SÁCH GIÁO LÝ HỘI
THÁNH CÔNG GIÁO - TIẾT 3 : HỘI THÁNH DUY NHẤT,
THÁNH THIỆN, CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN
(giaolyductin. net)
Tiết 3
Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công
giáo và tông truyền
Paragraphus 3
Ecclesia est una,
sancta, catholica et apostolica
811. “Đây là Hội Thánh duy nhất của Đức
Kitô, mà trong Tín biểu chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo
và tông truyền”[1]. Bốn đặc tính này nối kết với nhau
một cách không thể tách biệt[2], và nêu rõ những nét căn
bản của Hội Thánh và của sứ vụ của Hội Thánh. Hội Thánh không tự mình có các
thuộc tính ấy; Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần, đã làm cho Hội Thánh được duy
nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền, và cũng chính Người kêu gọi Hội
Thánh hãy thực hiện từng điều trong các đặc tính đó.
812. Chỉ đức tin mới có thể nhận biết
rằng Hội Thánh có các đặc tính này từ nguồn mạch thần linh. Nhưng những biểu
hiện lịch sử của các đặc tính đó cũng là những dấu chỉ nói lên cách rõ ràng
trước lý trí nhân loại. Công đồng Vaticanô I nhắc lại: “Bởi sự thánh thiện trổi
vượt, … sự hợp nhất công giáo và sự vững bền không gì thắng nổi của mình, Hội
Thánh tự mình đã là một lý do quan trọng và thường xuyên về tính khả tín, và là
một bằng chứng không thể phi bác về sứ vụ thần linh của mình”[3].
I. HỘI THÁNH DUY NHẤT
ECCLESIA EST UNA
“Mầu nhiệm thánh thiêng của tính duy nhất của Hội Thánh”[4]
813. Hội Thánh là duy nhất vì nguồn
mạch của mình: “Khuôn mẫu mực tối cao và nguyên lý
của mầu nhiệm này, là sự hợp nhất trong Ba Ngôi của Thiên Chúa duy nhất là Chúa
Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần”[5]. Hội Thánh là
duy nhất vì Đấng Sáng Lập của
mình: “Quả thật, chính Chúa Con nhập thể … đã nhờ cây thập giá của
mình mà giao hoà mọi người với Thiên Chúa … tái lập sự hợp nhất mọi người trong
một dân tộc và một thân thể”[6]. Hội Thánh là duy nhất vì “linh hồn” của mình: “Chúa Thánh
Thần, Đấng ngự trong các tín hữu, đầy tràn và điều khiển toàn Hội Thánh, làm
cho các tín hữu hiệp thông với nhau cách kỳ diệu và kết hợp tất cả trong Đức
Kitô cách rất mật thiết, cho nên Ngài là nguyên lý của sự hợp nhất của Hội
Thánh”[7]. Vì vậy, theo bản chất, Hội Thánh là duy nhất:
“Ôi mầu nhiệm lạ lùng thay! Có Chúa Cha duy nhất của vũ trụ, có
Ngôi Lời duy nhất của vũ trụ, và Chúa Thánh Thần duy nhất, và chính Ngài ở khắp
nơi. Cũng có một người Mẹ Đồng Trinh duy nhất; mà tôi thích gọi người mẹ đó là
Hội Thánh”[8].
814. Tuy nhiên, ngay từ khởi đầu, Hội
Thánh duy nhất đó cho thấy mình rất đa dạng, điều này vừa xuất phát từ những
hồng ân khác nhau của Thiên Chúa đồng thời vừa từ vô số những người lãnh nhận
các hồng ân đó. Những đa dạng của các dân tộc và các nền văn hoá được quy tụ
thành sự duy nhất của dân Thiên Chúa. Giữa các phần tử của Hội Thánh có sự đa
dạng về các hồng ân, các chức năng, các hoàn cảnh và các cách sống; “trong sự
hiệp thông của Hội Thánh, có sự hiện diện cách chính đáng của các Giáo Hội địa
phương với những truyền thống riêng”[9]. Những phong phú
lớn lao của sự đa dạng này không nghịch lại tính duy nhất của Hội Thánh. Tuy
nhiên tội lỗi và những hậu quả nặng nề của nó không ngừng đe doạ hồng ân là sự
duy nhất. Vì vậy thánh Tông Đồ đã khuyên phải duy trì “sự hợp nhất mà Thần Khí
đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4,3).
815. Những mối dây của sự duy nhất
này là gì? Trên hết mọi sự, đó là đức mến, là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl
3,l4). Nhưng sự duy nhất của Hội Thánh lữ hành cũng được nâng đỡ bằng những mối
dây hiệp thông hữu hình:
– Nhờ việc tuyên xưng một đức tin duy nhất đã tiếp nhận từ các Tông
Đồ;
– Nhờ sự cử hành chung việc phượng tự thần linh, nhất là các bí
tích;
– Nhờ sự kế nhiệm tông truyền qua bí tích Truyền Chức Thánh, điều
này duy trì sự hòa hợp huynh đệ của gia đình Thiên Chúa[10].
816. “Đây là Hội Thánh duy nhất của
Đức Kitô, … mà Đấng Cứu Độ chúng ta, sau khi Người phục sinh, đã trao cho ông
Phêrô chăn dắt, và truyền cho ông và các tông đồ khác phải truyền bá và cai
quản…. Được thiết lập trên trần gian như một xã hội có phẩm trật, Hội Thánh ấy
tồn tại trong (subsistit
in) Hội Thánh Công giáo, do Vị kế nhiệm thánh Phêrô và các Giám mục
hiệp thông với ngài điều khiển”[11].
Sắc lệnh về Đại Kết (de Oecumenismo) của Công đồng Vaticanô II giải
thích: “Quả vậy, nhờ Hội Thánh duy nhất công giáo của Đức Kitô, là sự trợ giúp
thông thường của ơn cứu độ, người ta có thể đạt được cách viên mãn các phương
tiện cứu độ. Thật sự, chúng tôi tin, Chúa đã ủy thác tất cả sản nghiệp Tân Ước
cho riêng Tông Đồ Đoàn do thánh Phêrô lãnh đạo, để tạo thành một Thân Thể duy
nhất của Đức Kitô nơi trần thế; tất cả những ai thuộc về dân Thiên Chúa một
cách nào đó, đều phải được tháp nhập một cách đầy đủ vào Thân Thể này”[12].
Những vết thương của sự duy nhất
817. Thật ra, “trong Hội Thánh duy
nhất và độc nhất này của Thiên Chúa, ngay từ buổi sơ khai, đã xuất hiện một số
rạn nứt mà thánh Tông Đồ đã nặng lời khiển trách là đáng lên án. Trong những
thế kỷ sau đó, còn phát sinh những xung đột trầm trọng hơn và những cộng đoàn
không nhỏ đã tách biệt khỏi sự hiệp thông đầy đủ với Hội Thánh Công giáo, có
khi không phải không do lỗi của những người ở cả hai bên[13].
Những sự đoạn tuyệt, làm tổn thương sự duy nhất của Thân Thể Đức Kitô (được
phân biệt là lạc giáo, bội giáo và ly giáo)[14], đã xảy
ra do tội lỗi của con người:
“Ở đâu có tội lỗi, ở đó có lộn xộn, ly giáo, lạc giáo, và xung đột;
còn ở đâu có nhân đức, ở đó có sự duy nhất, sự kết hợp, nhờ đó tất cả các tín
hữu chỉ có một trái tim, và một linh hồn”[15].
818. Ngày nay những người sinh ra
trong các cộng đoàn phát sinh từ những cuộc ly khai ấy “và đang sống đức tin
vào Đức Kitô, không thể bị tố cáo về tội chia rẽ, và Hội Thánh Công giáo quý
mến họ với lòng tôn trọng và yêu thương huynh đệ…. Được công chính hóa bởi đức
tin trong bí tích Rửa Tội, họ được tháp nhập vào Đức Kitô, và vì vậy họ có
quyền mang danh Kitô hữu, và xứng đáng được con cái của Hội Thánh Công giáo
nhìn nhận là anh em trong Chúa”[16].
819. Hơn nữa, “nhiều yếu tố của sự
thánh hóa và của chân lý”[17] hiện hữu bên ngoài những giới hạn hữu
hình của Hội Thánh Công giáo: “Lời Chúa bằng văn tự, đời sống trong ân sủng,
đức tin, đức cậy, đức mến, và những hồng ân nội tâm khác của Chúa Thánh Thần
cùng những yếu tố hữu hình”[18]. Thần Khí của Đức Kitô
dùng những Giáo Hội và những cộng đoàn giáo hội đó như những phương tiện cứu
độ, sức mạnh của những phương tiện này xuất phát từ sự sung mãn của ân sủng và
của chân lý mà Đức Kitô đã giao phó cho Hội Thánh Công giáo. Tất cả những điều
thiện hảo đó đều xuất phát từ Đức Kitô và dẫn đến Người[19],
và tự chúng là lời kêu gọi tiến đến “sự hợp nhất phổ quát”[20].
Trên đường tiến đến hợp nhất
820. “Đức Kitô từ ban đầu đã rộng ban
cho Hội Thánh ơn hợp nhất. Chúng tôi tin rằng sự hợp nhất ấy tồn tại mãi trong
Hội Thánh Công Giáo và chúng tôi hy vọng sự hợp nhất ngày càng phát triển cho
đến ngày tận thế”[21]. Đức Kitô vẫn luôn luôn ban cho
Hội Thánh ơn hợp nhất, nhưng Hội Thánh phải luôn luôn cầu nguyện và hành động
để duy trì, tăng cường và hoàn chỉnh sự hợp nhất như Đức Kitô muốn. Vì thế,
chính Chúa Giêsu cầu nguyện trong giờ khổ nạn và không ngừng cầu xin Chúa Cha
cho các môn đệ được hợp nhất: “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai
Con” (Ga l7,2l). Lòng ao ước lập lại sự hợp nhất của tất cả các Kitô hữu là một
hồng ân của Đức Kitô và một lời kêu gọi của Chúa Thánh Thần[22].
821. Để đáp lại lời kêu gọi hợp nhất
của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh cần:
– canh tân thường
xuyên để ngày càng trung thành hơn với ơn gọi của mình; sự canh tân này là động
lực của phong trào hợp nhất[23].
– hối cải tận đáy lòng ”để sống phù hợp hơn với Tin
Mừng”[24], vì chính sự bất trung với ân sủng của Đức
Kitô là nguyên nhân gây chia rẽ giữa các chi thể;
– cầu nguyện chung, vì “sự hối cải tận
đáy lòng và sự thánh thiện trong đời sống, cùng với những lời kinh chung và
riêng cầu cho sự hợp nhất các Kitô hữu, phải được coi như là linh hồn của mọi phong
trào đại kết và có thể xứng đáng được mệnh danh là sự đại kết trong tinh thần”[25];
– hiểu biết nhau
trong tình huynh đệ[26];
– đào tạo tinh thần đại kết cho các tín hữu và nhất là cho
các linh mục[27];
– đối thoại giữa các nhà thần học và gặp gỡ giữa
các Kitô hữu của các Giáo Hội và các cộng đoàn khác nhau[28];
– hợp tác giữa các Kitô hữu trong các
lãnh vực khác nhau để phục vụ con người[29].
822. “Toàn thể Hội Thánh, tín hữu
cũng như mục tử, đều có bổn phận quan tâm đến việc tái lập sự hợp nhất”[30]. Nhưng cũng cần ý thức rằng “ý nguyện thánh thiện
muốn giao hoà toàn thể Kitô hữu trong sự hợp nhất của Hội Thánh duy nhất và độc
nhất của Đức Kitô, vượt quá sức lực và khả năng loài người”. Vì thế, chúng ta
đặt hết hy vọng “vào lời Đức Kitô cầu nguyện cho Hội Thánh, vào tình thương của
Chúa Cha đối với chúng ta và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần”[31].
II. HỘI THÁNH THÁNH THIỆN
ECCLESIA EST
SANCTA
823. “Chúng tôi tin Hội Thánh … mãi
mãi thánh thiện. Thật vậy, Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cùng với Chúa Cha và
Chúa Thánh Thần được ca tụng là ‘Đấng Thánh duy nhất’, đã yêu dấu Hội Thánh như
Hiền Thê của mình, và đã tự hiến vì Hội Thánh, để thánh hóa Hội Thánh, và kết
hợp Hội Thánh với mình như Thân Thể của mình, và ban cho dư đầy hồng ân của
Chúa Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa”[32]. Vì
vậy Hội Thánh là “dân thánh của Thiên Chúa”[33] và các phần tử của Hội Thánh được gọi
là “các Thánh”[34].
824. Hội Thánh, nhờ kết hợp với Đức
Kitô, được chính Người thánh hóa; nhờ Người và trong Người, Hội Thánh cũng có khả năng thánh hóa: “Tất cả các công
việc của Hội Thánh đều hướng về mục đích là thánh hóa con người trong Đức Kitô
và tôn vinh Thiên Chúa”[35]. Hội Thánh được giao cho “đầy
đủ các phương tiện cứu độ”[36]. Trong Hội Thánh, “chúng
ta đạt đến sự thánh thiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa”[37].
825. “Hội Thánh nơi trần thế được ghi
dấu đặc biệt bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa trọn hảo”[38]. Các chi thể của Hội Thánh còn phải đạt tới sự thánh
thiện trọn hảo: “Được ban cho những phương tiện cứu độ dồi dào và cao cả như
thế, tất cả các Kitô hữu, dù trong hoàn cảnh và bậc sống nào, mỗi người trong
con đường của mình, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự thánh thiện trọn hảo như
Chúa Cha là Đấng trọn hảo”[39].
826. Đức mến là linh hồn của sự thánh thiện mà mọi người được kêu gọi đạt tới: “Đức
mến hướng dẫn, hình thành và đưa tới mục đích, tất cả các phương tiện thánh hoá”[40]:
“Tôi hiểu rằng nếu Hội Thánh là một thân thể gồm những bộ phận khác
nhau, thì không thể thiếu bộ phận cần thiết nhất và cao quý nhất; tôi hiểu rằng
Hội Thánh có một trái tim và trái tim ấy bừng cháy Tình Yêu. Tôi hiểu rằng chỉ
có Tình Yêu khiến các chi thể của Hội Thánh hoạt động, nếu Tình Yêu bị tàn lụi,
thì các Tông Đồ sẽ không loan báo Tin Mừng nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối đổ máu
mình ra…. Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao gồm nơi mình tất cả các Ơn Gọi, Tình Yêu
là mọi sự, và Tình Yêu bao trùm khắp không gian và thời gian… tắt một lời, Tình
Yêu thì vĩnh cửu”[41].
827. “Trong khi Đức Kitô thật sự là
Đấng ‘thánh thiện, vô tội, tinh tuyền’, không hề biết đến tội, nhưng đến để đền
các tội riêng của dân, thì, vì mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vừa thánh
thiện vừa phải luôn được thanh tẩy, Hội Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và
canh tân”[42]. Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả
các thừa tác viên, đều phải nhận mình là kẻ tội lỗi[43].
Trong tất cả mọi người, cỏ lùng của tội lỗi còn lẫn lộn với lúa tốt của Tin
Mừng cho đến tận thế[44]. Vì vậy, Hội Thánh quy tụ
những người tội lỗi đã được lãnh nhận ơn cứu độ của Đức Kitô, nhưng còn đang
trên đường thánh hóa:
Vì vậy, Hội Thánh “thánh thiện, dù mang trong lòng mình những người
tội lỗi; bởi vì Hội Thánh không có sự sống nào khác ngoài sự sống của ân sủng;
quả thật, nếu các chi thể của Hội Thánh được nuôi dưỡng bằng sự sống này, thì
họ được thánh hoá, nếu họ tách mình khỏi sự sống này, thì họ rơi vào tội lỗi và
các xấu xa của tâm hồn, những điều đó ngăn cản không cho sự thánh thiện rạng
ngời của Hội Thánh được lan toả. Vì vậy, Hội Thánh chịu đau khổ và thống hối vì
những tội lỗi đó, tuy có quyền giải thoát các con cái mình khỏi tội lỗi nhờ Máu
Đức Kitô và hồng ân của Chúa Thánh Thần”[45].
828. Khi phong thánh cho một số tín
hữu, nghĩa là khi long trọng tuyên bố những tín hữu này đã thực hành các nhân
đức một cách anh dũng và đã sống trung thành với ân sủng của Thiên Chúa, Hội
Thánh nhìn nhận quyền năng của Thần Khí thánh thiện đang ngự nơi mình và Hội
Thánh nâng đỡ niềm hy vọng của các tín hữu khi đưa các thánh làm gương mẫu và
làm người chuyển cầu cho họ[46]. “Trong những hoàn cảnh
khó khăn nhất suốt dòng lịch sử Hội Thánh, các Thánh nam nữ luôn là nguồn mạch
và là khởi điểm của sự canh tân”[47]. “Quả thật, sự
thánh thiện của Hội Thánh là nguồn mạch bí ẩn và là thước đo không thể sai lầm
của hoạt động tông đồ và nhiệt tình truyền giáo của Hội Thánh”[48].
829. “Trong khi Hội Thánh đã đạt tới
sự trọn hảo không tì ố, không vết nhăn, nơi Đức Trinh Nữ diễm phúc, thì các
Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng, để chiến thắng tội lỗi mà tiến tới trong sự
thánh thiện; vì vậy họ ngước mắt nhìn lên Đức Maria”[49]:
nơi Đức Mẹ, Hội Thánh đã hoàn toàn thánh thiện.
III. HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
ECCLESIA EST
CATHOLICA
“Công giáo” là gì?
830. Thuật ngữ “công giáo” (catholica)
có nghĩa là “phổ quát”, hoặc “theo tính toàn bộ” hoặc “theo sự toàn vẹn”. Hội
Thánh là công giáo theo cả hai nghĩa:
Hội Thánh là công giáo bởi vì trong Hội Thánh có Đức Kitô hiện diện.
“Ở đâu có Đức Kitô Giêsu, ở đó có Hội Thánh Công giáo”[50].
Nơi Hội Thánh, tồn tại sự sung mãn của Thân Thể Đức Kitô, được kết hợp với Đầu
của mình[51], điều đó có nghĩa là Hội Thánh đã nhận
được từ Đức Kitô “đầy đủ các phương tiện cứu độ”[52] theo như Người muốn: lời tuyên xưng
đức tin chính xác và trọn vẹn, đời sống bí tích toàn vẹn và thừa tác vụ thánh
chức trong sự kế nhiệm tông truyền. Theo ý nghĩa căn bản này, Hội Thánh đã là
công giáo từ ngày lễ Ngũ Tuần[53] và mãi mãi sẽ là công giáo cho đến
ngày Chúa quang lâm.
831. Hội Thánh là công giáo bởi vì
Hội Thánh được Đức Kitô sai đến với toàn thể nhân loại[54]:
“Mọi người được kêu gọi vào dân mới của Thiên Chúa. Vì thế dân này,
vẫn là một dân duy nhất, phải được mở rộng khắp trần gian và qua mọi thế hệ, để
kế hoạch của thánh ý Thiên Chúa được hoàn thành: từ nguyên thủy Ngài đã tạo
dựng một bản tính nhân loại duy nhất, và đã quyết định quy tụ nên một các con
cái đã tản mát của Ngài…. Đặc tính phổ quát này, làm vinh dự cho dân Thiên
Chúa, là một hồng ân của chính Chúa, nhờ đó Hội Thánh Công Giáo, một cách hữu
hiệu và liên lỉ, hướng tới việc quy tụ toàn thể nhân loại cùng mọi điều thiện
hảo của họ, dưới quyền Đức Kitô là Đầu, trong sự hợp nhất của Thần Khí của
Người”[55].
Mỗi Giáo Hội địa phương cũng là “công giáo”
832. “Hội Thánh Đức Kitô thật sự hiện
diện trong mọi cộng đoàn hợp pháp các tín hữu ở các địa phương, các cộng đoàn
này gắn bó với các Mục tử của mình và trong Tân Ước được gọi là các Hội Thánh….
Trong các cộng đoàn đó, các tín hữu được quy tụ nhờ việc rao giảng Tin Mừng Đức
Kitô, và mầu nhiệm Bữa Tiệc của Chúa được cử hành…. Trong các cộng đoàn đó, tuy
thường là nhỏ bé và nghèo nàn hay sống tản mát, vẫn có Đức Kitô hiện diện, nhờ
sức mạnh của Người mà Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền
được kết hợp”[56].
833. Danh xưng “Giáo Hội địa phương”,
trước hết là một giáo phận, được dùng để chỉ một cộng đoàn các tín hữu sống
hiệp thông trong đức tin và các bí tích với Giám mục của họ là người đã thụ
phong trong sự kế nhiệm tông truyền[57]. Các Giáo Hội
địa phương này được thành lập “theo hình ảnh Hội Thánh phổ quát”, chính trong
và từ các Giáo Hội ấy mà một Hội Thánh công giáo duy nhất hiện hữu[58].
834. Các Giáo Hội địa phương có đặc
tính công giáo cách đầy đủ nhờ hiệp thông với một trong các Giáo Hội đó, tức là
với Giáo Hội Rôma, là Giáo Hội “chủ trì trong đức mến”[59].
“Quả vậy, toàn thể Hội Thánh, nghĩa là các tín hữu ở khắp mọi nơi, cần phải hoà
hợp với Giáo Hội Rôma vì sự ưu việt cao trọng hơn của nó”[60].
“Quả vậy, từ buổi đầu, khi Ngôi Lời Thiên Chúa xuống mang lấy xác phàm nơi
chúng ta, tất cả các Giáo Hội của các Kitô hữu ở khắp mọi nơi đã coi và vẫn coi
Giáo Hội cao quý ở Rôma như căn bản và nền tảng vững chắc duy nhất: vì theo
chính lời hứa của Đấng Cứu Độ, các cửa địa ngục không bao giờ thắng được Giáo
Hội ấy”[61].
835. “Vậy chúng ta phải cẩn thận,
đừng nghĩ rằng Hội Thánh phổ quát như là một tổng hợp, hay có thể nói, một hiệp
hội liên minh … các Giáo Hội địa phương…. Chính Hội Thánh, do ơn gọi và sứ vụ
phổ quát, khi bén rễ vào những hoàn cảnh khác nhau, liên quan đến trật tự dân
sự, xã hội và nhân loại, thì đã mặc lấy những bộ mặt bên ngoài và những đặc
điểm khác nhau trong bất cứ miền nào của trái đất”[62].
Sự đa dạng phong phú về các kỷ luật giáo hội, các nghi thức phụng vụ, các di
sản riêng về thần học và tu đức của các Giáo hội địa phương, “khi kết hợp nên
một, cho thấy một cách sáng chói tính công giáo của Hội Thánh không bị phân
chia”[63].
Ai thuộc về Hội Thánh Công giáo?
836. “Mọi người đều được kêu gọi tới
sự hợp nhất mang tính công giáo của dân Thiên Chúa…. , và thuộc về hoặc quy
hướng về sự hợp nhất đó bằng những cách khác nhau: hoặc là các tín hữu công
giáo, hoặc là những người khác tin vào Đức Kitô, hoặc cuối cùng là tất cả mọi
người một cách phổ quát, được kêu gọi hưởng ơn cứu độ nhờ ân sủng của Thiên
Chúa”[64].
837. “Được tháp nhập hoàn toàn vào
cộng đoàn Hội Thánh, là những ai có Thần Khí của Đức Kitô, chấp nhận cơ cấu
trọn vẹn của Hội Thánh và tất cả các phương tiện cứu độ đã được thiết lập trong
Hội Thánh, và được kết hợp trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh với Đức Kitô,
Đấng hướng dẫn Hội Thánh nhờ Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, bằng những mối dây
là việc tuyên xưng đức tin, là các bí tích, là sự cai quản và hiệp thông trong
Hội Thánh. Tuy nhiên, một người dù đã được tháp nhập vào Hội Thánh, nhưng nếu
không kiên trì trong đức mến, thì người đó vẫn không được cứu độ, vì quả thật,
họ ở trong lòng Hội Thánh “bằng thân xác”, chứ không phải “bằng trái tim”[65].
838. “Với những người đã được Rửa
Tội, mang danh xưng là Kitô hữu, nhưng không tuyên xưng đức tin toàn vẹn hoặc
không duy trì sự hợp nhất hiệp thông dưới quyền Đấng kế nhiệm thánh Phêrô, Hội
Thánh biết mình vẫn liên kết với họ vì nhiều lý do”[66].
“Quả vậy, những ai tin vào Đức Kitô và đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội theo đúng
nghi thức, thì cũng hiệp thông một cách nào đó với Hội Thánh công giáo, mặc dầu
là sự hiệp thông không trọn vẹn”[67]. Với các Giáo Hội
Chính thống, sự hiệp thông này sâu đậm đến mức “chỉ còn thiếu một chút là đạt
tới sự sung mãn phải có, cho phép cử hành chung bí tích Thánh Thể của Chúa”[68].
Hội Thánh và những người ngoài Kitô giáo
839. “Những ai chưa đón nhận Tin
Mừng, cũng quy hướng về dân Thiên Chúa bằng những hình thức khác nhau”[69].
Tương quan của Hội Thánh với dân Do Thái. Hội Thánh, dân Thiên Chúa trong Tân Ước, khi nhìn kỹ vào mầu
nhiệm của chính mình, khám phá ra mối liên hệ giữa mình với dân Do Thái[70], là dân “được Chúa là Thiên Chúa chúng ta ngỏ lời
trước”[71]. Khác với các tôn giáo khác ngoài Kitô giáo,
đức tin Do Thái đã là lời đáp lại đối với mạc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước.
Chính dân Do Thái này “đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Ngài cho thấy vinh
quang, ban tặng các giao ước, Lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là
con cháu các tổ phụ; và … chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một
nòi giống với họ” (Rm 9,4-5), “quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi,
thì Ngài không hề đổi ý” (Rm 11,29).
840. Đàng khác, khi nhìn về tương
lai, dân Thiên Chúa của Cựu Ước và dân mới của Thiên Chúa đều hướng tới những
mục tiêu tương tự: đó là sự mong chờ Đấng Messia ngự đến (hoặc trở lại). Nhưng
một bên, là mong chờ sự trở lại của Đấng Messia, đã chết và đã sống lại, được
nhận biết là Chúa và là Con Thiên Chúa; còn bên kia, là mong chờ, vào ngày tận
thế, việc Ngự đến của Đấng Messia, mà dung mạo của Người còn ẩn khuất, sự mong
chờ này kèm theo bi kịch là không biết hay không nhận Đức Kitô Giêsu.
841. Tương quan của Hội Thánh với
người Hồi giáo. “Ý định cứu độ còn bao gồm những ai
nhận biết Đấng Tạo Hoá, trong số đó trước tiên phải kể đến những người Hồi
giáo, những người tự nhận mình giữ đức tin của tổ phụ Abraham, cùng với chúng
ta tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, nhân từ, Đấng sẽ phán xét con người trong ngày
sau hết”[72].
842. Mối liên hệ của Hội Thánh với
các tôn giáo ngoài Kitô giáo trước hết xuất phát từ chỗ tất
cả nhân loại cùng có chung một nguồn gốc và một mục đích:
“Thật vậy, mọi dân tộc đều họp thành một cộng đoàn, có chung một
nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã cho toàn thể nhân loại sinh sống trên khắp mặt địa
cầu, họ cũng có cùng một mục đích tối hậu, là Thiên Chúa, Đấng trải rộng sự
quan phòng, chứng tích lòng nhân hậu và kế hoạch cứu độ của Ngài đến tất cả mọi
người, cho đến khi những người được chọn được hợp nhất trong Thành thánh”[73].
843. Hội Thánh nhìn nhận trong các
tôn giáo khác một sự tìm kiếm “trong bóng tối và trong hình ảnh” vị Thiên Chúa
không được biết đến, nhưng gần gũi, bởi vì chính Ngài ban cho mọi người sự
sống, hơi thở và mọi sự, và bởi vì chính Ngài muốn tất cả mọi người đều được
cứu độ. Như vậy, Hội Thánh xem bất cứ điều gì tốt đẹp và chân thật có thể gặp
được trong các tôn giáo, như một sự chuẩn bị cho việc đón nhận Tin Mừng và điều
đó “được ban bởi Đấng soi sáng mọi người, để cuối cùng họ được sống”[74].
844. Tuy nhiên trong cách thực hành
tín ngưỡng của mình, người ta cũng biểu lộ những giới hạn và những sai lầm làm
méo mó hình ảnh Thiên Chúa:
“Bị ma quỷ gạt gẫm, người ta rất thường sai lạc trong các suy nghĩ
của mình, và đánh đổi chân lý của Thiên Chúa lấy điều giả dối, phục vụ loài thụ
tạo hơn là Đấng Tạo Hoá, hoặc họ sống và chết như không có Thiên Chúa trên trần
gian này, nên bị rơi vào tuyệt vọng tột cùng”[75].
845. Để quy tụ lại tất cả con cái của
Ngài đã bị tội lỗi làm tản mát và lạc lối, Chúa Cha đã muốn tập họp toàn thể
nhân loại vào Hội Thánh của Con Ngài. Hội Thánh là nơi trong đó nhân loại phải
tìm lại được sự hợp nhất của mình và ơn cứu độ của mình. Hội Thánh là “trần
gian đã được giao hoà”[76]. Hội Thánh là con tàu “được
căng buồm bằng thánh giá của Chúa, theo luồng gió của Chúa Thánh Thần, an toàn
vượt biển trần gian này”[77], theo một hình ảnh khác
quen thuộc với các Giáo phụ, Hội Thánh được hình dung bằng con tàu của ông Nôê,
con tàu duy nhất cứu khỏi cơn lụt đại hồng thủy[78].
“Ngoài Hội Thánh không có ơn cứu độ”
846. Phải hiểu thế nào về lời khẳng
định thường được các Giáo phụ nhắc lại này? Theo nghĩa tích cực, khẳng định này
có nghĩa là toàn bộ ơn cứu độ xuất phát từ Đức Kitô là Đầu nhờ Hội Thánh là
Thân Thể của Người:
“Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền, Công đồng dạy rằng: Hội Thánh
lữ hành này là cần thiết để được cứu độ. Quả vậy, chỉ một mình Đức Kitô là
trung gian và là con đường của ơn cứu độ, Người hiện diện giữa chúng ta trong
Thân Thể Người là Hội Thánh; qua việc minh nhiên công bố sự cần thiết của đức
tin và Phép Rửa, chính Người đã đồng thời xác nhận sự cần thiết của Hội Thánh,
mà người ta bước vào đó nhờ Phép Rửa như qua một cái cửa. Vì vậy, những ai
không phải là không biết rằng Hội Thánh Công giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ
Chúa Giêsu Kitô như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập,
hoặc không muốn kiên trì sống trong Hội Thánh này, thì không thể được cứu độ”[79].
847. Lời khẳng định này không nhắm
tới những người không biết Đức Kitô và Hội Thánh của Người mà không do lỗi của
họ:
“Quả vậy, những người không biết đến Tin Mừng của Đức Kitô và Hội
Thánh Người mà không do lỗi của họ, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và
dưới tác động của ân sủng, cố gắng chu toàn thánh ý của Ngài bằng các công việc
theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời”[80].
848. “Mặc dầu Thiên Chúa có thể dùng
những đường lối chỉ mình Ngài biết để đưa những người không biết Tin Mừng, mà
không do lỗi của họ, đến với đức tin, mà không có đức tin thì không thể làm vui
lòng Ngài[81], Hội Thánh vẫn có bổn phận, và đồng thời
là một quyền thánh thiêng, phải rao giảng Tin Mừng”[82] cho tất cả mọi người.
Truyền giáo - một đòi hỏi bắt nguồn từ tính công giáo của Hội Thánh
849. Lệnh truyền giáo. “Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên ‘bí tích cứu độ phổ
quát’, do những đòi hỏi sâu sắc của tính công giáo, vâng theo lệnh truyền của
Đấng Sáng Lập của mình, Hội Thánh cố gắng loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi
người”[83]. “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế” (Mt 28,l9-20).
850. Nguồn gốc và mục đích của việc
truyền giáo. Lệnh truyền giáo của Chúa bắt nguồn từ
tình yêu vĩnh cửu của Ba Ngôi Chí Thánh: “Tự bản chất, Hội Thánh lữ hành phải
truyền giáo, vì chính Hội Thánh bắt nguồn từ sứ vụ của Chúa Con và sứ vụ của
Chúa Thánh Thần, theo ý định của Thiên Chúa Cha”[84]. Mục
đích tối hậu của việc truyền giáo là làm cho loài người được tham dự vào sự
hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Thần Khí tình yêu của chính các Ngài[85].
851. Động lực của việc truyền giáo. Hội Thánh luôn nhận lấy bổn phận và sức mạnh thúc đẩy việc truyền
giáo của mình từ chính tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi
người: Quả vậy, “tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi…” (2 Cr 5,l4)[86]. Thật vậy, “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ
nhờ nhận biết chân lý. Ơn
cứu độ được gặp thấy trong chân lý. Những ai vâng theo sự thúc đẩy của Thánh
Thần chân lý, thì đã ở trên đường cứu độ; nhưng chân lý này đã được uỷ thác cho
Hội Thánh, nên Hội Thánh phải đáp ứng khát vọng của những người đó là mang chân
lý đến cho họ. Bởi vì Hội Thánh tin vào kế hoạch phổ quát của ơn cứu độ, nên
Hội Thánh phải truyền giáo.
852. Những nẻo đường truyền giáo. “Chúa Thánh Thần là Đấng chủ xướng toàn bộ việc truyền giáo của
Hội Thánh”[87]. Chính Ngài dẫn dắt Hội Thánh trên các
nẻo đường truyền giáo. “Hội Thánh tiếp tục và triển khai qua dòng lịch sử sứ vụ
của chính Đức Kitô, Đấng đã được sai đi rao giảng Tin Mừng cho những người
nghèo; được Thần Khí Đức Kitô thúc đẩy, Hội Thánh phải tiến bước trên chính con
đường Đức Kitô đã đi, là con đường khó nghèo, vâng phục, phục vụ và tự hiến cho
đến chết, từ đó Người đã chiến thắng nhờ sự sống lại của Người”[88]. Theo cách đó, “máu là hạt giống trổ sinh các Kitô
hữu”[89].
853. Nhưng trên đường lữ hành, Hội
Thánh cũng cảm nghiệm “khoảng cách giữa sứ điệp mà Hội Thánh phải rao giảng và
sự yếu hèn nhân loại của những người được ủy thác Tin Mừng”[90].
Chỉ bằng con đường “sám hối và canh tân”[91] và “qua cửa hẹp của Thập Giá”[92], Dân Thiên Chúa mới có thể mở rộng Nước Đức Kitô[93]. “Cũng như Đức Kitô đã hoàn thành công trình cứu
chuộc trong nghèo khó và bị bách hại, Hội Thánh cũng được kêu gọi tiến bước
trên chính con đường đó, để truyền thông cho người ta những hoa trái của ơn cứu
độ”[94].
854. Do chính sứ vụ của mình, “Hội
Thánh đồng hành với toàn thể nhân loại và cảm nghiệm cùng một số phận trần thế
với trần gian, và Hội Thánh hiện hữu như men, như linh hồn của xã hội nhân loại
phải được canh tân trong Đức Kitô và phải được biến đổi thành gia đình của
Thiên Chúa”[95]. Vì thế nỗ lực truyền giáo đòi hỏi sự kiên nhẫn. Công việc truyền giáo bắt
đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc và các nhóm người chưa tin vào
Đức Kitô[96]; tiếp đến là thiết lập những cộng đoàn
Kitô hữu, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trên trần gian[97], và thành lập những Giáo Hội địa phương[98]; tiến trình hội nhập văn hóa được thúc đẩy, để Tin
Mừng nhập thể vào các nền văn hóa của các dân tộc[99];
tiến trình đó sẽ không thiếu lúc gặp sự chống đối. “Đối với người ta, các tập
thể và các dân tộc, Hội Thánh chỉ tiếp xúc và thâm nhập dần dần, và như vậy đón
nhận họ vào sự sung mãn của tính công giáo”[100].
855. Công việc truyền giáo của Hội
Thánh đòi hỏi nỗ lực để hợp nhất các Kitô hữu[101].
“Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu ngăn trở Hội Thánh thực hiện đầy đủ tính công
giáo đặc thù của mình nơi những con cái đó, những người đã liên kết với Hội
Thánh bằng Phép Rửa, nhưng còn bị tách biệt chưa hiệp thông trọn vẹn với Hội
Thánh. Hơn nữa, chính Hội Thánh cũng khó diễn tả sự sung mãn của tính công giáo
về mọi phương diện trong đời sống thực tế”[102].
856. Nhiệm vụ truyền giáo bao hàm sự đối thoại đầy tôn trọng đối với những ai chưa đón nhận Tin
Mừng[103]. Các tín hữu có thể nhận được điều bổ ích
cho chính mình từ cuộc đối thoại này, nhờ học biết thêm rằng “bất cứ điều gì
thuộc về chân lý và ân sủng đã có nơi các dân tộc, đều được nhận ra như một sự
hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa”[104]. Chính các tín
hữu loan báo Tin Mừng cho những người không biết, để củng cố, bổ túc, và nâng
cao chân lý và sự thiện mà Thiên Chúa đã tuôn đổ cho người ta, cho các dân tộc,
và để thanh luyện họ khỏi sự sai lầm và sự dữ “để Thiên Chúa được vinh danh, ma
quỷ phải hổ thẹn, và con người được hạnh phúc”[105].
IV. HỘI THÁNH TÔNG TRUYỀN
ECCLESIA EST
APOSTOLICA
857. Hội Thánh có đặc tính tông
truyền vì được đặt nền trên các Tông Đồ, và điều này được hiểu theo ba nghĩa:
– Hội Thánh đã và đang được xây dựng trên “nền móng là các Tông Đồ”
(Ep 2,20)[106], là những chứng nhân đã được chính Đức
Kitô tuyển chọn và sai đi[107];
– Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ngự trong Hội
Thánh, Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn[108],
kho tàng quý báu, những lời lành thánh nghe được từ các Tông Đồ[109];
– Hội Thánh tiếp tục được giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn bởi các
Tông Đồ cho đến khi Đức Kitô trở lại nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm
vụ mục tử: Giám mục đoàn, “với sự trợ giúp của các linh mục, hợp nhất với Đấng
kế nhiệm thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội Thánh”[110].
“Lạy Chúa là Mục Tử hằng hữu, Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa,
nhưng nhờ các Thánh Tông Đồ, Chúa luôn che chở giữ gìn để đoàn chiên được hướng
dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử nhân danh Con Chúa…”[111].
Sứ vụ của các Tông Đồ
858. Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha
sai đi. Ngay từ đầu sứ vụ của Người, Người “gọi đến với mình những kẻ Người
muốn…. Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai các ông
đi rao giảng” (Mc 3,13-14). Từ đó, họ là “những người được sai đi” (thuật ngữ
Hy Lạp Apostoloi nói lên ý nghĩa đó). Qua họ,
Đức Kitô tiếp tục sứ vụ riêng của Người: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em” (Ga 20,2l)[112]. Như vậy, thừa tác vụ
của họ là sự tiếp tục sứ vụ của Đức Kitô. Chính Người nói với nhóm Mười Hai: “Ai
đón tiếp anh em, là đón tiếp Thầy” (Mt l0,40)[113].
859. Chúa Giêsu kết hợp họ vào sứ vụ
mà Người lãnh nhận từ Chúa Cha: cũng như “Chúa Con không thể tự mình làm gì”
(Ga 5,19. 30) nhưng lãnh nhận tất cả từ Chúa Cha, Đấng đã sai Người, thì
những người Chúa Giêsu sai đi cũng vậy, họ không thể làm được gì nếu không có
Người[114], từ nơi Người, họ đã lãnh nhận lệnh truyền
sai đi và quyền năng để hoàn thành điều đó. Vì thế, các Tông Đồ của Đức Kitô
biết rằng họ đã được Thiên Chúa làm cho trở thành “những thừa tác viên của Tân
Ước “(2 Cr 3,6), “những thừa tác viên của Thiên Chúa” (2 Cr 6,4), “những sứ giả
thay mặt Đức Kitô” (2 Cr 5,20), “những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý
các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1 Cr 4,l).
860. Trong nhiệm vụ của các Tông Đồ,
có một khía cạnh không thể được lưu truyền: đó là các ngài là những chứng nhân
đặc tuyển về sự sống lại của Chúa và là những nền móng của Hội Thánh. Nhưng
cũng có một khía cạnh trường tồn trong nhiệm vụ của các ngài: Đức Kitô đã hứa
với các ngài rằng Người sẽ ở với các ngài cho đến tận thế[115].
“Sứ vụ thần linh, mà Đức Kitô ủy thác cho các Tông Đồ, sẽ tồn tại cho đến tận
thế, bởi vì Tin Mừng, được truyền lại bởi các ngài, phải luôn luôn là nguyên lý
của toàn bộ sự sống đối với Hội Thánh. Chính vì vậy các Tông Đồ … đã cẩn thận
thiết đặt những người kế nhiệm”[116].
Các Giám mục – những vị kế nhiệm các Tông Đồ
861. “Để sứ vụ đã được ủy thác cho
các ngài vẫn được tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các Tông Đồ đã trao cho
các cộng sự viên trực tiếp của mình, như trao một di chúc, nhiệm vụ phải hoàn
thành và củng cố công trình các ngài đã khởi sự, khuyên nhủ họ lưu ý đến hết đoàn
chiên mà trong đó Chúa Thánh Thần đã đặt họ chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa. Các
ngài đã thiết đặt những người như vậy và quy định rằng sau đó, khi những người
này chết, thì những người đàn ông khác đã được thử thách sẽ lãnh nhận thừa tác
vụ của họ”[117].
862. “Cũng như nhiệm vụ được Chúa ủy
thác cho một mình ông Phêrô, vị thứ nhất của các Tông Đồ, phải được lưu truyền
cho các vị kế nhiệm ông, là một nhiệm vụ trường tồn, thì cũng vậy, nhiệm vụ của
các Tông Đồ là phải chăn dắt Hội Thánh, và được thực thi liên tục bởi việc
truyền chức thánh cho các Giám mục, nhiệm vụ đó cũng trường tồn”. Vì vậy, Hội
Thánh dạy rằng: “Chính Chúa đã thiết đặt các Giám mục kế nhiệm các Tông Đồ làm
các mục tử của Hội Thánh, nên ai nghe các ngài là nghe Đức Kitô, còn ai khinh
miệt các ngài là khinh miệt Đức Kitô và Đấng đã sai Đức Kitô đến”[118].
Việc tông đồ
863. Toàn thể Hội Thánh có đặc tính
tông truyền vì, nhờ các vị kế nhiệm thánh Phêrô và các Tông Đồ, Hội Thánh vẫn
giữ nguyên nguồn gốc của mình trong sự hiệp thông đức tin và sự sống. Hội Thánh
còn có đặc tính tông truyền vì “được sai đi” khắp trần gian; tất cả các chi thể
của Hội Thánh, tuy bằng những cách khác nhau, đều tham dự vào tính chất “được
sai đi” này. “Quả vậy, ơn gọi Kitô hữu, tự bản chất, cũng là ơn gọi làm việc
tông đồ”. Được gọi là “Việc tông đồ”, là “mọi hoạt động của Nhiệm Thể” nhằm “làm
cho Nước Đức Kitô ở mọi nơi trên trần thế” được rộng mở[119].
864. “Vì Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha
sai đến, là nguồn mạch và là nguồn gốc của mọi việc tông đồ trong Hội Thánh,
nên việc tông đồ”, của các thừa tác viên có chức thánh cũng như của các giáo
dân, “có sinh hoa kết quả hay không đều tùy thuộc vào sự kết hợp sống động của
chính họ với Đức Kitô”[120]. Việc tông đồ, tuỳ theo
các ơn gọi, các nhu cầu thời đại, các hồng ân khác nhau của Chúa Thánh Thần,
mang những hình thức hết sức đa dạng. Nhưng đức mến, được múc nguồn đặc biệt từ
bí tích Thánh Thể, luôn “như là linh hồn của mọi việc tông đồ”[121].
865. Hội Thánh là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền trong căn tính sâu xa và tối hậu của
mình, bởi vì nơi Hội Thánh, “Nước Trời”, “Nước Thiên Chúa”[122] đã hiện hữu và sẽ được hoàn thành
trong ngày tận thế, Nước đó đã đến nơi Ngôi Vị của Đức Kitô và trong trái tim
của những ai được tháp nhập vào Người, đang lớn lên cách âm thầm cho đến khi
nước đó tỏ hiện trọn vẹn lúc cánh chung. Lúc đó, tất cả mọi người đã được Người cứu chuộc, đã
được Người “thánh hóa và làm cho nên tinh tuyền trước tôn nhan Thiên Chúa trong
tình yêu”[123], sẽ được quy tụ thành dân duy nhất của Thiên Chúa, “Hiền Thê của Con
Chiên”[124], “Thành Thánh tự trời, từ nơi Thiên Chúa
mà xuống, chói lọi sự huy hoàng của Thiên Chúa”[125];
và “tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh
21,14).
TÓM LƯỢC
866. Hội Thánh duy nhất: Hội Thánh chỉ có một Chúa, tuyên xưng một đức tin, sinh bởi một Phép
Rửa, họp thành một Thân Thể, được làm cho sống bởi một Thần Khí, nhắm đến một
niềm hy vọng[126], khi niềm hy vọng này
hoàn thành, mọi chia rẽ sẽ được vượt thắng.
867. Hội Thánh thánh thiện: Thiên Chúa chí thánh là Đấng sáng lập Hội Thánh; Đức Kitô, Phu Quân
của Hội Thánh đã tự hiến để thánh hóa Hội Thánh; Thần Khí thánh thiện làm cho
Hội Thánh được sống. Dù bao gồm những người tội lỗi, Hội Thánh vẫn là ”cộng đoàn không tội lỗi được
tạo thành từ những người tội lỗi”. Nơi các Thánh, Hội Thánh chiếu tỏa sự thánh thiện
của mình. Nơi Đức Maria, Hội Thánh đã thánh thiện trọn vẹn.
868. Hội Thánh công giáo: Hội Thánh loan báo toàn bộ đức tin, mang trong mình và ban phát đầy đủ
các phương tiện cứu độ; Hội Thánh được sai đến với tất cả các dân tộc; Hội
Thánh ngỏ lời với tất cả mọi người; Hội Thánh bao trùm mọi thời đại; Hội Thánh “tự
bản chất, có đặc tính là truyền giáo”[127].
869. Hội Thánh tông truyền: Hội Thánh được xây dựng trên những nền móng vững chắc là mười hai Tông
Đồ của Con Chiên[128]; Hội Thánh không thể bị
hủy diệt[129]; Hội Thánh được gìn giữ
một cách không thể sai lầm trong chân lý; Đức Kitô điều khiển Hội Thánh qua
thánh Phêrô và các Tông Đồ khác, các ngài đang hiện diện nơi những người kế
nhiệm các ngài, là Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn.
870. “Hội Thánh duy nhất của Đức Kitô
mà trong Tín biểu chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo và
tông truyền,… Hội Thánh này tồn tại trong Hội Thánh Công giáo, do vị kế nhiệm
thánh Phêrô và các Giám mục hiệp thông với ngài điều khiển, mặc dù nhiều yếu tố
thánh hóa và chân lý vẫn được gặp thấy bên ngoài cơ cấu Hội Thánh Công giáo”[130].
[1]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 11.
[2]X. Sanctum Officium, Epistula ad Episcopos Angliae (14-9-1864): DS 2888.
[3]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3013.
[4]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 92.
[5]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 92.
[6]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 78: AAS 58 (1966) 1101.
[7]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 91.
[8]Thánh Clêmentê
[9]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 18.
[10]X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 91-92;
[11]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 11-12.
[12]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 94.
[13]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 92-93.
[14]X. Bộ Giáo Luật, điều 751.
[15]Ôrigiênê, In Ezechielem holimia, 9, 1: SC 352, 296 (PG 13, 732).
[16]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.
[17]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
[18]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93; x.
[19]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.
[20]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
[21]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 4: AAS 57 (1965) 95.
[22]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 1: AAS 57 (1965) 90-91.
[23]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 6: AAS 57 (1965) 96-97.
[24]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 7: AAS 57 (1965) 97.
[25]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 8: AAS 57 (1965) 98.
[26]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 9: AAS 57 (1965) 98.
[27]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 10: AAS 57 (1965) 99.
[28]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 4: AAS 57 (1965) 94; Ibid. , 9:
AAS 57 (1965) 98; Ibid. , 11: AAS 57 (1965) 99.
[29]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 12: AAS 57 (1965) 99-100.
[30]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 5: AAS 57 (1965) 96.
[31]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 24: AAS 57 (1965) 107.
[32]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 39: AAS 57 (1965) 44.
[33]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.
[34]X. Cv 9,l3; 1 Cr 6,l; l6,l.
[35]CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 10: AAS 56 (1964) 102.
[36]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 94.
[37]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[38]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[39]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
[40]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 42: AAS 57 (1965) 48.
[41]Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, Manuscrit B, 3v: Manuscrits autobiographiques (
[42]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12; x.
[43]X. 1 Ga 1,8-10.
[44]X. Mt 13,24-30.
[45]ĐGH Phaolô VI, Sollemnis Professio fidei, 19: AAS 60 (1968) 440.
[46]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 40: AAS 57 (1965) 44-45; Ibid. , 48-51: AAS 57 (1965) 53-58.
[47]ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles laici, 16: AAS 81 (1989) 417.
[48]ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles laici, 17: AAS 81 (1989) 419-420.
[49]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 65: AAS 57 (1965) 64.
[50]Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad Smyrnaeos, 8, 2: SC 10bis, 138 (Funk 1, 282).
[51]X. Ep 1,22-23.
[52]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 6: AAS 58 (1966) 953.
[53]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 4: AAS 58 (1966) 950-951.
[54]X. Mt 28,19.
[55]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 17.
[56]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 26: AAS 57 (1965) 31.
[57]X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 11: AAS 58 (1966) 677; Bộ Giáo Luật,các điều 368-369; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 177,1. 178. 311,1. 312.
[58]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 27.
[59]Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad Romanos, Inscr. : SC
10bis, 106 (Funk 1, 252).
[60]Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 3, 2: SC 211, 32 (PG 7, 849); x. CĐ
Vaticanô I, Hiến chế tín lý Pater aeternus, c. 2: DS 3057.
[61]Thánh Maximô Hiển tu, Opuscula theologica et polemica: PG 91,
137-140.
[62]ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 62: AAS 68 (1976) 52.
[63]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 29.
[64]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 18.
[65]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18-19.
[66]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 15: AAS 57 (1965) 19.
[67]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.
[68]ĐGH Phaolô VI, Allocutio in Aede Sixtina, decem exactis annis a
sublatis mutuis excommunicationibus inter Romanam et Constantinopolitanam
Ecclesias (14-12-1975):
AAS 68 (1976) 121; x. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 13-18: AAS 57 (1965) 100-104.
[69]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20.
[70]X. CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 4: AAS 58 (1966) 742-743.
[71]Thứ Sáu Tuần Thánh, Nghi thức Cử hành
cuộc Thương Khó của Chúa, Cầu nguyện cho mọi người VI:
Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis
Vaticanis 1970) 254.
[72]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20; x.
[73]CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 1: AAS 58 (1966) 740.
[74]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20; x.
[75]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20.
[76]Thánh Augustinô, Sermo 96,
7, 9: PL 38, 588.
[77]Thánh Ambrôsiô, De virginitate 18,119: Sancti Ambrosii Episcopi Mediolanensis opera,
v. 14/2 (Milano-Roma 1989) 96 (PL 16, 297).
[78]X. 1 Pr 3,20-21.
[79]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18.
[80]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20; x. Sanctum
Officium, Epistula ad
Archiepiscopum Bostoniensem (8-8-1949):
DS 3866-3872.
[81]X. Dt 11,6.
[82]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 7: AAS 58 (1966) 955.
[83]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1: AAS 58 (1966) 947.
[84]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948.
[85]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệpRedemptoris missio, 23: AAS 83 (1991) 269-270.
[86]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 6: AAS 58 (1966) 842-843; ĐGH
Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 11: AAS 83 (1991) 259-260.
[87]ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 21: AAS 83 (1991) 268.
[88]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 952.
[89]Tertullianô, Apologeticum, 50, 13: CCL 1, 171 (PL 1, 603).
[90]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 43: AAS 58 (1966) 1064.
[91]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12; x. Ibid. , 15:
AAS 57 (1965) 20.
[92]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1: AAS 58 (1966) 947.
[93]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 12-20: AAS 83 (1991) 260-268.
[94]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
[95]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 40: AAS 58 (1966) 1058.
[96]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 42-47: AAS 83 (1991) 289-295.
[97]X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 15: AAS 58 (1966) 964.
[98]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 48-49: AAS 83 (1991) 295-297.
[99]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 52-54: AAS 83 (1991) 299-302.
[100]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 6: AAS 58 (1966) 953.
[101]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 50: AAS 83 (1991) 297-298.
[102]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 4: AAS 57 (1965) 96.
[103]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 55: AAS 83 (1991) 302-304.
[104]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 9: AAS 58 (1966) 958.
[105]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 9: AAS 58 (1966) 958.
[106]X. Kh 21,14.
[107]X. Mt 28,16-20; Cv 1,8; 1 Cr 9,1;
15,7-8; Gl 1,1; v. v….
[108]X. Cv 2,42.
[109]X. 2 Tm 1,13-14.
[110]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 952.
[111]Kinh Tiền Tụng Lễ Các Thánh Tông Đồ I:
Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis
Vaticanis 1970) 426.
[112]X. Ga 13,20; 17,18.
[113]X. Lc l0,l6.
[114]X. Ga l5,5.
[115]X. Mt 28,20.
[116]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 20: AAS 57 (1965) 23.
[117]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 20: AAS 57 (1965) 23; x. Thánh
Clêmentê Rôma, Epistula ad Corinthios, 42, 4: SC 167, 168-170 (Funk, 1, 152); Ibid. 44, 2: SC 167, 172 (Funk, 1,
154-156).
[118]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 20: AAS 57 (1965) 24.
[119]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 2: AAS 58 (1966) 838.
[120]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 4: AAS 58 (1966) 840; x. Ga
15,5.
[121]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 3: AAS 58 (1966) 839.
[122]X. Kh 19,6.
[123]X. Ep 1,4.
[124]X. Kh 21,9.
[125]X. Kh 21,10-11.
[126]X. Ep 4,3-5.
[127]CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948.
[128]X. Kh 21,14.
[129]X. Mt 16,18.
[130]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 11-12.