SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO – TIẾT 3 CÁC MẦU NHIỆM
CỦA CUỘC ĐỜI ĐỨC KITÔ
(giaolyductin.net30/08/13,
10:55 am)
Tiết 3
Các mầu nhiệm của cuộc
đời Đức Kitô
Paragraphus 3
Mysteria vitae Christi
512. Khi đề cập đến cuộc đời
Đức Kitô, Tín biểu chỉ nói về các mầu nhiệm Nhập Thể (được thụ thai và ra đời)
và Vượt Qua (chịu khổ nạn, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chết, chịu mai
táng, xuống ngục tổ tông, sống lại, và lên trời). Tín biểu không nói gì cách
minh nhiên về các mầu nhiệm của cuộc đời ẩn dật và công khai của Chúa Giêsu;
tuy nhiên, các đề mục đức tin liên quan đến việc Nhập Thể và cuộc Vượt Qua của
Chúa Giêsu, lại làm sáng tỏ toàn bộ cuộc đời trần thế của Người. “Tất cả những
việc Chúa Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được
rước lên trời” (Cv l,l-2), cần phải được nhìn xem dưới ánh sáng các mầu nhiệm
Giáng Sinh và Phục Sinh.
513. Tùy theo hoàn cảnh,
việc dạy giáo lý sẽ trình bày tất cả sự phong phú của các mầu nhiệm của Chúa
Giêsu. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu lên một số yếu tố chung cho tất cả mọi mầu
nhiệm của cuộc đời của Người (I), rồi sau đó phác hoạ các mầu nhiệm chính yếu
trong cuộc đời ẩn dật (II) và công khai (III) của Chúa Giêsu.
I. CẢ CUỘC ĐỜI ĐỨC KITÔ
LÀ MỘT MẦU NHIỆM
TOTA VITA CHRISTI
MYSTERIUM EST
514. Có nhiều điều liên quan
đến Chúa Giêsu mà loài người tò mò muốn biết, nhưng lại không được các sách Tin
Mừng nói đến. Tin Mừng hầu như không nói gì về cuộc sống của Người ở
515. Các sách Tin Mừng đã
được viết ra bởi những người trong số những người đầu tiên đã có đức tin[2] , và muốn cho những
người khác được tham dự vào đức tin đó. Đã được biết Chúa Giêsu là ai trong đức
tin, họ có thể thấy và chỉ cho người khác thấy những dấu tích của mầu nhiệm của
Người trong suốt cuộc đời trần thế của Người. Từ những mảnh tã quấn thân ngày
Người Giáng Sinh[3] , cho đến chút giấm lúc Người chịu khổ hình[4] , và tấm khăn liệm ngày
Người Phục Sinh[5] , mọi sự trong cuộc đời Chúa Giêsu đều là dấu chỉ của mầu
nhiệm của Người. Qua những cử chỉ, những phép lạ, những lời nói của Người,
Người mạc khải “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ
thể” (Cl 2,9). Như vậy, nhân tính của Người xuất hiện như một “bí tích”, nghĩa
là, một dấu chỉ và dụng cụ của thần tính của Người, và của ơn cứu độ mà Người
mang lại: những gì hữu hình trong cuộc đời trần thế của Người, dẫn chúng ta đến
với mầu nhiệm vô hình, là địa vị làm Con Thiên Chúa của Người và sứ vụ cứu
chuộc của Người.
Những nét chung của các mầu nhiệm của Chúa Giêsu
516. Cả cuộc đời của Đức
Kitô là một Mạc khải về Chúa Cha: những lời Người nói, những việc Người làm, những lúc
Người im lặng, những đau khổ Người chịu, cách thế Người sống và giảng dạy. Chúa
Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga l4,9), và Chúa Cha
nói: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc
9,35). Vì Chúa chúng ta đã làm người để chu toàn thánh ý của Chúa Cha[6] , nên ngay cả những
điểm nhỏ nhặt nhất trong các mầu nhiệm của Người đều biểu lộ cho chúng ta thấy
tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta[7] .
517. Cả cuộc đời của Đức
Kitô là một mầu nhiệm Cứu chuộc. Ơn Cứu chuộc đến với
chúng ta trước hết nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá[8] , nhưng mầu nhiệm này
được thực hiện qua cả cuộc đời Đức Kitô: ngay trong việc Người Nhập Thể, Người
đã trở nên nghèo để lấy cái nghèo của Người mà làm cho chúng ta nên giàu có[9] ; trong cuộc sống ẩn
dật, Người vâng phục[10] để sửa lại sự bất phục
tùng của chúng ta; khi giảng dạy, lời Người nói thanh tẩy những người nghe[11] ; khi chữa bệnh và trừ
quỷ, “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của
ta” (Mt 8,17)[12] ; khi phục sinh, Người làm cho chúng ta được nên công chính[13].
518. Cả cuộc đời của Đức
Kitô là một mầu nhiệm Quy tụ: tất cả những gì Chúa
Giêsu đã làm, đã nói, và đã chịu đau khổ, đều có mục đích là để phục hồi con
người sa ngã về lại ơn gọi đầu tiên của họ:
“Khi nhập thể và làm
người, Đức Kitô đã quy tụ nơi mình lịch sử lâu dài của nhân loại, và đã đem lại
ơn cứu độ cho chúng ta theo con đường tắt, để những gì xưa kia chúng ta đã mất
nơi Ađam, tức là không còn là hình ảnh và giống như Thiên Chúa nữa, thì nay
chúng ta được nhận lại trong Đức Kitô Giêsu”[14]. “Chính vì thế Đức
Kitô đã trải qua mọi tuổi đời, để cho mọi người lại được hiệp thông với Thiên
Chúa”[15].
Chúng ta hiệp thông với các mầu nhiệm của Chúa Giêsu
519. Mọi sự phong phú của
Đức Kitô là dành cho mọi người và là tài sản của mọi người[16] . Đức Kitô không sống
cho bản thân Người, nhưng cho chúng ta, từ lúc Người nhập thể “vì loài người
chúng ta và để cứu độ chúng ta”[17], cho đến khi Người
chịu chết “vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3) và sống lại “để chúng ta được nên
công chính” (Rm 4,25). Cả bây giờ nữa, Người vẫn là trạng sư của chúng ta
“trước mặt Chúa Cha” (1 Ga 2,1), “vì Người hằng sống để chuyển cầu” cho chúng
ta (Dt 7,25). Với tất cả những gì Người đã sống và đã chịu đựng một lần cho mãi
mãi vì chúng ta, giờ đây Người luôn hiện diện “trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu
cho chúng ta” (Dt 9,24) đến muôn đời.
520. Trong cả cuộc đời của
Người, Chúa Giêsu tỏ mình là mẫu mực của chúng ta[18] : chính Người là “con người hoàn hảo”[19] , Người mời gọi chúng
ta trở nên môn đệ của Người và bước đi theo Người; qua việc tự hạ của Người,
Người ban cho chúng ta một gương mẫu để bắt chước[20] ; qua việc cầu nguyện
của Người, Người lôi kéo chúng ta cầu nguyện[21] ; qua sự nghèo khó của
Người, Người kêu gọi chúng ta tự nguyện chấp nhận sự thiếu thốn và những cơn
bách hại[22] .
521. Tất cả những gì chính
Người đã sống, Đức Kitô làm cho chúng ta được sống những điều đó
trong Người, và Người sống những điều đó trong
chúng ta. “Khi nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã nên một với mọi
người”[23] . Chúng ta được kêu gọi nên một với Người; chính Người làm
cho chúng ta, với tư cách là những chi thể của Thân Thể Người, được hiệp thông
với những gì Người đã sống trong thân thể Người vì chúng ta và nên như mẫu mực
cho chúng ta:
Chúng ta phải tiếp nối
và hoàn thành nơi bản thân chúng ta các giai đoạn của cuộc đời Chúa Giêsu và
các mầu nhiệm của Người, và thường xuyên cầu xin… để Người hoàn tất và kiện toàn
những điều ấy trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người…. Vì Con Thiên
Chúa có ý truyền thông, mở rộng và tiếp tục các mầu nhiệm của Người trong chúng
ta và trong toàn thể Hội Thánh Người,… hoặc bằng các ân sủng Người quyết định
ban cho chúng ta hoặc bằng những hiệu quả Người muốn thực hiện nơi chúng ta qua
các mầu nhiệm ấy. Bằng cách này, Người muốn hoàn tất các mầu nhiệm của Người
trong chúng ta[24] .
II. CÁC MẦU NHIỆM CỦA THỜI THƠ ẤU VÀ CỦA QUÃNG
ĐỜI ẨN DẬT CỦA CHÚA GIÊSU
MYSTERIA INFANTIAE ET
VITAE OCCULTAE IESU
Những sự chuẩn bị
522. Việc Con Thiên Chúa ngự
đến trong thế gian là một biến cố hết sức trọng đại, đến độ Thiên Chúa đã muốn
chuẩn bị cho biến cố đó qua nhiều thế kỷ. Các nghi thức và các hy lễ, các hình
ảnh và các biểu tượng của “Giao Ước Cũ”[25] , tất cả đều được Thiên
Chúa làm cho hội tụ trong Đức Kitô: Chính Ngài loan báo Đức Kitô qua miệng các
Tiên tri kế tiếp nhau ở
523. Thánh Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa[26] , đã được sai đến để
dọn đường[27] . Thánh nhân là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc l,76), trổi
vượt tất cả mọi Tiên tri[28] , và là vị Tiên tri cuối cùng[29] . Thánh nhân khởi đầu
Tin Mừng[30] ; ngay từ trong lòng mẹ đã đón chào Đức Kitô đến[31] , và tìm thấy niềm vui
trong việc được làm “bạn của chú rể” (Ga 3,29), Đấng mà thánh nhân chỉ cho biết
là Chiên “Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga l,29). Thánh nhân đi trước
Chúa Giêsu trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1,17), và làm
chứng cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình
và cuối cùng bằng cuộc tử đạo của mình[32] .
524. Mỗi năm khi cử hành phụng vụ Mùa Vọng, Hội Thánh thể hiện lại niềm mong đợi Đấng
Messia: khi hiệp thông với sự chuẩn bị lâu dài để đón Đấng Cứu độ ngự đến lần
thứ nhất, các tín hữu canh tân lòng sốt sắng đón chờ Người ngự đến lần thứ hai[33] . Khi mừng sinh nhật và
cuộc tử đạo của vị Tiền Hô, Hội Thánh hợp nhất với ước nguyện của thánh nhân:
“Đức Kitô phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Mầu nhiệm Giáng Sinh
525. Chúa Giêsu đã ra đời
trong cảnh bần hàn của chuồng bò lừa, trong một gia đình nghèo[34] ; các mục đồng chất
phác là những chứng nhân đầu tiên của biến cố. Chính trong cảnh nghèo hèn này
mà vinh quang thiên quốc được tỏ lộ[35] . Hội Thánh không ngừng
hoan hỉ hát mừng vinh quang đêm ấy:
“Hôm nay Đức Trinh Nữ
sinh hạ Đấng Hằng Hữu, và thế gian dâng tặng hang đá cho Đấng Chí Tôn. Các
Thiên thần cùng với các mục đồng tôn vinh Người, các đạo sĩ tiến bước theo ánh
sao: bởi vì một Hài Nhi bé nhỏ, là Thiên Chúa vĩnh cửu, đã được sinh ra cho
chúng ta!”[36]
526. “Trở nên trẻ nhỏ” trong
tương quan với Thiên Chúa là điều kiện để vào Nước Trời[37] ; để được vậy, cần phải
tự hạ[38] ,
phải trở nên bé mọn; hơn nữa, còn phải “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”
(Ga 3,7), được sinh ra từ Thiên Chúa[39] để trở nên con cái Thiên Chúa[40] . Mầu nhiệm Giáng Sinh
được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Kitô “được thành hình” nơi chúng ta[41] . Việc Giáng Sinh của
Chúa Giêsu là mầu nhiệm của “việc trao đổi kỳ diệu” này:
“Cuộc trao đổi sao mà
kỳ diệu! Đấng Tạo Hoá của nhân loại, nhận lấy một thân xác có linh hồn, khấng
hạ sinh bởi một Trinh Nữ; khi làm người mà chẳng cần mầm giống nam nhân, Người
đã rộng ban cho chúng ta thần tính của Người”[42] .
Các mầu nhiệm của thời thơ ấu của Chúa Giêsu
527. Việc cắt bì cho Chúa Giêsu, ngày thứ tám sau khi Người ra đời[43] , là dấu chỉ việc Người
được tháp nhập vào dòng dõi của tổ phụ Abraham, vào dân của Giao Ước, là dấu
chỉ sự suy phục Lề luật của Người[44] , của việc Người đến
với phụng tự Israel, nền phụng tự mà Người sẽ tham dự suốt đời Người. Dấu chỉ
này báo trước “phép cắt bì của Đức Kitô”, tức là bí tích Rửa Tội[45] .
528. Hiển Linh là sự tỏ mình ra của Chúa Giêsu, như Đấng Messia của
Israel, là Con Thiên Chúa, và là Đấng Cứu Độ trần gian. Cùng với việc Chúa
Giêsu chịu phép rửa ở sông Jorđanô và với tiệc cưới Cana[46] , lễ này mừng kính việc
“các đạo sĩ” từ phương Đông đến thờ lạy Chúa Giêsu[47] . Nơi các “đạo sĩ” này,
là đại diện cho các tôn giáo lương dân lân cận, Tin Mừng nhận ra những hoa quả
đầu mùa của các dân tộc sẽ đón nhận Tin Mừng cứu độ nhờ mầu nhiệm Nhập Thể.
Việc các đạo sĩ đến Giêrusalem để bái lạy Vua dân Do Thái[48] cho thấy các vị ấy đến Israel, dưới ánh sáng tiên báo Đấng Messia
của ngôi sao Đavid[49] , để tìm kiếm Đấng sẽ là vua của các dân tộc[50] . Việc họ đến có nghĩa
là các dân ngoại chỉ có thể gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Người là Con Thiên
Chúa và là Đấng Cứu độ trần gian, bằng cách hướng về dân Do Thái[51] và nhờ dân ấy mà lãnh nhận lời hứa về Đấng Messia như đã được ghi
chép trong Cựu Ước[52] . Cuộc Hiển Linh cho thấy đông đảo dân ngoại được gia nhập
vào gia đình của các Tổ Phụ[53] , và được hưởng “phẩm giá của
529. Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ[55] cho thấy Người có tư cách là “con đầu lòng” thuộc về Thiên Chúa như
sở hữu riêng của Ngài[56] . Cùng với ông Simêon và bà Anna, toàn thể dân
530. Việc trốn sang Ai Cập và sự kiện tàn sát trẻ vô tội[57] cho thấy sự chống đối của bóng tối đối với ánh sáng: “Người đã đến
nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Cả cuộc đời của Đức
Kitô sẽ được ghi dấu bằng sự bách hại. Những ai thuộc về Người, đều tham dự vào
điều đó với Người[58] . Việc Người rời bỏ Ai Cập để trở về[59] gợi nhớ cuộc Xuất Hành[60] và giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng giải phóng tối hậu.
Các mầu nhiệm của quãng
đời ẩn dật của Chúa Giêsu
531. Phần lớn cuộc đời
Người, Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống
thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một
cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do Thái giáo[61] , một cuộc sống trong
cộng đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mạc khải là Chúa Giêsu đã
vâng phục cha mẹ Người[62] và “ngày càng thêm khôn
ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc
2,52).
532. Sự vâng phục của Chúa
Giêsu đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn
thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự vâng phục con thảo của
Người đối với Cha trên trời của Người. Việc Chúa Giêsu hằng ngày vâng phục
thánh Giuse và Mẹ Maria loan báo và tham dự trước vào sự tuân phục của lời cầu
nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng
phục của Đức Kitô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi
đầu công trình tái tạo những gì mà ông Ađam đã phá huỷ vì bất tuân[63] .
533. Cuộc đời ẩn dật ở
“Ngôi nhà
534. Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ[65] là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về
những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng
thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con
Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con
sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận
lời ấy trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”,
suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình
thường.
III. CÁC MẦU NHIỆM CỦA
QUÃNG ĐỜI CÔNG KHAI CỦA CHÚA GIÊSU
MYSTERIA VITAE PUBLICAE
IESU
Chúa Giêsu chịu phép
rửa
535. Chúa Giêsu khởi đầu[66] quãng đời công khai bằng việc Người chịu phép rửa của ông Gioan tại
sông Giođan[67] . Ông Gioan rao giảng “phép rửa tỏ lòng thống hối để được
ơn tha tội” (Lc 3,3). Đông đảo những người tội lỗi, thu thuế, binh lính[68] , Pharisêu và Sađoc[69] , cùng những cô gái
điếm[70] ,
đến xin ông làm phép rửa. “Bấy giờ Chúa Giêsu đến”. Vị Tẩy Giả ngần ngại, nhưng
Chúa Giêsu yêu cầu: Người chịu phép rửa. Lúc đó, Chúa Thánh Thần, lấy hình chim
bồ câu, ngự xuống trên Chúa Giêsu, và có tiếng phán từ trời: “Đây là Con yêu
dấu của Ta” (Mt 3,l3-l7). Đây là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra (“Hiển Linh”) với
tư cách là Đấng Messia của
536. Phép Rửa của Chúa
Giêsu, về phần Người, là sự chấp nhận và khởi đầu sứ vụ của Người, với tư cách
là Người Tôi Trung Đau Khổ. Người chấp nhận bị liệt vào hàng tội nhân[71] . Chính Người là “Chiên
Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29); nay Người tham dự trước vào
“phép rửa” là cái chết đẫm máu của Người[72] . Người đến để chu toàn
“đức công chính” (Mt 3,l5), nghĩa là, Người hoàn toàn quy phục thánh ý của Cha
Người: vì tình yêu, Người bằng lòng chịu phép rửa là cái chết để chúng ta được
ơn tha thứ tội lỗi[73] . Đáp lại sự chấp nhận ấy, có tiếng của Chúa Cha tuyên bố
Ngài hoàn toàn hài lòng về Con của mình[74] . Chúa Thánh Thần, mà
Chúa Giêsu đã có đầy tràn từ lúc được Người được thụ thai, nay đến để “ở lại”
trên Người[75] . Chúa Giêsu sẽ là nguồn mạch ban Thánh Thần cho toàn thể
nhân loại. Trong phép rửa của Người, “các tầng trời”, mà tội của ông Ađam đã
đóng lại, nay được “mở ra cho Người” (Mt 3,l6); và dòng nước nhờ việc Chúa
Giêsu và Chúa Thánh Thần ngự xuống được thánh hóa, để chuẩn bị cho một công
trình tạo dựng mới.
537. Kitô hữu, nhờ bí tích
Rửa Tội, được đồng hoá một cách bí tích với Chúa Giêsu, Đấng, trong phép rửa
của mình, đã tham dự trước vào cái Chết và sự Sống Lại của mình; họ phải tiến
vào mầu nhiệm của sự khiêm tốn quy phục và thống hối này, bước xuống nước cùng
với Chúa Giêsu để cùng với Người bước lên, và phải được tái sinh bởi nước và
Chúa Thánh Thần để trở nên con yêu dấu của Chúa Cha trong Chúa Con và “sống một
đời sống mới” (Rm 6,4):
“Chúng ta hãy cùng chịu
mai táng với Đức Kitô bằng Phép Rửa, để cùng được phục sinh với Người; hãy cùng
bước xuống với Người, để đồng thời cũng được nâng lên; chúng ta hãy cùng đi lên
với Người, để đồng thời cũng được tôn vinh”[76] .
“Nhờ những gì đã được
hoàn thành nơi Đức Kitô, chúng ta biết rằng: sau khi chúng ta được tẩy rửa
trong nước và Chúa Thánh Thần từ trời ngự xuống trên chúng ta, thì chúng ta
được xức dầu vinh quang thiên quốc và trở thành con cái Thiên Chúa nhờ có tiếng
của Chúa Cha nhận cho làm nghĩa tử”[77] .
Chúa Giêsu chịu cám dỗ
538. Các sách Tin Mừng có
nói đến một thời gian Chúa Giêsu sống cô tịch trong hoang địa, ngay sau khi
Người nhận phép rửa của ông Gioan. “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa” (Mc
1,12) và Chúa Giêsu ở lại đó bốn mươi ngày không ăn; Người sống giữa các dã thú
và các Thiên thần hầu hạ Người.[78] Cuối thời gian này, Satan cám dỗ Người ba lần nhằm đặt vấn đề về
thái độ con thảo của Người đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đẩy lui các cuộc
tấn công này, chúng thu tóm cơn cám dỗ của ông Ađam trong vườn địa đàng và
những cơn cám dỗ của dân Israel trong hoang địa, rồi ma quỷ bỏ Người mà đi,
“chờ đợi thời cơ” (Lc 4,l3).
539. Các tác giả Tin Mừng
nêu rõ ý nghĩa cứu độ của biến cố bí nhiệm này. Chúa Giêsu là Ađam mới, Người
vững lòng trung thành ở chỗ Ađam cũ đã đầu hàng cơn cám dỗ. Chúa Giêsu thực
hiện cách hoàn hảo ơn gọi của dân Israel: trái hẳn với những kẻ xưa kia đã
thách thức Thiên Chúa suốt bốn mươi năm trong hoang địa[79] , Chúa Giêsu được mạc
khải như Người Tôi Trung của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên
Chúa. Trong việc này, Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ: Người đã trói kẻ mạnh và
thu lại tài sản nó đã cướp[80] . Chiến thắng của Chúa Giêsu trước kẻ cám dỗ trong hoang
địa báo trước chiến thắng của cuộc khổ nạn, là sự vâng phục tuyệt đối trong
tình yêu con thảo của Người đối với Chúa Cha.
540. Cám dỗ Chúa Giêsu phải
chịu cho thấy cách thế Con Thiên Chúa là Đấng Messia, trái ngược hẳn điều Satan
xúi giục Người và người ta muốn gán cho Người[81] . Chính vì thế, Đức
Kitô chiến thắng Tên cám dỗ là chiến thắng cho chúng ta: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết
cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương
diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Mỗi năm, qua bốn mươi ngày Mùa Chay, Hội Thánh kết hợp với mầu nhiệm Chúa Giêsu trong hoang địa.
“Nước Thiên Chúa đã đến
gần”
541. “Sau khi ông Gioan bị
nộp, Chúa Giêsu đến miền Galilêa, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói:
‘Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin
vào Tin Mừng’” (Mc 1,14-15). “Để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đức Kitô đã khởi
đầu Nước Trời nơi trần gian”[82]. Và thánh ý Chúa Cha là “nâng loài người lên, cho họ được
dự phần vào sự sống của Thiên Chúa”[83]. Thiên Chúa thực hiện
điều này bằng cách quy tụ người ta quanh Con của Ngài, là Chúa Giêsu Kitô. Cộng
đồng được quy tụ này, chính là Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của
Nước Thiên Chúa” trên trần gian[84].
542. Đức Kitô là trung tâm
của cộng đồng nhân loại này trong “gia đình của Thiên Chúa”. Người triệu tập họ
quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu chỉ biểu lộ Nước Thiên Chúa, bằng việc
sai phái các môn đệ của Người. Người sẽ làm cho Nước Người đến, chủ yếu nhờ mầu
nhiệm cao cả là cuộc Vượt Qua của Người, tức là cái Chết trên thập giá và sự
Sống lại của Người. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ
kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Mọi người đều được mời gọi tham dự vào
sự kết hợp này với Đức Kitô[85].
Chúa Giêsu loan báo
Nước Thiên Chúa
543. Mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa. Nước này của
Đấng Messia trước tiên được loan báo cho con cái
“Lời Chúa được ví như
hạt giống gieo trong ruộng: ai nghe Lời Chúa với đức tin và gia nhập đàn chiên
nhỏ của Đức Kitô, thì đã đón nhận chính Nước Người; rồi do sức của nó, hạt
giống nẩy mầm và lớn lên cho tới mùa gặt”[88] .
544. Nước Thiên Chúa thuộc
về những người nghèo hèn và bé mọn, nghĩa là, những người đón nhận Nước ấy
với tâm hồn khiêm tốn. Đức Kitô được sai đến để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo
hèn” (Lc 4,l8)[89] . Người tuyên bố rằng họ có phúc, “vì Nước Trời là của họ”
(Mt 5,3); Chúa Cha đã thương mạc khải cho những kẻ “bé mọn” này điều Người giấu
không cho bậc khôn ngoan thông thái biết[90] . Chúa Giêsu, từ máng
cỏ cho tới thập giá, đã chia sẻ kiếp sống của những kẻ nghèo hèn; Người đã từng
chịu đói[91] , chịu khát[92] , chịu thiếu thốn[93] . Hơn thế nữa, Người tự
đồng hóa mình với mọi hạng người nghèo hèn và coi lòng yêu thương tích cực đối
với họ là điều kiện để được vào Nước của Người[94] .
545. Chúa Giêsu mời những kẻ tội lỗi vào bàn tiệc Nước Thiên Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người công
chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17)[95] . Người mời gọi họ hối
cải, vì không hối cải thì không thể vào Nước Người, nhưng Người cũng dùng lời
nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót vô biên của Cha Người đối với họ[96] , và “trên trời cũng
thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc l5,7). Bằng
chứng cao cả nhất của tình yêu này, là việc Người dâng hiến mạng sống mình “cho
muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
546. Chúa Giêsu kêu gọi
người ta vào Nước Trời, bằng cách dùng các dụ ngôn, là nét đặc trưng trong
cách giảng dạy của Người[97] . Qua các dụ ngôn, Người mời vào dự tiệc Nước Trời[98] , nhưng Người cũng đòi
phải có một lựa chọn triệt để: để đạt được Nước Trời, cần phải cho đi mọi sự[99] ; lời nói suông không
đủ, cần phải có việc làm[100] . Các dụ ngôn như những tấm gương đối với con
người: họ đón nhận Lời Chúa chỉ như mảnh đất khô khan hay mảnh đất mầu mỡ?[101] Họ làm gì với những nén bạc đã nhận?[102] Chúa Giêsu và sự hiện diện của Nước Trời trong trần gian, một cách
kín đáo, nằm ở trung tâm của các dụ ngôn. Cần phải tiến vào Nước Trời, nghĩa
là, phải trở nên môn đệ Đức Kitô, mới “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt
13,11). Còn đối với những kẻ “ở ngoài” (Mc 4,11), mọi sự đều bí ẩn[103] .
Các dấu chỉ Nước Thiên
Chúa
547. Kèm theo những lời
Người nói, Chúa Giêsu đã làm “những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2,22)
để cho thấy Nước Trời đang hiện diện nơi Người. Chúng chứng tỏ Chúa Giêsu chính
là Đấng Messia đã được tiên báo[104] .
548. Các dấu lạ do Chúa
Giêsu thực hiện minh chứng Chúa Cha đã sai Người đến[105] . Chúng mời gọi ta hãy
tin vào Người[106] . Những ai đến với Người bằng đức tin, đức tin
cho họ được điều họ thỉnh cầu[107] . Lúc đó, các phép lạ
củng cố lòng tin vào Người, Đấng thực hiện các công việc của Cha Người: chúng
chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa[108] . Nhưng chúng cũng có
thể là cớ vấp ngã[109] . Quả vậy, chúng không nhằm thỏa mãn trí tò mò,
và lòng ưa chuộng ma thuật. Bất chấp những phép lạ hết sức tỏ tường của Người,
Chúa Giêsu vẫn bị một số người loại bỏ[110] , thậm chí Người còn bị
tố cáo là hành động nhờ ma quỷ[111] .
549. Khi giải thoát một số
người khỏi những sự dữ đời này như đói khát[112] , bất công[113] , bệnh tật và cái chết[114] , Chúa Giêsu đã thực
hiện các dấu chỉ Người là Đấng Messia. Tuy nhiên, Người không đến để loại trừ
mọi điều xấu khỏi trần gian này[115] , nhưng để giải thoát
con người khỏi ách nô lệ nặng nề nhất, là ách nô lệ của tội lỗi[116] , thứ ách nô lệ này
ngăn cản họ trong ơn gọi của họ là làm con cái Thiên Chúa, và gây ra mọi hình
thức nô lệ giữa con người.
550. Khi Nước Thiên Chúa trị
đến là lúc nước Satan bị sụp đổ[117] : “Nếu tôi dựa vào Thần
Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các
ông” (Mt l2,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giêsu thực hiện, giải phóng người
ta khỏi quyền thống trị của ma quỷ[118] . Những việc ấy báo
trước sự chiến thắng cao cả của Chúa Giêsu trên “thủ lãnh thế gian này”[119] . Nhờ thập giá của Đức
Kitô mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ
cây gỗ”[120] .
“Chìa khóa Nước Trời”
551. Chúa Giêsu, khi khởi
đầu đời sống công khai của Người, đã chọn Nhóm Mười Hai người đàn ông để các
ông ở với Người và tham dự vào sứ vụ của Người[121] . Người cho các ông
tham dự vào quyền hành của Người và “sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa
và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2). Các ông được liên kết vĩnh viễn với Nước của
Đức Kitô, bởi vì Người sẽ dùng các ông mà điều khiển Hội Thánh:
“Thầy sẽ trao Vương
Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống
với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Israel”
(Lc 22,29-30).
552. Trong nhóm Mười Hai,
ông Simon Phêrô giữ địa vị thứ nhất[122] ; Chúa Giêsu ủy thác
cho ông một sứ vụ độc đáo. Nhờ Chúa Cha mạc khải, ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Lúc đó Chúa chúng ta liền
tuyên bố với ông: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ
xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt l6,l8).
Đức Kitô, “Viên đá sống động”[123] , bảo đảm rằng Hội
Thánh mà Người xây dựng trên Tảng Đá Phêrô sẽ chiến thắng quyền lực tử thần.
Nhờ đức tin ông đã tuyên xưng, ông Phêrô sẽ mãi là Tảng Đá kiên vững của Hội
Thánh. Ông có sứ vụ gìn giữ đức tin được toàn vẹn và làm cho các anh em mình
nên vững mạnh trong đức tin[124] .
553. Chúa Giêsu ủy thác cho
ông Phêrô một thẩm quyền đặc biệt: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời;
dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh
tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Quyền chìa
khoá” là quyền cai quản Nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh. Chúa Giêsu, “Mục
Tử nhân lành” (Ga 10,11) xác nhận nhiệm vụ đó sau khi Người phục sinh: “Hãy
chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa
là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định
về kỷ luật trong Hội Thánh. Chúa Giêsu ủy thác quyền này cho Hội Thánh qua thừa
tác vụ của các Tông Đồ[125] , và đặc biệt của ông Phêrô, người duy nhất
Chúa minh nhiên trao phó chìa khóa Nước Trời.
Nếm trước Nước Trời:
Chúa Hiển Dung
554. Từ ngày ông Phêrô tuyên
xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu “bắt đầu tỏ
cho các môn đệ biết, Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ…, rồi bị
giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Ông Phêrô khước từ lời loan
báo đó[126] ,
các môn đệ khác cũng không hiểu gì hơn[127] . Chính trong bối cảnh
này, đã xảy ra biến cố kỳ diệu là cuộc Hiển Dung của Chúa Giêsu[128] trên núi cao, trước mặt ba nhân chứng do Người lựa chọn, là các ông
Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dung mạo và y phục của Chúa Giêsu trở nên chói sáng,
ông Môisen và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người, “nói về cuộc xuất hành Người
sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Một đám mây bao phủ các Ngài và có
tiếng từ trời phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe
lời Người” (Lc 9,35).
555. Chúa Giêsu tỏ lộ vinh
quang thần linh của mình trong chốc lát, và như vậy Người xác nhận lời tuyên
xưng của ông Phêrô. Người cũng cho thấy rằng, để “vào trong vinh quang của
Người” (Lc 24,26), Người phải đi qua thập giá tại Giêrusalem. Ông Môisen
và ông Êlia đã thấy vinh quang của Thiên Chúa trên núi; Lề luật và các Tiên tri
đã tiên báo những đau khổ của Đấng Messia[129] . Cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu đúng là do ý muốn của Chúa Cha: Chúa Con hành động với tư cách là Người
Tôi Trung của Thiên Chúa[130] . Đám mây nói lên sự hiện diện của Chúa Thánh
Thần: “Cả Ba Ngôi cùng xuất hiện, Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong nhân
tính của mình, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói”[131] :
“Lạy Chúa Kitô là Thiên
Chúa, Chúa đã hiển dung trên núi và, tuỳ theo khả năng, các môn đệ Chúa chiêm
ngưỡng vinh quang Chúa, để mai sau khi thấy Chúa chịu đóng đinh thập giá, họ
hiểu rằng Chúa đã tự nguyện chịu khổ hình. Rồi họ sẽ loan báo cho thế giới biết
Chúa chính là vinh quang Chúa Cha chiếu toả”[132] .
556. Tại ngưỡng cửa đời sống
công khai: phép rửa; tại ngưỡng cửa cuộc Vượt Qua: biến cố Hiển Dung. Qua phép
rửa của Chúa Giêsu, “mầu nhiệm cuộc tái sinh lần thứ nhất” được loan báo: đó là
bí tích Rửa Tội của chúng ta; Hiển Dung là “bí tích của cuộc tái sinh lần thứ hai”:
đó là sự phục sinh riêng của chúng ta.[133] Ngay từ bây giờ, chúng ta được tham dự vào sự phục sinh của Chúa,
nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong các bí tích của Thân Thể Chúa Kitô.
Biến cố Hiển Dung cho chúng ta được nếm trước việc ngự đến trong vinh quang của
Chúa Kitô, Đấng “sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác
vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Nhưng biến cố ấy cũng nhắc nhở chúng ta
rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa”
(Cv 14,22).
“Khi ông Phêrô ước ao
sống với Đức Kitô trên núi, ông chưa hiểu gì[134] . Hỡi ông Phêrô, Chúa
sẽ chỉ dành cho ông điều đó, sau khi chết. Còn hiện nay thì Chúa nói: Hãy xuống
núi để chịu lao nhọc ở trần gian, để phục vụ ở trần gian, để chịu sỉ nhục, chịu
đóng đinh ở trần gian. Đấng là Sự Sống, đã xuống để bị giết; Đấng là Bánh, đã
xuống để chịu đói; Đấng là Đường, đã xuống để chịu mệt nhọc trên đường; Đấng là
Nguồn Mạch, đã xuống để chịu khát; còn ông lại từ chối lao nhọc ư?”[135] .
Chúa Giêsu lên
Giêrusalem
557. “Khi đã tới ngày Chúa
Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9,5l)[136] . Qua quyết định này,
Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người lên Giêrusalem trong tư thế sẵn sàng để chịu chết
ở đó. Người đã loan báo đến ba lần cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Người[137] . Khi tiến về
Giêrusalem, Người nói: “Một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không
được!” (Lc l3,33).
558. Chúa Giêsu gợi lại cái
chết của các Tiên tri, đã bị giết ở Giêrusalem[138] . Dù sao, Người vẫn
khẩn khoản kêu gọi Giêrusalem quy tụ quanh Người: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp
con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu”
(Mt 23,37b). Khi nhìn thấy Giêrusalem, Người khóc thương thành ấy[139] và một lần nữa thốt lên ao ước của lòng Người: “Phải chi ngày hôm
nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ điều
ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được” (Lc 19,42).
Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem với tư cách là Đấng Messia
559. Giêrusalem sẽ đón nhận
Đấng Messia của mình như thế nào? Chúa Giêsu, Đấng luôn trốn tránh mọi ý đồ của
dân chúng muốn tôn Người làm vua[140] , đã chọn thời điểm và
chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến vào Giêrusalem, thành của “Đavid, tổ tiên Người” (Lc
l,32) với tư cách là Đấng Messia[141] . Người được dân chúng
hoan hô như con vua Đavid, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosanna có nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức Vua vinh
hiển” (Tv 24,7-l0) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào thành: Người
không chinh phục Thiếu nữ Sion, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng mưu mẹo hay
bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự thật[142] . Vì vậy, ngày hôm đó,
thần dân của Nước Người là các trẻ em[143] và “những người nghèo của Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như
các Thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng[144] . Lời tung hô của họ:
“Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội Thánh dùng lại
trong kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể tưởng niệm cuộc
Vượt Qua của Chúa.
560. Việc Chúa Giêsu tiến
vào thành Giêrusalem tỏ cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến. Sự kiện đó, Đức Vua
Messia sắp hoàn thành bằng cuộc Vượt Qua, là sự Chết và sự Sống lại của Người.
Phụng vụ Hội Thánh khởi đầu Tuần Thánh bằng việc cử hành biến cố Chúa Giêsu
tiến vào Giêrusalem, trong Chúa Nhật Lễ Lá.
TÓM LƯỢC
561. “Cả cuộc đời của Đức Kitô là một giáo huấn liên tục: những lúc
Người thinh lặng, các dấu lạ Người làm, việc Người cầu nguyện, tấm lòng yêu
thương của Người đối với con người, sự quan tâm đặc biệt của Người đối với
những người bé mọn và nghèo hèn, việc Người hoàn toàn chấp nhận hiến mình trên
thập giá để cứu chuộc loài người, và cuối cùng việc Người sống lại, tất cả là
sự thực hiện lời Người và sự hoàn tất Mạc Khải của Người”[145] .
562. Các môn đệ Đức Kitô phải nên giống Người cho tới khi Người được
thành hình trong họ[146] . “Chúng ta được
thâu nhận vào các mầu nhiệm của cuộc đời Người, nên đồng hình đồng dạng với
Người, cùng chết và cùng sống lại với Người, cho tới khi cùng cai trị với
Người”[147] .
563. Con người, hoặc mục đồng hoặc đạo sĩ, không thể gặp được Thiên Chúa
ở trần gian này, nếu không quỳ xuống trước máng cỏ Bêlem và thờ lạy Thiên Chúa
ẩn mình trong sự yếu đuối của một hài nhi.
564. Chúa Giêsu, qua việc tuân phục Đức Maria và thánh Giuse, và qua
việc lao động khiêm nhường trong những năm dài ở
565. Chúa Giêsu, ngay từ lúc khởi đầu đời sống công khai của Người, lúc
Người chịu phép rửa, là “Người Tôi Trung” hoàn toàn hiến thân cho công trình
Cứu Độ, công trình này sẽ được hoàn tất trong “phép rửa” là cuộc khổ nạn của
Người.
566. Các cơn cám dỗ trong hoang địa cho thấy Chúa Giêsu, Đấng Messia
khiêm nhường, đã chiến thắng Satan nhờ việc Người gắn bó trọn vẹn với kế hoạch
cứu độ theo ý muốn của Chúa Cha.
567. Đức Kitô đã khai mạc Nước Trời nơi trần gian. “Thật sự, Nước này
chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa
Kitô”[148] . Hội Thánh là hạt
giống và điểm khởi đầu của Nước Trời. Chìa khóa Nước Trời được trao cho ông
Phêrô.
568. Cuộc Hiển Dung của Chúa Kitô nhằm mục đích củng cố đức tin của các
Tông Đồ để chuẩn bị cho cuộc khổ nạn: việc leo lên “núi cao” chuẩn bị cho việc
leo lên đồi Calvariô. Đức Kitô, Đầu của Hội Thánh, biểu lộ điều Thân Thể Người
ao ước và là điều được phản ánh trong các bí tích: đó là “niềm hy vọng đạt tới
vinh quang” (Cl 1,27)[149] .
569. Chúa Giêsu tự nguyện lên Giêrusalem dù biết rằng tại đây Người sẽ
phải chết cách khổ nhục vì sự thù nghịch của những kẻ tội lỗi[150] .
570. Việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem cho thấy Nước Trời đang
đến. Đức Vua Messia, mà trẻ em và những người có tâm hồn nghèo hèn nghênh đón,
sẽ hoàn thành Nước Trời bằng cuộc Vượt Qua, là cái Chết và sự Sống lại của
Người.
[1] X. Ga 20,30.
[2] X. Mc 1,1; Ga 21,24.
[3] X. Lc 2,7.
[4] X. Mt 27,48.
[5] X. Ga 20,7.
[6] X. Dt 10,5-7.
[7] X. 1 Ga 4,9.
[8] X. Ep 1,7; Cl 1,13-14
(Vulgata); 1 Pr 1,18-19.
[9] X. 2 Cr 8,9.
[10] X. Lc 2,51.
[11] X. Ga 15,3.
[12] X. Is 53,4.
[13] X. Rm 4,25.
[14] Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 18, 1: SC 211, 342-344 (PG 7, 932).
[15] Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 18, 7: SC 211, 366 (PG 7, 937); x.
[16] X. ĐGH Gioan Phaolô II,
Thông điệp Redemptor hominis, 11: AAS 71 (1979) 278.
[17] Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli: DS 150.
[18] X. Rm 15,5; Pl 2,5.
[19] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 38: AAS 58 (1966) 1055.
[20] X. Ga 13,15.
[21] X. Lc 11,1.
[22] X. Mt 5,11-12.
[23] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
[24] Thánh Gioan Eudes, Le royaume de Jésus, 3,4: Oeuvres complètes, v.1 (Vannes 1905)
310-311.
[25] X. Dt 9,15.
[26] X. Cv 13,24.
[27] X. Mt 3,3.
[28] X. Lc 7,26.
[29] X. Mt 11,13.
[30] X. Cv 1,22; Lc 16,16.
[31] X. Lc 1,41.
[32] X. Mc 6,17-29.
[33] X. Kh 22,17.
[34] X. Lc 2,6-7.
[35] X. Lc 2,8-20.
[36] Thánh Rômanô Mêlôđô,Kontakion, 10, In diem Nativitatis Christi, Prooemium: SC 110, 50.
[37] X. Mt 18,3-4.
[38] X. Mt 23,12.
[39] X. Ga 1,13.
[40] X. Ga 1,12.
[41] X. Gl 4,19.
[42] X. Lễ trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Điệp Ca Kinh Chiều I
và II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis
Vaticanis 1973) 385 và 397.
[43] X. Lc 2,21.
[44] X. Gl 4,4.
[45] X. Cl 2,11-13.
[46] X. Lễ trọng mừng Chúa Hiển Linh, Điệp Ca kinh “Magnificat”, Kinh Chiều
II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis
Vaticanis 1973) 465.
[47] X. Mt 2,1.
[48] X. Mt 2,2.
[49] X. Ds 24,17; Kh 22,16.
[50] X. Ds 24,17-19.
[51] X. Ga 4,22.
[52] X. Mt 2,4-6.
[53] X. Thánh Lêô Cả, Sermo 33, 3: CCL 138, 173 (PL 54, 242).
[54] Canh thức Vượt Qua, Lời nguyện sau bài đọc thứ III: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 277.
[55] X. Lc 2,22-39.
[56] X. Xh 13,12-13.
[57] X. Mt 2,13-18.
[58] X. Ga 15,20.
[59] X. Mt 2,15.
[60] X. Os 11,1.
[61] X. Gl 4,4.
[62] X. Lc 2,51.
[63] X. Rm 5,19.
[64] ĐGH Phaolô VI, Homilia in templo Annuntiationis beatae Mariae Virginis in
[65] X. Lc 2,41-52.
[66] X. Lc 3,23.
[67] X. Cv 1,22.
[68] X. Lc 3,10-14.
[69] X. Mt 3,7.
[70] X. Mt 21,32.
[71] X. Is 53,12.
[72] X. Mc 10,38; Lc 12,50.
[73] X. Mt 26,39.
[74] X. Lc 3,22; Is 42,1.
[75] X. Ga 1,32-33; Is 11,2.
[76] Thánh Grêgôriô Nazianzênô, Oratio 40, 9: SC 358, 216 (PG 36, 369).
[77] Thánh Hilariô, In evangelium Matthaei, 2, 6: SC 254, 110 (PL
9, 927).
[78] X. Mt 1,13.
[79] X. Tv 95,10.
[80] X. Mc 3,27.
[81] X. Mt 16,21-23.
[82] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
[83] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 5-6.
[84] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.
[85] X. CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
[86] X. Mt 10,5-7.
[87] X. Mt 8,11; 28,19.
[88] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.
[89] X. Lc 7,22.
[90] X. Mt 11,25.
[91] X. Mc 2,23-26; Mt
21,18.
[92] X. Ga 4,6-7; 19,28.
[93] X. Lc 9,58.
[94] X. Mt 25,31-46.
[95] X. 1 Tm 1,15.
[96] X. Lc 15,11-32.
[97] X. Mc 4,33-34.
[98] X. Mt 22,1-14.
[99] X. Mt 13,44-45.
[100] X. Mt 21,28-32.
[101] X. Mt 13,3-9.
[102] X. Mt 25,14-30.
[103] X. Mt 13,10-15.
[104] X. Lc 7,18-23.
[105] X. Ga 5,36; 10,25.
[106] X. Ga 10,38.
[107] X. Mc 5,25-34; 10,52.
[108] X. Ga 10,31-38.
[109] X. Mt 11,6.
[110] X. Ga 11,47-48.
[111] X. Mc 3,22.
[112] X. Ga 6,5-15.
[113] X. Lc 19,8.
[114] X. Mt 11,5.
[115] X. Lc 12,13-14; Ga
18,36.
[116] X. Ga 8,34-36.
[117] X. Mt 12,26.
[118] X. Lc 8,26-39.
[119] X. Ga 12,31.
[120] Vênantiô Fortunatô, Hymnus “Vexilla Regis”: MGH 1/4/1, 34 (PL 88, 96).
[121] X. Mc 3,13-19.
[122] X. Mc 3,16; 9,2; Lc
24,34; 1 Cr 15,5.
[123] X. 1 Pr 2,4.
[124] X. Lc 22,32.
[125] X. Mt 18,18.
[126] X. Mt 16,22-23.
[127] X. Mt 17,23; Lc 9,45.
[128] X. Mt 17,1-8; 2 Pr
1,16-18.
[129] X. Lc 24,27.
[130] X. Is 42,1.
[131] Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 45, a. 4, ad
2: Ed.
[132] Phụng vụ Byzantin. Kontakion in die Transfigurationis: Menaia tou olou eniautou, v. 6 (Romae 1901) 341.
[133] Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 45, a. 4, ad
2: Ed.
[134] X. Lc 9,23.
[135] Thánh Augustinô, Sermo 78, 6: PL 38, 492-493.
[136] X. Ga 13,1.
[137] X. Mc 8,31-33; 9,31-32;
10,32-34.
[138] X. Mt 23,37a.
[139] X. Lc 19,41.
[140] X. Ga 6,15.
[141] X. Mt 21,1-11.
[142] X. Ga 18,37.
[143] X. Mt 21,15-16; Tv 8,3.
[144] X. Lc 19,38; 2,14.
[145] ĐGH Gioan Phaolô II,
Tông huấn Catechesi tradendae, 9: AAS 71 (1979) 1284.
[146] X. Gl 4,19.
[147] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
[148] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.
[149] X. Thánh Lêô Cả, Sermo 51, 3: CCL 138A, 298-299 (PL 54, 310).
[150] X. Dt 12,3.