muôn đời. Amen”[89].


1482. Bí tích Thống Hối cũng có thể diễn ra trong khung cảnh một cử hành cộng đoàn, trong đó các hối nhân cùng nhau chuẩn bị xưng tội và cùng nhau cảm tạ sau khi được ơn tha thứ. Ở đây, việc xưng tội cá nhân và việc xá giải từng người được chen vào trong một cử hành phụng vụ Lời Chúa, với các bài đọc và bài giảng, xét mình chung, cùng nhau xin ơn tha thứ, đọc kinh Lạy Cha và cùng nhau tạ ơn. Việc cử hành cộng đoàn này diễn tả rõ nét hơn chiều kích Hội Thánh của việc thống hối. Tuy nhiên, dầu cử hành cách nào, bí tích Thống Hối, tự bản chất của nó, vẫn luôn luôn là một hành động phụng vụ, vì vậy luôn có chiều kích Hội Thánh và có tính công khai[90].


1483. Trong những trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng, có thể cử hành bí tích Giao Hoà tập thể tức là xưng tội chung và xá giải chung. Trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng như vậy có thể xảy ra, là khi trong cơn nguy tử mà một hay nhiều tư tế không đủ thời giờ nghe từng hối nhân xưng tội. Trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng cũng có thể là, khi có đông hối nhân mà không có đủ cha giải tội để nghe từng người xưng tội đúng cách trong một thời gian thích hợp, đến nỗi các hối nhân không được lãnh ơn của bí tích hoặc không được rước lễ trong thời gian lâu dài mà không do lỗi của họ. Trong trường hợp này, để việc xá giải được thành sự, các tín hữu phải quyết tâm là sẽ đi xưng tội riêng những tội trọng của mình vào thời gian thích hợp[91]. Giám mục giáo phận có quyền thẩm định những điều kiện cần thiết để giải tội tập thể[92]. Số lượng đông đảo các tín hữu trong những dịp lễ lớn hay các cuộc hành hương, không được coi là trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng[93].


1484. “Việc xưng tội riêng và xưng tội đầy đủ cùng với việc xá giải tạo thành phương cách thông thường duy nhất, nhờ đó các tín hữu được giao hoà với Thiên Chúa và với Hội Thánh; chỉ có sự bất lực thể lý hay luân lý mới miễn chuẩn việc xưng tội như trên”[94]. Điều này có những lý do sâu xa. Đức Kitô hành động trong mỗi bí tích. Người đích thân nói với từng tội nhân: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5); Người là thầy thuốc cúi mình trên từng bệnh nhân đang cần Người chữa lành[95]; Người nâng họ dậy và dẫn họ về hiệp thông lại với anh em. Vì vậy, việc xưng tội riêng là hình thức có ý nghĩa nhất trong việc giao hoà với Thiên Chúa và với Hội Thánh.



TÓM LƯỢC


1485. Chiều ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).


1486. Việc tha thứ tội lỗi đã phạm sau bí tích Rửa Tội được trao ban nhờ một bí tích riêng được gọi là bí tích Hối cải, bí tích Giải tội, bí tích Thống Hối, hoặc bí tích Giao hoà.


1487. Ai phạm tội, đều xúc phạm đến danh dự và tình yêu của Thiên Chúa, xúc phạm đến phẩm giá riêng của mình, là người được mời gọi làm con Thiên Chúa và xúc phạm đến giá trị linh thiêng của Hội Thánh mà mỗi Kitô hữu phải là viên đá sống động.


1488. Trong ánh sáng đức tin, không có gì xấu hơn là tội lỗi; không có hậu quả nào thảm hại hơn cho chính tội nhân, cho Hội Thánh và cho cả thế giới.


1489. Việc trở về hiệp thông với Thiên Chúa, sự hiệp thông đã bị đánh mất do tội, xuất phát từ ân sủng của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng nhân từ luôn quan tâm cứu độ con người. Phải van xin hồng ân quý giá này cho bản thân cũng như cho mọi kẻ khác.


1490. Động thái trở về với Thiên Chúa được gọi là hối cải và thống hối, gồm sự đau buồn và ghê tởm các tội đã phạm và quyết tâm không phạm tội nữa. Vì vậy, sự hối cải bao trùm cả quá khứ lẫn tương lai, được nuôi dưỡng bằng sự trông cậy vào lòng thương xót của Thiên Chúa.


1491. Bí tích Thống Hối bao gồm ba hành vi của hối nhân và sự xá giải của tư tế. Ba hành vi của hối nhân là: thống hối; xưng tội với tư tế; quyết tâm làm việc đền tội và các việc đền bù.


1492. Thống hối (hay ăn năn tội) phải do động lực đức tin thúc đẩy. Nếu thống hối phát xuất từ lòng yêu mến Chúa, thì đó là ăn năn tội “cách trọn”; nếu phát xuất từ những động lực khác, thì đó là ăn năn tội “cách chẳng trọn”.


1493. Ai muốn được giao hoà với Thiên Chúa và với Hội Thánh, phải xưng thú cùng tư tế tất cả những tội trọng chưa xưng và nhớ được sau khi đã xét mình kỹ lưỡng. Hội Thánh tha thiết khuyên xưng các tội nhẹ, mặc dù điều này không bắt buộc.


1494. Vị giải tội chỉ định cho hối nhân thi hành một số việc “đền tội” hoặc “thống hối” nào đó, để đền bù những thiệt hại do tội gây ra, và để tái lập những tập quán riêng của người môn đệ Đức Kitô.


1495. Chỉ các tư tế được Hội Thánh ban năng quyền giải tội, mới có thể tha tội nhân danh Đức Kitô.


1496. Những hiệu quả thiêng liêng của bí tích Thống Hối là:

– được giao hoà với Thiên Chúa, và như vậy, hối nhân được nhận lại ân sủng;

– được giao hoà với Hội Thánh;

– được tha thứ hình phạt đời đời đáng phải chịu vì các tội trọng đã phạm;

– được tha thứ, ít nhất một phần, các hình phạt tạm là hậu quả của tội;

– được bình an thư thái trong lương tâm và được an ủi thiêng liêng;

– được gia tăng sức mạnh thiêng liêng để chiến đấu trong cuộc đời Kitô hữu.


1497. Việc xưng thú cá nhân và xưng thú tất cả các tội trọng, tiếp theo là việc xá giải, là phương thức thông thường duy nhất để lãnh nhận ơn giao hoà với Thiên Chúa và với Hội Thánh.


1498. Nhờ các ân xá, các tín hữu có thể đạt được cho chính mình và cả cho các linh hồn trong luyện ngục, ơn tha thứ các hình phạt tạm, là hậu quả của tội.



Nguồn: http://giaolyductin.net


[1] X. 2 Cr 5,1.

[2] X. Mc 2,1-12.

[3] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.

[4] X. Mc 1,15.

[5] X. Lc 15,18.

[6] X. Nghi thức Thống Hối, 46, 55 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 27. 37.

[7] X. Gl 3,27.

[8] X. CĐ Triđentinô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, c. 5: DS 1515.

[9] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1545; CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 40: AAS 57 (1965) 44-45.

[10] X. Cv 2,38.

[11] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.

[12] X. Tv 51,19.

[13] X. Ga 6,44; 12,32.

[14] X. 1 Ga 4,10.

[15] X. Lc 22,61-62.

[16] X. Ga 21,15-17.

[17] Thánh Ambrôsiô, Epistula extra collectionem, 1 [41], 12: CSEL 82/3, 152 (PL 16, 1116).

[18] X. Ge 2,12-13; Is 1,16-17; Mt 6,1-6. 16-18.

[19] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 4: DS 1676-1678; Id., Sess. 14a, Canones de Paenitentia, canon 5: DS 1705; Catechismus Romanus, 2, 5, 4: ed. P. Rodríguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 289.

[20] X. Ed 36,26-27.

[21] X. Ga 19,37; Dcr 12,10.

[22] Thánh Clêmentê Rôma, Epistula ad Corinthios, 7,4: SC 167, 110 (Funk 1, 108).

[23] X. Ga 16,8-9.

[24] X. Ga 15,26.

[25] X. Cv 2,36-38; ĐGH Gioan Phalô II, Thông điệp Dominum et vivificantem, 27-48: AAS 78 (1986) 837-868.

[26] X. Tb 12,8; Mt 6,1-18.

[27] X. Gc 5,20.

[28] X. Am 5,24; Is 1,17,

[29] X. Lc 9,23.

[30] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de ss. Eucharistia, c. 2: DS 1638.

[31] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 109-110: AAS 56 (1964) 127; Bộ Giáo Luật, các điều 1249-1253; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 880-883.

[32] X. Lc 15,11-24.

[33] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.

[34] X. Mc 2,7.

[35] Lc 7,48.

[36] X. Ga 20,21-23.

[37] X. Lc 15.

[38] X. Lc 19,9.

[39] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 26.

[40] CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 14: DS 1542; x. Tertullianô, De paenitentia, 4, 2: CCL 1, 326 (PL 1, 1343).

[41] Nghi thức Thống Hối, 46. 55 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 27. 37.

[42] Catechismus Romanus, 2, 5, 21 : ed. P. Rodríguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 299; x. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 3: DS 1673.

[43] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 4: DS 1676.

[44] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 4: DS 1677.

[45] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 4: DS 1678 ; Id., Sess. 14a, Canones de sacramento Paenitentiae, c. 5: DS 1705.

[46] X. Rm 12-15; 1 Cr 12-13 ; Gl 5 ; Ep 4-6.

[47] X. Xh 20,17; Mt 5,28.

[48] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 5: DS 1680.

[49] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 5: DS 1680; x. Thánh Hiêrônimô, Commentarius in Ecclesiasten, 10,11 : CCL 72, 338 (PL 23, 1096).

[50] Bộ Giáo Luật, điều 989; x. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 5: DS 1683 ; Id., Sess. 14a, Canones de sacramento Paenitentiae, c. 8: DS 1708.

[51] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13, Decretum de ss. Eucharistia, c. 7: DS 1647; Ibid., canon 11: DS 1661.

[52] X. Bộ Giáo Luật, điều 916; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 711.

[53] X. Bộ Giáo Luật, điều 914.

[54] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 5: DS 1680; Bộ Giáo Luật, điều 988, 2.

[55] X. Lc 6,36.

[56] Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 12,13: CCL 36, 128 (PL 35, 1491).

[57] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Canones de sacramento Paenitentiae, canon 12: DS 1712.

[58] X. Rm 3,25; 1 Ga 2,1-2.

[59] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 8: DS 1690.

[60] X. Pl 4,13.

[61] X. Lc 3,8.

[62] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 8: DS 1691.

[63] X. Ga 20,23; 2 Cr 5,18.

[64] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 26: AAS 57 (1965) 32.

[65] X. Bộ Giáo Luật, các điều 844. 967-969. 972; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 722, 3-4.

[66] X. Bộ Giáo Luật, điều 1331; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 1431. 1434.

[67] X. Bộ Giáo Luật, các điều 1354-1357; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 1420.

[68] X. Bộ Giáo Luật, điều 976; pro peccatorum vero absolutione, Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 725.

[69] X. Bộ Giáo Luật, điều 986; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 735; CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 13: AAS 58 (1966) 1012.

[70] X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 13: AAS 58 (1966) 1012.

[71] X. Bộ Giáo Luật, các điều 983-984. 1388,1; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 1456.

[72] Catechismus Romanus, 2, 5, 18: ed. P. Rodríguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 297.

[73] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, 3: DS 1674.

[74] X. Lc 15,32.

[75] X. 1 Cr 12,26.

[76] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48-50: AAS 57 (1965) 53-57.

[77] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Reconciliatio et paenitentia, 31, V: AAS 77 (1985) 265.

[78] X. 1 Cr 5,11; Gl 5,19-21; Kh 22,15.

[79] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina, Normae 1: AAS 59 (1967) 21.

[80] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina, Normae 2: AAS 59 (1967) 21.

[81] Bộ Giáo Luật, điều 994.

[82] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Canones de sacramento Paenitentiae, canones 12-13: DS 1712-1713; Id., Sess. 25a, Decretum de purgatorio: DS 1820.

[83] X. Ep 4,24.

[84] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina, 5: AAS 59 (1967) 11.

[85] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina, 5: AAS 59 (1967) 12.

[86] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina, 5: AAS 59 (1967) 11.

[87] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina, 5: AAS 59 (1967) 11-12.

[88] X. ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina, 8: AAS 59 (1967) 16-17; CĐ Triđentinô, Sess. 25a, Decretum de indulgentiis: DS 1835.

[89] Eukologion to mega (Athens 1992) 222.

[90] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 26-27: AAS 56 (1964) 107.

[91] X. Bộ Giáo Luật, điều 962,1.

[92] X. Bộ Giáo Luật, điều 961,2.

[93] X. Bộ Giáo Luật, điều 961,1-2.

[94] Nghi thức Thống Hối, Praenotanda, 31 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 21.

[95] X. Mc 2,17.