Mục 5
Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân
Articulus 5
Unctio infirmorum
1499. “Qua việc xức dầu bệnh nhân và lời cầu nguyện của các linh
mục, toàn thể Hội Thánh phó thác các bệnh nhân cho Chúa chịu nạn và vinh hiển
để Người nâng đỡ và cứu chữa họ; hơn nữa, Hội Thánh còn khuyên bảo họ tự nguyện
kết hợp với cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Kitô, để mưu ích cho dân Thiên
Chúa”[1].
I. NỀN TẢNG CỦA BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN TRONG NHIỆM CỤC CỨU ĐỘ
EIUS IN OECONOMIA
SALUTIS FUNDAMENTA
Bệnh tật trong đời sống con người
1500. Bệnh tật và đau khổ luôn luôn là những vấn đề nghiêm
trọng nhất ảnh hưởng trên đời sống con người. Trong cơn bệnh, con người cảm
nghiệm sự bất lực, các giới hạn và sự hữu hạn của mình. Mọi bệnh tật đều có thể
khiến chúng ta nhìn xa đến cái chết.
1501. Bệnh tật có thể đưa đến sự lo lắng, tự khép kín, đôi khi
tuyệt vọng và nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Nhưng nó cũng có thể làm cho con
người chín chắn hơn, giúp họ phân định điều gì không phải là chính yếu trong
đời họ, để quay về với điều chính yếu. Bệnh tật rất thường gợi lên sự tìm hiểu
về Thiên Chúa, gợi lên sự trở lại với Ngài.
Bệnh nhân trước mặt Thiên Chúa
1502. Con người thời Cựu Ước sống trong bệnh tật trước tôn nhan
Thiên Chúa. Họ than thở với Thiên Chúa về bệnh tật của mình[2] và
xin Ngài, là Chúa sự sống và sự chết, chữa lành[3].
Bệnh tật trở thành con đường hối cải[4],
và ơn tha thứ của Thiên Chúa là khởi đầu việc chữa lành[5].
Dân Israel cảm nghiệm rằng, bệnh tật có liên hệ cách bí nhiệm với tội lỗi và sự
dữ, và sự trung thành với Thiên Chúa, theo Lề Luật của Ngài, sẽ trả lại sự
sống: “vì Ta là Chúa, Đấng chữa lành ngươi” (Xh 15,26). Có Tiên tri đã thoáng
nhận ra rằng đau khổ có thể có giá trị cứu chuộc đối với tội lỗi của những
người khác[6].
Sau cùng, tiên tri Isaia loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đem đến cho Sion một thời
đại, lúc đó Ngài sẽ tha thứ mọi tội lỗi và chữa lành mọi bệnh tật[7].
Đức Kitô – thầy thuốc
1503. Lòng thương cảm của Đức Kitô đối với các bệnh nhân và nhiều
việc chữa lành mọi thứ bệnh tật Người đã thực hiện[8] là
một dấu chỉ hiển nhiên cho thấy rằng Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Ngài[9] và
Nước Thiên Chúa đã gần kề. Chúa Giêsu không những có quyền chữa lành mà còn có
quyền tha tội[10]:
Người đến để chữa lành con người toàn diện, cả xác cả hồn; Người là thầy thuốc
mà các bệnh nhân cần đến[11].
Lòng thương cảm của Người đối với tất cả những người chịu đau khổ, đã đi đến
chỗ Người tự nên một với họ: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25,36).
Tình yêu đặc biệt của Người đối với những người đau yếu, trải qua các thế kỷ,
đã không ngừng khơi dậy sự quan tâm đặc biệt của các Kitô hữu đối với tất cả
những ai chịu đau khổ phần xác hay phần hồn. Tình yêu này làm phát sinh những
cố gắng không mệt mỏi để nâng đỡ những người đau khổ đó.
1504. Chúa Giêsu thường đòi buộc các bệnh nhân phải tin[12].
Người dùng những dấu chỉ để chữa lành: nước miếng và việc đặt tay[13],
bùn đất và việc rửa sạch[14].
Các bệnh nhân tìm cách chạm đến Người[15] “vì
có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6,19). Vì
vậy, trong các bí tích, Đức Kitô tiếp tục “chạm” đến chúng ta để chữa lành
chúng ta.
1505. Xúc động trước quá nhiều đau khổ, Đức Kitô không những cho
phép các bệnh nhân chạm đến Người, mà còn lấy những đau khổ của chúng ta làm
của Người: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn
của ta” (Mt 8,17)[16].
Tuy nhiên, Người đã không chữa lành tất cả các bệnh nhân. Những việc chữa lành
của Người là những dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đang đến. Chúng loan báo một sự
chữa lành triệt để hơn: đó là sự chiến thắng tội lỗi và sự chết, nhờ cuộc Vượt
Qua của Người. Trên thập giá, Đức Kitô đã mang vào thân thể Người tất cả gánh
nặng của sự dữ[17] và
Người đã xoá “tội trần gian” (Ga 1,29), mà bệnh tật của trần gian chỉ là một
hậu quả. Bằng cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Người, Đức Kitô đem
lại cho đau khổ một ý nghĩa mới: từ nay đau khổ có thể làm cho chúng ta nên
đồng hình đồng dạng với Người và kết hợp chúng ta vào cuộc khổ nạn sinh ơn cứu
chuộc của Người.
“Hãy chữa lành các bệnh nhân…”
1506. Đức Kitô mời gọi các môn đệ vác thánh giá của mình[18] mà
theo Người. Khi theo Người, các môn đệ có được một tầm nhìn mới về các bệnh tật
và các bệnh nhân. Chúa Giêsu đã cho họ dự phần vào đời sống nghèo khó và phục
vụ của Người. Người cho họ tham dự vào thừa tác vụ cảm thương và chữa lành của
Người: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được
nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6,12-13).
1507. Chúa phục sinh đã lặp lại sứ vụ này (“Nhân danh Thầy... họ
đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe”: Mc
16,17-18) và xác nhận sứ vụ đó qua các dấu chỉ Hội Thánh thực hiện trong khi
kêu cầu Danh Người[19].
Các dấu chỉ này biểu lộ cách đặc biệt Chúa Giêsu thật sự là “Thiên Chúa cứu độ”[20].
1508. Chúa Thánh Thần ban cách đặc biệt cho một số người đoàn sủng
chữa lành[21] để
biểu lộ sức mạnh của ân sủng của Đấng phục sinh. Tuy nhiên những lời cầu nguyện
sốt sắng nhất cũng không luôn luôn chữa lành tất cả mọi bệnh tật. Thánh Phaolô
phải học nơi Chúa điều này: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy
được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9); và những đau khổ phải
chịu có thể có ý nghĩa này: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu,
tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho Thân Thể Người là Hội
Thánh” (Cl 1,24).
1509. “Hãy chữa lành người đau yếu!” (Mt 10,8). Hội Thánh đã nhận
nơi Chúa mệnh lệnh này và cố gắng thi hành mệnh lệnh đó qua việc chăm sóc các
bệnh nhân và việc nguyện cầu để đồng hành với họ. Hội Thánh tin vào sự hiện
diện sống động của Đức Kitô, vị thầy thuốc của cả phần hồn phần xác. Sự hiện
diện này đặc biệt tác động trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, là
bánh ban sự sống đời đời[22] và
liên hệ của bánh này với sự chữa lành phần xác đã được thánh Phaolô nói đến[23].
1510. Hội Thánh từ thời các Tông Đồ đã biết đến một nghi thức riêng
dành cho các bệnh nhân. Thánh Giacôbê đã làm chứng về điều này: “Ai trong anh
em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện
cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu
người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ
được Chúa thứ tha” (Gc 5,14-15). Truyền thống đã nhìn nhận nghi thức này là một
trong bảy bí tích của Hội Thánh[24].
Bí tích của các bệnh nhân
1511. Hội Thánh tin và tuyên xưng, trong bảy bí tích, có một bí
tích đặc biệt dành để củng cố những người bị thử thách vì bệnh tật: đó là bí
tích Xức Dầu Bệnh Nhân:
“Việc xức dầu thánh
cho các bệnh nhân đã được Đức Kitô Chúa chúng ta thiết lập một cách thật sự và
đúng nghĩa như là một bí tích của Giao Ước Mới, được thánh Marcô nhắc đến[25],
và được giới thiệu và công bố cho các tín hữu nhờ thánh Giacôbê, vị Tông Đồ và
là người anh em của Chúa”[26].
1512. Trong truyền thống phụng vụ của Đông cũng như Tây phương, từ
xa xưa, đã có những bằng chứng về bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân với dầu đã được làm
phép. Qua các thế kỷ, bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, càng ngày càng ít được sử
dụng, chỉ được ban cho những người sắp chết. Vì vậy bí tích này có tên gọi là
việc “Xức dầu cuối cùng”. Mặc dù có sự chuyển biến này, phụng vụ không bao giờ
bỏ qua việc cầu xin Chúa cho bệnh nhân được hồi phục sức khoẻ, nếu điều này phù
hợp với ơn cứu độ của họ[27].
1513. Tông Hiến Sacram unctionem infirmorum (Việc
Xức Dầu Thánh cho bệnh nhân) ban hành ngày 30.11.1972, theo đường hướng
Công đồng Vaticanô II[28],
xác định từ nay, trong nghi lễ Rôma, phải thực hành như sau:
“Bí tích Xức Dầu
Bệnh Nhân được ban cho những ai bệnh tật nguy kịch, bằng việc xức trên trán và
trên hai bàn tay với dầu ô liu hoặc, tuỳ nghi, dầu thực vật khác, đã được làm
phép đúng luật, và chỉ đọc một lần: ‘Nhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ
bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh Thần mà giúp đỡ con, để Ngài
giải thoát con khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa con và thương làm cho con thuyên giảm’”[29].
II. AI LÃNH NHẬN
VÀ AI BAN BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN?
QUIS RECIPIT ET
QUIS HOC CONFERT SACRAMENTUM?
Trong trường hợp bệnh nặng...
1514. Xức Dầu Bệnh Nhân “không phải là bí tích chỉ dành cho những
người hấp hối. Do đó, thời gian thích hợp để lãnh nhận bí tích này là khi tín
hữu bắt đầu lâm cơn nguy tử vì bệnh tật hay già yếu”[30].
1515. Nếu bệnh nhân đã lãnh bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân và được hồi
phục, rồi sau đó trở bệnh nặng, thì có thể lãnh bí tích này lần nữa. Trong cùng
một cơn bệnh kéo dài, bí tích này có thể được tái ban nếu cơn bệnh trở nên trầm
trọng hơn. Trước khi chịu một cuộc giải phẫu quan trọng, tín hữu nên lãnh nhận
bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Cũng vậy, người lớn tuổi cũng nên lãnh nhận khi sức
lực họ suy yếu dần.
“... Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến”
1516. Chỉ có các tư tế (giám mục và linh mục) là thừa tác viên bí
tích Xức Dầu Bệnh Nhân[31].
Các mục tử có trách nhiệm phải dạy cho các tín hữu về những ơn ích của bí tích
này. Các tín hữu phải động viên bệnh nhân để mời tư tế đến ban bí tích. Các
bệnh nhân phải chuẩn bị tâm hồn để lãnh nhận bí tích này, với sự trợ giúp của
mục tử và toàn thể giáo xứ, những người được mời đến hỗ trợ bệnh nhân, một cách
đặc biệt, bằng lời cầu nguyện và sự quan tâm huynh đệ.
III. BÍ TÍCH NÀY ĐƯỢC CỬ HÀNH THẾ NÀO?
QUOMODO HOC
CELEBRATUR SACRAMENTUM?
1517. Cũng như mọi bí tích khác, bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân là một
cử hành phụng vụ có tính cộng đoàn[32],
dù cử hành ở gia đình, ở bệnh viện hay ở nhà thờ, cho một hay một nhóm bệnh
nhân. Rất nên cử hành bí tích này trong thánh lễ, là cuộc tưởng niệm cuộc Vượt
Qua của Chúa. Nếu hoàn cảnh cho phép, có thể cử hành bí tích Thống Hối trước
khi ban bí tích Xức Dầu, và tiếp đó là bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể, là
bí tích của cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, luôn luôn phải là bí tích cuối cùng của
cuộc lữ hành trần thế, là “Của ăn đàng” cho việc “bước qua” đời sống vĩnh cửu.
1518. Lời [Chúa] và bí tích làm nên một thể thống nhất bất khả phân
ly. Sau nghi thức thống hối, phần phụng vụ Lời Chúa khai mở việc cử hành bí
tích. Những lời của Đức Kitô, chứng từ của các Tông Đồ khơi dậy đức tin cho
bệnh nhân và cho cộng đoàn, để cầu xin Chúa ban sức mạnh Thần Khí của Người.
1519. Việc cử hành bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân chủ yếu gồm có các
phần như sau: “Các kỳ mục của Hội Thánh”[33] thinh
lặng đặt tay trên bệnh nhân; các ngài cầu nguyện cho bệnh nhân trong đức tin
của Hội Thánh[34],
đó là kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) đặc thù của bí tích này; rồi
các ngài xức dầu cho bệnh nhân bằng dầu đã được làm phép, nếu có thể được, bởi
Giám mục.
Các hành động phụng
vụ này cho thấy bí tích này mang lại biết bao ân sủng cho các bệnh nhân.
IV. HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
EFFECTUS
CELEBRATIONIS HUIUS SACRAMENTI
1520. Hồng ân đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Ân sủng đầu
tiên của bí tích này là ơn an ủi, bình an và can đảm cho tâm hồn để thắng vượt
những khó khăn do tình trạng của cơn bệnh trầm trọng hay của tuổi già sức yếu.
Ân sủng này là hồng ân của Chúa Thánh Thần, để canh tân sự phó thác và tin
tưởng vào Thiên Chúa, và ban sức mạnh để chống lại các cám dỗ của Thần dữ, cám
dỗ làm cho tâm hồn thất vọng và lo âu trước cái chết[35].
Sự trợ giúp này của Chúa nhờ sức mạnh của Thần Khí Người nhằm chữa lành linh
hồn bệnh nhân, nhưng cũng chữa lành cả thân xác, nếu đó là thánh ý Thiên Chúa[36].
Ngoài ra, “nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,15)[37].
1521. Kết hợp với cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Nhờ ân sủng của
bí tích này, bệnh nhân lãnh nhận sức mạnh và hồng ân để kết hợp chặt chẽ hơn
với cuộc khổ nạn của Đức Kitô: một cách nào đó họ được thánh hiến để
mang lại hoa trái nhờ đồng hình đồng dạng với cuộc khổ nạn sinh ơn cứu chuộc
của Đấng cứu độ. Đau khổ, vốn là hậu quả của tội nguyên tổ, nay mang một ý
nghĩa mới: đó là dự phần vào công trình cứu độ của Chúa Giêsu.
1522. Ân sủng có chiều kích Hội Thánh. Các tín hữu lãnh nhận
bí tích này, “nhờ sẵn sàng kết hợp với sự đau khổ và cái chết của Đức Kitô”,
góp phần “mưu ích cho dân Thiên Chúa”[38].
Khi cử hành bí tích này trong mầu nhiệm các Thánh thông công, Hội Thánh cầu
nguyện cho bệnh nhân; bệnh nhân, đến lượt mình, nhờ ân sủng của bí tích này,
góp phần vào sự thánh hóa Hội Thánh và mưu ích cho mọi người, vì tất cả những
người đó mà Hội Thánh chịu đau khổ và tự hiến cho Chúa Cha nhờ Đức Kitô.
1523. Chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối cùng. Nếu bí tích
Xức Dầu Bệnh Nhân được ban cho những người đang chịu bệnh tật và đau yếu nặng,
thì càng thích hợp hơn cho những người “sắp lìa đời”[39],
nên nó cũng được gọi là “bí tích của những người ra đi” (sacramentum exeuntium)[40].
Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân hoàn tất việc làm cho chúng ta nên đồng hình đồng
dạng với cái Chết và sự Sống lại của Đức Kitô, cũng như bí tích Rửa Tội đã khởi
sự điều đó. Bí tích này hoàn tất các lần xức dầu thánh ghi dấu suốt cuộc đời
Kitô hữu; việc xức dầu của bí tích Rửa Tội đã đóng ấn cuộc sống mới trong chúng
ta; việc xức dầu của bí tích Thêm Sức tăng sức mạnh cho chúng ta để chiến đấu
trong cuộc sống này. Việc xức dầu lần cuối này gìn giữ lúc kết thúc cuộc đời
chúng ta bằng sự che chở vững vàng trong những trận chiến cuối cùng trước khi
tiến vào Nhà Cha[41].
V. CỦA ĂN ĐÀNG, BÍ TÍCH CUỐI CÙNG CỦA KITÔ HỮU
VIATICUM, ULTIMUM
CHRISTIANI SACRAMENTUM
1524. Đối với những người sắp lìa đời, ngoài bí tích Xức Dầu Bệnh
Nhân, Hội Thánh còn ban bí tích Thánh Thể làm Của ăn đàng. Việc lãnh nhận Mình
và Máu Đức Kitô, vào lúc sắp về với Chúa Cha, có một ý nghĩa và tầm quan trọng
đặc biệt. Đây là hạt giống của đời sống vĩnh cửu và là sức mạnh của sự phục
sinh, theo lời Chúa nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và
tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54). Bí tích Thánh Thể, là
bí tích của Đức Kitô đã chết và đã sống lại, giờ đây là bí tích của việc chuyển
từ cõi chết đi vào cõi sống, từ trần gian này về với Chúa Cha[42].
1525. Cũng như các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể
hợp thành một thể thống nhất được gọi là “các bí tích khai tâm Kitô giáo”,
người ta có thể nói các bí tích Thống Hối, Xức Dầu Bệnh Nhân và Thánh Thể như
Của ăn đàng, vào lúc cuối đời Kitô hữu, hợp thành “các bí tích chuẩn bị về Quê
trời” hay là các bí tích hoàn tất cuộc lữ hành trần thế.
TÓM LƯỢC
1526. “Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục
của Hội Thánh đến, họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh
Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng
dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha" (Gc 5,14-15).
1527. Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân có mục đích ban ân sủng đặc biệt
cho tín hữu đang bị thử thách vì những khó khăn do tình trạng bệnh nặng hay
tuổi già sức yếu.
1528. Thời gian thích hợp để lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
là khi tín hữu bắt đầu lâm cơn nguy tử vì bệnh tật hay già yếu.
1529. Mỗi khi lâm trọng bệnh, Kitô hữu có thể lãnh nhận bí tích
Xức Dầu, và khi bệnh tình trở nên nguy kịch, có thể nhận lại bí tích này.
1530. Chỉ các tư tế (linh mục và Giám mục) mới có thể ban bí
tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Để trao ban, các ngài sử dụng dầu do Giám mục làm phép,
hay trong trường hợp khẩn cấp, do chính linh mục đang cử hành làm phép.
1531. Nghi thức chính yếu của bí tích này gồm việc xức dầu trên
trán và hai tay của bệnh nhân (theo nghi lễ Rôma) hoặc trên các phần thân thể
khác (theo nghi lễ Đông phương), việc xức dầu có kèm theo lời cầu nguyện phụng
vụ của tư tế cử hành, cầu xin ân sủng đặc biệt của bí tích này.
1532. Ân sủng đặc biệt của bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân có những
hiệu quả như sau:
– giúp bệnh nhân
được kết hợp với cuộc khổ nạn của Đức Kitô, để mưu ích cho bản thân và cho toàn
thể Hội Thánh;
– mang lại cho bệnh
nhân sự an ủi, bình an và lòng can đảm, để chịu đựng theo tinh thần Kitô giáo
những đau khổ do bệnh tật hay tuổi già;
– ban ơn tha tội,
nếu bệnh nhân không thể xưng tội được;
– đem lại sự hồi
phục sức khoẻ, nếu điều đó hữu ích cho ơn cứu độ thiêng liêng;
– chuẩn bị để bước
vào đời sống vĩnh cửu.
Nguồn: http://giaolyductin.net
[1] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.
[2] X. Tv 38.
[3] X. Tv 6,3; Is 38.
[4] X. Tv 38,5; 39,9.12.
[5] X. Tv 32,5; 107,20; Mc 2,5-12.
[6] X. Is 53,11.
[7] X. Is 33,24.
[8] X. Mt 4,24.
[9] X. Lc 7,16.
[10] X. Mc 2,5-12.
[11] X. Mc 2,17.
[12] X. Mc 5,34.36; 9,23.
[13] Mc 7,32-36; 8,22-25.
[14] X. Ga 9,6-15.
[15] X. Mc 3,10; 6,56.
[16] X. Is 53,4.
[17] X. Is 53,4-6.
[18] X. Mt 10,38.
[19] X. Cv 9,34; 14,3.
[20] X. Mt 1,21; Cv 4,12.
[21] X. 1 Cr 12,9.28.30.
[22] X. Ga 6,54.58.
[23] X. 1 Cr 11,30.
[24] X. Thánh Innôcentiô I, Epistula Si instituta
ecclesiastica: DS 216; CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis: DS
1324-1325; CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento extremae
Unctionis, c. 1-2: DS 1695-1696; Id., Sess. 14a, Canones de extrema
Unctione, canones 1-2: DS 1716-1717.
[25] X. Mc 6,13.
[26] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de
sacramento extremae Unctionis, c. 1: DS 1695; X. Gc 5,14-15.
[27] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de
sacramento extremae Unctionis, c. 2: DS 1696.
[28] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 73: AAS 54 (1964) 118-119.
[29] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Sacram Unctionem
infirmorum: AAS 65 (1973) 8; x. Bộ Giáo Luật, điều 847,1.
[30] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 73: AAS 56 (1964) 118-119 ; x. Bộ Giáo Luật, các
điều 1004,1. 1005. 1007; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 738.
[31] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de
sacramento extremae Unctionis, c. 3: DS 1697; Id., Sess. 14a, Canones
de extrema Unctione, canon 4: DS 1719; Bộ Giáo Luật, điều
1003; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 739,1.
[32] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 27: AAS 56 (1964) 107.
[33] X. Gc 5,14.
[34] X. Gc 5,15.
[35] X. Dt 2,15.
[36] X. CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis:
DS 1325.
[37] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Canones de
extrema Unctione, canon 2: DS 1717.
[38] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11:
AAS 57 (1965) 15.
[39] CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de
sacramento extremae Unctionis, c. 3: DS 1698.
[40] Ibid.
[41] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de
sacramento extremae Unctionis, Prooemium: DS 1694.
[42] X. Ga 13,1.