SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO - TIẾT
5: CÁC THÁNH THÔNG CÔNG
(giaolyductin.net - 20/03/14, 8:35 pm)
Tiết 5
Các Thánh thông công
Paragraphus 5
Sanctorum communio
946. Sau khi tuyên xưng: “Hội Thánh
hằng có ở khắp thế này”, tín biểu các Tông Đồ thêm: “Các Thánh thông công”. Một
cách nào đó, mục này là lời giải thích cho mục trước: “Hội Thánh là gì, nếu
không phải là cộng đoàn của tất cả các Thánh?”[1]. Quả
thật, Hội Thánh là sự hiệp thông của các Thánh.
947. “Bởi vì tất cả các tín hữu là
một thân thể duy nhất, nên điều thiện hảo của người này được truyền thông cho
người khác…. Bởi đó, giữa những điều khác, … phải tin là có sự truyền thông
những điều thiện hảo trong Hội Thánh. Thành phần chủ yếu là Đức Kitô, bởi vì Người
là Đầu…. Do đó, điều thiện hảo của Đức Kitô được truyền thông … cho tất cả các
chi thể; và sự truyền thông này được thực hiện qua các bí tích của Hội Thánh”[2]. “Thật vậy, Thần Khí duy nhất điều khiển Hội Thánh làm
cho bất cứ điều gì được thu thập trong Hội Thánh, đều là của chung”[3].
948. Vì vậy, thuật ngữ “các Thánh
thông công” có hai nghĩa: “hiệp thông trong các thực tại thánh (sancta)” và “hiệp
thông giữa những người thánh (sancti)”.
“Sancta
sanctis! (Các thực tại thánh cho những người thánh)” là lời chủ tế
xướng lên trong nhiều phụng vụ Đông phương, lúc nâng cao Mình Máu Thánh trước
khi cho rước lễ. Các Kitô hữu (sancti) được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Đức Kitô (sancta) để
tăng trưởng trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần (Koinônia) và
truyền thông sự hiệp thông đó cho trần gian.
I. HIỆP THÔNG CÁC CỦA CẢI
THIÊNG LIÊNG
BONORUM SPIRITUALIUM COMMUNIO
949. Trong cộng đoàn tiên khởi ở
Giêrusalem, các môn đệ “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp
thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng”
(Cv 2,42).
Sự hiệp thông trong đức tin. Đức tin của các
tín hữu là đức tin của Hội Thánh, được đón nhận từ các Tông Đồ, là kho tàng của
sự sống, một kho tàng khi được truyền thông thì lại thêm phong phú.
950. Sự hiệp thông các bí tích. “Quả vậy, hoa trái của tất cả các bí tích thuộc về hết mọi tín hữu;
nhờ các bí tích này, giống như nhờ những mối dây thánh thiêng, họ được gắn liền
và kết hợp với Đức Kitô, nhất là nhờ bí tích Rửa Tội, qua đó, như qua một cái
cửa, họ tiến vào Hội Thánh. Các Giáo phụ giải thích rằng, ‘các Thánh thông
công’ trong Tín biểu phải được hiểu là sự hiệp thông các bí tích…. Danh xưng
[hiệp thông] này phù hợp với tất cả các bí tích, vì tất cả đều kết hợp chúng ta
với Thiên Chúa…; tuy nhiên danh xưng ấy thích hợp hơn cho bí tích Thánh Thể, là
bí tích thực hiện sự hiệp thông này”[4].
951. Sự hiệp thông các đặc sủng: Trong sự hiệp thông của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần “ban phát các
ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi bậc sống” để xây dựng Hội Thánh[5]. “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích
chung” (1 Cr 12,7).
952. “Đối với họ, mọi sự đều là của
chung”(Cv 4,32): “Kitô hữu thật sự không sở hữu một điều gì, mà
không cho rằng đó là của chung cho mình cùng với tất cả những người khác; vì
vậy họ phải mau mắn và sẵn sàng làm nhẹ bớt sự cùng khốn của những người túng
thiếu”[6]. Kitô hữu là người quản lý tài sản của Chúa[7].
953. Sự hiệp thông đức mến: Trong mầu nhiệm các Thánh thông công, ”không ai trong chúng ta sống cho
chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình” (Rm 14,7). “Nếu một bộ phận
nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau; Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ
phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là Thân Thể của Đức Kitô và mỗi người
là một bộ phận” (1 Cr 12,26-27). Đức mến “không tìm tư lợi” (1 Cr 13,5)[8]. Việc nhỏ nhất trong các hành vi của chúng ta được làm
trong đức mến đều sinh lợi ích cho mọi người, trong sự liên đới hỗ tương với
tất cả mọi người, kẻ sống và kẻ chết, sự liên đới đó được đặt nền trong mầu
nhiệm “các Thánh thông công”. Mọi tội lỗi đều làm tổn thương sự hiệp thông này.
II. HIỆP THÔNG GIỮA HỘI
THÁNH THIÊN QUỐC VÀ HỘI THÁNH TRẦN THẾ
COMMUNIO INTER ECCLESIAM CAELESTEM ET TERRESTREM
954. Ba tình trạng của Hội Thánh. “Cho tới khi Chúa ngự đến trong sự uy nghi của Người, có tất cả
các Thiên thần với Người, và khi sự chết đã bị hủy diệt, mọi sự đều quy phục
Người, thì trong số các môn đệ của Chúa, có những người đang tiếp tục cuộc lữ
hành trên trần thế, có những người đã hoàn tất cuộc sống đời này và đang được
thanh luyện, lại có những người đã được hiển vinh, đang chiêm ngưỡng ‘cách tỏ
tường chính Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể, như Ngài là’”[9]:
“Tuy nhiên, tất cả chúng ta, theo mức độ và cách thức khác nhau,
đều hiệp thông trong cùng một đức mến đối với Thiên Chúa và đối với người lân
cận, và cùng hát lên bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta. Thật vậy,
tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, có Thần Khí của Người, đều họp thành một Hội
Thánh duy nhất và liên kết với nhau trong Người”[10].
955. “Vì vậy, sự kết hợp giữa những
người còn đi đường với các anh em đã yên nghỉ trong bình an của Đức Kitô không
hề bị gián đoạn, mà trái lại, theo đức tin trường tồn của Hội Thánh, sự hợp
nhất đó còn được tăng cường bằng việc truyền thông cho nhau những lợi ích
thiêng liêng”[11].
956. Sự chuyển cầu của các Thánh:”Vì được gắn bó mật thiết hơn với Đức Kitô, các Thánh trên trời
củng cố toàn thể Hội Thánh một cách vững chắc hơn trong sự thánh thiện…. Các
ngài không ngừng chuyển cầu với Chúa Cha cho chúng ta, trong khi dâng các công
nghiệp các ngài đã lập được nơi trần thế nhờ Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và loài người là Đức Kitô Giêsu…. Nhờ vậy sự yếu đuối của chúng ta được
giúp đỡ rất nhiều bằng sự quan tâm huynh đệ của các ngài”[12]:
“Anh em đừng khóc, bởi vì tôi sẽ có ích cho anh em hơn, ở nơi tôi
sắp tới, hơn là lúc tôi ở đây”[13].
“Tôi muốn ở trên trời, để làm việc lành dưới thế”[14].
957. Hiệp thông với các Thánh. “Chúng ta không chỉ kính nhớ các Thánh trên trời vì gương sáng
của các ngài, nhưng hơn thế nữa, còn để sự hợp nhất của toàn thể Hội Thánh
trong Thần Khí được tăng cường nhờ việc thực thi đức mến huynh đệ. Thật vậy,
cũng như sự hiệp thông giữa những người đi đường đưa chúng ta tới gần Đức Kitô
hơn, thì sự liên kết với các Thánh cũng kết hợp chúng ta với Đức Kitô, tự nơi
Người, với tư cách là nguồn mạch và là Đầu, tuôn chảy mọi ân sủng và sự sống
của chính dân Thiên Chúa”[15]:
“Quả vậy, chúng ta tôn thờ Đức Kitô vì Người là Con Thiên Chúa; và
chúng ta yêu mến một cách chính đáng các vị Tử Đạo, xét như là những môn đệ và
những người bắt chước Chúa, vì sự hết sức tốt lành của các ngài đối với Đấng là
Vua và Thầy của mình; ước gì chúng ta được là bạn đồng hành và đồng môn với các
ngài”[16].
958. Hiệp thông với những người đã
qua đời. “Bởi biết rất chắc chắn rằng có sự
hiệp thông như thế trong toàn Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô, nên ngay từ buổi
đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết sức thành kính nhớ đến những người
đã qua đời, và bởi vì ‘dâng hy lễ để đền tội cho những người đã chết, để họ
được giải thoát khỏi tội lỗi, là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện’ (2 Mcb
12,45), nên Hội Thánh cũng dâng lời cầu cho họ”[17].
Lời cầu nguyện của chúng ta cho họ không những có thể giúp đỡ họ, mà còn làm
cho sự chuyển cầu của họ cho chúng ta nên hữu hiệu.
959. Trong gia đình duy nhất của
Thiên Chúa. “Vì tất cả chúng ta đều là con cái
Thiên Chúa và hợp thành một gia đình trong Đức Kitô, nên khi chúng ta hiệp
thông với nhau trong đức mến hỗ tương và trong cùng một lời ngợi khen Chúa Ba
Ngôi Chí Thánh, chúng ta sống phù hợp với ơn gọi thâm sâu của Hội Thánh”[18].
TÓM LƯỢC
960. Hội Thánh là “sự hiệp thông của
các Thánh”:thuật ngữ này trước hết chỉ sự hiệp thông trong “các
thực tại thánh” (sancta), nhất là bí tích Thánh Thể, bí tích này “biểu thị
và thực hiện sự hợp nhất của các tín hữu, những người hợp thành một Thân Thể
trong Đức Kitô”[19].
961. Thuật ngữ này cũng chỉ sự hiệp
thông của “những người thánh” (sancti) trong Đức Kitô, Đấng “đã
chết cho mọi người”. Sự hiệp thông này thâm sâu đến nỗi, điều gì mỗi người làm
hoặc chịu, trong và vì Đức Kitô, cũng đều mang lại hoa trái cho mọi người.
962. “Chúng tôi tin sự hiệp thông của
tất cả các Kitô hữu, nghĩa là của những người lữ hành nơi trần thế, những người
đã qua đời và đang được thanh luyện, và những người đang vui hưởng vinh phúc
thiên quốc, tất cả hợp thành một Hội Thánh duy nhất; và chúng tôi cũng tin rằng
trong sự hiệp thông đó, chúng tôi được hưởng nhờ tình yêu thương xót của Thiên
Chúa và của các Thánh của Ngài, các Đấng luôn lắng nghe những lời cầu khẩn của
chúng tôi”[20].
[1] Thánh Nicetas Remesianae, Instructio ad competentes, 5, 3, 23 [Explanatio Symboli,
10] : TPL 1, 119 (PL 52, 871).
[2] Thánh Tôma Aquinô, In Symbolum Apostolorum scilicet “Credo in Deum” Expositio, 13:Opera omnia,
v. 27 (Parisiis 1875) 224.
[3] Catechismus Romanus, 1, 10, 24: ed. P. Rodríguez (Città del
Vaticano-Pamplona 1989) 119.
[4] Catechismus Romanus, 1, 10, 24: ed. P. Rodríguez (Città del
Vaticano-Pamplona 1989) 119.
[5] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.
[6] Catechismus Romanus, 1, 10, 27: ed. P. Rodríguez (Città del
Vaticano-Pamplona 1989) 121.
[7] X. Lc 16,1-3.
[8] X. 1 Cr 10,24.
[9] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 54.
[10] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 54-55.
[11] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 55.
[12] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 55.
[13] Thánh Đôminicô, khi hấp hối, nói với
các anh em mình: Relatio iuridica 4 (Frater Radulphus de Faventia) 42:
Acta sanctorum, Augustus I, 636; x. Iordanus de Saxonia, Vita 4,
69: Acta Sanctorum, Augustus I, 551.
[14] Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu, Verba (17-7-1897): Derniers Entretiens (Paris 1971) 270.
[15] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 50: AAS 57 (1965) 56.
[16] Martyrium sancti Polycarpi17, 3: SC
10bis, 232 (Funk 1, 336).
[17] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 50: AAS 57 (1965) 55.
[18] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 51: AAS 57 (1965) 58.
[19] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
[20] ĐGH Phaolô VI, Sollemnis Professio fidei, 30: AAS 60 (1968) 445.