Mục 11
“Tôi tin xác
loài người ngày sau sống lại”
Articulus 11
“Credo carnis resurrectionem”
988. Tín biểu của
Kitô giáo – là Bản tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa là Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và vào hành động tạo dựng, cứu độ và thánh hoá của
Ngài – được kết thúc với lời tuyên xưng về sự sống lại của những người chết,
vào lúc cùng tận thời gian, và về sự sống vĩnh cửu.
989. Chúng ta tin
một cách chắc chắn và hy vọng một cách chính xác rằng: cũng như Đức Kitô đã
thật sự sống lại từ cõi chết và sống muôn đời, thì cũng vậy, những người công
chính sau cái chết của mình sẽ sống muôn đời với Đức Kitô phục sinh, Đấng sẽ
làm cho họ sống lại vào ngày sau hết[1].
Sự sống lại của chúng ta, cũng như sự sống lại của Người, sẽ là công trình của
Ba Ngôi Chí Thánh:
“Nếu Thần Khí ngự
trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, thì
Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài
đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm
8,11)[2].
990. Từ “thân xác”
được dùng ở đây để chỉ con người trong thân phận yếu đuối và phải chết của nó[3].
“Xác sống lại” có nghĩa là sau khi chết, không những linh hồn bất tử được có sự
sống, mà cả “thân xác phải chết” (Rm 8,11) của chúng ta cũng sẽ được đảm nhận
lại sự sống.
991. Tin sự sống
lại của những người chết là một yếu tố căn bản của đức tin Kitô giáo ngay từ
hồi đầu. “Niềm tin của các Kitô hữu, sự sống lại của những người chết. Chúng
tôi tin điều đó”[4]:
“Sao trong anh em
có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại,
thì Đức Kitô đã không sống lại! Mà nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao
giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng….
Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai
đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,12-14.20).
I. SỰ PHỤC SINH CỦA
ĐỨC KITÔ VÀ CỦA CHÚNG TA
RESURRECTIO CHRISTI
ET NOSTRA
Mạc khải tiệm tiến
về sự Phục Sinh
992. Việc kẻ chết
sống lại đã được Thiên Chúa mạc khải dần dần cho dân Ngài. Niềm hy vọng vào sự
sống lại về thân xác của những người chết đã phổ biến như một hệ luận nội tại
của đức tin vào Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng toàn bộ con người, cả hồn cả xác.
Đấng tạo dựng trời đất cũng là Đấng trung tín giữ Giao Ước của Ngài với tổ phụ
Abraham và dòng dõi ông. Chính trong hai viễn tượng [tạo dựng và giao ước] này,
niềm tin vào sự phục sinh bắt đầu được biểu lộ. Trong những cơn thử thách của
mình, các vị Tử Đạo nhà Macabêô đã tuyên xưng:
“Bởi lẽ chúng tôi
chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Ngài sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng
sự sống đời đời” (2 Mcb 7,9). “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời
Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Ngài cho sống lại” (2 Mcb 7,14)[5].
993. Những người
Pharisêu[6] và
nhiều người đương thời với Chúa[7] đã
mong đợi sự phục sinh. Chúa Giêsu đã giảng dạy điều đó một cách xác quyết. Với
những người Sađucêô phủ nhận sự phục sinh, Người trả lời: “Chẳng phải vì không
biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao?” (Mc 12,24). Đức
tin về sự phục sinh dựa trên đức tin vào Thiên Chúa, Đấng “không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống” (Mc 12,27).
994. Hơn nữa: Chúa
Giêsu kết hợp đức tin về sự phục sinh với Ngôi Vị riêng của Người: “Chính Thầy
là sự Sống lại và là sự Sống” (Ga 11,25). Chính Chúa Giêsu sẽ làm cho sống lại
trong ngày sau hết những ai đã tin vào Người[8] và
những ai đã ăn Thịt và uống Máu Người[9].
Ngay bây giờ, Người đã đưa ra một dấu chỉ và một bảo chứng khi trả lại sự sống
cho một số người đã chết[10],
như vậy Người loan báo sự phục sinh riêng của Người tuy sự phục sinh của Người
thuộc một trật tự khác. Người nói về biến cố độc nhất này như dấu chỉ Jôna[11],
như dấu chỉ Đền Thờ[12]:
Người loan báo sự phục sinh của Người ngày thứ ba sau khi Người bị giết[13].
995. Làm chứng
nhân cho Đức Kitô là “làm chứng nhân về sự phục sinh của Người” (Cv 1,22)[14],
là đã ăn, đã uống “với Người sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại” (Cv
10,41). Niềm hy vọng Kitô giáo về sự phục sinh được ghi dấu cách tuyệt đối bằng
những cuộc gặp gỡ Đức Kitô phục sinh. Chúng ta sẽ phục sinh như Người, với
Người và nhờ Người.
996. Ngay từ đầu,
đức tin Kitô giáo về sự phục sinh đã gặp những phản ứng không hiểu và chống đối[15].
“Trong đức tin Kitô giáo, không có việc nào bị chống đối cách mạnh mẽ, dai
dẳng, quyết liệt và hăng hái cho bằng vấn đề thân xác sống lại”[16].
Thông thường, người ta chấp nhận là sự sống của nhân vị, sau khi chết, được
tiếp tục một cách thiêng liêng. Nhưng làm sao tin được rằng thân xác hiển nhiên
là phải chết này lại có thể phục sinh vào đời sống vĩnh cửu?
Người chết sẽ phục
sinh thế nào?
997. “Phục sinh”
là gì? Khi chết, linh hồn và thân xác bị tách biệt, thân xác con
người bị hư hoại trong khi linh hồn của nó đến gặp Thiên Chúa, mà vẫn mong đợi
được kết hợp lại với thân xác được tôn vinh của mình. Thiên Chúa, bằng sự toàn
năng của Ngài, sẽ vĩnh viễn trả lại sự sống bất hoại cho thân xác chúng ta, kết
hợp thân xác đó với linh hồn chúng ta, bằng sức mạnh của cuộc phục sinh của
Chúa Giêsu.
998. Ai sẽ phục
sinh? Tất cả mọi người đã chết đều sẽ phục sinh: “Ai đã làm điều
lành, thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị
kết án” (Ga 5,29)[17].
999. Phục sinh thế
nào? Đức Kitô đã phục sinh với thân xác riêng của Người: “Nhìn chân
tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24,39); nhưng Người không trở lại với đời
sống trần thế. Cũng vậy, trong Người, “tất cả mọi người sẽ sống lại với thân
xác riêng của mình, thân xác hiện giờ họ đang mang”[18],
nhưng thân xác này “sẽ được biến đổi thành thân xác của sự vinh quang”[19],
thành “thân thể có thần khí” (1 Cr 15,44):
“Nhưng có người sẽ
nói: Kẻ chết sống lại thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi
gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống; cái ngươi gieo không phải là hình
thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi… Gieo xuống thì hư nát, mà sống lại
thì bất diệt; … những kẻ chết sẽ sống lại mà không còn hư nát… Quả vậy, cái
thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc
lấy sự bất tử” (l Cr 15,35-37.42.52-53).
1000. Sự “phục sinh
thế nào” đó, vượt quá trí tưởng tượng và sự hiểu biết của chúng ta; điều đó chỉ
có thể đạt tới bằng đức tin. Nhưng việc chúng ta tham dự vào bí tích Thánh Thể
đã cho chúng ta được nếm trước sự biến hình của thân xác chúng ta nhờ Đức Kitô:
“Cũng như bánh là
hoa mầu ruộng đất, sau khi nhận được lời khẩn cầu Thiên Chúa, không còn là bánh
thường nữa, nhưng là Thánh Thể với hai thực tại trần thế và thiên quốc: cũng
vậy, thân xác chúng ta khi đón nhận Thánh Thể thì không còn bị hư hoại, nhưng
đã mang niềm hy vọng phục sinh”[20].
1001. Khi nào phục
sinh? Một cách vĩnh viễn, “trong ngày sau hết” (Ga 6,39-40.44.54;
11,24); “ngày tận thế”[21].
Quả vậy, sự phục sinh của những người chết được gắn liền với cuộc Quang lâm của
Đức Kitô:
“Vì khi hiệu lệnh
ban ra, khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên,
thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người chết trong Đức Kitô sẽ sống
lại trước tiên” (l Tx 4,16).
Phục sinh với Đức
Kitô
1002. Nếu thật sự
là, Đức Kitô sẽ cho chúng ta phục sinh trong “ngày sau hết”, thì cũng thật sự
là, một cách nào đó, chúng ta đã phục sinh với Đức Kitô rồi. Thật vậy, nhờ Chúa
Thánh Thần, đời sống Kitô hữu, ngay nơi trần thế, đã là sự tham dự vào cái Chết
và sự Sống lại của Đức Kitô:
“Anh em đã cùng
được mai táng với Đức Kitô khi chịu Phép Rửa, lại cùng được sống lại với
Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã
làm cho Người sống lại từ cõi chết… Anh em đã được sống lại cùng với Đức Kitô,
nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu
Thiên Chúa” (Cl 2,12; 3,1).
1003. Được liên kết
với Đức Kitô nhờ bí tích Rửa Tội, các tín hữu thật sự đã tham dự vào sự sống
thiên quốc của Đức Kitô phục sinh[22],
nhưng sự sống này còn “tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3). Chính
Thiên Chúa đã cho chúng ta được “cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô
Giêsu trên cõi trời” (Ep 2,6). Được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Đức Kitô trong
bí tích Thánh Thể, chúng ta đã thuộc về Thân Thể của Người. Khi chúng ta được
phục sinh vào ngày sau hết, “lúc đó”, chúng ta sẽ xuất hiện “với Người và cùng
Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4).
1004. Trong khi
mong đợi ngày đó, thân xác và linh hồn của tín hữu đã được tham dự vào phẩm giá
được hiện hữu “trong Đức Kitô”; vì vậy, phải tôn trọng thân xác của mình, và cả
thân xác của người khác, nhất là khi thân xác đó phải chịu đau đớn:
“Thân xác… phụng sự
Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác; Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại; chính
Ngài cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em
chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? … Anh em đâu
còn thuộc về mình nữa… Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”
(1 Cr 6,13-15.19-20).
II. CHẾT TRONG ĐỨC
KITÔ GIÊSU
IN CHRISTO IESU
MORI
1005. Để được phục
sinh với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, phải “lìa bỏ thân xác để
được ở bên Chúa” (2 Cr 5,8). Khi ra đi[23],
nghĩa là chết, linh hồn bị tách biệt khỏi thân xác. Linh hồn sẽ lại kết hợp với
thân xác của mình trong ngày kẻ chết sống lại[24].
Sự chết
1006. “Đối diện với
sự chết, bí ẩn về thân phận con người lên đến mức cao nhất”[25].
Theo một nghĩa nào đó, sự chết phần xác là điều tự nhiên, nhưng đối với đức
tin, thật ra, sự chết là “lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta” (Rm 6,23)[26].
Và đối với những người chết trong ân sủng Đức Kitô, sự chết là tham dự vào cái
Chết của Chúa, để họ cũng có thể tham dự vào sự Phục sinh của Người[27].
1007. Sự chết là kết thúc
cuộc đời trần thế. Cuộc đời chúng ta được đo bằng thời gian, trong quãng thời
gian đó, chúng ta thay đổi, chúng ta già đi, và cũng như đối với mọi sinh vật
trên trái đất, sự chết xuất hiện như một kết thúc bình thường của cuộc đời.
Khía cạnh này của sự chết mang lại sự khẩn trương cho cuộc đời chúng ta: Nhắc
đến việc phải chết giúp chúng ta nhớ rằng chúng ta chỉ có một thời gian giới
hạn để thực hiện cuộc đời chúng ta:
“Giữa tuổi thanh
xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ… bụi đất lại trở về với
đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Ngài đã ban cho mình” (Gv 12,
1.7).
1008. Sự chết là
hậu quả của tội lỗi. Là người giải thích xác thực những khẳng định của Thánh Kinh[28] và
Thánh Truyền, Huấn quyền của Hội Thánh dạy rằng cái chết đã đi vào trần gian vì
tội lỗi của con người[29].
Mặc dù con người có bản tính là phải chết, nhưng Thiên Chúa đã định cho con
người không phải chết. Vì vậy sự chết đi ngược lại với những kế hoạch của Thiên
Chúa Tạo Hoá, và nó đã đi vào trần gian với tính cách là hậu quả của tội lỗi[30].
“Sự chết … về phần xác, mà lẽ ra con người đã thoát khỏi nếu đã không phạm tội”[31],
cũng là “thù địch… cuối cùng” (1 Cr 15,26) mà con người phải chiến thắng.
1009. Sự chết
được Đức Kitô biến đổi. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, cũng đã chịu chết vì
chết là đặc điểm của thân phận nhân loại. Nhưng chính Người, tuy run sợ khi đối
diện với sự chết[32],
đã đảm nhận nó trong một hành vi suy phục thánh ý Cha Người cách trọn vẹn và tự
nguyện. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đã biến đổi lời chúc dữ của sự chết thành
lời chúc lành[33].
Ý nghĩa của sự chết
theo Kitô giáo
1010. Nhờ Đức Kitô,
sự chết theo Kitô giáo có một ý nghĩa tích cực. “Đối với tôi, sống là Đức Kitô
và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết
[với Người], ta sẽ cùng sống [với Người]” (2 Tm 2,11). Sự mới mẻ chủ yếu của
cái chết theo Kitô giáo là điều này: nhờ Phép Rửa, Kitô hữu đã “chết với Đức
Kitô” một cách bí tích, để sống một đời sống mới; nếu chúng ta chết trong ân
sủng của Đức Kitô, sự chết thể lý sẽ hoàn tất việc “chết với Đức Kitô” đó, và
như vậy nó hoàn thành việc tháp nhập chúng ta vào Người trong hành vi cứu chuộc
của Người:
“Tôi thà chết trong
Đức Kitô Giêsu, hơn là cai trị toàn cõi trái đất. Tôi tìm kiếm Người, Đấng đã
chết cho chúng ta; tôi khao khát Người, Đấng đã phục sinh vì chúng ta. Giờ tôi
được sinh ra đã đến gần… Anh em hãy để tôi nhận lãnh ánh sáng tinh tuyền; khi
tôi tới được đó, tôi sẽ là một con người”[34].
1011. Trong sự chết
Thiên Chúa kêu gọi con người đến với Ngài. Vì vậy, đối với cái chết, Kitô hữu
có thể mong ước giống như thánh Phaolô: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với
Đức Kitô” (Pl 1,23); và họ có thể biến đổi cái chết riêng của mình thành một
hành vi vâng phục và yêu mến đối với Chúa Cha theo gương Đức Kitô[35]:
“Tình yêu của tôi
đã bị đóng đinh vào thập giá; … Một mạch nước đang sống và đang nói ở trong
tôi, nói với tôi tự bên trong rằng: ‘Hãy đến với Chúa Cha’”[36].
“Con nóng lòng được
nhìn thấy Chúa, nên con muốn chết”[37].
“Tôi không chết,
tôi đang bước vào cõi sống”[38].
1012. Cái nhìn của Kitô
giáo về sự chết[39] được
diễn tả một cách rõ ràng trong phụng vụ của Hội Thánh:
“Lạy Chúa, đối với
các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi; và khi nơi nương náu ở
trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời”[40].
1013. Sự chết là kết thúc
cuộc lữ hành trần thế của con người, là kết thúc thời gian của ân sủng và của
lòng thương xót mà Thiên Chúa ban cho con người để họ thực hiện cuộc đời trần
thế của mình theo kế hoạch của Thiên Chúa và để họ quyết định số phận tối hậu của
mình. “Sau khi kết thúc dòng đời duy nhất là cuộc đời trần thế của chúng ta”[41],
chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc đời trần thế khác. “Phận con người là
phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9,27). Không có việc “đầu
thai” (“reincarnatio”) sau khi chết.
1014. Hội Thánh
khuyên chúng ta hãy chuẩn bị cho giờ chết của chúng ta (“Lạy Chúa, xin cứu
chúng con khỏi chết đột ngột và bất ngờ”: Kinh Cầu Các Thánh cũ), hãy khấn xin
Mẹ Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta “trong giờ lâm tử” (kinh Kính Mừng) và
hãy phó thác cho thánh Giuse là bổn mạng của ơn chết lành:
“Trong mọi hành
động và suy nghĩ, con phải xử sự như con sắp chết tức thì. Nếu con có lương tâm
tốt lành, con sẽ không quá sợ sự chết. Xa lánh tội lỗi thì tốt hơn là trốn
tránh sự chết. Nếu hôm nay con không sẵn sàng, thì làm sao ngày mai con sẵn
sàng được?”[42]
“Lạy Chúa, chúc tụng
Chúa vì chị chết thể xác, không người nào sống mà có thể thoát được chị. Khốn
cho những ai chết trong những tội trọng; phúc cho những ai, mà chị gặp, đang ở
trong thánh ý Chúa, bởi vì cái chết thứ hai sẽ không làm gì hại cho họ”[43].
TÓM LƯỢC
1015. “Thân xác là
then chốt của ơn cứu độ”[44]. Chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo
dựng thân xác. Chúng ta tin vào Ngôi Lời đã trở nên xác phàm để cứu chuộc thân
xác. Chúng ta tin “xác loài người ngày sau sống lại”, là tột đỉnh của công
trình tạo dựng và cứu chuộc thân xác.
1016. Do sự chết,
linh hồn bị tách biệt khỏi thân xác, nhưng khi phục sinh, Thiên Chúa sẽ trả lại
sự sống bất hoại cho thân xác đã được biến đổi của chúng ta, Ngài lại kết hợp
nó với linh hồn chúng ta. Cũng như Đức Kitô đã phục sinh và sống muôn đời, tất
cả chúng ta sẽ sống lại trong ngày sau hết.
1017. “Chúng ta
tin… sự phục sinh thật của thân xác này, mà giờ đây chúng ta đang mang”[45]. Tuy nhiên, được gieo xuống mồ là thân
xác hư hoại, phục sinh là thân xác bất hoại[46], “thân xác có thần khí” (1 Cr 15,44).
1018. Do hậu quả
của tội tổ tông, con người phải chịu chết về phần xác, “mà lẽ ra con người đã
thoát khỏi nếu đã không phạm tội”[47].
1019. Chúa Giêsu,
Con Thiên Chúa, đã tự nguyện chịu chết vì chúng ta trong sự suy phục thánh ý
Thiên Chúa, Cha của Người, một cách trọn vẹn và tự nguyện. Bằng cái chết của
Người, Người đã chiến thắng sự chết, và như vậy mở ra cho tất cả mọi người khả
năng được cứu độ.
Nguồn: http://giaolyductin.net
[1] X. Ga 6,39-40.
[2] X. 1 Tx 4,14; 1 Cr 6,14; 2 Cr 4,14; Pl 3,10-11.
[3] X. St 6,3; Tv 56,5; Is 40,6.
[4] Tertullianô, De resurrectione mortuorum 1,
1: CCL 2, 921 (PL 2, 841).
[5] X. 2 Mcb 7,29; Đn 12,1-13.
[6] X. Cv 23,6.
[7] X. Ga 11,24.
[8] X. Ga 5,24-25; 6,40.
[9] X. Ga 6,54.
[10] X. Mc 5,21-43; Lc 7,11-17; Ga 11.
[11] X. Mt 12,39.
[12] X. Ga 2,19-22.
[13] X. Mc 10,34.
[14] X. Cv 4,33.
[15] X. Cv 17,32; 1 Cr 15,12-13.
[16] Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 88,
2, 5: CCL 39, 1237 (PL 37, 1134).
[17] X. Đn 12,2.
[18] CĐ Latêranô IV, Cap. 1, De fide catholica:
DS 801.
[19] X. Pl 3,21.
[20] Thánh Irênê, Adversus haereses, 4,
18, 5: SC 100, 610-612 (PG 7,1028-1029).
[21] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.
[22] X. Pl 3,20.
[23] X. Pl 1,23.
[24] X. ĐGH Phaolô VI, Sollemnis Professio fidei, 28:
AAS 60 (1968) 444.
[25] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.
[26] X. St 2,17.
[27] X. Rm 6,3-9; Pl 3,10-11.
[28] X. St 2,17; 3,3.19; Kn 1,13; Rm 5,12; 6,23.
[29] X. CĐ Triđentinô, Sess. 5a, Decretum de
peccato originali, canon 1: DS 1511.
[30] X. Kn 2,23-24.
[31] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.
[32] X. Mc 14,33-34; Dt 5,7-8.
[33] X. Rm 5,19-21.
[34] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad
Romanos, 6, 1-2: SC 10bis 114 (Funk 1, 258-260).
[35] X. Lc 23,26.
[36] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad
Romanos, 7, 2: SC 10bis 116 (Funk 1, 260).
[37] Thánh Têrêsa Giêsu, Poesía 7:
Biblioteca Mística Carmelitana, v.6 (Burgos 1919) 86.
[38] Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, Lettre (9-6-1897): Correspondance
Générale, v. 2 (Paris 1973) 1015.
[39] X. 1 Tx 4,13-14.
[40] Kinh Tiền Tụng I cầu cho các tín hữu đã qua đời: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 439.
[41] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.
[42] De imitatione Christi, 1, 23, 5-8: ed.
T. Lupo (Città del Vaticano 1982) 70.
[43] Thánh Phanxicô Assisi, Canticum Fratris
Solis: Opuscula sancti Patris Francisci Assisiensis, ed. C.
Esser (Grottaferrata 1978) 85-86.
[44] Tertullianô, De resurrectione mortuorum, 8,
2: CCL 2, 931 (PL 2, 852).
[45] CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis
Palaeologi imperatoris: DS 854.
[46] X. 1 Cr 15,42.
[47] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.