SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO – MỤC
3 “BỞI
PHÉP ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, MÀ NGƯỜI XUỐNG THAI, SINH BỞI BÀ MARIA ĐỒNG TRINH”
(giaolyductin. net 13/08/13, 11:55 am)
Articulus 3
Iesus Christus
“conceptus est de Spiritu Sancto,
Paragraphus 1
Filius Dei homo
factus est
CUR VERBUM CARO
FACTUM EST?
456. Cùng với Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli, chúng ta tuyên xưng: “Vì loài
người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức
Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”[1].
457. Ngôi Lời đã làm người để cứu độ chúng ta, bằng cách giao hòa chúng ta
với Thiên Chúa: Thiên Chúa “đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho
chúng ta” (1 Ga 4,10). “Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến làm Đấng cứu độ thế
gian” (1 Ga 4,14). “Chúa Giêsu đã xuất hiện để xoá bỏ tội lỗi” (1 Ga 3,5):
“Bản tính chúng ta vì
bệnh tật nên cần được chữa lành, vì sa ngã nên cần được nâng dậy, vì đã chết
nên cần được phục sinh. Chúng ta đã đánh mất việc thông phần vào sự thiện, nên
cần được dẫn trở về sự thiện. Chúng ta bị vây hãm trong bóng tối, nên cần đến
ánh sáng. Chúng ta bị tù đầy nên mong người cứu chuộc; bị thua trận, nên cần
người trợ giúp, bị áp bức dưới ách nô lệ nên chờ người giải phóng. Đó lại là
những lý do nhỏ bé và không xứng đáng để làm cho Thiên Chúa động lòng hay sao?
Những lý do ấy không đủ để Thiên Chúa xuống viếng thăm bản tính nhân loại,
trong lúc nhân loại đang ở trong tình trạng khốn cùng và bất hạnh hay sao?”[2]
458. Ngôi Lời đã làm người để chúng ta nhận biết tình yêu của Thiên Chúa:
“Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa
đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (l
Ga 4,9). “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,l6).
459. Ngôi Lời đã làm người để trở thành gương mẫu thánh thiện cho chúng
ta. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi…” (Mt 11,29). “Chính
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy” (Ga l4,6). Và trên núi Hiển Dung, Chúa Cha đã truyền: “Hãy
vâng nghe lời Người” (Mc 9,7)[3]. Người đúng là gương mẫu của các mối phúc thật
và là chuẩn mực của Luật mới: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga l5,l2). Tình yêu này đòi hỏi người ta thật sự hiến thân để đi
theo Người[4].
460. Ngôi Lời đã làm người để làm cho chúng ta được “thông phần bản tính
Thiên Chúa” (2 Pr l,4). “Chính vì điều này mà Ngôi Lời của Thiên Chúa làm
người, Đấng là Con Thiên Chúa trở nên Con Người, đó là để cho loài người, khi
kết hợp với Ngôi Lời của Thiên Chúa và nhận quyền làm nghĩa tử, thì được trở
nên con cái Thiên Chúa”[5]. “Chính Người đã làm người, để chúng ta được trở
thành những vị thần”[6]. “Con Một Thiên Chúa, bởi muốn cho chúng ta được tham
dự vào thần tính của Người, nên đã mang lấy bản tính của chúng ta, để Đấng đã
làm người, làm cho người ta trở thành những vị thần”[7].
INCARNATIO
461. Lấy lại cách nói của thánh Gioan (“Ngôi Lời đã trở thành nhục thể”:
Ga 1,14), Hội Thánh dùng từ “Nhập Thể” để gọi sự kiện Con Thiên Chúa nhận lấy bản
tính nhân loại, để thực hiện việc cứu độ chúng ta trong bản tính ấy. Trong một
thánh thi do thánh Phaolô ghi lại, Hội Thánh hát mừng mầu nhiệm Nhập Thể như
sau:
“Anh em hãy có những
tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu: Chúa Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn
toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như
người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự” (Pl 2,5-8)[8].
462. Thư gửi tín hữu Do Thái cũng nói về mầu nhiệm ấy như sau:
“Vì vậy, khi vào trần
gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một
thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới
thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7,
trích Tv 40,7-9, bản LXX). \
463. Tin vào việc Nhập Thể thật của Con Thiên Chúa là dấu hiệu đặc trưng
của đức tin Kitô giáo. “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa:
Thần Khí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến, và trở nên người phàm,
thì Thần Khí ấy bởi Thiên Chúa” (l Ga 4,2). Đó cũng là niềm xác tín hân hoan
của Hội Thánh ngay từ buổi đầu, khi hát mừng “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”:
“Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm” (l Tm 3,l6).
VERUS DEUS ET VERUS
HOMO
464. Biến cố độc nhất vô nhị là việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa không có
nghĩa là Chúa Giêsu Kitô một phần là Thiên Chúa, một phần là người; cũng không
có nghĩa Người là kết quả của một sự pha trộn lẫn lộn giữa hai bản tính thần
linh và nhân loại. Người đã thật sự làm người, mà vẫn thật sự là Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Hội Thánh đã phải bảo vệ
và làm sáng tỏ chân lý đức tin này suốt những thế kỷ đầu tiên, trước các lạc
thuyết đã làm sai lạc chân lý đó.
465. Các lạc thuyết đầu tiên không phủ nhận thần tính của Đức Kitô, cho bằng
chối bỏ nhân tính thật của Người (Ảo thân thuyết theo chủ trương Ngộ đạo). Ngay
từ thời các Tông Đồ, đức tin Kitô giáo nhấn mạnh đến việc Nhập Thể thật của Con
Thiên Chúa, Đấng đã đến trong xác phàm[9]. Nhưng vào thế kỷ thứ III, để chống
lại Phaolô Samosatênô, tại Công đồng họp ở Antiôchia, Hội Thánh phải khẳng định
rằng: Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa do bản tính chứ không phải do được nhận
làm nghĩa tử. Công đồng chung thứ I, họp tại Nicêa vào năm 325, tuyên xưng
trong Tín biểu của mình rằng: Con Thiên Chúa “được sinh ra mà không phải được
tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (trong tiếng Hy Lạp là homousion)[10], và Hội Thánh đã kết án
Ariô là người đã khẳng định rằng “Con Thiên Chúa đã xuất phát từ hư vô”[11] và “có một bản thể hay yếu tính khác với
Chúa Cha”[12].
466. Lạc thuyết của Nestôriô cho rằng trong Đức Kitô ngôi vị nhân loại được
liên kết với Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Chống lại lạc thuyết này,
Thánh Cyrillô Alêxanđria và Công đồng chung thứ III họp tại Êphêsô năm 431 tuyên
xưng rằng: “Ngôi Lời đã làm người, khi một thân thể do một linh hồn có lý trí
làm cho sống động được kết hợp với Ngài theo Ngôi Vị”[13]. Nhân tính của Đức
Kitô không có một chủ thể nào khác ngoài Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa,
Đấng đã nhận lấy nhân tính ấy làm của mình từ lúc tượng thai. Chính vì vậy,
Công đồng chung Êphêsô vào năm 431 công bố rằng Đức Maria, nhờ sự tượng thai
nhân loại của Con Thiên Chúa trong lòng bà, bà đã rất thật sự trở thành Mẹ
Thiên Chúa: “[Đức Maria là] Mẹ Thiên Chúa…, không phải vì bản tính của Ngôi Lời
và thần tính của Ngài đã bắt đầu được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ rất thánh, nhưng
vì từ Đức Trinh Nữ đã sinh ra thân xác thánh thiêng đó, do một linh hồn có lý
trí làm cho sống động, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với thân xác đó theo
Ngôi Vị, nên có thể nói Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác phàm”[14].
467. Những người chủ trương thuyết Nhất Tính (Monophysitae) khẳng định: bản
tính nhân loại không còn tồn tại nơi Đức Kitô, khi bản tính đó được Ngôi Vị thần
linh của Con Thiên Chúa đảm nhận. Để chống lại lạc thuyết này, Công đồng chung thứ
IV, họp tại Chalcêđônia năm 451, tuyên xưng:
“Theo sau các thánh phụ,
chúng tôi đồng thanh dạy phải tuyên xưng Một Chúa Con Duy Nhất là Đức Giêsu
Kitô Chúa chúng ta, hoàn hảo trong thần tính và cũng hoàn hảo trong nhân tính; là
Thiên Chúa thật và là người thật, gồm có một linh hồn có lý trí và một thân
xác; đồng bản thể với Đức Chúa Cha theo thần tính mà cũng đồng bản tính với chúng
ta theo nhân tính, ‘giống chúng ta về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi’;[15] sinh bởi Đức Chúa Cha theo thần tính từ
trước muôn đời, và trong những thời cuối cùng này, vì chúng ta và để cứu độ chúng
ta, Người được sinh ra theo nhân tính từ Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Cùng một Đấng duy nhất
là Đức Kitô, là Chúa, là Con Một, phải được nhìn nhận trong hai bản tính một
cách không lẫn lộn, không thay đổi, không phân chia, không tách biệt, sự khác
biệt giữa hai bản tính không hề bị mất đi do việc kết hợp, nhưng các đặc điểm
của mỗi bản tính đã được bảo tồn khi kết hợp với nhau trong một Ngôi Vị và một
Đấng duy nhất”[16].
468. Sau Công đồng Chalcêđônia một số người biến nhân tính của Đức Kitô
thành như một chủ thể có ngôi vị riêng. Chống lại những người này, Công đồng
chung thứ V, họp tại Constantinôpôli, năm 553, tuyên xưng rằng: “Chỉ có một
Ngôi Vị duy nhất, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Một Ngôi Vị trong Ba Ngôi Chí Thánh”[17].
Bởi vậy, mọi sự trong nhân tính của Đức Kitô đều phải được quy về Ngôi Vị thần
linh của Người với tư cách là chủ thể riêng của Người [18], không những các phép lạ, nhưng
cả những đau khổ[19] và chính cái
chết: chúng tôi tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng bị đóng
đinh vào thập giá về phần xác, là Thiên Chúa thật, là Chúa vinh quang, và là
một Ngôi trong Ba Ngôi chí thánh”[20].
469. Như vậy, Hội Thánh tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và
là người thật một cách không thể tách biệt. Người thật sự là Con Thiên Chúa đã làm
người, là anh em của chúng ta, mà vẫn không ngừng là Thiên Chúa, Chúa chúng ta:
Phụng vụ Rôma hát kính:
“Ngài vẫn là Ngài như trước [Ngài là Thiên Chúa], và Ngài đã đảm nhận lấy điều
mà trước đó Ngài không là [Ngài làm người]”[21]. Còn phụng vụ của thánh Gioan
Kim Khẩu công bố và hát kính: “Lạy Con duy nhất và Ngôi Lời của Thiên Chúa, dù
bất tử, nhưng để cứu độ chúng con, Chúa đã đoái thương nhập thể trong lòng Đức
Maria, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa và trọn đời đồng trinh. Chúa đã làm người và
đã chịu đóng đinh vào thập giá mà không hề biến đổi. Lạy Đức Kitô, là Thiên
Chúa, Chúa đã dùng cái chết của mình mà đập tan sự chết, Chúa là Một trong Ba
Ngôi Chí Thánh, được tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, xin cứu độ
chúng con!”[22]
QUOMODO FILIUS DEI
EST HOMO?
470. Trong sự kết hợp kỳ diệu của mầu nhiệm Nhập Thể, “bản tính nhân loại
được đảm nhận, chứ không bị hoà tan”[23], nên qua các thế kỷ, Hội Thánh hằng
tuyên xưng Chúa Kitô có một linh hồn nhân loại thật với các hoạt động của trí
tuệ và ý chí, và một thân xác nhân loại thật. Nhưng đồng thời Hội Thánh đã phải
luôn nhắc lại rằng bản tính nhân loại của Đức Kitô thuộc hẳn về Ngôi Vị thần
linh của Con Thiên Chúa, Đấng đã đảm nhận nó. Tất cả những gì Đức Kitô là và
tất cả những gì Người làm trong bản tính nhân loại, đều xuất phát từ “một Đấng
trong Ba Ngôi Thiên Chúa”. Vì vậy, Con Thiên Chúa truyền thông cho nhân tính
của Người cách thức hiện hữu riêng của Ngôi Vị mình trong Ba Ngôi. Như vậy,
trong linh hồn cũng như trong thân xác của Người, Đức Kitô diễn tả theo cách
thế nhân loại cung cách hành xử của Thiên Chúa Ba Ngôi[24]:
“Con Thiên Chúa đã làm
việc với đôi tay nhân loại, suy nghĩ bằng trí óc nhân loại, hành động theo ý
chí nhân loại, yêu mến bằng quả tim nhân loại. Sinh làm con Đức Trinh Nữ Maria,
Người đã thật sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự,
ngoại trừ tội lỗi”[25].
Linh hồn và tri thức
nhân loại của Đức Kitô
471. Apôlinariô Laođicensê cho rằng trong Đức Kitô, Ngôi Lời đã thay thế
linh hồn hay tinh thần. Để chống lại điều sai lạc này, Hội Thánh tuyên xưng: Ngôi
Con hằng hữu cũng đã đảm nhận một linh hồn nhân loại có lý trí[26].
472. Linh hồn nhân loại này, mà Con Thiên Chúa đã đảm nhận, đã được phú bẩm
một tri thức nhân loại thật sự. Tri thức này, theo đúng nghĩa, tự nó không thể
có tính chất vô hạn: nó được hình thành trong các điều kiện lịch sử của cuộc
sống trong không gian và thời gian. Do đó, Con Thiên Chúa khi làm người, đã có
thể chấp nhận “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa” (Lc 2,52)
và thậm chí Người còn phải tìm hiểu về những điều mà trong điều kiện nhân loại,
phải được học hỏi qua kinh nghiệm[27]. Điều này phù hợp với việc Người tự
nguyện hạ mình “mặc lấy thân nô lệ”[28].
473. Nhưng, đồng thời, tri thức nhân loại thật sự này của Con Thiên Chúa
cũng diễn tả sự sống thần linh của Ngôi Vị của Người[29]. “Con Thiên Chúa biết
hết mọi sự; và con người mà Người tiếp nhận cũng biết như thế, không phải do bản tính, nhưng do kết hợp với Ngôi
Lời. Nhân tính, được kết hợp với Ngôi Lời, biết hết mọi sự và biểu
hiện những đặc tính thần linh xứng với uy quyền nơi mình”[30]. Trước hết, đó là
trường hợp Con Thiên Chúa làm người có một sự hiểu biết thâm sâu và trực tiếp
về Cha của Người[31]. Trong tri thức nhân loại của mình, Chúa Con cũng cho thấy
Người có khả năng thần linh nhìn thấu những tư tưởng thầm kín trong lòng dạ người
ta[32].
474. Tri thức nhân loại của Đức Kitô, vì được kết hợp với Đức Khôn Ngoan
thần linh trong Ngôi Lời nhập thể, hiểu biết đầy đủ các kế hoạch vĩnh cửu mà Người
đến để mạc khải[33]. Điều Người nói là Người không biết trong lãnh vực này[34],
thì ở chỗ khác Người tuyên bố là Người không có sứ vụ mạc khải điều ấy[35].
Ý muốn nhân loại của
Đức Kitô
475. Một cách tương tự, trong Công đồng chung thứ VI, Hội Thánh đã tuyên
xưng rằng Đức Kitô có hai ý muốn và hai hoạt động theo hai bản tính Thiên Chúa và
nhân loại, không đối kháng nhưng hợp tác với nhau, cho nên Ngôi Lời làm người,
trong sự phục tùng theo nhân tính đối với Chúa Cha, đã muốn điều mà Người đã quyết
định, theo thần tính, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, về ơn cứu độ chúng
ta[36]. Hội Thánh nhận biết rằng “ý muốn nhân loại của Người luôn theo ý muốn
thần linh, không miễn cưỡng, không đối kháng, và hơn nữa, ý muốn nhân loại của
Người đã phục tùng ý muốn thần linh và toàn năng của Người”[37].
Thân xác thật của Đức
Kitô
476. Bởi vì Ngôi Lời đã làm người khi đảm nhận một nhân tính thật, nên thân
xác của Đức Kitô có những nét xác định rõ ràng[38]. Do đó, dung nhan nhân loại
của Chúa Giêsu có thể được “hoạ lại”[39] Trong
Công đồng chung thứ VII[40], Hội Thánh công nhận việc Người được trình bày qua các
ảnh tượng thánh là hợp pháp.
477. Đồng thời, Hội Thánh cũng luôn luôn công nhận: trong thân xác của Chúa
Giêsu, “Thiên Chúa vốn là Đấng vô hình, đã xuất hiện hữu hình cho chúng ta”[41].
Thật vậy, các đặc điểm cá nhân của thân xác Đức Kitô diễn tả Ngôi Vị thần linh
của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhận làm của mình những nét nhân dạng của
thân xác Người, cho nên khi được hoạ lại nơi một ảnh tượng thánh nào đó, những
nét này có thể được tôn kính, bởi vì khi tín hữu tôn kính ảnh tượng thánh, là
họ “tôn thờ chính Đấng mà ảnh tượng thánh ấy diễn tả”[42].
Trái tim của Ngôi
Lời nhập thể
478. Trong cuộc đời của Người, trong lúc Người hấp hối và trong lúc Người
chịu khổ nạn, Chúa Giêsu biết và yêu thương mọi người và từng người chúng ta,
và Người đã tự hiến mạng vì mỗi người chúng ta. Con Thiên Chúa “đã yêu mến tôi
và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Người đã yêu mến tất cả chúng ta bằng một trái tim
nhân loại. Do đó Trái Tim cực thánh của Chúa Giêsu, bị đâm thâu vì tội lỗi
chúng ta và để cứu độ chúng ta[43], “được coi là dấu chỉ và biểu tượng đặc biệt
của tình yêu, qua đó Đấng Cứu Chuộc thần linh hằng liên lỉ yêu mến Chúa Cha
vĩnh cửu và yêu mến tất cả mọi người”[44].
479. Vào thời gian Thiên Chúa đã định, Con Một của Chúa Cha, là Ngôi Lời
vĩnh cửu và là hình ảnh bản thể của Chúa Cha, đã nhập thể: Người đã đảm nhận bản
tính nhân loại mà không mất đi bản tính Thiên Chúa.
480. Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật trong sự duy
nhất của Ngôi Vị Thiên Chúa của Người; vì vậy Người là Đấng Trung Gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người.
481. Chúa Giêsu Kitô có hai bản tính, thần tính và nhân tính, không lẫn
lộn, nhưng kết hợp trong Ngôi Vị duy nhất của Con Thiên Chúa.
482. Vì là Thiên Chúa thật và là người thật, Đức Kitô có một tri thức và
một ý muốn nhân loại, hoàn toàn hoà hợp và quy phục tri thức và ý muốn thần linh
của Người, mà Người có chung với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
483. Vì vậy, Nhập Thể là mầu nhiệm kỳ diệu của sự kết hợp giữa bản tính Thiên
Chúa và bản tính nhân loại trong Ngôi Vị duy nhất của Ngôi Lời.
[1]DS 150.
[2]Thánh Grêgôriô Nyssenô, Oratio catechetica 15,3: TD 7,78 (PG 45, 48).
[3]X. Đnl 6,4-5.
[4]X. Mc 8,34.
[5]Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 19, 1: SC 211, 374 (PG 7,
939).
[6]Thánh Athanasiô Alexandrinô, De Incarnatione, 54, 3: SC 199, 458 (PG 25,
192).
[7]Thánh Tôma Aquinô, Officium de festo
corporis Christi, Ad
Matutinas, Inprimo Nocturno, Lectio 1: Opera omnia,
v. 29 (Parisiis 1876) 336.
[8]X. Thánh ca Kinh Chiều I Chúa Nhật: Các Giờ Kinh Phụng Vụ,
editio typica, v. 1, p. 545. 629. 718 et 808; v. 2, p. 844. 937. 1037 et 1129;
v. 3, p. 548. 669. 793 et 916; v. 4, p. 496. 617. 741 et 864 (Typis Polyglottis
Vaticanis 1973-1974).
[9]X. 1 Ga 4,2-3; 2 Ga 7.
[10]Tín
biểu Nicêa: DS 125.
[11]CĐ Nicêa, Epistula synodalis ”Epeidê tês” ad Aegyptios: DS 130.
[12]Tín
biểu Nicêa: DS 126.
[13]CĐ Êphêsô, Epistula II Cyrilli
Alexandrini ad Nestorium: DS 250.
[14]CĐ Êphêsô, Epistula II Cyrilli
Alexandrini ad Nestorium: DS 251.
[15]X. Dt 4,15.
[16]CĐ Chalcêđônia, : DS 301-302.
[17]CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a. Canon 4: DS 424.
[18]X. CĐ Êphêsô, Anathematismi Cyrilli
Alexandrini, 4: DS 255.
[19]X. CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a. Canon 3: DS 423.
[20]X. CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a. Canon 10: DS 432.
[21]Lễ
trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Điệp ca kinh “Benedictus”: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica,
v. 1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 394; x. Thánh Lêô Cả, Sermo21, 2: CCL 138, 87 (PL 54, 192).
[22]Officium
Horarum Byzantinum, Hymnus ”Ho monogenês: Opologion
to mega” (Romae
1876) 82.
[23]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
[24]X. Ga 14,9-10.
[25]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042-1043.
[26]X. Thánh Đamasô I, Epistula Oti te apostolike
kathedra: DS 149.
[27]X. Mc 6,38; 8,27; Ga 11,34.
[28]X. Pl 2,7.
[29]X. Thánh Grêgôriô Cả, Epistula Sicut aqua: DS 475.
[30]Thánh Maximô Hiển tu, Quaestiones et dubia,
Q. I, 67: CCG 10, 155 (66: PG 90, 840).
[31]X. Mc 14,36; Mt 11,27; Ga 1,18; 8,55.
[32]X. Mc 2,8; Ga 2,25; 6,61.
[33]X. Mc 8,31; 9,31;10,33-34; 14,18-20. 26-30.
[34]X. Mc 13,32.
[35]X. Cv 1,7.
[36]X. CĐ Constantinôpôli III (năm 681), Sess. 18a, Definitio de duabus in Christo voluntatibus et
operationibus: DS 556-559.
[37]CĐ Constantinôpôli III, Sess. 18a, Definitio de duabus in Christo voluntatibus et
operationibus: DS 556.
[38]X. CĐ Latêranô (năm 649), Canon 4: DS 504.
[39]X. Gl 3,1.
[40]CĐ Nicêa II (năm 787), Act. 7a, Definitio de sacris imaginibus: DS
600-603.
[41]Kinh
Tiền Tụng Lễ Giáng Sinh, II: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 396.
[42]CĐ Nicêa II, Act. 7a, Definitio de sacris
imaginibus: DS 601.
[43]X. Ga 19,34.
[44]ĐGH Piô XII, Thông điệp Haurietis aquas:
DS 3924; x. Ibid.
, Thông điệp Mystici corporis: DS 3812.