Tại Hội Nghị
thường niên HĐGMVN 2006,
Đức Cha Phaolô
Bùi Văn Đọc, Giám mục Mỹ Tho, Chủ tịch UBGLĐT,
đã phổ biến Bản
dịch sách TOÁT YẾU GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
do UBGLĐT thực
hiện,
để các giáo phận
góp ý hoàn chỉnh Bản dịch.
NGUỒN VUI hân
hạnh giới thiệu Bản dịch này,
và có thể làm
trung gian chuyển các e-mail góp ý của độc giả
tới các vị có
trách nhiệm liên hệ.
Trích NGUỒN VUI
TOÁT YẾU GIÁO LÝCỦA HỘI THÁNH
CÔNG GIÁO
TỰ SẮC
ĐỂ CHẤP THUẬN
VÀ CÔNG BỐ
BẢN “TOÁT
YẾU GIÁO LÝ”
CỦA HỘI THÁNH
CÔNG GIÁO
Kính gởi CHƯ
HUYNH đáng kính,
Quý HỒNG Y,
THƯỢNG PHỤ, TỔNG GIÁM MỤC, GIÁM MỤC
LINH MỤC, PHÓ TẾ
VÀ MỌI THÀNH PHẦN DÂN CHÚA
Cách đây hai mươi năm,
sách GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO đã bắt đầu được soạn thảo, theo yêu cầu
Khoá họp bất thường của Thượng Hội đồng Giám mục nhân dịp kỷ niệm hai mươi năm
ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II.
Tôi vô cùng cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã
ban cho Hội thánh sách Giáo lý này; sách này đã được công bố vào năm
1992 do vị tiền nhiệm kính yêu của Tôi, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Giá trị lớn lao và vẻ đẹp của quà tặng này
đã được hàng Giám mục xác nhận qua việc các ngài đón nhận một cách tích cực và
rộng rãi. Sách Giáo lý ấy nhắm trao vào tay các vị Giám mục như bản qui chiếu
chắc chắn và đích thực để giảng dạy giáo lý công giáo và đặc biệt để soạn thảo
các sách giáo lý địa phương. Sách Giáo lý cũng được mọi thành phần Dân Chúa đón
nhận cách thuận lợi đáng kinh ngạc. Sách này cho đến nay đã được dịch ra hơn
năm mươi thứ tiếng.
Giờ đây, với niềm vui lớn lao, Tôi chấp
thuận và công bố bản Toát yếu Giáo lý này.
Vào tháng 10 năm 2002, các tham dự viên
của Hội nghị Quốc tế về Giáo lý đã nói lên một yêu cầu phổ biến trong Hội thánh
là ước mong có được bản Toát yếu sách giáo lý. Vị Tiền nhiệm kính yêu
của Tôi đã đón nhận ước muốn này và vào tháng 02 năm 2003 đã quyết định bắt đầu
thực hiện. Ngài trao việc soạn thảo cho một Uỷ ban Hồng y, do chính Tôi làm chủ
tịch, với sự cộng tác của nhiều chuyên viên. Trong quá trình làm việc, một dự
thảo bản Toát yếu này được chuyển đến các Hồng y và những vị Chủ tịch
các Hội đồng Giám mục. Bản dự thảo này được một số rất đông đón nhận và đánh
giá cao.
Toát yếu mà hôm nay Tôi giới thiệu cho Hội thánh phổ quát là một tổng hợp
trung thành và chắc chắn sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo. Bản toát
yếu này chứa đựng cách ngắn gọn mọi yếu tố căn bản và nền tảng của đức tin Hội
thánh, tạo thành một thứ thủ bản “cầm tay – Vademecum” như vị Tiền nhiệm
của Tôi ước muốn, cho phép mọi người, dù tin hay không, có thể có được một cái
nhìn toàn diện về đức tin công giáo.
Bản Toát yếu này phản ánh cách
trung thành sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo ngay trong cấu trúc,
nội dung lẫn ngôn ngữ; hy vọng nhờ sự hỗ trợ và động viên của bản Toát yếu
này, sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo được biết đến cách rộng rãi
hơn và được đào sâu nhiều hơn.
Với sự tin tưởng, Tôi trao
bản Toát yếu này trước tiên cho toàn Hội thánh và đặc biệt cho từng người
Kitô hữu, để vào thiên niên kỷ thứ ba này, mỗi người nhờ vào bản Toát yếu,
có được một sức bật mới trong cố gắng Phúc Âm hoá và giáo dục đức tin. Đây phải
là đặc điểm của tất cả các cộng đoàn trong Hội thánh và của tất cả những ai tin
vào Đức Kitô, bất luận tuổi tác hay thuộc quốc gia nào.
Nhờ tính chất ngắn gọn, trong sáng
và đầy đủ, bản Toát yếu này cũng nhắm đến mọi người, đang sống trong một
thế giới phân tán và có quá nhiều sứ điệp, khao khát biết được con Đường Sự
sống, Chân lý, đã được Thiên Chúa trao phó cho Hội thánh của Con mình.
Khi đọc bản Toát yếu có thẩm
quyền này, nhờ sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, Mẹ Đức Kitô và là
Mẹ Hội thánh, mỗi người có thể nhận ra và đón nhận ngày một hơn vẻ đẹp, sự
thống nhất và tính hiện thực bất tận của món quà vô giá mà Thiên Chúa đã ban
tặng cho nhân loại : đó là Con Duy Nhất của Ngài, Đức Giêsu Kitô, Đấng là
“Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14,6).
Ban hành tại Rôma, gần Đền thờ thánh Phêrô, ngày 28 tháng 06 năm 2005,
Áp Đại lễ kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô,
Năm thứ nhất triều đại Giáo hoàng của Tôi
BENEDICTUS PP XVI
Bức
tranh Đức Kitô PANTOCRATOR (Chủ tể muôn loài), có một vẻ đẹp mỹ thuật đặc biệt,
gợi nhớ lời Thánh vịnh : “Giữa thế nhân, ngài vô song tuyệt mỹ, ân sủng được
tuôn đổ trên môi ngài”(Tv 44 [45], 3). Áp dụng lời ca ngợi này vào Chúa Giêsu,
thánh Gioan Kim Khẩu viết : “Đức Kitô ở vào tuổi tuyệt vời, trong sức mạnh của
Chúa Thánh Thần; nơi Người chiếu tỏa một nét đẹp trên cả hai bình diện, nét đẹp
của tâm hồn và nét đẹp của thể xác” (Giáo phụ Hy Lạp [PG] 52,479).
Bằng ngôn ngữ tượng hình, bức tranh này là một tổng hợp các Công đồng
chung đầu tiên, không những trình bày vẻ huy hoàng của nhân tính, nhưng cả vinh
quang của thần tính Chúa Giêsu.
Đức Kitô mặc một áo dài đỏ, bên ngoài là một áo choàng xanh đậm. Hai
màu sắc này nhắc nhớ đến hai bản tính của Người, trong khi các phản chiếu ánh
vàng gợi lên ngôi vị thần linh của Ngôi Lời. Từ vai phải có một dây các phép
nạm vàng sa xuống, biểu trưng chức tư tế vĩnh cửu của Người. Gương mặt Người,
uy nghi và trang trọng, được bao bọc bằng bộ tóc dày trên nền một hào
quang ở giữa có hình thánh giá. Trên hình thánh giá có ba mẫu tự O?N (Người là
Đấng Hiện Hữu) lấy lại mạc khải danh Thiên Chúa trong sách Xuất Hành 14,3. Trên
cao, ở viền bức tranh có hai cặp mẫu tự “IC – XC” (“Jesus” – “Christus”) tạo
thành tựa đề cho bức ảnh.
Bàn tay mặt, ngón cái và ngón đeo nhẫn gấp lại gần như đụng nhau (để chỉ hai bản tính của
Đức Kitô trong sự hợp nhất của ngôi vị), được trình bày với cử chỉ đặc trưng
của việc ban phúc lành. Ngược lại, bàn tay trái, siết chặt quyển Tin Mừng;
quyển sách này có ba ổ khóa, nhiều viên ngọc trai và đá quí. Quyển Tin Mừng,
biểu trưng và tổng hợp Lời Chúa, cũng có một ý nghĩa Phụng vụ vì trong mỗi
Thánh lễ chúng ta đều đọc một đoạn và khi truyền phép chúng ta đọc lại lời
của chính Chúa Giêsu.
Bức tranh này liên kết một cách thành công những yếu tố
tự nhiên và biểu trưng, mời gọi chúng ta suy niệm và bước theo Chúa Giêsu. Ngày
hôm nay, thông qua Hội thánh là Hôn thê và là Thân thể nhiệm mầu của Người,
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục chúc lành cho nhân loại và soi sáng nhân loại bằng Tin
Mừng của Người, đó thực sự là cuốn sách của chân lý, của hạnh phúc và của ơn
cứu độ con người.
Vào tháng 08 năm 386, khi đang ở trong vườn, thánh Augustinô nghe một
tiếng nói với ngài : “Hãy cầm lấy và đọc, hãy cầm lấy và đọc” (Tự thuật
8,12,29). Bản Toát yếu sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo là một tổng hợp Tin
Mừng của Chúa Giêsu được huấn giáo của Hội thánh dạy dỗ; đó là một lời mời để
mở quyển sách chân lý và đọc, và có thể là “ nuốt đi” như lời ngôn sứ Êdêkien
(x. Ed 3,1-4).
THÉOPHANE DE
CRÈTE (1546), Bức tranh về Đức Kitô, Tu viện Stavronikita, núi Athos.
DẪN NHẬP
1. Ngày 11 tháng 10 năm 1992, Đức Giáo
hoàng Gioan-Phaolô II trao cho các tín hữu trên toàn thế giới sách Giáo lý
của Hội thánh Công giáo, như một “bản văn qui chiếu” [1] cho Giáo lý được
canh tân từ nguồn gốc sống động của đức tin. Ba mươi năm sau ngày khai mạc Công
đồng Vaticanô II (1962-1965) một ước mơ đã trở thành hiện thực, ước mơ này đã
được Thượng Hội đồng bất thường của các Giám mục vào năm 1985 đạo đạt lên, đó
là ước muốn có một sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo trình bày tất cả đức
tin cũng như luân lý.
Năm năm sau, ngày 15 tháng 08 năm
1997, khi công bố Ấn bản mẫu của sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo,
Đức Giáo hoàng xác nhận mục đích cơ bản của tác phẩm này : “Đây là một trình
bày đầy đủ và trọn vẹn giáo lý công giáo, cho phép mỗi người nhận ra điều Hội
thánh tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày của
mình” [2].
2. Để làm nổi bật giá trị giáo lý và
để đáp lại một yêu cầu do Đại hội Quốc tế về Giáo lý đạo đạt vào năm 2002, Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thành lập một Ủy ban đặc biệt vào năm 2003, đứng
đầu là Đức Hồng y Joseph Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, ủy thác cho
ngài công tác viết một bản Toát yếu sách Giáo lý của Hội thánh Công
giáo, trong đó các nội dung đức tin được trình bày một cách tổng hợp hơn.
Sau hai năm làm việc, Ủy ban viết được bản Dự thảo bản toát yếu; bản này
được trao cho các Hồng y và Chủ tịch các Hội đồng Giám mục để xin ý kiến. Một
số đông các phúc đáp đều đánh giá cao bản dự thảo này. Vì thế Ủy ban bắt đầu
cho duyệt lại bản dự thảo dựa theo các đề nghị chỉnh sửa để chuẩn bị cho bản
văn cuối cùng.
3. Bản Toát yếu này có ba đặc
điểm chính như sau : lệ thuộc chặt chẽ vào sách Giáo lý của Hội thánh Công
giáo; hình thức hỏi thưa; và việc sử dụng các hình ảnh nghệ thuật
vào trong Giáo lý.
Trước hết, bản Toát yếu này
không phải là một tác phẩm hoàn toàn độc lập và cũng không phải để thay thế cho
sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo; ngược lại luôn qui hướng về sách Giáo
lý, bằng cách ghi những số liên hệ và theo sát cấu trúc, cách trình bày và
nội dung của sách Giáo lý. Ngoài ra bản Toát yếu muốn khơi dậy
mối quan tâm và lòng nhiệt thành đối với sách Giáo lý, sách vẫn luôn là
bản văn nền tảng cho giáo lý của Hội thánh ngày nay bởi cách trình bày khôn
ngoan và chiều sâu thiêng liêng của nó.
Như sách Giáo lý, bản Toát
yếu cũng chia ra làm bốn phần tương ứng với những lề luật căn bản cho đời
sống trong Đức Kitô.
Phần đầu tiên – có tựa đề “Tuyên
xưng đức tin” – gồm một tổng hợp cơ bản về Lex credendi, có nghĩa là
Luật đức tin được Hội thánh Công giáo tuyên xưng, một tổng hợp rút ra từ
Kinh Tin Kính của các thánh Tông đồ, được bổ túc bằng bản Kinh Tin Kính của hai
Công đồng Nicea và Constantinopoli, mà việc công bố liên tục trong những buổi
họp mặt giúp người Kitô hữu luôn nhớ các chân lý nền tảng của đức tin.
Phần thứ hai – có tựa đề “Cử hành
mầu nhiệm Kitô giáo” – trình bày các yếu tố căn bản của Lex celebrandi. Việc
rao giảng Tin Mừng tìm được câu trả lời thích ứng trong đời sống Bí tích. Trong
đời sống này, các tín hữu có kinh nghiệm và làm chứng trong mỗi giây phút cuộc
đời mình hiệu năng cứu độ của mầu nhiệm Vượt qua, trong đó Đức Kitô hoàn tất
công trình cứu độ chúng ta.
Phần thứ ba – có tựa đề “Đời sống trong
Đức Kitô” – nhắc nhớ lại Lex vivendi, có nghĩa là sự dấn thân mà các tín
hữu biểu lộ trong thái độ và sự chọn lựa đạo đức của mình, sự trung thành với
đức tin đã được tuyên xưng và được cử hành. Chúa Giêsu mời gọi các tín hữu thực
hiện những hành động phù hợp với phẩm giá là con của Chúa Cha trong tình yêu
của Chúa Thánh Thần.
Phần thứ tư – có tựa đề “Kinh nguyện Kitô
giáo” - trình bày một tổng hợp về Lex Orandi, có nghĩa là về đời
sống cầu nguyện. Theo gương Chúa Giêsu, mẫu mực tuyệt vời cho kẻ cầu nguyện,
người Kitô hữu được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa trong kinh nguyện, mà một
trong những cách diễn tả ưu thế nhất là Kinh Lạy Cha, đó là kinh do chính Chúa
Giêsu dạy chúng ta.
4. Đặc điểm thứ hai của bản toát yếu
này là hình thức đối thoại, lấy lại hình thức cổ xưa của sách giáo lý, gồm các
câu hỏi và câu thưa. Đây là cách đối thoại giữa thầy và trò qua một loạt câu
hỏi gây chú ý cho người đọc, mời gọi họ khám phá những phương diện luôn luôn
mới của chân lý đức tin của mình. Hình thức hỏi thưa thu ngắn bản văn, đúc kết
vào điểm chính yếu, tiện cho việc học thuộc lòng nội dung.
5. Đặc điểm thứ ba là có nhiều
hình ảnh làm nổi bật cách phân chia bản toát yếu. Các tranh ảnh này được rút từ
gia sản phong phú của nghệ thuật tranh ảnh thánh của Kitô giáo. Từ truyền thống
cả nghìn năm của các Công đồng, chúng ta học biết rằng tranh ảnh cũng là một
cách rao giảng Tin Mừng. Các nghệ nhân của mọi thời đại trình bày cho các tín
hữu chiêm ngắm và kinh ngạc trước những sự kiện nổi bật của mầu nhiệm cứu độ
với sự huy hoàng của màu sắc và vẻ đẹp tuyệt vời. Đó là một dấu chỉ cho thấy tranh
ảnh thánh, trong văn hóa hình ảnh ngày nay, có thể diễn tả nhiều hơn là ngôn
từ, vì trong sự sinh động của nó, sứ điệp Tin Mừng sẽ có nhiều hiệu quả hơn khi
được diễn tả bằng ngôn từ và được tiếp tục truyền đạt.
6. Bốn mươi năm sau ngày kết thúc
Công đồng Vaticanô II và trong năm Thánh Thể, bản Toát yếu có thể xem
như là một công cụ mới để thỏa mãn khát vọng tìm kiếm chân lý của các tín hữu
thuộc mọi lứa tuổi và trong mọi hoàn cảnh, cũng như ước muốn của những ai, dù
chưa phải là tín hữu, đang khao khát chân lý và công bằng. Việc công bố bản Toát
yếu này được diễn ra trong ngày Đại lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô,
cột trụ của Hội thánh toàn cầu và là những người rao giảng gương mẫu Tin Mừng
cho thế giới trong thời đại của các ngài. Các vị Tông đồ này biết rõ điều các
ngài rao giảng và chứng minh cho chân lý Đức Kitô đến hy sinh mạng sống. Chúng
ta hãy bắt chước các ngài trong sự dấn thân truyền giáo và cầu xin Chúa cho Hội
thánh luôn dõi theo giáo huấn của các Tông đồ, nhờ các ngài mà Hội thánh đã
lãnh nhận trước tiên lời tuyên xưng vinh phúc của đức tin.
Lễ Lá, ngày 20 tháng 03 năm 2005
Hồng
Y Joseph Ratzinger
Chủ tịch Ủy Ban đặc biệt
Chú thích
[1] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông
huấn Fidei depositum, 11.10.1992, DC 91 (1993) trang 1.
[2] ĐGH Gioan Phaolô II,
Tông thư Laetamur magnopere, 1508, 1997, DC 94 (1997) trang 851.
Kiệt tác hoành tráng diễn tả việc các Đạo sĩ đến thờ lạy Chúa (x. Mt
2,1-12) trình bày mạc khải của Chúa Giêsu cho muôn dân. Mầu nhiệm Nhập thể là
một hồng ân không những dành cho niềm tin của Đức Maria, của thánh Giuse, của
các người phụ nữ, của những mục đồng, những con người đơn sơ của dân Israel,
nhưng cũng cho niềm tin của những kẻ xa lạ đến từ phương Đông, để thờ lạy Đấng
Mêsia mới sinh và dâng lên Người các lễ vật : “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với
thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng,
nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,11).
Các Đạo sĩ là những người đầu tiên của những dân tộc được mời gọi đến
đức tin; họ đến với Chúa Giêsu không phải với bàn tay không, nhưng với sự phong
phú của quê hương và văn hóa của họ.
Tin Mừng của Chúa Giêsu là lời cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thánh
Giáo hoàng Lêô Cả đã nói : “Mọi dân tộc, được ba vị Đạo sĩ này đại diện, thờ
lạy Đấng Sáng Tạo vũ tru,ï và Thiên Chúa không những được rao giảng trong vùng
Giuđêa, nhưng trên toàn thế giới, để Danh Ngài thật vĩ đại trên toàn Israel (x.
Tv 75,2)” (Bài giảng thứ 3 ngày lễ Hiển linh).
Phần thứ nhất của bản Toát yếu trình bày việc gặp gỡ giữa Thiên Chúa
với con người và là lời đáp trả đức tin mà Hội thánh, nhân danh toàn thể nhân
loại, dâng lên đáp lại hồng ân Nhập thể cứu độ của Con Thiên Chúa và cuộc Mạc
khải thần linh của Người.
Gentile da Fabriano (1423) , Các Đạo sĩ thờ lạy, Galleria degli
Uffizi, Florenz.
PHẦN I
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
ĐOẠN THỨ NHẤT
“TÔI TIN” – “CHÚNG TÔI TIN”
Bức ảnh nhỏ này trình
bày chu kỳ trọn vẹn của sáu ngày sáng tạo cho đến lúc nguyên tổ của nhân loại
bị cám dỗ (x. St 1-3).
Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng !
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan,
những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thỏa thuê ơn phúc…
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi !
(Tv 104, 24-28.35)
Trong đêm Vọng Phục sinh, Hội thánh ca ngợi Chúa vì công
trình vĩ đại hơn nữa của ơn cứu độ nhân loại và vũ trụ
Lạy Thiên Chúa
toàn năng hằng hữu,
Chúa luôn hoạt động với sự khôn ngoan tuyệt vời,
Chúa ban cho loài người mà Chúa đã cứu chuộc
để hiểu hy tế của Đức Kitô, Chiên lễ Vượt qua của chúng con,
là một công trình còn vĩ đại hơn cả công trình sáng tạo vào lúc khởi
đầu vũ trụ.
Thánh Kinh của Souvigny, Những mẫu ảnh nhỏ về những Ngày Tạo dựng, Moulins,
Thư viện thành phố.
1.
Ý định của Thiên Chúa
dành cho con người là gì ?
1-25
Thiên Chúa tự bản thể là Đấng vô
cùng hoàn hảo và hạnh phúc. Theo ý định nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con
người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài. Khi thời gian đến
hồi viên mãn, Thiên Chúa Cha đã cử Con Ngài đến làm Đấng Cứu Thế chuộc tội cho
nhân loại đã sa ngã trong tội lỗi, để kêu gọi họ vào trong Hội thánh Ngài, và
nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, đón nhận họ làm dưỡng tử, và được thừa hưởng
hạnh phúc vĩnh cửu của Ngài.
CHƯƠNG MỘT
CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA
“Lạy Chúa, Chúa vĩ đại và đáng ca tụng. .
. . Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn của chúng con luôn xao
xuyến cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Thánh Augustinô).
2. Tại sao con người khát khao Thiên
Chúa ?
27-30
44-45
Khi tạo dựng con người theo hình
ảnh mình, chính Thiên Chúa đã khắc ghi vào trong tâm hồn họ sự khát khao nhìn
thấy Ngài. Cả khi họ không nhận ra sự khát khao này, Thiên Chúa vẫn không ngừng
lôi kéo họ đến với mình, vì chỉ nơi Thiên Chúa, họ mới sống và tìm được chân lý
và hạnh phúc viên mãn mà họ luôn tìm kiếm. Vì vậy, tự bản chất và do ơn gọi của
mình, con người là một hữu thể tôn giáo, có khả năng bước vào sự hiệp thông với
Thiên Chúa. Dây liên hệ mật thiết và sống động này với Thiên Chúa đem lại cho
con người phẩm giá căn bản của mình.
3. Với ánh sáng tự nhiên của lý trí,
con người có thể nhận biết Thiên Chúa không ?
31-36
46-47
Khởi từ công trình tạo dựng,
nghĩa là từ thế giới vật chất và con người, con người có thể chỉ dùng lý trí
cũng nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của vũ
trụ, là sự thiện hảo tuyệt vời, là chân lý và vẻ đẹp vô cùng vô tận.
4.
Chỉ với ánh sáng tự nhiên của lý trí, con người có đủ khả năng để nhận biết mầu
nhiệm Thiên Chúa hay không ?
37-38
Chỉ với ánh sáng của lý trí, con
người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự
mình, con người không thể nào bước vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì
thế, con người cần được Mạc khải của Thiên Chúa soi dẫn, không những về những
gì vượt quá sự hiểu biết nhân loại, mà cả về những chân lý tôn giáo và luân lý,
tự chúng vốn không vượt quá khả năng của lý trí, để mọi người trong tình trạng
hiện thời của nhân loại có thể biết được một cách dễ dàng, chắc chắn và không
sai lầm.
5. Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa
thế nào ?
39-43
48-49
Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa
cho tất cả mọi người, khởi đi từ những nét hoàn hảo của con người và của những
thụ tạo khác, đó là một phản ánh, dù rất hạn hẹp, về sự hoàn hảo vô tận của
Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta phải không ngừng thanh luyện ngôn ngữ của chúng
ta vì nó bất toàn và bị lệ thuộc vào hình ảnh, phải ý thức rằng chúng ta không
bao giờ có thể diễn tả đầy đủ mầu nhiệm vô tận của Thiên Chúa.
CHƯƠNG HAI
THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI
Mạc khải của Thiên
Chúa
6. Thiên Chúa mạc khải cho con người
điều gì ?
50-53
68-69
Với lòng nhân hậu và sự khôn
ngoan, Thiên Chúa tự mạc khải chính mình cho con người. Qua các hành động và
lời nói, Thiên Chúa tự mạc khải chính Ngài cũng như ý định của lòng nhân hậu,
mà Ngài đã hoạch định tự muôn đời trong Đức Kitô. Ý định này nhằm đón nhận tất
cả mọi người trở thành nghĩa tử trong Người Con duy nhất của Ngài nhờ ân sủng
của Chúa Thánh Thần và cho họ tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
7. Những giai đoạn đầu tiên của Mạc
khải là gì ?
54-58
70-71
Từ nguyên thủy, Thiên Chúa
tỏ mình ra cho nguyên tổ của chúng ta, là ông Ađam và bà Evà, và mời gọi họ
bước vào sự hiệp thông mật thiết với Ngài. Sau khi họ sa ngã, Ngài đã không
chấm dứt việc Mạc khải, nhưng đã hứa ban ơn cứu độ cho tất cả miêu duệ của họ.
Sau cơn lụt đại hồng thủy, Ngài đã ký kết với ông Noe một Giao ước giữa Ngài
với tất cả các sinh linh.
8. Những giai đoạn tiếp theo của Mạc
khải của Thiên Chúa là gì ?
59-64
72
Thiên Chúa chọn ông Abraham, khi
gọi ông rời bỏ quê hương để làm cho ông trở thành “cha của vô số dân tộc” (St
17,5) và hứa qua ông sẽ chúc lành cho “mọi gia tộc trên mặt đất” (St 12,3). Con
cháu của ông Abraham là những kẻ thừa hưởng các lời Thiên Chúa đã hứa với tổ
phụ họ. Thiên Chúa đã lập Israel làm dân Ngài tuyển chọn, cứu thoát họ khỏi ách
nô lệ Ai Cập, ký kết với họ Giao ước Sinai và, qua ông Môsê, Ngài ban cho họ Lề
luật của Ngài. Các tiên tri đã loan báo một ơn cứu chuộc toàn diện cho dân Chúa
cũng là ơn cứu độ dành cho tất cả mọi dân tộc, trong một Giao ước mới và vĩnh
cửu. Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, đã được sinh ra từ dân
9. Giai đoạn Mạc khải trọn vẹn và dứt
khoát của Thiên Chúa là gì ?
65-66
73
Giai đoạn Mạc khải trọn vẹn và
dứt khoát của Thiên Chúa được thực hiện nơi Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu
Kitô, Đấng là trung gian và là viên mãn của Mạc khải. Chúa Giêsu, Con duy nhất
của Thiên Chúa, đã làm người, là Lời hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha. Mạc
khải đã được hoàn tất cách trọn vẹn qua việc Thiên Chúa Cha sai Con Ngài và ban
tặng Thánh Thần, mặc dù đức tin của Hội thánh phải dần dần trải qua bao thế kỷ
mới nhận biết ý nghĩa đầy đủ của Mạc khải.
“Từ
khi Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Ngài, Đấng là Lời duy nhất và dứt khoát của
Ngài, Thiên Chúa đã nói với chúng ta một lần duy nhất trong Lời này và
Ngài không còn gì để nói thêm nữa” (Thánh Gioan Thánh Giá).
10. Các mạc khải tư có gía trị gì ?
67
Mặc dầu các mạc khải tư không
thuộc về kho tàng đức tin, nhưng chúng có thể giúp chúng ta sống đức tin, với
điều kiện chúng có một liên hệ chặt chẽ với Đức Kitô. Huấn quyền Hội thánh, có
thẩm quyền để phân định các mạc khải tư đó, không thể chấp nhận những mạc khải
tư nào vượt qua hay muốn sửa đổi Mạc khải dứt khoát là chính Đức Kitô.
Lưu truyền Mạc
khải của Thiên Chúa
11. Tại sao phải lưu truyền Mạc khải của Thiên Chúa và lưu
truyền bằng cách nào ?
74
Thiên Chúa “muốn cho mọi người
được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4), nghĩa là nhận biết Đức Giêsu
Kitô. Vì thế, phải rao giảng Đức Kitô cho mọi người, như chính lời Người dạy :
“Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Điều này đã được thực
hiện bởi Truyền thống các Tông đồ, gọi tắt là Truyền thống tông đồ.
12. Truyền thống tông đồ
là gì ?
75-79
83
96, 98
Truyền thống tông đồ là
việc chuyển đạt sứ điệp của Đức Kitô, đã được thực hiện ngay từ lúc khởi đầu
Kitô giáo, qua việc rao giảng, làm chứng, các cơ chế, phụng tự, và các sách
được linh ứng. Các Tông đồ đã chuyển đạt mọi điều các ngài đã lãnh nhận từ Đức
Kitô và học hỏi từ Chúa Thánh Thần cho những người kế nhiệm các ngài, là các
giám mục, và qua họ, cho mọi thế hệ đến tận thế.
13. Truyền thống tông đồ
được thực hiện như thế nào ?
76
Tông truyền được thực hiện bằng
hai cách : qua việc chuyển đạt sống động Lời Chúa (được gọi cách đơn sơ là
Thánh truyền) và qua Thánh Kinh, trong đó cùng một lời rao giảng ơn cứu độ được
ghi lại thành chữ viết.
14. Tương quan giữa
Thánh truyền và Thánh Kinh như thế nào ?
80-82
97
Thánh truyền và Thánh Kinh liên
kết và giao lưu mật thiết với nhau. Thật vậy, cả hai làm cho mầu nhiệm Đức Kitô
được hiện diện và sung mãn trong Hội thánh và cả hai cùng xuất phát từ một cội
nguồn là Thiên Chúa. Cả hai làm nên một kho tàng đức tin duy nhất, nơi Hội
thánh nhận được sự đảm bảo chắc chắn về tất cả những chân lý được mạc khải.
15. Kho tàng đức tin đã
được ủy thác cho ai ?
84, 91
94, 99
Từ thời các thánh Tông đồ, kho
tàng đức tin đã được ủy thác cho toàn thể Hội thánh. Nhờ Chúa Thánh Thần hỗ trợ
và nhờ Huấn quyền hướng dẫn, với cảm thức siêu nhiên của đức tin, toàn thể dân
Chúa đón nhận Mạc khải của Thiên Chúa, hiểu biết mỗi ngày một sâu xa hơn, và cố
gắng sống Mạc khải đó.
16. Ai có thẩm quyền để
giải nghĩa kho tàng đức tin ?
85-90
100
Chỉ có Huấn quyền sinh động của
Hội thánh, nghĩa là vị kế nhiệm thánh Phêrô làm Giám mục Rôma và các Giám mục
hiệp thông với ngài, mới có đủ thẩm quyền giải thích kho tàng đức tin. Huấn
quyền, trong việc phục vụ Lời Chúa, được hưởng đặc sủng về chân lý, có trách
nhiệm xác định các tín điều, nghĩa là những công thức trình bày các chân lý
chứa đựng trong Mạc khải của Thiên Chúa; thẩm quyền này cũng áp dụng trên các
chân lý có liên hệ thiết yếu với Mạc khải.
17. Đâu là mối tương quan giữa Thánh truyền, Thánh Kinh và
Huấn quyền ?
95
Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn
quyền liên hệ chặt chẽ với nhau, đến độ thực thể này không hiện hữu nếu không
có hai thực thể kia. Dưới tác động của cùng một Chúa Thánh Thần, cả ba góp phần
cách hữu hiệu vào ơn cứu độ loài người, mỗi thực thể theo cách thức riêng của
mình.
Thánh Kinh
18. Tại sao Thánh Kinh lại có thể dạy chân lý ?
105-108
135-136
Bởi vì chính Thiên Chúa là tác
giả của Thánh Kinh. Thánh Kinh là quyển sách được linh ứng và dạy dỗ cách không
sai lạc những chân lý cần thiết cho ơn cứu độ chúng ta. Thật vậy, Chúa Thánh
Thần linh ứng cho các tác giả phàm nhân để họ viết ra những điều Thiên Chúa
muốn dạy dỗ chúng ta. Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo không phải là một “tôn giáo
của sách vở”, nhưng là của Lời Thiên Chúa, “không là một ngôn từ được viết ra
và câm lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và sống động” (thánh Bênađô Clairvaux).
19. Chúng ta phải đọc Thánh Kinh như thế nào ?
109-119
137
Thánh Kinh phải được đọc và giải
thích dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, và phải theo sự hướng dẫn của Huấn
quyền Hội thánh, theo ba tiêu chuẩn : (1) phải chú ý đến nội dung và sự duy
nhất của toàn bộ Thánh Kinh; (2) phải đọc Thánh Kinh trong Thánh truyền sống
động của Hội thánh; (3) phải chú ý đến tính tương hợp của đức tin, nghĩa là đến
sự liên hệ hài hòa giữa các chân lý đức tin với nhau.
20. Quy điển (Canon) của các Sách Thánh là gì
?
120, 138
Quy điển các Sách
Thánh là danh mục đầy đủ về các Sách Thánh, mà Tông truyền đã phân định rõ ràng
cho Hội thánh. Quy điển này gồm có bốn mươi sáu tác phẩm Cựu Ước và hai
mươi bảy tác phẩm Tân Ước.
21. Đâu là tầm quan trọng của Cựu Ước đối với các người Kitô
hữu ?
121-123
Người Kitô hữu tôn kính Cựu Ước
như là Lời đích thực của Thiên Chúa. Tất cả các tác phẩm của Cựu Ước được Thiên
Chúa linh ứng nên có một giá trị trường tồn. Cựu Ước là bằng chứng cho thấy
nghệ thuật giáo dục bằng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Và nhất là, các tác
phẩm Cựu Ước được viết ra để chuẩn bị cho việc Đức Kitô, Đấng Cứu Độ muôn loài,
ngự đến.
22. Đâu là tầm quan trọng của Tân Ước đối với các người Kitô
hữu ?
124-127
139
Trung tâm của Tân Ước là Đức
Giêsu Kitô. Tân Ước dạy chúng ta chân lý dứt khoát được Thiên Chúa mạc khải.
Trong Tân Ước, bốn quyển Phúc Âm – Matthêu, Marcô, Luca và Gioan – là những
chứng từ chính yếu về đời sống và về lời giảng dạy của Chúa Giêsu; bốn quyển
sách này tạo thành trung tâm của tất cả Sách Thánh và có một vị trí độc nhất
trong Hội thánh.
23. Đâu là sự thống nhất giữa Cựu Ước và Tân Ước ?
128-130
140
Thánh Kinh chỉ là một, vì chỉ có
một Lời Chúa duy nhất, một chương trình cứu độ duy nhất của Thiên Chúa và một
linh ứng duy nhất của Thiên Chúa cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Cựu Ước chuẩn bị
cho Tân Ước và Tân Ước hoàn thành Cựu Ước : cả hai soi sáng cho nhau.
24. Thánh Kinh giữ vai trò nào trong đời sống Hội thánh ?
131-133
141-142
Thánh Kinh đem lại sự hỗ trợ và
sức mạnh cho đời sống Hội thánh. Đối với con cái Hội thánh, Thánh Kinh là sự
củng cố đức tin, là lương thực và nguồn mạch của đời
sống tinh thần. Thánh Kinh là linh hồn của các môn thần học và giảng thuyết mục
vụ. Thánh Vịnh gọi Thánh Kinh là “đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường
con đi” (Tv 118 [119],105). Vì thế, Hội thánh khuyến khích chúng ta thường
xuyên đọc Thánh Kinh, vì “không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô” (thánh
Giêrônimô).
CHƯƠNG BA
LỜI ĐÁP TRẢ CỦA CON NGƯỜI VỚI THIÊN CHÚA
Tôi Tin
25. Con người đáp trả như thế nào với Thiên Chúa, Đấng tự mạc
khải ?
142-143
Được ân sủng của Thiên Chúa nâng
đỡ, con người đáp lời Thiên Chúa bằng việc vâng phục đức tin, bao gồm việc tin
tưởng trọn vẹn vào Thiên Chúa và đón nhận chân lý của Ngài, chân lý được Thiên
Chúa bảo đảm vì chính Ngài là Chân Lý.
26. Trong Thánh Kinh, ai là những nhân chứng chính yếu cho
việc vâng phục đức tin ?
144-149
Có rất nhiều chứng nhân, nhưng
đặc biệt là hai vị :
- Ông Abraham,
dù bị thử thách, “vẫn vững tin vào Thiên Chúa” (Rm 4,3) và luôn vâng phục tiếng
gọi của Ngài; vì thế ông trở thành “tổ phụ của tất cả những người tin” (Rm
4,11.18);
- Đức Trinh Nữ Maria,
trong suốt cuộc đời đã thể hiện một cách tuyệt vời sự vâng phục đức tin :
“Fiat mihi secundum verbum tuum – xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc
1,38).
27. Tin vào Thiên Chúa có ý nghĩa cụ thể gì cho con người ?
150-152
176-178
Tin vào Thiên Chúa có nghĩa là
gắn bó với chính Thiên Chúa, tin tưởng phó thác bản thân cho Ngài và chấp nhận
tất cả những chân lý do Ngài mạc khải vì Ngài chính là Chân lý. Điều này có
nghĩa là tin vào Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị : Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần.
28. Đức tin có những đặc điểm gì ?
153-165
179-180
183-184
Đức tin là một hồng ân nhưng
không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng
khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin
là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con
người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, tự do gắn bó với chân lý của Thiên
Chúa. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc chắn, vì được đặt nền tảng
trên Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động “nhờ Đức ái” (Gl 5,6); đức
tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện.
Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta nếm trước niềm vui trên trời.
29. Tại sao không có mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học ?
159
Dù đức tin vượt lên trên lý trí,
nhưng không bao giờ có mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học, vì cả hai đều có
cùng một cội nguồn là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ban ánh sáng lý trí và đức
tin cho con người.
“Tôi tin để hiểu và tôi hiểu
để tin” (Thánh Augustinô).
Chúng Tôi Tin
30. Tại sao đức tin là một hành vi cá nhân nhưng đồng thời
cũng là hành vi mang tính giáo hội ?
166-169
181
Đức tin là một hành vi cá nhân,
vì đó là sự đáp trả tự do của con người đối với Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải.
Nhưng đồng thời đó cũng là một hành vi mang tính giáo hội, tính chất này được
bày tỏ trong lời tuyên xưng đức tin : “Chúng tôi tin.” Thật vậy, chính Hội
thánh tin : qua đó, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, Hội thánh đi bước trước,
sinh ra và nuôi dưỡng đức tin của mỗi người. Vì thế, Hội thánh là Mẹ và là Thầy.
“Không ai có thể có Thiên
Chúa là Cha, mà lại không có Hội thánh là Mẹ.” (Thánh Cyrianô)
31. Tại sao những công thức đức tin lại quan trọng ?
170-171
Những công thức đức tin là quan
trọng vì chúng giúp ta diễn tả, đồng hóa, cử hành và cùng chia sẻ với những
người khác các chân lý đức tin, khi sử dụng một ngôn ngữ chung.
32. Phải hiểu như thế nào về đức tin duy nhất của Hội thánh ?
172-175
182
Dù được hình thành do nhiều người
khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa và phong tục, Hội thánh đồng thanh tuyên xưng
một đức tin duy nhất, được lãnh nhận từ một Chúa duy nhất và được chuyển đạt
qua một Truyền thống tông đồ duy nhất. Hội thánh tuyên xưng một Thiên Chúa duy
nhất –Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – và dạy một con đường cứu độ duy
nhất. Vì thế, chúng ta, cùng một lòng một ý, tin những gì chứa đựng trong Lời
Chúa, được truyền đạt hay được viết ra và được Hội thánh xác định là do Thiên
Chúa mạc khải.
ĐOẠN THỨ HAI
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
KITÔ GIÁO
Bức tranh ghép đá cổ xưa,
trong đại thánh đường Rôma cổ mang tên thánh Clêmentê, tôn vinh vinh quang thập
giá, mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Chúng ta có thể thấy hoa rực rỡ
quanh gốc cây ô-rô, từ gốc cây này mọc lên rất nhiều cành lá uốn lượn theo mọi
hướng, cùng với hoa và quả của chúng. Sức sống của cây này xuất phát từ thánh
giá Chúa Giêsu, mà Hy tế của Người làm nên cuộc tái sáng tạo con người và vũ
trụ. Chúa Giêsu là Ađam mới, Đấng nhờ mầu nhiệm khổ nạn, cái chết và sự Phục
sinh, làm cho nhân loại được nở hoa, khi Người giao hòa nhân loại này lại với
Chúa Cha.
Chung quanh Đức Kitô đau
khổ có mười hai con bồ câu trắng, chỉ mười hai vị Tông đồ. Dưới chân thánh giá,
có Đức Maria và người môn đệ được thương mến : “Khi thấy thân mẫu và môn đệ
mình thương mến đứng bên cạnh, Chúa Giêsu nói với thân mẫu rằng : ‘Thưa Bà, đây
là con của bà.’ Rồi Người nói với môn đệ : ‘Đây là mẹ của anh.’ Kể từ giờ đó,
người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 29,26-27).
Trên cao, xuất hiện bàn
tay của Chúa Cha, trao vòng vinh quang cho Con mình, Đấng chiến thắng sự chết
nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Người.
Ở dưới gốc cây, một con
nai con chiến đấu với con rắn của sự dữ. Cây này tượng trưng cho cây cứu độ,
sản sinh ra một dòng suối từ đó nước tuôn tràn, đem lại sức sống cho bốn con
suối nhỏ biểu trưng cho bốn sách Phúc Âm, mà các tín hữu kín múc để uống, như
những con nai uống suối nước hằng sống. Ở đây, Hội thánh được trình bày như một
vườn thiên quốc được Chúa Giêsu làm cho sinh động, Người chính thực là cây sự
sống.
Đại thánh đường
Thánh Clêmentê, Rôma, Tranh ghép đá ở tiền đình, thế kỷ XII, (chi tiết :
Thập giá, cây sự sống). Được phục chế với phép của các cha dòng Đaminh
Ai-len
KINH TIN KÍNH
Kinh Tin Kính các Thánh Tông đồ
Tôi tin kính Đức Chúa Trời
là Cha phép tắc vô cùng dựng nên
trời đất.
Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô
là Con Một Đức Chúa Cha
cùng là Chúa chúng tôi.
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần
mà Người xuống thai,
sinh bởi bà Maria đồng trinh,
chịu nạn đời quan Phongxiô
Philatô,
chịu đóng đinh trên cây thánh
giá,
chết và táng xác,
xuống ngục tổ tông,
ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà
sống lại,
lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha
phép tắc vô cùng,
ngày sau bởi trời lại xuống
phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.
Tôi tin có Hội thánh hằng có ở
khắp thế này,
các Thánh thông công.
Tôi tin phép tha tội.
Tôi tin xác loài người ngày sau
sống lại.
Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Kinh Tin Kính
Nicea-Constantinopoli
Tôi tin kính một Thiên Chúa
là Cha toàn năng,
Đấng tạo thành trời đất,
muôn vật hữu hình và vô hình.
Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô,
Con Một Thiên Chúa,
sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước
muôn đời.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên
Chúa,
Ánh sáng bởi Ánh sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa
thật,
được sinh ra mà không phải được
tạo thành,
đồng bản thể với Đức Chúa Cha :
nhờ Người mà muôn vật được tạo
thành.
Vì loài người chúng ta và để cứu
độ chúng ta,
Người đã từ trời xuống thế.
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần,
Người đã nhập thể trong lòng
Trinh Nữ Maria
và đã làm người.
Người chịu đóng đinh vào thập giá
vì chúng ta,
thời quan Phongxiô Philatô;
Người chịu khổ hình và mai táng,
ngày thứ ba Người sống lại như
lời Thánh Kinh.
Người lên trời, ngự bên hữu Đức
Chúa Cha,
và Người sẽ lại đến trong vinh
quang
để phán xét kẻ sống và kẻ chết,
Nước Người sẽ không bao giờ cùng.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần
là Thiên Chúa và là Đấng ban sự
sống,
Người bởi Đức Chúa Cha
và Đức Chúa Con mà ra.
Người được phụng thờ và tôn vinh
cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con :
Người đã dùng các tiên tri mà phán
dạy.
Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh
thiện,
công giáo và tông truyền.
Tôi tuyên xưng có một Phép Rửa để
tha tội.
Tôi trông đợi kẻ chết sống lại
và sự sống đời sau. Amen.
CHƯƠNG MỘT
TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA
Những bản tuyên
xưng đức tin
33. Những bản tuyên xưng đức tin là gì ?
185-188
192, 197
Đó là những công thức ngắn gọn,
còn được gọi là “những bản tuyên xưng đức tin” hay “Kinh Tin Kính,” qua đó Hội
thánh, ngay từ thuở ban đầu, đã diễn tả đức tin của mình một cách tổng hợp và
chuyển đạt đức tin ấy bằng một ngôn ngữ chuẩn hoá và chung cho mọi tín hữu.
34. Những bản tuyên xưng đức tin cổ nhất là những bản nào ?
189-191
Những bản tuyên xưng đức tin cổ
xưa nhất là những Kinh Tin Kính khi cử hành Bí tích Rửa tội. Vì Bí tích
Rửa tội được ban “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19), nên các chân
lý đức tin mà các người lãnh nhận Bí tích Rửa tội tuyên xưng, được phân chia
theo ba Ngôi vị của Thiên Chúa Ba Ngôi.
35. Những bản tuyên xưng đức tin quan trọng nhất là những bản
nào ?
193-195
Những bản quan trọng nhất là :
- Kinh Tin Kính của các
Thánh Tông đồ, là bản tuyên xưng đức tin cổ xưa nhất dùng khi cử hành Bí tích
Rửa tội của Giáo hội Rôma;
- Kinh Tin Kính Công
Đồng Nicea-Constantinopoli, là kết quả của hai Công Đồng Chung đầu tiên, tại
Nicea (năm 325) và tại Constantinopoli (năm 381).
Hai bản này vẫn còn là hai bản
chung cho tất cả các Giáo hội lớn của Đông phương và Tây phương.
“TÔI TIN
KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA PHÉP TẮC VÔ CÙNG,
DỰNG NÊN TRỜI ĐẤT”
36. Tại sao bản tuyên xưng đức tin được khởi đầu bằng “Tôi tin
kính Đức Chúa Trời” ?
198-199
Bởi vì xác quyết “Tôi tin kính
Đức ChúaTrời” là điều quan trọng nhất. Xác quyết này là nguồn gốc của mọi chân
lý khác về con người, về vũ trụ và về toàn bộ đời sống của những ai tin Thiên
Chúa.
37. Tại sao chúng ta tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất ?
200-202
228
Bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải cho
dân
38. Thiên Chúa tự mạc khải với danh thánh nào ?
203-205
230-231
Thiên Chúa đã mạc khải chính mình
cho Môsê là Thiên Chúa hằng sống, “Thiên Chúa của Ábraham, Thiên Chúa của
Isaác, Thiên Chúa của Giacóp” (Xh 3,6). Ngài cũng mạc khải Danh Thánh huyền
nhiệm của Ngài cho ông : “Ta là Đấng Hằng Hữu” (YHWH). Ngay từ thời Cựu Ước,
Danh Thánh của Thiên Chúa không được phép đọc lên, nên phải thay thế bằng thuật
ngữ Đức Chúa. Như vậy trong Tân Ước, Chúa Giêsu được người ta gọi là Đức
Chúa, tức là được nhìn nhận là Thiên Chúa thật.
39. Có phải chỉ một mình Thiên Chúa “hiện hữu” không ?
212-213
Trong khi tất cả mọi thụ tạo đều
lãnh nhận từ Thiên Chúa tất cả những gì chúng có và hiện hữu, chỉ Thiên Chúa
mới tự mình hiện hữu một cách trọn vẹn và tuyệt hảo. Ngài là “Đấng hằng hữu,”
không có khởi đầu và cũng chẳng có cùng tận. Chúa Giêsu cũng mạc khải rằng Người
mang Danh Thánh : “Ta là Đấng hằng hữu” (Ga 8,28).
40. Tại sao việc Mạc khải Danh Thánh Thiên Chúa là điều quan
trọng ?
206-213
Qua việc Mạc khải Danh Thánh,
Thiên Chúa cho thấy sự phong phú chất chứa trong mầu nhiệm khôn lường của Ngài.
Chỉ mình Ngài hiện hữu từ muôn thuở và cho đến muôn đời. Ngài siêu việt trên vũ
trụ và lịch sử. Chính Ngài là Đấng tạo thành trời đất. Ngài là Thiên Chúa trung
tín, luôn gần gũi với dân để cứu độ họ. Ngài là Đấng Thánh tuyệt hảo, “giàu
lòng nhân hậu” (Ep 2,4), luôn sẵn sàng tha thứ. Ngài là Hữu Thể thiêng liêng,
siêu việt, toàn năng, vĩnh cửu, ngôi vị, trọn hảo. Ngài là chân lý và tình yêu.
“Thiên
Chúa là Hữu Thể tuyệt hảo vô tận, là Ba Ngôi cực thánh.” (thánh Turibius
thành
41. Phải hiểu “Thiên Chúa là chân lý” như thế nào ?
214-217
231
Thiên Chúa là chính Chân
lý; và do đó, Ngài không tự dối gạt mình cũng không dối gạt ai. Ngài là
“Ánh sáng, nơi Ngài không có một chút bóng tối nào” (1 Ga 1,5). Con vĩnh cửu
của Thiên Chúa, là sự Khôn Ngoan nhập thể, đã được sai đi vào thế gian “để làm
chứng cho sự thật” (Ga 18,37).
42. Thiên Chúa mạc khải Ngài là Tình Yêu như thế nào ?
218-221
Thiên Chúa tự mạc khải cho dân
43. Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất bao hàm những gì ?
222-227
229
Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất
bao hàm việc nhận biết sự vĩ đại và quyền năng của Ngài, sống trong sự cảm tạ,
luôn tin tưởng vào Ngài, cả khi gặp nghịch cảnh, nhận biết sự hợp nhất và phẩm
giá đích thực của mọi người, đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, và sử
dụng cách đúng đắn những gì Thiên Chúa đã dựng nên.
44. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời sống Kitô giáo là
gì ?
232-237
Mầu nhiệm trung tâm của đức tin
và đời sống Kitô giáo là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Các người Kitô
hữu được Rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
45. Chỉ dùng lý trí, con người có thể nhận biết mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi hay không ?
237
Thiên Chúa đã để lại những dấu
vết về thực thể Ba Ngôi của Ngài trong công trình tạo dựng và trong Cựu Ước,
nhưng đời sống nội tại của Ba Ngôi chí thánh vẫn là một mầu nhiệm mà lý trí
thuần túy của con người không thể nào đạt đến được, và ngay cả đức tin của
Israel cũng không thể biết mầu nhiệm đó, trước thời Con Thiên Chúa nhập thể và
Chúa Thánh Thần được gởi đến. Mầu nhiệm này đã được Đức Giêsu Kitô mạc khải và
là nguồn gốc của tất cả các mầu nhiệm khác.
46. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta điều gì về mầu nhiệm
Chúa Cha ?
240-242
Đức Giêsu Kitô mạc khải cho chúng
ta Thiên Chúa là “Cha”, không những vì Ngài là Đấng sáng tạo vũ trụ và con
người, nhưng trên hết, từ đời đời Ngài đã sinh ra Chúa Con tự lòng mình, Đấng là
Ngôi Lời, là “phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên
Chúa” (Dt 1,3).
47. Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta,
là ai ?
243-248
Ngài là Ngôi thứ ba trong Ba Ngôi
cực thánh. Ngài là Thiên Chúa, hợp nhất và đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Con.
Ngài “xuất phát từ Chúa Cha” (Ga 15,26), Đấng là nguyên lý không có khởi đầu,
là nguồn gốc trọn vẹn cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng
xuất phát từ Chúa Con (Filioque), vì Chúa Cha đã trao ban Ngài cho Chúa
Con như Ân ban vĩnh cửu. Được Chúa Cha và Chúa Con nhập thể sai phái, Chúa
Thánh Thần hướng dẫn Hội thánh đến sự nhận biết “Chân lý trọn vẹn” (Ga 16,13).
48. Hội thánh diễn tả đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi như thế
nào ?
249-256
266
Hội thánh diễn tả đức tin vào
Thiên Chúa Ba Ngôi khi tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất mà Ngài có Ba Ngôi :
Cha, Con và Thánh Thần. Ba Ngôi vị thần linh chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, vì
mỗi Ngôi vị đều có trọn vẹn bản thể duy nhất và không thể phân chia của Thiên
Chúa. Ba Ngôi thực sự phân biệt giữa nhau qua các liên hệ tương quan với nhau.
Chúa Cha sinh Chúa Con; Chúa Con được Chúa Cha sinh ra; Chúa Thánh Thần xuất
phát từ Chúa Cha và Chúa Con.
49. Các Ngôi vị Thiên Chúa hoạt động như thế nào ?
257-260
267
Ba Ngôi vị thần linh không thể
tách rời nhau trong cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời
trong các hoạt động của mình. Ba Ngôi có cùng một hoạt động duy nhất . Tuy
nhiên, trong hoạt động thần linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách
đặc thù của mình trong Ba Ngôi.
“Lạy Thiên
Chúa của con, Lạy Ba Ngôi con tôn thờ . . . xin ban bình an cho linh hồn con,
xin biến linh hồn con thành thiên đàng của Chúa, nơi trú ngụ dễ mến và
nơi yên nghỉ của Chúa. Không bao giờ con muốn bỏ mặc Chúa một mình, nhưng con
sẽ trọn vẹn ở đó, tỉnh thức trong đức tin, hoàn toàn thờ lạy, và hoàn toàn phó
thác vào hoạt động sáng tạo của Chúa.” (Chân phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi)
50. Thiên Chúa toàn năng nghĩa là gì ?
268-278
Thiên Chúa tự mạc khải chính Ngài
là “Đấng mạnh mẽ, oai hùng” (Tv 23 [24],8), Đấng “không có gì là không thể làm
được” (Lc 1,37). Sự toàn năng của Ngài là phổ quát, và mầu nhiệm. Sự toàn năng
này được biểu lộ trong việc sáng tạo vũ trụ từ hư vô và sáng tạo con người vì
tình yêu, nhưng nhất là trong mầu nhiệm Nhập thể và trong sự Phục sinh Con của
Ngài, trong hồng ân đón nhận chúng ta làm nghĩa tử và thứ tha tội lỗi. Vì thế,
Hội thánh dâng lời cầu nguyện lên “Thiên Chúa toàn năng và vĩnh cửu” (“Omnipotens
sempiterne Deus…”).
51. Tại sao việc khẳng định rằng : “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa
dựng nên trời và đất” (St 1,1) lại rất quan trọng ?
279-289
315
Bởi vì việc tạo dựng là nền tảng
cho tất cả dự định cứu độ của Thiên Chúa. Tạo dựng là việc biểu lộ tình yêu
toàn năng và khôn ngoan của Thiên Chúa; đó là bước đầu tiên hướng đến Giao ước
của Thiên Chúa duy nhất với dân Ngài; đó là khởi điểm của lịch sử cứu độ, lịch
sử này đạt tới chóp đỉnh nơi Chúa Giêsu; đó là câu trả lời đầu tiên cho các vấn
nạn căn bản của con người về nguồn gốc và cùng đích của mình.
52. Ai đã tạo dựng vũ trụ ?
290-292
316
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần là nguyên lý duy nhất và không thể phân chia của việc tạo dựng, mặc dù
công trình tạo dựng vũ trụ được đặc biệt gán cho Chúa Cha.
53. Vũ trụ được dựng nên để làm gì ?
293-294
319
Vũ trụ được dựng nên để tôn vinh
Thiên Chúa, Đấng đã muốn biểu lộ và thông ban lòng nhân hậu, chân lý và vẻ đẹp
của Ngài. Mục đích tối hậu của việc tạo dựng là để Thiên Chúa, trong Đức Kitô,
“có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28), vì vinh quang của Ngài và hạnh
phúc của chúng ta.
“Vinh
quang của Thiên Chúa là con người sống và sự sống của con người là được nhìn
thấy Thiên Chúa” (Thánh Irênê).
54. Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ như thế nào ?
295-301
317-320
Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ
cách tự do, bằng sự khôn ngoan và tình yêu. Vũ trụ không phải là sản phẩm của
một luật tất yếu nào đó, của một định mệnh mù quáng hoặc bởi ngẫu nhiên. Thiên
Chúa đã sáng tạo “từ hư vô” (ex nihilo; 2 Mcb 7,28), một thế giới
được sắp xếp trật tự và tốt lành, nhưng Ngài vô cùng cao cả siêu việt trên mọi
loài. Ngài gìn giữ vạn vật trong sự hiện hữu, nâng đỡ và ban cho nó khả năng
hoạt động và hướng dẫn nó đến sự trọn hảo nhờ Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
55. Sự Quan phòng của Thiên Chúa là gì ?
302-306
321
Sự Quan phòng của Thiên Chúa là
những sắp xếp nhờ đó Thiên Chúa hướng dẫn các thụ tạo của mình đến chỗ hoàn hảo
mà Ngài đã định cho chúng. Thiên Chúa là tác giả tối cao của kế hoạch Ngài;
nhưng để thực hiện kế hoạch đó, Ngài cũng sử dụng sự cộng tác của các thụ tạo.
Đồng thời, Ngài ban cho chúng phẩm giá là tự hoạt động và trở thành nguyên nhân
cho nhau.
56. Con người cộng tác vào sự Quan phòng của Thiên Chúa như
thế nào ?
307-308
323
Tuy tôn trọng tự do của con
người, nhưng Thiên Chúa ban cơ hội và đòi hỏi con người cộng tác với Ngài qua
hành động, kinh nguyện và cả sự đau khổ của họ, khi gợi lên trong họ “ước muốn
cũng như hành động theo lòng nhân hậu của Ngài” (Pl 2,13).
57.
Nếu Thiên Chúa toàn năng và quan phòng, tại sao lại có sự dữ ?
309-310
324, 400
Chỉ có toàn bộ đức tin
Kitô giáo mới có thể trả lời cho câu hỏi vừa bi thảm vừa mầu nhiệm này. Thiên
Chúa không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ, dù trực tiếp hay gián tiếp. Ngài
làm sáng tỏ mầu nhiệm sự dữ nhờ Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và đã
sống lại để chiến thắng sự dữ luân lý to lớn là tội lỗi của con người, nguồn
gốc của tất cả những sự dữ khác.
58. Tại sao Thiên Chúa lại cho
phép sự dữ xuất hiện ?
311-314
324
Đức tin giúp chúng ta xác tín
rằng Thiên Chúa đã không cho phép sự dữ xuất hiện, nếu Ngài không làm phát sinh
điều thiện hảo từ chính sự dữ đó. Điều này Thiên Chúa đã thực hiện cách tuyệt
vời trong cái chết và sự sống lại của Đức Kitô. Thật vậy, từ sự dữ luân lý lớn
nhất, là cái chết của Con Ngài, Ngài đã rút ra những điều thiện hảo vĩ đại
nhất, đó là việc tôn vinh Đức Kitô và là ơn cứu độ chúng ta.
Trời và Đất
59. Thiên Chúa đã tạo dựng
những gì ?
325-327
Thánh Kinh nói : “Lúc khởi đầu
Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Trong bản tuyên xưng đức tin, Hội thánh
công bố Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo muôn vật hữu hình và vô hình, mọi loài
thiêng liêng và vật chất, nghĩa là các thiên thần và thế giới hữu hình, và đặc
biệt nhất là con người.
60. Các thiên thần là ai ?
328-333
350-351
Các thiên thần là những thụ tạo
thiêng liêng, không có thân xác, vô hình và bất tử; đó là những hữu thể có ngôi
vị, có lý trí và ý chí. Họ không ngừng chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện và
tôn vinh Thiên Chúa; các ngài phục vụ Thiên Chúa và là những sứ giả của Ngài để
thực hiện sứ vụ cứu độ loài người.
61. Các thiên thần hiện diện trong đời sống của
Hội thánh như thế nào ?
Hội thánh liên kết với các thiên
thần để tôn thờ Thiên Chúa; Hội thánh kêu cầu sự trợ giúp của các ngài và trong
phụng vụ, Hội thánh kính nhớ một số vị trong các ngài.
“Bên cạnh
mỗi tín hữu đều có một thiên thần như Đấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ đến
sự sống” (Thánh Basiliô cả).
62.
Thánh Kinh dạy gì về việc tạo dựng thế giới hữu hình ?
337-344
Qua chuyện kể “sáu ngày” tạo
dựng, Thánh Kinh cho chúng ta biết giá trị của thế giới thụ tạo, và mục đích
của nó là để tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ con người. Mọi vật hiện hữu là nhờ
Thiên Chúa, tất cả đều lãnh nhận từ Thiên Chúa sự tốt lành và hoàn hảo, lề luật
và vị trí của mình trong vũ trụ.
63.
Đâu là vị trí của con người trong công trình tạo dựng ?
343-344
353
Con người là chóp đỉnh của các
thụ tạo hữu hình, vì được dựng nên theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.
64. Các thụ tạo liên hệ với nhau như thế nào ?
342
354
Giữa các thụ tạo có mối liên hệ
với nhau và một phẩm trật theo ý Thiên Chúa. Đồng thời cũng có một sự hợp nhất
và liên đới giữa các thụ tạo, vì tất cả đều có cùng một Đấng Sáng Tạo, tất cả
đều được Ngài yêu mến và được sắp xếp để tôn vinh Ngài. Vì thế, tôn trọng những
lề luật đã được khắc ghi trong công trình tạo dựng và những mối tương quan phát
xuất từ bản tính của mọi vật, là một nguyên tắc khôn ngoan và là một nền tảng
của luân lý.
65. Đâu là mối liên hệ giữa công trình sáng
tạo và công trình cứu chuộc ?
345-349
Công trình sáng tạo đạt tới tột
đỉnh trong một công trình còn vĩ đại hơn nữa, là công trình cứu chuộc. Thật
vậy, công trình cứu chuộc là khởi điểm cho công trình sáng tạo mới, trong đó
tất cả sẽ tìm được ý nghĩa trọn vẹn và sự viên mãn của mình.
Con người
66. Phải hiểu “Con người được dựng nên theo hình
ảnh Thiên Chúa” theo nghĩa nào ?
355-357
Con người được dựng nên theo hình
ảnh Thiên Chúa theo nghĩa họ có khả năng nhận biết và yêu mến một cách tự do
Đấng Sáng Tạo nên mình. Trên mặt đất, chỉ có con người là thụ tạo đã được Thiên
Chúa dựng nên cho chính họ và mời gọi họ tham dự vào đời sống thần linh của
Ngài nhờ nhận biết và yêu thương. Vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa,
con người có phẩm giá của một ngôi vị; họ không phải là một sự vật, nhưng là
một con người có khả năng nhận thức về bản thân mình, tự hiến mình cách tự do
và đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân.
67. Thiên Chúa dựng nên con người với mục đích gì
?
358-359
381
Thiên
Chúa đã dựng nên tất cả cho con người, nhưng con người được dựng nên để nhận
biết, phục vụ và yêu mến Thiên Chúa; hầu ở trần gian, họ dâng lên Thiên Chúa
mọi thụ tạo mà tạ ơn Ngài, nhờ đó họ sẽ được nâng lên trời sống với Thiên Chúa.
Chỉ trong mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập thể mà mầu nhiệm về con người mới thực sự
được sáng tỏ. Con người được tiền định để phản ánh hình ảnh của Con Thiên Chúa
làm người, Đấng là “hình ảnh trọn hảo của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15).
68.
Tại sao loài người tạo thành một sự thống nhất ?
360-361
Tất cả mọi người tạo thành sự
thống nhất của dòng giống loài người, vì họ có cùng một nguồn gốc, được lãnh
nhận từ nơi Thiên Chúa. Hơn nữa, Thiên Chúa, “đã tạo thành toàn thể nhân loại
từ một người duy nhất” (Cv 17,26). Tất cả đều có một Đấng Cứu Độ duy nhất. Tất
cả đều được mời gọi dự phần vào hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
69.
Trong con người, linh hồn và thân xác tạo thành một sự thống nhất như thế nào ?
362-365
382
Con người là một hữu thể vừa thể
xác, lại vừa tinh thần. Trong con người, tinh thần và vật chất tạo thành một
bản thể duy nhất. Sự thống nhất này rất sâu xa đến độ, nhờ nguyên lý tinh thần
là linh hồn mà thể xác, vốn là vật chất, trở thành một thân xác con người sống
động, và được dự phần vào phẩm giá “là hình ảnh của Thiên Chúa.”
70.
Ai ban linh hồn cho con người ?
366-368
382
Linh hồn thiêng liêng và bất tử
không đến từ cha mẹ, nhưng được Thiên Chúa tạo dựng cách trực tiếp. Linh hồn
lìa khỏi thân xác lúc người ta chết, nhưng linh hồn không chết. Linh hồn sẽ tái
hợp với thân xác trong ngày sống lại sau hết.
71. Thiên Chúa đã thiết lập mối liên hệ nào giữa
người nam và người nữ?
369-373
383
Người nam và người nữ được Thiên
Chúa dựng nên với một phẩm giá ngang nhau là những nhân vị, và đồng thời họ bổ
túc cho nhau trong tư cách là nam và nữ. Thiên Chúa đã muốn tạo dựng họ cho
nhau, làm nên một sự hiệp thông các bản vị. Cả hai cùng được mời gọi truyền lại
sự sống con người trong hôn nhân, khi cả hai trở nên “một xương một thịt” (St
2,24) và làm chủ trái đất như những “người quản lý” của Thiên Chúa.
72.
Tình trạng nguyên thủy của con người theo kế hoạch của Thiên Chúa là gì ?
374-379
384
Khi sáng tạo người nam và người
nữ, Thiên Chúa đã cho họ tham dự cách đặc biệt vào đời sống thần linh của Ngài,
trong sự thánh thiện và công chính. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, con người sẽ
không phải đau khổ, cũng không phải chết. Ngoài ra, có một sự hài hòa tuyệt hảo
nơi chính con người, giữa thụ tạo với Đấng Sáng tạo, giữa người nam với người
nữ, cũng như giữa đôi vợ chồng đầu tiên với toàn thể thụ tạo.
Sự Sa Ngã
73.
Làm thế nào để hiểu được thực tại của tội lỗi ?
385-389
Tội lỗi hiện diện trong lịch sử
loài người. Một thực tại như thế chỉ được hiểu biết cách đầy đủ dưới ánh sáng
Mạc khải của Thiên Chúa, và nhất là dưới ánh sáng của Đức Kitô, Đấng Cứu Độ mọi
người, Đấng tuôn đổ ân sủng thật sung mãn bất cứ nơi
nào tràn đầy tội lỗi.
74.
Sự sa ngã của các thiên thần là gì ?
391-395
414
Với cách diễn tả này, người ta
muốn nói rằng Satan và các ma quỉ khác, được Thánh Kinh và Thánh truyền nói
đến, vốn là các thiên thần tốt lành do Thiên Chúa dựng nên, nhưng đã trở thành
ác xấu, bởi vì, qua việc chọn lựa tự do và dứt khoát, chúng từ chối Thiên Chúa
và Vương quyền của Ngài và như thế làm phát sinh ra hỏa ngục. Chúng cố gắng lôi
kéo con người vào cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa; nhưng trong Đức
Kitô, Thiên Chúa xác nhận chiến thắng chắc chắn của Ngài trên Ác thần.
75.
Tội đầu tiên của con người cốt tại điều gì ?
396-403
415-417
Con người, bị ma quỷ cám dỗ, đã
dập tắt trong trái tim mình sự tin tưởng vào những liên hệ với Đấng Sáng Tạo
của mình. Khi không tuân phục Thiên Chúa, con người muốn trở nên “như Thiên
Chúa,” không nhìn nhận Thiên Chúa và không còn căn cứ vào Thiên Chúa nữa (St
3,5). Như thế, Ađam và Evà lập tức đánh mất ân sủng của sự thánh thiện và sự
công chính nguyên thủy cho bản thân và tất cả con cháu họ.
76.
Tội tổ tông truyền là gì ?
404
419
Mọi người đều bị sinh ra trong
nguyên tội. Nguyên tội là tình trạng thiếu vắng ơn thánh sủng và sự công chính
nguyên thủy. Đó là một tội mà chúng ta “vướng mắc” chứ không phải là một tội mà
chúng ta vấp phạm ; đó là tình trạng lúc chào đời chứ không phải là một hành vi
cá nhân. Do sự thống nhất của toàn thể loài người, tội này được truyền lại cho
con cháu của Ađam trong bản tính loài người, “không phải do bắt chước, nhưng là qua truyền sinh.” Việc truyền đạt này là một mầu
nhiệm mà chúng ta không thể hiểu được cách trọn vẹn.
77.
Những hậu quả khác do nguyên tội gây nên là gì ?
405-409
418
Sau khi tổ tông đã phạm tội, bản
tính con người không hoàn toàn bị hủy hoại, nhưng bị thương tật trong các sức
lực tự nhiên của mình, chịu sự u mê, đau khổ và nằm dưới quyền lực sự chết; bản
tính con người bị nghiêng chiều về tội lỗi. Sự nghiêng chiều này được gọi là
dục vọng (concupiscentia).
78.
Thiên Chúa đã làm gì sau tội đầu tiên của con người ?
410-412
420
Sau tội đầu tiên, thế gian đã bị
tràn ngập tội lỗi, nhưng Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự
chết. Trái lại, Ngài đã tiên báo cách mầu nhiệm – trong “Tiền Tin Mừng” (x. St
3,15)– rằng sự dữ sẽ bị đánh bại và con người sẽ được nâng dậy khỏi sự sa ngã
của họ. Đó là lời tiên báo đầu tiên về Đấng Mêsia cứu chuộc. Vì thế, chúng ta
đã gọi sự sa ngã là “tội hồng phúc” (felix culpa), vì “nhờ có
ngươi, ta mới có được Đấng Cứu Chuộc cao cả dường này” (Phụng Vụ đêm Vọng Phục
sinh).
CHƯƠNG HAI
TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ,
CON MỘT THIÊN CHÚA
79.
Tin Mừng cho con người là gì ?
422-424
Tin Mừng là lời loan báo về Đức
Giêsu Kitô, “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đấng đã chết và đã sống lại.
Vào thời vua Hêrôđê và Hoàng Đế Xêdarê Augustô, Thiên Chúa đã thực hiện những
lời Ngài đã hứa với Ábraham và dòng dõi qua việc Ngài đã sai “Con Mình tới,
sinh làm con một người nữ và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề
luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Ga 4,4-5).
80.
Tin Mừng này được loan truyền như thế nào ?
425-429
Ngay từ đầu, các môn đệ tiên khởi
đã khao khát loan báo Đức Giêsu Kitô, nhằm làm cho mọi người tin vào Người.
Ngày nay cũng thế, sự hiểu biết say mê Đức Kitô làm nẩy sinh nơi các tín hữu
niềm khao khát rao giảng Tin Mừng và dạy giáo lý, nghĩa là giúp mọi người nhận
thấy tất cả kế hoạch của Thiên Chúa trong con người Chúa Giêsu và dẫn đưa nhân
loại đến hiệp thông với Người.
“TÔI TIN KÍNH ĐỨC
CHÚA GIÊSU KITÔ,
LÀ CON MỘT ĐỨC
CHÚA CHA, CÙNG LÀ CHÚA CHÚNG TÔI”
81.
Danh thánh “Giêsu” nghĩa là gì ?
430-435
452
Danh thánh Giêsu, được thiên thần
gọi ngay từ lúc Truyền tin, có nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Danh thánh này nói
lên căn tính và sứ mạng của Chúa Giêsu, vì “chính Người sẽ cứu dân mình khỏi
tội” (Mt 1,21). Thánh Phêrô khẳng định rằng “dưới gầm trời này không có danh
nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào Danh đó mà được cứu độ”
(Cv 4,12).
82.
Tại sao Chúa Giêsu lại được gọi là “Đấng Kitô” ?
436-440
453
“Kitô” là tiếng Hy Lạp, còn
“Mêsia” là tiếng Hypri, có nghĩa là “được xức dầu”. Chúa Giêsu là Đấng Kitô vì
Người được Thiên Chúa thánh hiến, được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần để đảm nhận
sứ mạng cứu chuộc của Người. Người là Đấng Mêsia mà dân
83.
Chúa Giêsu là “Con Một Thiên Chúa” theo ý nghĩa nào ?
441-445
454
Chúa Giêsu là “Con Một Thiên
Chúa” theo một ý nghĩa duy nhất và trọn hảo. Vào lúc Người chịu phép rửa và
trong cuộc Hiển Dung, tiếng của Chúa Cha cho thấy Chúa Giêsu là “Con yêu dấu”
của Ngài. Khi Chúa Giêsu tự giới thiệu mình là Con, chỉ mình Người “biết Chúa
Cha” (Mt 11,27), Người khẳng định mối tương quan duy nhất và vĩnh cửu của mình
với Thiên Chúa là Cha của Người. “Người là Con duy nhất của Thiên Chúa” (1 Ga
4,9), là Ngôi Hai trong Ba Ngôi. Người là trung tâm của lời rao giảng của các
thánh Tông đồ : các Tông đồ đã thấy “vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa
Cha ban cho Người, là Con Một” (Ga 1,14).
84.
Tước hiệu “Đức Chúa” có ý nghĩa gì ?
446-451
455
Trong Thánh Kinh, thường tước
hiệu này để chỉ Thiên Chúa tối cao. Chúa Giêsu tự nhận cho mình tước hiệu này
và mạc khải quyền tối thượng thần linh của Người qua quyền năng của Người trên
thiên nhiên, trên ma quỉ, trên tội lỗi và trên cái chết, và nhất là qua cuộc
phục sinh của Người. Những tuyên xưng đầu tiên của các người Kitô hữu công bố
quyền năng, danh dự và vinh quang dành cho Thiên Chúa Cha cũng thuộc về Chúa
Giêsu, Đấng mà Thiên Chúa “đã ban tặng danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu”
(Pl 2,9). Người là Đức Chúa của trần gian và của lịch sử, là Đấng duy nhất mà
mọi người, với sự tự do của mình, phải hoàn toàn tùng phục.
“BỞI PHÉP ĐỨC CHÚA
THÁNH THẦN
MÀ NGƯỜI XUỐNG
THAI SINH BỞI BÀ MARIA ĐỒNG TRINH”
85.
Tại sao Con Thiên Chúa làm người ?
456-460
Con Thiên Chúa đã nhập thể trong
lòng Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, vì loài người chúng ta và để cứu
rỗi chúng ta, có nghĩa là để chúng ta, là những kẻ tội lỗi, được giao hòa với
Thiên Chúa, để cho chúng ta biết được tình thương vô bờ bến của Ngài, để trở
nên mẫu gương cho chúng ta về sự thánh thiện và để làm cho chúng ta trở thành
những người “được thông phần bản tính Thiên Chúa ( 2 Pr 1,4).
86.
Hai tiếng “Nhập Thể” có nghĩa là gì ?
461-463
483
Hội thánh dùng từ “Nhập Thể” để
gọi mầu nhiệm của sự kết hợp tuyệt vời của thần tính và nhân tính trong Ngôi vị
thần linh duy nhất của Ngôi Lời. Để thực hiện công cuộc cứu rỗi chúng ta, Con
Thiên Chúa đã hóa thành “xác thể” (Ga 1,14), trở thành con người thật. Đức tin
vào mầu nhiệm Nhập thể là dấu chỉ phân biệt của niềm tin Kitô giáo.
87.
Đức Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật như thế nào ?
464-467
469
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và
là người thật, không thể tách rời nhau trong sự duy nhất của Ngôi vị Thiên Chúa
của Người. Chính Người là Con Thiên Chúa, là Đấng “được sinh ra mà không phải
được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha”, Người thật sự trở thành con
người, trở thành anh em của chúng ta, tuy không ngừng là Thiên Chúa, là Đức
Chúa của chúng ta.
88.
Công đồng Chalcedonia (năm 451) dạy gì về vấn đề này ?
467
Công đồng Chalcedonia dạy chúng
ta phải tuyên xưng : “một Chúa Con duy nhất, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta,
Người hoàn hảo trong thần tính, Người cũng hoàn hảo trong nhân tính, thật sự là
Thiên Chúa và thật sự là người, có một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng
bản thể với Chúa Cha theo thần tính mà cũng đồng bản thể với chúng ta theo nhân
tính, “giống chúng ta về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15), sinh bởi
Đức Chúa Cha theo thần tính từ trước muôn đời, và trong những ngày cuối cùng
này, vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người được sinh ra theo nhân tính từ
Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.”
89.
Hội thánh diễn tả mầu nhiệm Nhập thể như thế nào ?
464-469
479-481
Hội thánh diễn tả mầu nhiệm này
khi xác quyết rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, với hai
bản tính là thần tính và nhân tính, không lẫn lộn, nhưng kết hợp trong Ngôi
Lời. Vì thế, trong nhân tính của Chúa Giêsu, tất cả – các phép lạ, đau khổ và
cái chết – đều được qui về Ngôi vị thần linh của Người, Đấng hoạt động qua nhân
tính mà Ngôi vị này đảm nhận.
“Ôi Con
duy nhất và là Ngôi Lời của Thiên Chúa, dù bất tử, nhưng để cứu rỗi chúng con,
Chúa đã nhập thể nơi Đức Maria, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa và mãi mãi đồng trinh…
Chúa là Một trong Ba Ngôi chí thánh, được tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần, xin cứu độ chúng con!” (Phụng vụ Byzantin của thánh Gioan Kim
Khẩu).
90.
Có phải Con Thiên Chúa làm người có một linh hồn với tri thức nhân loại không ?
470-474
482
Con Thiên Chúa đã đón nhận một
thân xác được một linh hồn nhân loại có tri thức làm cho sinh động. Với tri
thức nhân loại, Chúa Giêsu đã học hỏi nhiều qua kinh nghiệm. Nhưng cũng với tư
cách là con người, Con Thiên Chúa có một sự hiểu biết thâm sâu và trực tiếp về
Thiên Chúa, Cha của Người. Người cũng nhìn thấu những tư tưởng thầm kín của con
người và hiểu biết đầy đủ các ý định muôn thuở mà Người đến để mạc khải.
91.
Hai ý muốn nơi Ngôi Lời nhập thể hợp tác với nhau như thế nào ?
475
482
Chúa Giêsu có một ý muốn của
Thiên Chúa và một ý muốn của con người. Trong cuộc sống nơi trần gian, Con
Thiên Chúa đã muốn làm theo con người điều mà Người đã quyết định theo thần
tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần về ơn cứu độ chúng ta. Ý muốn nhân loại
của Đức Kitô luôn theo ý muốn thần linh, không miễn cưỡng, không đối kháng, và
hơn nữa, ý muốn nhân loại của Người đã tùng phục ý muốn thần linh.
92.
Đức Kitô có một thân xác con người thật không ?
476-477
Đức Kitô đã đón nhận một thân xác
thật sự của con người, qua đó Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Vì thế,
Đức Kitô có thể được trình bày và tôn kính qua các ảnh tượng thánh.
93.
Trái tim của Đức Kitô nói lên điều gì ?
478
Đức Kitô biết và yêu thương chúng
ta bằng một trái tim của con người. Trái tim của Người bị đâm thâu để cứu độ
chúng ta, là biểu trưng cho tình yêu vô biên của Người đối với Chúa Cha và đối
với tất cả mọi người.
94.
Câu “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai…” có ý nghĩa gì ?
484-486
Câu này muốn nói lên rằng Đức
Trinh Nữ Maria đã thụ thai trong lòng mình Người Con Vĩnh Cửu là bởi tác động
của Chúa Thánh Thần chứ không có sự cộng tác của một người nam : “Thánh Thần sẽ
ngự xuống trên Bà” (Lc 1,35), đó là lời thiên thần đã nói với Đức Maria lúc
Truyền tin.
95.
“… sinh bởi Bà Maria Đồng Trinh” : tại sao Đức Maria thực sự là Mẹ Thiên
Chúa ?
495
509
Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên
Chúa bởi vì là Mẹ của Chúa Giêsu (Ga 2,1; 19,25). Thật vậy, Đấng mà Mẹ đã
cưu mang bởi tác động của Chúa Thánh Thần và đã thực sự là con của Mẹ, chính là
Con hằng hữu của Thiên Chúa Cha. Chính Người là Thiên Chúa.
96.
“Vô Nhiễm Nguyên Tội” nghĩa là gì ?
487-492
508
Từ muôn thuở và một cách hoàn
toàn nhưng không, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm Mẹ của Con mình. Để chu toàn
sứ mạng này, Mẹ đã được ơn vô nhiễm ngay từ lúc được thụ thai. Điều này
có nghĩa là, nhờ ân sủng của Thiên Chúa và đón nhận trước công nghiệp của Đức
Giêsu Kitô, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ ngay từ lúc được thụ
thai.
97.
Đức Maria đã cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như thế nào ?
493-494
508-511
Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Đức
Maria, suốt đời vẫn tinh tuyền không hề phạm một tội riêng nào. Mẹ là “Đấng đầy
ân phúc”(Lc 1,28), “Đấng rất thánh.” Khi Thiên Thần báo tin rằng Mẹ sẽ sinh
“Con Đấng Tối cao” (Lc 1,32), Mẹ đã tự do chấp nhận trong “sự vâng phục của đức
tin” (Rm 1,5). Đức Maria tự hiến hoàn toàn cho con người và công trình của Chúa
Giêsu, Con của Mẹ, và với trọn tâm hồn Mẹ chấp nhận ý định cứu độ của Thiên
Chúa.
98.
Việc mang thai Chúa Giêsu một cách đồng trinh có ý nghĩa gì ?
496-498
503
Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu
được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ chỉ do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà
thôi, không có sự can thiệp của người đàn ông. Người là Con Thiên Chúa trên
trời theo thần tính, là Con của Đức Maria theo nhân tính, nhưng thực sự là Con
Thiên Chúa trong hai bản tính, cùng hiện diện trong một Ngôi vị duy nhất, là
ngôi vị thần linh.
99.
Câu “Đức Maria trọn đời đồng trinh” có ý nghĩa gì ?
499-507
510-511
“Đức Maria trọn đời đồng trinh”
có nghĩa là Mẹ “vẫn còn đồng trinh khi thụ thai Con mình, đồng trinh khi sinh
Con, đồng trinh khi bồng ẵm Người, đồng trinh khi cho Người bú mớm, là người mẹ
đồng trinh, vĩnh viễn đồng trinh” (thánh Augustinô). Khi các Phúc Âm nói về
“anh chị em của Chúa Giêsu,” thì đó là những người bà con họ hàng gần của Chúa
Giêsu, theo như cách nói thông thường trong Thánh Kinh.
100.
Bằng cách nào tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria mang tính phổ quát ?
501-507
511
Đức Maria chỉ có một người Con
duy nhất, là Chúa Giêsu, nhưng trong Người, tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ nới
rộng cho hết mọi người đã được Chúa Giêsu cứu độ. Vâng phục bên cạnh Ađam mới
là Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ là bà Evà mới, bà mẹ đích thực của chúng sinh.
Với tình yêu từ mẫu, Mẹ cộng tác vào việc sinh hạ và nuôi dưỡng họ trong trật
tự ân sủng. Vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ, Đức Maria là hình ảnh của Hội thánh, là
sự thể hiện toàn hảo nhất của Hội thánh.
101.
“Cả cuộc đời Đức Kitô là một Mầu nhiệm” nghĩa là gì ?
512-521
561-562
Cả cuộc đời của Đức Kitô là một
sự kiện mạc khải. Điều có thể thấy được trong cuộc đời trần thế của Người dẫn
chúng ta đến Mầu nhiệm vô hình , nhất là Mầu nhiệm Con Thiên Chúa
của Người : “Ai thấy Tôi là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Đàng khác, mặc dù ơn cứu
độ đã được hoàn thành trọn vẹn qua thập giá và cuộc phục sinh, nhưng trọn cuộc
đời của Đức Kitô là Mầu nhiệm cứu độ, vì tất cả những gì Chúa Giêsu đã
làm, đã nói và đã chịu đau khổ đều có mục đích là để cứu độ loài người sa ngã
và để tái lập ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta.
102.
Các mầu nhiệm của Chúa Giêsu đã được chuẩn bị như thế nào ?
522-524
Trước hết, đã có một thời gian hy
vọng lâu dài hằng bao thế kỷ, mà chúng ta cảm nhận lại khi cử hành Phụng vụ mùa
Vọng. Ngoài sự chờ đợi lờ mờ mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn các người
ngoại giáo, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho việc Con Ngài ngự đến qua Giao ước cũ,
cho đến thời ông Gioan Tẩy Giả, là người cuối cùng, nhưng lại vĩ đại
nhất trong số các tiên tri.
103. Tin Mừng về mầu nhiệm Giáng sinh và
thời thơ ấu của Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì ?
525-530
563-564
Vào lúc Giáng sinh, vinh
quang thiên quốc được tỏ lộ trong sự yếu đuối của Hài Nhi. Việc cắt bì Chúa
Giêsu đã lãnh nhận là dấu chỉ Người thuộc về dân Do Thái và tượng trưng cho Bí
tích Rửa tội của chúng ta. Hiển Linh là việc Vua-Mêsia của
104. Quãng đời ẩn dật của Chúa Giêsu tại
533-534
564
Suốt cuộc sống ẩn dật ở
105. Tại sao Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của ông Gioan để “sám
hối hầu được ơn tha tội” (Lc 3,3) ?
535-537
565
Để khởi đầu quãng đời công khai
và để tham dự trước vào Phép rửa là cái chết của mình, Chúa Giêsu, dù
không có tội lỗi nào, và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Ga
1,29), cũng chấp nhận liệt mình vào hàng các tội nhân. Chúa Cha tuyên bố Người
là “Con yêu dấu” của mình (Mt 3,17) và Thánh Thần ngự xuống trên Người. Phép
rửa của Chúa Giêsu là hình ảnh báo trước Bí tích Rửa tội của chúng ta.
106. Những
cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc nói lên điều gì ?
538-540
566
Những cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu
trong sa mạc thu tóm cơn cám dỗ của Ađam trong vườn địa đàng và những cơn cám
dỗ của
107. Ai được mời gọi tham dự vào Nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu
loan báo và thực hiện ?
541-546
567
Chúa Giêsu mời gọi mọi người tham
dự vào Nước Thiên Chúa. Cả kẻ xấu xa nhất trong các tội nhân cũng được mời gọi
sám hối và đón nhận lòng thương xót vô biên của Chúa Cha. Ngay trên mặt đất
này, Nước Thiên Chúa đã thuộc về những ai đón nhận với tâm hồn khiêm tốn. Những
mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa được mạc khải cho những người này.
108. Tại sao Chúa Giêsu biểu lộ Nước Trời bằng các dấu chỉ và phép
lạ ?
547-550
567
Chúa Giêsu làm các dấu chỉ và
phép lạ kèm theo lời của Người, để chứng tỏ rằng Nước Trời đang hiện diện nơi
Người, là Đấng Mêsia. Mặc dù đã chữa lành một số bệnh nhân, Người không
đến để loại trừ mọi cái xấu ra khỏi trái đất, nhưng trước hết là để giải phóng
con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Cuộc chiến đấu chống lại ma quỉ báo trước
rằng thập giá của Người sẽ chiến thắng “thủ lãnh thế gian” (Ga 12,31).
109. Trong Nước Trời, Chúa Giêsu đã trao quyền hành nào cho các
Tông đồ của Người ?
551-553
567
Chúa Giêsu chọn Nhóm Mười Hai,
những chứng nhân tương lai cho cuộc phục sinh của Người. Người cho họ tham dự
vào sứ vụ và quyền hành của Người để dạy dỗ, tha thứ tội lỗi, xây dựng và điều
khiển Hội thánh. Trong Nhóm này, thánh Phêrô lãnh nhận “chìa khóa Nước Trời”
(Mt 16,19) và chiếm địa vị thứ nhất, có sứ mạng gìn giữ đức tin được toàn vẹn
và củng cố các anh em mình.
110. Việc Hiển Dung có ý nghĩa gì ?
554-556
568
Trước hết, Thiên Chúa Ba Ngôi
xuất hiện trong cuộc Hiển Dung : “Chúa Cha trong lời nói, Chúa Con trong nhân
tính của mình, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói” (thánh Tôma Aquinô).
Khi gợi lên cho ông Môsê và ông Êlia về cuộc “ra đi của mình” (Lc 9,31), Chúa
Giêsu cho thấy rằng vinh quang của Người phải kinh qua thập giá; và Người sống
trước cuộc phục sinh và cuộc trở lại trong vinh quang của Người, lúc Người “sẽ
biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”
(Pl 3,21).
“Chúa đã
hiển dung trên núi và các môn đệ chiêm ngắm vinh quang Người tùy khả năng, để
mai sau khi thấy Người chịu đóng đinh thập giá, họ hiểu rằng Người đã tự nguyện
chịu khổ hình. Rồi họ sẽ loan báo cho muôn dân biết Người chính là vinh quang
Chúa Cha chiếu tỏa” (Phụng Vụ Byzantin).
111. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia như
thế nào ?
557-560
569-570
Vào thời gian đã định, Chúa Giêsu
quyết lên Giêrusalem để chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại từ cõi chết. Với tư
cách là Đức Vua-Mêsia, Đấng loan báo Vương quốc của Thiên Chúa đến, Người đi
vào thành của Người, cỡi trên một con lừa. Những kẻ bé mọn đón rước Người bằng
lời tung hô mà về sau được đưa vào kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” trong
Thánh Lễ : “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Mt 21,9). Phụng vụ Hội
thánh khởi đầu Tuần Thánh bằng việc cử hành biến cố này.
“ĐỨC GIÊSU
KITÔ ĐÃ CHỊU NẠN ĐỜI QUAN PHONGXIÔ PHILATO,
CHỊU ĐÓNG ĐINH
TRÊN CÂY THÁNH GIÁ, CHẾT VÀ TÁNG XÁC”
112. Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu có
tầm quan trọng nào ?
571-573
Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa
Giêsu, bao gồm cuộc khổ nạn, cái chết, sự phục sinh và tôn vinh của Người, là
trung tâm của đức tin Kitô giáo. Vì ý định cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất
một lần thay cho tất cả nhờ cái chết cứu độ của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu
Kitô.
113. Chúa Giêsu bị kết án vì những lời buộc tội nào ?
574-576
Một số thủ lãnh Israel đã kết án
Chúa Giêsu chống lại Lề Luật, chống lại Đền thờ Giêrusalem và đặc biệt chống
lại niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, bởi vì Người tự tuyên bố mình là Con của
Thiên Chúa. Chính vì thế họ đã nộp Người cho quan Philatô, để Người bị kết án
tử hình.
114. Đâu là thái độ của Chúa Giêsu đối với Lề luật
577-582
592
Chúa Giêsu không hủy bỏ Lề luật
do Thiên Chúa trao ban cho ông Môsê trên núi Sinai, nhưng Người đã làm cho Lề
luật nên trọn bằng cách đem lại cho Lề luật lời giải thích tối hậu. Người là
Đấng ban hành Lề luật của Thiên Chúa, Đấng chu toàn Lề luật cách viên mãn.
Ngoài ra, qua cái chết đền tội trong vai trò Người Tôi Trung, Người hiến dâng
hy tế duy nhất có khả năng cứu chuộc tất cả “tội lỗi người ta đã phạm trong
thời Giao ước đầu tiên” (Dt 9,15).
115. Đâu là thái độ của Chúa Giêsu đối với Đền thờ Giêrusalem ?
583-586
593
Chúa Giêsu bị kết án là có thái
độ thù nghịch với Đền thờ. Thực ra, Người đã tôn trọng Đền thờ như là “nhà của
Cha mình” (Ga 2,16). Chính tại đó Người đã giảng dạy một phần giáo huấn quan
trọng của Người. Nhưng Người cũng báo trước Đền thờ sẽ bị tàn phá, trong liên
hệ với cái chết của Người. Người tự giới thiệu mình là nơi cư ngụ vĩnh viễn của
Thiên Chúa giữa loài người.
116. Chúa Giêsu có chống lại niềm
tin của
587-591
594
Chúa Giêsu không bao giờ chống
lại niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, cả khi Người hoàn tất công trình của
Thiên Chúa cách trọn hảo, chu toàn các lời hứa về Đấng Mêsia và đồng thời mạc
khải Người ngang hàng với Thiên Chúa : đó là việc tha thứ các tội lỗi. Người
mời gọi chúng ta phải tin vào Người và phải sám hối, giúp chúng ta nhận ra sự
hiểu lầm bi thảm của Công nghị đã kết án Người đáng phải chết vì lý do phạm
thượng.
117. Ai chịu trách nhiệm về cái chết của
Chúa Giêsu ?
595-598
Không thể qui trách nhiệm cuộc
khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu một cách không phân biệt cho mọi người Do
Thái thời đó, cũng như cho con cháu họ sau này. Mỗi tội nhân, nghĩa là mọi
người, thực sự là nguyên nhân và công cụ gây nên những đau khổ của Đấng Cứu
Chuộc. Chịu trách nhiệm nặng nề hơn nữa là những người, đặc biệt nhất là các
người Kitô hữu, thường xuyên sa ngã phạm tội và vui thoả trong những điều xấu
xa.
118. Tại sao cái chết của Chúa Giêsu
lại nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa ?
599-605
619
Để tất cả chúng ta, là những kẻ
đáng chết, được giao hòa trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã đưa ra một kế hoạch tràn
đầy tình yêu là sai Con mình đến phó mình chịu chết vì những kẻ tội lỗi.
Cái chết của Đức Kitô đã được loan báo trong Cựu Ước, đặc biệt như hy tế của
Người Tôi Tớ chịu đau khổ, và đã xảy ra “theo như lời Thánh Kinh.”
119. Đức Kitô đã dâng hiến mình cho Chúa
Cha như thế nào ?
606-609
620
Đức Kitô đã tự do dâng hiến mình
cho Chúa Cha, để chu toàn ý định cứu độ. Người đã trao ban sự sống “làm giá
chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45). Nhờ đó, Người giao hòa toàn thể nhân loại
với Thiên Chúa. Sự đau khổ và cái chết của Người cho thấy nhân tính của Người
là dụng cụ tự do và hoàn hảo để Thiên Chúa, Đấng muốn cứu độ mọi người, thể
hiện tình yêu của Ngài.
120. Việc
dâng hiến của Chúa Giêsu được diễn tả như thế nào trong Bữa Tiệc Ly ?
610-611
621
Trong Bữa Tiệc Ly với các Tông đồ
vào buổi tối truớc cuộc Khổ nạn, Chúa Giêsu đã tham dự trước, nghĩa là Người ám
chỉ và thực hiện trước, việc tự nguyện dâng hiến chính mình : “Đây là Mình Thầy
bị nộp vì anh em” (Lc 22,19); “Đây là Máu Thầy, máu đổ ra…” (Mt 26,28). Như
thế, Người vừa thiết lập Bí tích Thánh Thể như việc “tưởng nhớ” (1 Cr 11,25)
đến hy tế của Người, vừa thiết lập các Tông đồ của Người thành những tư tế của
Giao ước mới.
121. Điều gì đã xảy ra trong cơn hấp hối
nơi vườn Giếtsêmani ?
612
Mặc dầu nhân tính rất thánh của
Đấng là “Tác giả sự sống” (Cv 3,15) đã khiếp sợ sự chết, nhưng ý chí nhân loại
của Con Thiên Chúa vẫn tùng phục thánh ý Chúa Cha : để cứu độ chúng ta, Chúa
Giêsu chấp nhận gánh lấy tội lỗi chúng ta trong thân xác mình, Người “vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,8).
122. Hiệu
quả hy tế của Đức Kitô trên thập giá là gì ?
613-617
622-623
Chúa Giêsu tự nguyện hiến dâng
mạng sống mình làm hy lễ đền tội, nghĩa là Người sửa lại tội lỗi chúng ta bằng
sự vâng phục trọn vẹn của Người vì tình yêu cho đến chết. Tình “Yêu thương đến
cùng” (Ga 13,1) của Con Thiên Chúa đã giao hòa toàn thể nhân loại với Thiên
Chúa. Như vậy, Hy lễ Vượt qua của Đức Kitô cứu chuộc mọi người cách độc nhất vô
nhị, hoàn hảo và tối hậu, và mở lối cho họ vào sự hiệp thông với Thiên Chúa.
123. Tại sao Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ
vác lấy thập giá của họ ?
618
Khi kêu gọi các môn đệ vác thập
giá mình mà theo Người, Chúa Giêsu muốn những người đầu tiên hưởng nhờ hy tế
cứu độ của Người được kết hợp vào hy tế ấy.
124. Thân xác của Chúa Giêsu ở trong
tình trạng nào khi Người nằm trong mồ ?
624-630
Đức Kitô đã chết thật sự và đã
được mai táng thật sự. Nhưng quyền năng Thiên Chúa đã gìn giữ thân xác Người
khỏi bị hư nát.
“ĐỨC GIÊSU KITÔ
XUỐNG NGỤC TỔ TÔNG,
NGÀY THỨ BA BỞI
TRONG KẺ CHẾT MÀ SỐNG LẠI”
125. “Ngục tổ tông” mà Chúa Giêsu đi
xuống là gì ?
632-637
“Ngục tổ tông” – khác với hỏa
ngục của án phạt – là tình trạng của những người chết trước thời của Chúa
Giêsu, dù họ lành thánh hay xấu xa. Với linh hồn được kết hợp với Ngôi vị thần
linh, Chúa Giêsu xuống với những kẻ công chính trong ngục tổ tông, là những
người đang mong chờ Đấng Cứu Chuộc họ, để cuối cùng họ có thể đạt được sự hưởng
kiến Thiên Chúa. Sau khi nhờ cái chết của Người, Chúa Giêsu đã chiến thắng cả
sự chết lẫn ma quỉ là “lãnh chúa của sự chết” (Dt 2,14), Người giải thoát những
người công chính đang mong chờ Đấng Cứu Chuộc, và Người mở cửa trời cho họ.
126. Cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu
có vị trí nào trong đức tin của chúng ta ?
631,638
Cuộc Phục sinh là chân lý cao cả
nhất của đức tin chúng ta vào Đức Kitô. Với thập giá, cuộc Phục sinh là phần
thiết yếu của mầu nhiệm Vượt qua.
127. Những “dấu chỉ” nào làm chứng cho
cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu ?
639-644
656-657
Ngoài dấu chỉ chính yếu là mồ
trống, cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu được làm chứng bởi một số phụ nữ ; họ
là những người đầu tiên đã gặp gỡ Người và đã báo tin cho các Tông đồ. Tiếp đó,
Chúa Giêsu đã “hiện ra với Kêpha” (tức là thánh Phêrô), rồi với Nhóm Mười Hai.
Sau đó, Người đã hiện ra cùng một lúc với hơn năm trăm anh em (1 Cr 15,5-6) và
còn nhiều người khác nữa. Các Tông đồ đã không thể bày đặt ra chuyện Phục sinh,
vì Phục sinh đối với họ là chuyện không thể có được. Quả thật, Chúa Giêsu cũng
đã trách cứ sự cứng lòng tin của họ.
128. Tại sao Phục sinh cũng là một biến cố
siêu việt ?
647
656-657
Tuy là một sự kiện mang tính lịch
sử, có thể xác định và chứng thực qua các dấu chỉ và chứng cớ, nhưng vì là việc
nhân tính của Đức Kitô bước vào vinh quang của Thiên Chúa, nên Phục sinh cũng
siêu việt và vượt quá lịch sử, thực sự là Mầu nhiệm đức tin. Chính vì thế, Đức
Kitô Phục sinh không tỏ mình ra cho thế gian, nhưng chỉ cho các môn đệ Người,
làm cho họ trở thành những chứng nhân của Người trước mặt dân chúng.
129. Thân xác phục sinh của Chúa Giêsu ở
trong tình trạng nào ?
645-646
Sự Phục sinh của Đức Kitô không
phải là một cuộc trở lại đời sống trần thế. Thân xác phục sinh của Người, cũng
chính là thân xác đã chịu đóng đinh, và vẫn mang vết tích của cuộc khổ nạn,
nhưng từ lúc Phục sinh, thân xác này được tham dự vào đời sống thần linh với
những đặc điểm của một thân xác vinh hiển. Vì thế, Đức Giêsu Kitô Phục sinh
tuyệt đối tự do khi hiện ra với các môn đệ Người, theo cách thức và nơi chốn
như Người muốn, dưới nhiều hình dạng khác nhau.
130. Sự Phục sinh là công trình của Ba Ngôi
Cực Thánh theo cách nào ?
648-650
Sự Phục sinh của Đức Kitô là một
hành động siêu việt của Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi cùng hoạt động chung theo tính
cách riêng biệt của mỗi Ngôi : Chúa Cha bày tỏ quyền năng của mình; Chúa Con
“lấy lại” sự sống mà Người đã tự do dâng hiến (Ga 10,17) bằng cách kết hợp linh
hồn và thân xác mình, mà Chúa Thánh Thần làm cho sống động và tôn vinh.
131. Đâu là ý nghĩa và ảnh hưởng của cuộc
Phục sinh đối với ơn cứu độ ?
651-655
658
Phục sinh là chóp đỉnh của mầu
nhiệm Nhập Thể, xác nhận thần tính của Đức Kitô cũng như tất cả những gì Người
đã làm và đã giảng dạy. Cuộc Phục sinh thực hiện tất cả các lời hứa của Thiên
Chúa vì lợi ích của chúng ta. Hơn nữa, Đấng Phục sinh, Đấng chiến thắng tội lỗi
và cái chết, là nguyên lý cho việc công chính hóa và sự phục sinh của chúng ta.
Ngay từ bây giờ, Phục sinh mang lại cho chúng ta ơn được làm nghĩa tử Thiên
Chúa, khiến chúng ta được thực sự tham dự vào sự sống của Con duy nhất, Đấng sẽ
làm cho thân xác chúng ta được sống lại vào ngày tận thế.
“CHÚA GIÊSU LÊN
TRỜI
NGỰ BÊN HỮU ĐỨC
CHÚA CHA PHÉP TẮC VÔ CÙNG”
132. Việc Đức Kitô lên trời có ý nghĩa gì ?
659-667
Trong vòng bốn mươi ngày, Đức
Kitô hiện ra với các tông đồ dưới hình dạng con người bình thường, che giấu
vinh quang của Đấng Phục sinh, sau đó Người lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa
Cha. Người là Chúa, từ nay với nhân tính của Người, Người cai trị trong vinh
quang vĩnh cửu của Con Thiên Chúa và không ngừng chuyển cầu cho chúng ta nơi
Thiên Chúa Cha. Người cử Thánh Thần của Người đến với chúng ta và ban cho chúng
ta niềm hy vọng một ngày kia sẽ được theo Ngườiù, đến nơi Người đã dọn sẵn cho
chúng ta.
“NGÀY SAU BỞI TRỜI
LẠI XUỐNG PHÁN XÉT
KẺ SỐNG VÀ KẺ CHẾT”
133. Hiện tại, Chúa Giêsu thống trị như thế
nào ?
668-674
680
Là Đức Chúa của vũ trụ và lịch
sử, là Thủ lãnh Hội thánh của Người, Đức Kitô vinh hiển vẫn hiện diện một cách
mầu nhiệm trên trần gian, nơi Vương quốc của Người đã hiện diện như hạt giống
và đã khởi đầu trong Hội thánh. Một ngày kia, Người sẽ trở lại trong vinh quang,
nhưng chúng ta không biết được ngày nào giờ nào. Vì thế, chúng ta sống tỉnh
thức trong cầu nguyện : “Lạy Chúa, xin hãy đến” (Kh 22,20).
134. Việc Chúa ngự đến trong vinh quang sẽ
diễn ra như thế nào ?
675-677
680
Sau cơn rung chuyển cuối cùng trong
vũ trụ của thế giới sẽ qua đi này, Đức Kitô sẽ ngự đến vinh quang với chiến
thắng tối hậu của Thiên Chúa trong cuộc quang lâm và với cuộc phán xét cuối
cùng. Như thế Nước Thiên Chúa sẽ được hoàn thành.
135. Đức Kitô sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết
như thế nào ?
678-679
681-682
Đức Kitô sẽ phán xét với quyền
năng mà Người đã thu nhận được như Đấng Cứu Chuộc trần gian, đã đến để cứu độ
loài người. Những điều kín nhiệm trong tâm hồn cũng như thái độ của mỗi người
đối với Thiên Chúa và tha nhân sẽ được tỏ ra. Mỗi người sẽ đón nhận sự sống hay
bị kết án đời đời tùy theo các công việc họ đã làm. Như thế “sự viên mãn của
Đức Kitô” (Ep 4,13) được thành tựu, trong đó “Thiên Chúa có toàn quyền trên
muôn loài” (1 Cr 15,28).
CHƯƠNG BA
“TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN”
136. Hội thánh muốn nói gì khi tuyên xưng
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” ?
683-686
Tin vào Chúa Thánh Thần là tuyên
xưng rằng Ngài là Ngôi Thứ Ba của Ba Ngôi Cực Thánh; Ngài xuất phát từ Chúa Cha
và Chúa Con, và Ngài “được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa
Con”. Chúa Thánh Thần được “sai đến . . . trong lòng chúng ta” (Gl 4,6) để
chúng ta có thể nhận lãnh sự sống mới như những người con của Thiên Chúa.
137. Tại sao sứ vụ của Chúa Con và sứ vụ
của Chúa Thánh Thần không thể tách rời nhau ?
687-690
742-743
Trong Ba Ngôi không thể phân
chia, Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt với nhau, nhưng không tách rời
nhau. Thực vậy, từ khởi đầu cho đến cùng tận thời gian, khi Chúa Cha sai Con
Ngài, thì cũng sai Thánh Thần của mình, Đấng kết hợp chúng ta với Đức Kitô
trong đức tin, để với tư cách là dưỡng tử, chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là
“Cha” (Rm 8,15). Chúa Thánh Thần vô hình, nhưng chúng ta nhận ra Ngài qua tác
động của Ngài, khi Ngài mạc khải Ngôi Lời cho chúng ta và khi Ngài hoạt động
trong Hội thánh.
138. Những tên gọi khác của Chúa Thánh Thần
là gì ?
691-693
“Chúa Thánh Thần” là Danh xưng
của Ngôi Ba. Đức Kitô cũng gọi Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi (Parakletos -
Trạng sư) và Thần Chân Lý. Tân Ước còn gọi Ngài là Thánh Thần của Đức Kitô, của
Đức Chúa, của Thiên Chúa, Thánh Thần của Vinh quang, Thánh Thần của Lời hứa.
139. Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần là
gì ?
694-701
Có rất nhiều biểu tượng về Chúa
Thánh Thần : nước hằng sống tuôn trào từ trái tim bị đâm thâu của Đức
Kitô và giải cơn khát cho những người đã được Rửa tội; việc xức dầu, đó
là dấu chỉ của Bí tích Thêm sức; lửa biến đổi tất cả những gì lửa
bén tới; áng mây, mờ tối hay rạng ngời, trong đó vinh quang Thiên Chúa
được tỏ hiện; việc đặt tay thông ban Chúa Thánh Thần; chim bồ
câu đã ngự xuống và ở lại trên Đức Kitô lúc Người chịu phép rửa.
140. “Chúa Thánh Thần đã dùng các tiên tri
mà phán dạy” nghĩa là gì ?
687-688
702-706
743
Từ “Các tiên tri” ở đây
được dùng để chỉ những người được Chúa Thánh Thần linh ứng để họ nói nhân danh
Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần đã làm cho các lời tiên tri trong Cựu Ước được ứng
nghiệm hoàn toàn nơi Đức Kitô; cũng chính Chúa Thánh Thần mạc khải mầu nhiệm
Đức Kitô trong Tân Ước.
141. Hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi
thánh Gioan Tẩy Giả như thế nào ?
717-720
Chúa Thánh Thần đổ tràn trên
thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước. Dưới tác động của Thánh
Thần, ông được sai đi để “chuẩn bị một dân cho Chúa” (Lc 1,17) và để loan báo
việc Đức Kitô, Con Thiên Chúa, ngự đến ; đó là Đấng mà ông đã thấy Thánh Thần
ngự xuống và ở lại trên Người, Đấng “sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga
1,33).
142. Đâu là công trình của Chúa Thánh Thần
nơi Đức Maria ?
721-726
744
Mọi mong chờ việc Đức Kitô đến và
sự chuẩn bị cho Người trong Cựu Ước được Chúa Thánh Thần hoàn thành tất cả nơi
Đức Maria. Một cách độc nhất vô nhị, Chúa Thánh Thần đã đổ tràn ân sủng trên
Đức Maria và làm cho đức trinh khiết của Mẹ nên phong phú, để Mẹ sinh hạ Người
Con của Thiên Chúa trong thân xác. Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Maria trở
thành Mẹ của “Đức Kitô toàn thể,” nghĩa là của Đức Kitô là Đầu và của Hội thánh
là thân thể Người. Đức Maria hiện diện giữa nhóm Mười Hai ngày lễ Hiện Xuống,
khi Thánh Thần khai mở “thời đại cuối cùng” với việc xuất hiện của Hội thánh.
143. Trong sứ vụ trần thế, Đức Giêsu Kitô
có liên hệ gì với Chúa Thánh Thần ?
727-730
745-746
Từ khi nhập thể, Con Thiên Chúa
được thánh hiến trở thành Đức Kitô trong nhân tính của Người nhờ việc xức dầu
bằng Chúa Thánh Thần. Đức Kitô mạc khải Chúa Thánh Thần trong giáo huấn của
Người, hoàn thành lời hứa đã được ban cho các tổ phụ. Người trao ban Thánh Thần
cho Hội thánh vừa khai sinh khi thổi hơi trên các Tông đồ sau khi Người Phục
sinh.
144. Điều gì dã xảy ra trong ngày lễ Ngũ
tuần ?
731-732
738
Năm mươi ngày sau cuộc Phục sinh,
vào lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu Kitô vinh hiển đã đổ tràn Thánh Thần và mạc khải
Ngài là một Ngôi Vị Thiên Chúa, qua đó Ba Ngôi cực thánh được mạc khải trọn
vẹn. Sứ vụ của Đức Kitô và của Chúa Thánh Thần trở thành sứ vụ của Hội thánh,
được sai đi công bố và loan truyền mầu nhiệm hiệp thông của Chúa Ba Ngôi.
“Chúng con
đã thấy ánh sáng thật, chúng con đã lãnh nhận Thánh Thần Thiên Chúa, chúng con
đã tìm được đức tin chân chính : chúng con tôn thờ Ba Ngôi bất khả phân ly, vì
chính Ba Ngôi đã cứu độ chúng con” (Phụng vụ Byzantin, Điệp ca lễ
Hiện Xuống).
145. Chúa Thánh Thần làm gì trong Hội thánh
?
733-741
747
Chúa Thánh Thần xây dựng, linh
hoạt và thánh hóa Hội thánh : Là Thánh Thần Tình Yêu, Ngài làm cho những người
đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội nhận lại được ơn giống Thiên Chúa đã bị đánh mất
vì tội lỗi; Ngài giúp họ sống trong Đức Kitô bằng chính Sự sống của Ba Ngôi cực
thánh. Người sai họ đi làm chứng cho Chân lý của Đức Kitô và cắt đặt họ vào
trong các phận vụ hỗ tương, để mọi người đem lại “hoa trái của Thánh Thần” (Ga
5,22).
146. Đức Kitô và Thánh Thần của Người hoạt
động như thế nào trong tâm hồn các tín hữu ?
738-741
Nhờ các Bí tích, Đức Kitô
thông truyền Thánh Thần của Người và ân sủng của Thiên Chúa cho các chi thể
trong thân thể Người. Ân sủng này mang lại hoa trái của đời sống mới theo
Thánh Thần. Cuối cùng, Thánh Thần là Thầy dạy cầu nguyện.
“TÔI TIN CÓ HỘI
THÁNH CÔNG GIÁO”
Hội thánh trong kế
hoạch của Thiên Chúa
147. Hai tiếng Hội thánh
có nghĩa là gì ?
751-752
777, 804
Hội thánh là dân được Thiên Chúa
kêu gọi và qui tụ từ khắp nơi trên thế giới, gồm những người, nhờ đức tin và Bí
tích Rửa tội, trở thành con cái Thiên Chúa, chi thể của Đức Kitô và đền thờ của
Chúa Thánh Thần.
148. Trong Thánh Kinh, có
những danh hiệu và hình ảnh nào khác để chỉ Hội thánh không ?
753-757
Trong Thánh Kinh chúng ta tìm
thấy nhiều hình ảnh làm nổi bật những phương diện khác nhau của mầu nhiệm Hội
thánh. Cựu Ước dành ưu tiên cho những hình ảnh liên kết với dân Thiên Chúa ;
Tân Ước bằng những hình ảnh gắn liền với Đức Kitô như là đầu và dân là chi thể
của Người; cũng có những hình ảnh khác rút từ đời sống thôn quê (chuồng chiên,
đàn chiên, con chiên), đời sống đồng áng (ruộng vườn, cây Ôliu, vườn nho), từ
nhà cửa (nhà ở, viên đá, đền thờ) và từ cuộc sống gia đình (người vợ, người mẹ,
gia đình).
149. Đâu là khởi đầu và hoàn
thành của Hội thánh ?
758-766
778
Cả khởi đầu và sự hoàn thành của
Hội thánh đều nằm trong kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hội thánh đã được
chuẩn bị trong Giao ước cũ qua việc tuyển chọn
150. Sứ mạng của Hội thánh là
gì ?
767-769
Sứ mạng của Hội thánh là rao
truyền Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu Kitô đã khởi đầu và thiết lập Nước ấy giữa
mọi dân tộc. Hội thánh thiết lập trên trái đất mầm giống và khởi điểm của Vương
quốc cứu độ này.
151. Hội thánh là mầu
nhiệm theo nghĩa nào ?
770-773
779
Hội thánh là mầu nhiệm bởi vì,
trong thực tại hữu hình của mình, Hội thánh diễn tả và thực hiện một thực tại
thiêng liêng, thần linh, chỉ có thể nhận ra bằng con mắt đức tin.
152. “Hội thánh là bí tích phổ
quát của ơn cứu độ” có nghĩa là gì ?
774-776
780
Câu này muốn nói Hội thánh là dấu
chỉ và khí cụ cho việc giao hòa và hiệp thông toàn thể nhân loại với Thiên Chúa
cũng như cho sự hợp nhất nhân loại.
Hội Thánh : Dân
Thiên Chúa, Thân thể Đức Kitô, Đền thờ Chúa Thánh Thần
153. Tại sao Hội thánh
là Dân Thiên Chúa ?
781
802-804
Hội thánh là Dân Thiên Chúa, bởi
vì Ngài muốn thánh hóa và cứu độ mọi người không phải cách riêng rẽ, nhưng
thiết lập họ thành một Dân duy nhất, được qui tụ trong sự hợp nhất của Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
154. Đâu là những đặc tính của
Dân Thiên Chúa ?
782
Dân Thiên Chúa mà chúng ta là
thành phần nhờ đức tin vào Đức Kitô và nhờ Bí tích Rửa tội, có cội nguồn
là Thiên Chúa Cha, có Thủ lãnh là Đức Giêsu Kitô, có địa vị
là phẩm giá và sự tự do của con cái Thiên Chúa, có Lề luật là giới răn
mới của tình yêu, có sứ vụ là trở thành muối và ánh sáng của thế giới,
có cùng đích là Nước Thiên Chúa, đã được khởi đầu trên trần thế.
155. Dân Thiên Chúa thông dự như thế nào vào ba phận vụ của
Đức Kitô là Tư tế, là Tiên tri và là Vương đế ?
783-786
Dân Thiên Chúa được dự phần vào
phận vụ Tư tế của Đức Kitô, vì các người Kitô hữu được Chúa Thánh Thần
thánh hiến để dâng các hy lễ thiêng liêng. Họ được tham dự vào phận vụ Tiên
tri vì, nhờ cảm thức siêu nhiên của đức tin, họ gắn bó cách dứt khoát với
đức tin, đào sâu để hiểu biết đức tin và trở thành chứng nhân cho đức tin. Họ
được tham dự vào phận vụ là Vương đế qua việc phục vụ, noi gương Đức
Kitô Giêsu, Vua vũ trụ, Đấng tự trở thành tôi tớ cho mọi người, nhất là cho
những người nghèo túng và đau khổ.
156. Hội thánh là
Thân thể của Đức Kitô theo cách nào ?
787-791
805-806
Nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Kitô, đã
chết và đã phục sinh, kết hợp các tín hữu với chính Người một cách mật thiết.
Như thế những ai tin vào Đức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là
trong Bí tích Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một
thân thể duy nhất là Hội thánh, hợp nhất với nhau trong sự đa dạng của các chi
thể và các phận vụ.
157. Ai là đầu của thân
thể này ?
792-795
807
Đức Kitô là “Đầu của thân thể,
nghĩa là của Hội thánh” (Cl 1,18). Hội thánh sống nhờ Người, trong Người và cho
Người. Đức Kitô và Hội thánh tạo thành “Đức Kitô toàn thể” (thánh Augustinô).
“Có thể nói được là, Đầu và các chi thể làm nên cùng một con người huyền nhiệm”
(Thánh Tôma Aquinô).
158. Tại sao Hội thánh được
gọi là Hôn thê của Đức Kitô ?
796
808
Hội thánh được gọi là Hôn thê của
Đức Kitô bởi vì chính Chúa đã tự xưng là “Hôn phu” (Mc 2,19), Đấng đã yêu
thương Hội thánh, đã kết ước với Hội thánh bằng một Giao ước vĩnh cửu. Người
đã phó nộp mình vì Hội thánh, để thanh tẩy Hội thánh bằng Máu của Người, để làm
cho Hội thánh “trở nên thánh thiện” (Ep 5,26) và làm cho Hội thánh thành mẹ của
tất cả các con cái của Thiên Chúa. Nếu hai chữ “Thân thể” cho thấy sự hợp nhất
giữa “Đầu” và các chi thể, thì hai chữ “Hôn thê” làm nổi bật sự phân biệt giữa
đôi bên trong một quan hệ liên vị.
159. Tại sao Hội thánh được gọi là Đền thờ
Chúa Thánh Thần ?
797-798
809-810
Bởi vì Chúa Thánh Thần ngự trong
thân thể là Hội thánh, trong “Đầu” và trong “các chi thể” của Hội thánh; hơn
nữa, Ngài xây dựng Hội thánh trong đức mến, nhờ Lời Chúa, các Bí tích, các nhân
đức và các đặc sủng.
“Linh hồn
tương quan với chi thể thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng như thế đối với các chi
thể của Đức Kitô và thân thể Người là Hội thánh.” (Thánh Augustinô).
160. Đặc sủng là gì ?
799-801
Đặc sủng là những ân huệ đặc biệt
của Chúa Thánh Thần được ban tặng cho một số người vì lợi ích của con người, vì
những nhu cầu của thế giới và đặc biệt là để xây dựng Hội thánh. Chỉ có Huấn
quyền của Hội thánh mới có thẩm quyền nhận định các đặc sủng.
Hội thánh Duy
nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền
161. Tại sao Hội thánh có đặc tính duy
nhất ?
813-815
866
Hội thánh có đặc tính là duy
nhất, vì Hội thánh có nguồn gốc và khuôn mẫu là sự duy nhất của một Thiên
Chúa trong Ba Ngôi; có Đấng sáng lập và làm Đầu là Đức Giêsu Kitô, Đấng qui tụ
mọi dân tộc trong sự duy nhất của một thân thể ; có Chúa Thánh Thần như linh
hồn, Đấng hợp nhất tất cả các tín hữu vào sự hiệp thông trong Đức Kitô. Hội
thánh có cùng một đức tin, một đời sống Bí tích, một chuỗi kế nhiệm tông truyền
duy nhất, cùng một niềm hy vọng chung và cùng một đức mến.
162. Hội thánh duy nhất của Đức Kitô tồn
tại ở đâu ?
816
870
Với tính cách là một cộng đoàn
được thiết lập và tổ chức ở trần gian, Hội thánh duy nhất của Đức Kitô tồn tại (subsistit
in) trong Hội thánh Công giáo, được điều hành do vị kế nhiệm thánh Phêrô và
do các Giám mục hiệp thông với ngài. Chỉ nhờ Hội thánh này người ta mới có thể
đạt được cách đầy đủ các phương tiện cứu độ, vì Chúa đã trao phó tất cả những
gì thiện hảo của Giao ước Mới cho tập thể tông đồ duy nhất, có thánh Phêrô đứng
đầu.
163. Phải nhìn các người Kitô hữu không
thuộc công giáo như thế nào ?
817-819
Trong các Giáo hội và các Cộng
đoàn giáo hội , đã tách rời khỏi sự hiệp thông trọn vẹn với Hội thánh Công
giáo, chúng ta cũng gặp được nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý. Tất cả các yếu
tố này xuất phát từ Đức Kitô và đều hướng đến sự hợp nhất công giáo. Các thành
viên của các Giáo hội và các cộng đoàn này được hội nhập vào Đức Kitô nhờ Bí
tích Rửa tội; vì vậy chúng ta nhìn nhận họ như anh em.
164. Làm thế nào để dấn thân cho sự hợp
nhất ?
820-822
866
Lòng khao khát muốn tái lập sự
hợp nhất giữa tất cả các người Kitô hữu là một hồng ân của Đức Kitô và là một
lời kêu gọi của Chúa Thánh Thần. Khao khát này liên quan đến toàn thể Hội thánh
và được thực hiện bằng việc sám hối tận đáy lòng, cầu nguyện, nhìn nhận lẫn
nhau là anh em và đối thoại thần học.
165. Hội thánh có đặc tính là thánh thiện
theo nghĩa nào ?
823-829
867
Hội thánh có đặc tính thánh
thiện, vì Thiên Chúa chí thánh là tác giả của Hội thánh. Đức Kitô đã tự nộp
mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh và làm cho Hội thánh có khả năng
thánh hóa. Chúa Thánh Thần ban sự sống cho Hội thánh bằng tình yêu. Trong Hội
thánh có tất cả các phương tiện cứu độ. Sự thánh thiện là ơn gọi của từng người
trong Hội thánh và là mục đích của mọi hoạt động của Hội thánh. Trong Hội thánh
có Đức Trinh Nữ Maria và rất nhiều vị thánh là gương mẫu và là những đấng
chuyển cầu cho Hội thánh. Sự thánh thiện của Hội thánh là suối nguồn cho sự
thánh hóa các con cái mình, những người đang sống trên trần gian, tất cả đều tự
nhận mình là kẻ tội lỗi và luôn cần sám hối và thanh tẩy.
166. Tại sao Hội thánh được gọi là công
giáo ?
830-831
868
Hội thánh có đặc tính là công
giáo, nghĩa là phổ quát, vì Đức Kitô hiện diện trong Hội thánh. “Ở
đâu có Đức Kitô Giêsu, ở đó có Hội thánh Công giáo” (Thánh Inhaxiô Antiôkia).
Hội thánh loan báo sự toàn diện và toàn vẹn của đức tin. Hội thánh gìn giữ và
quản lý tất cả các phương tiện cứu độ. Hội thánh được sai đến với mọi dân tộc ở
mọi thời đại và mọi nền văn hóa của họ.
167. Giáo hội địa phương
có phải công giáo không ?
832-835
Mỗi Giáo hội địa phương (nghĩa
là một giáo phận hoặc giáo khu) đều là công giáo, được hình thành bởi cộng đoàn
các người Kitô hữu, cùng hiệp thông trong đức tin và trong các Bí tích với Giám
mục của họ, là người được tấn phong trong chuổi kế nhiệm tông truyền, và với
Giáo hội Rôma là giáo hội “đứng đầu về mặt đức ái” (thánh Ignatio Antiôkia).
168. Ai thuộc về Hội thánh
Công giáo ?
836-838
Tất cả mọi người, dưới nhiều hình
thức khác nhau, đều thuộc về hay hướng đến sự hợp nhất công giáo của dân Thiên
Chúa. Người hoàn toàn thuộc về Hội thánh Công giáo là người, nhận được Thánh
Thần của Đức Kitô, kết hợp với Hội thánh bằng các dây liên kết là việc tuyên
xưng đức tin, các Bí tích, sự hướng dẫn của giáo phẩm và sự hiệp thông. Những
người đã được Rửa tội nhưng không thực hiện đầy đủ sự hợp nhất công giáo thì
cũng hiệp thông một cách nào đó, tuy là hiệp thông không trọn vẹn, với Hội
thánh Công giáo.
169. Hội thánh Công giáo
liên hệ với dân Do Thái như thế nào ?
839-840
Hội Thánh Công giáo công nhận
liên hệ của mình với dân Do Thái vì Thiên Chúa đã tuyển chọn dân này, trước tất
cả mọi dân khác, để đón nhận Lời Ngài. Chính dân Do Thái “được Thiên Chúa nhận
làm con, được Ngài cho thấy vinh quang, ban tặng các Giao ước, lề luật, một nền
phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ, và chính Đức Kitô, xét theo
huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ” (Rm 9,4-5). Khác với các tôn giáo
khác không thuộc Kitô giáo, đức tin Do Thái đã là lời đáp trả cho Mạc khải của
Thiên Chúa trong Giao Ứơc Cũ.
170. Liên hệ giữa Hội
thánh Công giáo với các tôn giáo ngoài Kitô giáo như thế nào ?
841-845
Trước hết, đó là mối liên hệ về
nguồn gốc và cứu cánh chung của toàn thể nhân loại. Hội thánh Công giáo nhìn
nhận những gì tốt lành và chân thật trong các tôn giáo khác đều xuất phát từ
Thiên Chúa. Đó là một tia phản chiếu chân lý của Ngài. Điều này có thể chuẩn bị
cho việc đón nhận Tin Mừng và thúc đẩy đến sự hợp nhất nhân loại trong Hội
thánh của Đức Kitô.
171.Câu khẳng định “Ngoài Hội
thánh không có ơn cứu độ” có nghĩa gì ?
846-848
Câu này muốn nói rằng ơn cứu độ
xuất phát từ Đức Kitô-là-Đầu thông qua trung gian là Hội thánh, thân thể Người.
Những ai biết rằng Hội thánh được Đức Kitô thiết lập và cần thiết cho ơn cứu độ
mà không muốn bước vào hay không muốn gắn bó với Hội thánh, thì sẽ không được cứu
độ. Ngoài ra, nhờ Đức Kitô và Hội thánh Người, những người, không vì lỗi mình
mà không biết Tin Mừng của Đức Kitô và Hội thánh Người, nhưng chân thành đi tìm
Thiên Chúa và dưới ảnh hưởng của ân sủng, cố gắng thực hiện ý Thiên Chúa qua sự
hướng dẫn của lương tâm, vẫn có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời.
172. Tại sao Hội thánh
phải loan truyền Tin Mừng cho toàn thế giới ?
849-851
Bởi vì Đức Kitô đã truyền cho Hội
thánh : “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Mệnh lệnh này của Chúa có cội nguồn là tình yêu
vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng đã sai phái Con và Thánh Thần Ngài, vì Ngài “muốn
cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).
173. Thế nào là Hội
thánh truyền giáo ?
852-856
Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn,
suốt dòng lịch sử, Hội thánh tiếp tục sứ vụ của chính Đức Kitô. Vì vậy, các
người Kitô hữu phải loan báo cho mọi người Tin Mừng đã được Đức Kitô mang đến,
khi bước theo cùng một con đường như Người, tức là sẵn sàng hy sinh, thậm chí
đến chỗ tử đạo.
174. Tại sao Hội thánh có đặc
tính tông truyền ?
857
869
Hội thánh có đặc tính tông truyền
căn cứ vào nguồn gốc của mình, vì Hội thánh được “xây dựng trên nền tảng
các Tông đồ” (Ep 2,20); căn cứ vào giáo lý là giáo huấn của các thánh
Tông đồ; và căn cứ vào cơ cấu của mình, vì Hội thánh được xây dựng,
thánh hóa và hướng dẫn cho đến ngày Chúa lại đến, bởi các thánh Tông đồ, nhờ
những vị kế nhiệm các ngài là các Giám mục hiệp thông với vị kế nhiệm thánh
Phêrô.
175. Sứ vụ của các thánh
Tông đồ hệ tại ở đâu ?
858-861
Tông đồ có nghĩa là người
được sai đi. Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến, đã kêu gọi và tuyển chọn
mười hai người trong số các môn đệ và đặt họ làm Tông đồ của Người, khi làm cho
họ thành những chứng nhân cho cuộc Phục sinh của Người và làm nền tảng cho Hội
thánh của Người. Người truyền cho họ phải tiếp tục sứ vụ của Người, khi Người
nói với họ : “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21), và
Người hứa ở với họ cho đến ngày tận thế.
176. Kế nhiệm tông
truyền là gì ?
861-865
Kế nhiệm tông truyền là chuyển
giao sứ vụ và quyền hạn của các Tông đồ cho những người kế vị các ngài, là các
Giám mục, qua Bí tích Truyền chức thánh. Chính nhờ việc chuyển giao này mà Hội
thánh vẫn duy trì được sự hiệp thông trong đức tin và đời sống với nguồn gốc
của mình, trải qua bao thế kỷ, Hội thánh thực hành việc tông đồ của mình là làm
lan toả Vương quốc của Đức Kitô trên trần gian.
Các người Kitô hữu
: phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến
177. Các tín hữu là ai ?
871-872
Các tín hữu là những người được
tháp nhập vào Đức Kitô nhờ Bí tích Rửa tội, được trở nên thành phần của dân
Thiên Chúa. Trở thành những người được dự phần vào các phận vụ Tư tế, Tiên tri
và Vương đế của Đức Kitô, tùy theo điều kiện riêng của mình, họ được mời gọi
thực thi sứ vụ được Thiên Chúa trao phó cho Hội thánh. Giữa họ, có một sự bình
đẳng thực sự do phẩm giá của họ là con cái Thiên Chúa.
178. Dân Thiên Chúa được hình thành như thế
nào ?
873
934
Theo sự xếp đặt của Thiên Chúa,
trong Hội thánh có những thừa tác viên được hiến thánh, đã được lãnh
nhận Bí tích Truyền chức thánh và tạo thành phẩm trật của Hội thánh. Những
người khác được gọi là giáo dân. Trong cả hai thành phần này, có những
tín hữu được thánh hiến một cách đặc biệt cho Thiên Chúa qua việc khấn
giữ các lời khuyên Phúc Âm : khiết tịnh trong đời sống độc thân, khó nghèo và
vâng phục.
179. Tại sao Đức Kitô lại thiết lập phẩm
trật trong Hội thánh ?
874-876
935
Đức Kitô đã thiết lập phẩm trật
trong Hội thánh để chăn dắt dân Thiên Chúa nhân danh Người; và vì thế Người đã
trao ban quyền hành cho họ. Phẩm trật bao gồm các thừa tác viên đã được thánh
hiến : các giám mục, linh mục, phó tế. Nhờ Bí tích Truyền chức thánh, các Giám
mục và linh mục, khi thực thi thừa tác vụ của mình, hoạt động nhân danh và
trong cương vị của Đức Kitô-là-Đầu. Các Phó tế phục vụ dân Chúa trong việc phục
vụ (diakonia) lời Chúa, Phụng vụ và việc bác ái.
180. Chiều kích tập thể của thừa tác vụ
trong Hội thánh được thực hiện như thế nào?
877
Theo gương nhóm mười hai Tông đồ,
được Đức Kitô tuyển chọn và sai đi chung với nhau, sự kết hợp của các thành
phần phẩm trật trong Hội thánh là để phục vụ sự hiệp thông của tất cả các tín
hữu. Mỗi Giám mục thực thi thừa tác vụ của mình như thành viên của Giám mục
đoàn, trong sự hiệp thông với Đức Giáo hoàng, dự phần với ngài vào việc chăm lo
cho Hội thánh phổ quát. Các linh mục thực thi thừa tác vụ của mình trong linh
mục đoàn của Hội thánh địa phương trong sự hiệp thông với Giám mục và dưới sự
hướng dẫn của ngài.
181. Tại sao thừa tác vụ trong Hội thánh
cũng có đặc tính cá nhân ?
878-879
Thừa tác vụ trong Hội thánh cũng
có đặc tính cá nhân, bởi vì, nhờ hiệu năng của Bí tích Truyền chức thánh, mỗi
người đều chịu trách nhiệm trước Đức Kitô, Đấng đã kêu gọi họ một cách cá
nhân khi trao phó cho họ một sứ vụ.
182. Sứ vụ của Đức Giáo hoàng là gì ?
881-882
936-937
Đức Giáo hoàng, vừa là Giám mục
Rôma vừa là vị kế nhiệm Thánh Phêrô, là nguyên lý và nền tảng trường tồn và hữu
hình cho sự hợp nhất của Hội thánh. Ngài là vị đại diện Đức Kitô, đứng đầu Giám
mục đoàn và là mục tử của toàn thể Hội thánh. Vì do Chúa thiết lập, ngài có
quyền trọn vẹn, tối cao, trực tiếp và phổ quát trên Hội thánh.
183. Nhiệm vụ của Giám mục đoàn là gì ?
883-885
Giám mục đoàn, hiệp thông với Đức
Giáo hoàng và luôn phải có ngài, cũng thực thi trên Hội thánh một quyền tối cao
và trọn vẹn.
184. Các Giám mục thực thi sứ vụ
giảng dạy của mình như thế nào ?
888-890
939
Trong sự hiệp thông với Đức Giáo
hoàng, các Giám mục có bổn phận loan báo Tin Mừng cho mọi người cách trung
thành và có thẩm quyền. Với thẩm quyền của Đức Kitô, các ngài là chứng nhân
đích thực của đức tin tông truyền. Nhờ cảm thức siêu nhiên của đức tin, Dân
Thiên Chúa, được Huấn quyền sống động của Hội thánh hướng dẫn, gắn bó cách kiên
vững với đức tin.
185. Sự bất khả ngộ của Huấn quyền thể hiện
lúc nào ?
891
Sự bất khả ngộ thể hiện khi Đức
Giáo hoàng, căn cứ vào thẩm quyền là Mục tử tối cao của Hội thánh, hay Giám mục
đoàn trong sự hiệp thông với Đức Giáo hoàng, nhất là khi các ngài họp Công đồng
chung, công bố một giáo lý có liên quan đến đức tin hay luân lý bằng một hành
động dứt khoát, hoặc khi Đức Giáo hoàng và các Giám mục, trong Huấn quyền thông
thường của các ngài, đồng thanh tuyên bố một tín điều dứt khoát. Tất cả các tín
hữu đều phải gắn bó với giáo huấn này trong sự vâng phục đức tin.
186. Các Giám mục thực thi sứ vụ thánh hóa
như thế nào ?
893
Các Giám mục thánh hóa Hội thánh
khi trao ban ân sủng của Đức Kitô bằng việc rao giảng và cử hành các Bí tích,
đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Các ngài cũng thánh hóa Hội thánh bằng lời cầu
nguyện, gương mẫu và việc làm của mình.
187. Các Giám mục thực thi sứ vụ cai quản
như thế nào ?
894-896
Mỗi Giám mục, với tư cách là
thành viên của Giám mục đoàn, phải quan tâm cách tập thể đối với mọi Giáo hội
địa phương và Hội thánh toàn cầu, trong sự hợp nhất với các Giám mục khác kết
hợp với Đức Giáo hoàng. Giám mục, được ủy thác một Giáo hội địa phương, sẽ điều
khiển Giáo hội ấy với thẩm quyền do chức thánh, riêng biệt, thông thường và
trực tiếp, nhân danh Đức Kitô, vị Mục tử Nhân lành, trong sự hiệp thông với
toàn thể Hội thánh và dưới sự dẫn dắt của Đấng kế nhiệm thánh Phêrô.
188. Ơn gọi của người tín hữu giáo dân là
gì ?
897-900
940
Người tín hữu giáo dân có ơn gọi
riêng để tìm kiếm Nước Thiên Chúa, bằng việc soi sáng và sắp xếp các thực tại
trần gian theo ý muốn của Thiên Chúa. Làm như vậy là họ thực hiện ơn gọi nên
thánh và hoạt động tông đồ, một ơn gọi được trao ban cho mọi người đã lãnh Bí
tích Rửa tội.
189. Người tín hữu giáo dân tham gia
vào sứ vụ tư tế của Đức Kitô như thế nào ?
901-903
Họ tham gia vào sứ vụ tư tế này,
khi dâng hiến – như hy lễ thiêng liêng “dâng lên Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”
( 1 Pr 2,5), nhất là trong Thánh lễ – cuộc sống riêng của họ, cùng với tất cả các
hoạt động, lời cầu nguyện và dấn thân truyền giáo, cuộc sống gia đình và lao
động hằng ngày, những khó khăn trong cuộc sống mà họ chịu đựng cách kiên nhẫn
và những lúc thư giãn thân xác và tinh thần. Bằng cách đó, người giáo dân, dấn
thân cho Đức Kitô và được Chúa Thánh Thần thánh hiến, sẽ dâng lên Thiên Chúa cả
thế giới.
190. Họ tham dự vào sứ vụ tiên tri của Đức
Kitô như thế nào ?
904-907
942
Họ tham dự vào sứ vụ tiên tri này
của Đức Kitô khi luôn đón nhận trong đức tin Lời của Đức Kitô và loan báo Lời
đó cho thế giới bằng chứng từ đời sống của họ, cũng như qua lời nói, hoạt động
rao giảng Tin Mừng và dạy giáo lý. Việc rao giảng Tin Mừng như vậy đạt được
hiệu quả đặc biệt vì việc này được thực hiện trong các hoàn cảnh thông thường
nơi trần thế.
191. Họ tham dự vào sứ vụ Vương đế của Đức
Kitô như thế nào ?
908-913
943
Người giáo dân tham dự vào sứ vụ
Vương đế của Đức Kitô khi đón nhận từ nơi Người quyền năng chiến thắng tội lỗi,
nơi chính họ và trong thế giới, qua việc từ bỏ bản thân và sống đời sống thánh
thiện. Họ thực hành nhiều tác vụ khác nhau để phục vụ cộng đoàn và ghi dấu ấn
trên các hoạt động trần thế của con người và các cơ chế xã hội bằng giá trị
luân lý.
192. Đời sống thánh hiến là gì ?
914-916
944
Là một bậc sống được Hội thánh
công nhận. Đó là lời tự nguyện đáp trả tiếng gọi đặc biệt của Đức Kitô, qua đó
những người được thánh hiến hoàn toàn tự hiến cho Thiên Chúa và hướng tới sự
hoàn hảo của đức ái dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Đặc tính của sự thánh
hiến là việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm.
193. Đời sống thánh hiến đóng góp gì cho sứ
vụ của Hội thánh ?
931-933
945
Đời sống thánh hiến dự phần vào
sứ vụ của Hội thánh, bằng việc tự hiến trọn vẹn cho Đức Kitô và các anh em của
Người, khi làm chứng cho niềm hy vọng về Nước Trời.
TÔI TIN CÁC THÁNH
THÔNG CÔNG
194. “Các thánh thông công” có ý nghĩa gì ?
946-953
960
Câu nói “các thánh thông
công” trước hết nói lên sự tham dự chung của tất cả các thành phần Hội thánh
vào những thực tại thánh (sancta) : đức tin, các Bí tích, đặc biệt
là Bí tích Thánh Thể, các đặc sủng và những ân huệ thiêng liêng khác. Cội nguồn
của sự hiệp thông là đức ái “không tìm tư lợi” (1 Cr 13,5), nhưng thúc đẩy các
tín hữu đặt “mọi sự là của chung” (Cv 4,32), kể cả của cải vật chất của họ,
nhằm phục vụ những người nghèo khổ hơn.
195. Câu nói “các thánh thông công” còn
mang ý nghĩa nào khác nữa ?
954-959
961-962
Câu này còn nói lên sự hiệp thông
giữa những người thánh (sancti), nghĩa là những ai, nhờ ân sủng, được
kết hợp với Đức Kitô chịu chết và sống lại. Một số còn lữ hành trên trần gian;
một số khác, đã rời bỏ đời này, hiện đang được thanh luyện, và cũng được trợ
giúp bằng lời cầu nguyện của chúng ta; sau hết, một số khác nữa, đã được hưởng
vinh quang Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Tất cả cùng nhau làm
thành một gia đình duy nhất trong Đức Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi và
tôn vinh Chúa Ba Ngôi.
Đức Maria : Mẹ Đức
Kitô, Mẹ Hội thánh
196. Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc là
Mẹ Hội thánh theo nghĩa nào ?
963-966
973
Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc là
Mẹ Hội thánh trong trật tự ân sủng bởi vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, Con Thiên
Chúa, là Đầu của Thân Thể Người là Hội thánh. Khi sắp chết trên thánh giá, Chúa
Giêsu đã trối Đức Maria làm mẹ của môn đệ Người bằng những lời này : “Đây là mẹ
của anh” (Ga 19,27).
197. Đức Maria trợ giúp Hội thánh như
thế nào ?
967-970
Sau khi Con mình về trời, Đức
Maria đã giúp đỡ Hội thánh lúc khởi đầu bằng lời cầu nguyện, và cả sau khi đã
được lên trời, Mẹ vẫn tiếp tục chuyển cầu cho con cái mình, vẫn là mẫu gương
cho mọi người về đức tin và đức ái, tạo ảnh hưởng cứu độ trên họ, ảnh hưởng này
xuất phát từ sự dư đầy các công nghiệp của Đức Kitô. Các tín hữu nhìn Mẹ như
nguyên ảnh và sự tham dự trước vào cuộc phục sinh đang chờ đón họ ; họ kêu cầu
Mẹ dưới các tước hiệu là Trạng sư, Đấng phù trợ, Đấng bảo trợ và Đấng trung
gian.
198. Đức Trinh Nữ rất thánh được tôn
kính như thế nào ?
971
Mẹ được sùng kính cách đặc biệt,
nhưng khác hẳn với việc tôn thờ chỉ dành riêng cho Ba Ngôi cực thánh. Việc sùng
kính đặc biệt này được diễn tả một cách độc đáo trong các ngày lễ phụng vụ dành
kính Mẹ Thiên Chúa cũng như trong các kinh nguyện tôn kính Đức Mẹ, như kinh Mân
Côi, được xem là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng.
199. Đức
Trinh nữ Maria diễm phúc là hình ảnh cánh chung của Hội thánh như thế nào ?
972
974-975
Khi nhìn lên Đức Maria, hoàn toàn
thánh thiện và đã được tôn vinh cả hồn lẫn xác, Hội thánh chiêm ngắm nơi Mẹ
điều Hội thánh được kêu gọi để sống trên trần gian và điều Hội thánh sẽ trở
thành trên quê hương thiên quốc.
“TÔI TIN PHÉP THA
TỘI”
200. Tội lỗi được tha thứ như thế nào
?
976-980
984-985
Bí tích đầu tiên và căn bản để
tha tội là Bí tích Rửa tội. Đối với những tội phạm sau khi lãnh nhận Bí tích
Rửa tội, Đức Kitô đã thiết lập Bí tích Hòa giải hay Thống hối, nhờ đó người đã
được Rửa tội được giao hòa với Thiên Chúa và với Hội thánh.
201. Tại sao Hội thánh có
quyền tha tội ?
981-983
986-987
Hội thánh có sứ vụ và quyền năng
để tha các tội lỗi, bởi vì chính Đức Kitô đã trao ban cho Hội thánh quyền ấy :
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha;
anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
“TÔI TIN XÁC LOÀI
NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI”
202. Hai chữ “thân xác” có ý nghĩa gì ? Đâu
là sự quan trọng của nó ?
990
1015
Hai chữ “thân xác” chỉ con người
trong tình trạng yếu đuối và phải chết. “Thân xác là then chốt của ơn cứu độ”
(Tertullien). Thật vậy, chúng ta tin Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên thân xác;
chúng ta tin Ngôi Lời mặc lấy thân xác để cứu chuộc thân xác; chúng ta tin vào
sự sống lại của thân xác, đó là hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc thân xác.
203. “Xác sống lại” có nghĩa là gì ?
990
Điều này muốn nói đến tình trạng
vĩnh viễn của con người không phải chỉ là linh hồn thiêng liêng tách biệt khỏi
thân xác, nhưng thân xác phải chết của chúng ta cũng được gọi để một ngày kia
sẽ sống lại.
204. Đâu
là mối liên hệ giữa cuộc Phục sinh của Đức Kitô với việc sống lại của chúng ta
?
998
1002-1003
Cũng như Đức Kitô đã thực sự sống
lại từ cõi chết và sống mãi, cũng vậy, Người sẽ làm cho tất cả chúng ta sống
lại trong ngày sau hết, với một thân xác không còn hư nát, “Ai đã làm điều lành,
thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án”
(Ga 5,29).
205. Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra
cho linh hồn và thân xác chúng ta ?
992-1004
1016-1018
Khi chết, linh hồn và thân xác sẽ
tách rời nhau, thân xác sẽ bị huỷ hoại, trong khi linh hồn, vì là bất tử, sẽ
chịu sự phán xét của Thiên Chúa và chờ đợi ngày được kết hợp lại với thân xác
khi thân xác được biến đổi vào ngày Chúa trở lại. Việc tìm hiểu sự sống lại
diễn ra như thế nào vượt quá khả năng của trí tưởng tượng và sự hiểu
biết của chúng ta.
206. “Chết trong Đức Kitô Giêsu” có nghĩa
là gì ?
1005-1014
1019
Điều này có nghĩa là chết trong
ân sủng của Chúa, lúc không có tội trọng. Ai tin vào Đức Kitô và theo gương
Người, sẽ có thể biến đổi cái chết của mình thành một hành vi vâng phục và yêu
mến đối với Chúa Cha. “Đây là lời đáng tin cậy : Nếu ta cùng chết với Người, ta
sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11).
“TÔI TIN HẰNG SỐNG
VẬY”
207. Đời sống vĩnh cửu là gì ?
1020
1051
Đời sống vĩnh cửu là đời sống bắt
đầu ngay sau khi chết. Đời sống này không có kết thúc. Mỗi người, khi bắt đầu
bước vào đời sống vĩnh cửu, sẽ phải nhận một cuộc phán xét riêng do chính Đức
Kitô, vị Thẩm Phán của kẻ sống và kẻ chết; đời sống này sẽ được đóng ấn trong
cuộc phán xét chung.
208. Phán xét riêng là gì ?
1021-1022
1051
Là cuộc phán xét thưởng phạt tức
khắc mà mỗi người, ngay sau khi chết, phải lãnh nhận từ Thiên Chúa trong linh
hồn bất tử của mình, liên quan đến đức tin và các việc làm của mình. Sự phân
định thưởng phạt này gồm có việc được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, tức khắc
hoặc sau một cuộc thanh luyện thích hợp, hay là phải chịu phạt muôn đời trong
hỏa ngục.
209. “Thiên đàng” là gì
?
1023-1026
1053
“Thiên đàng” là tình trạng hạnh
phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không
cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức
Maria, các thiên thần và các thánh. Như vậy các ngài tạo thành Hội thánh thiên
quốc, nơi các ngài được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp mặt” ( 1 Cr 13,12); các
ngài sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng
ta.
Sự sống
thật và theo bản chất cốt tại điều này : Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong
Chúa Thánh Thần, đổ tràn hồng ân thiên quốc trên tất cả không trừ ai. Nhờ lòng
nhân hậu của Ngài, cả chúng ta nữa, chúng ta đã lãnh nhận lời hứa không thể mai
một là được sống đời đời” (thánh Cyrillô thành Giêrusalem).
210. Luyện ngục là gì ?
1030-1031
1054
Luyện ngục là tình trạng của
những người chết trong tình thân với Thiên Chúa, nhưng, dù đã được đảm bảo ơn
cứu độ vĩnh cửu, họ còn cần thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên
đàng.
211. Bằng cách nào chúng ta có thể giúp đỡ các linh hồn đang
được thanh luyện nơi luyện ngục ?
1032
Nhờ sự “các thánh thông công” các
tín hữu còn lữ hành trên trần gian, có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục,
bằng cách dâng lời cầu khẩn, đặc biệt là Thánh lễ, và cả những việc bố thí,
ân xá và những việc hãm mình để cầu cho họ.
212. Hoả ngục hệ tại điều gì ?
1033-1035
1056-1057
Hoả ngục hệ tại án phạt đời đời
dành cho những ai, do sự lựa chọn tự do của mình, chết trong tình trạng có tội
trọng. Hình phạt chính yếu của hỏa ngục là xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa. Chỉ
nơi Ngài con người mới có sự sống và hạnh phúc; con người được tạo dựng là để
hưởng những điều ấy và họ luôn khao khát những điều ấy. Đức Kitô diễn tả thực
tại hoả ngục bằng những lời này : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt
Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,41).
213. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu vô biên,
làm sao Ngài lại để có hỏa ngục ?
1036-1037
Thiên Chúa muốn “cho mọi người ăn
năn hối cải” (2 Pr 3,9), nhưng vì Ngài đã tạo dựng con người có tự do và có
trách nhiệm, nên Ngài tôn trọng các quyết định của họ. Vì thế, nếu cho đến lúc
chết, con người vẫn còn nằm trong tội trọng, từ chối tình yêu nhân từ của Thiên
Chúa, thì chính họ, với sự tự lập hoàn toàn, tự ý loại mình ra khỏi sự hiệp
thông với Thiên Chúa.
214. Phán xét cuối cùng hệ tại điều gì
?
1038-1041
1058-1059
Sự phán xét cuối cùng (phán xét
chung) hệ tại sự phán quyết về cuộc sống hạnh phúc hay án phạt đời đời, mà Chúa
Giêsu, khi Người trở lại như vị Thẩm phán của kẻ sống và kẻ chết, sẽ tuyên bố
cho “những người công chính cũng như kẻ có tội” (Cv 24,15), qui tụ tất cả trước
mặt Người. Sau cuộc phát xét cuối cùng, thân xác sống lại sẽ tham dự vào sự
thưởng phạt mà linh hồn đã lãnh nhận trong cuộc phán xét riêng.
215. Khi nào cuộc phán xét này sẽ xảy ra ?
1040
Cuộc phán xét này sẽ xảy ra vào
ngày tận thế mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được ngày nào giờ nào.
216. “Hy vọng trời mới đất mới” nghĩa là gì ?
1042-1050
1060
Sau cuộc phán xét cuối cùng,
chính vũ tru,ï được giải thoát khỏi nô lệ sự hư nát, sẽ được dự phần vào vinh
quang của Đức Kitô với việc khai mạc “trời mới đất mới” (2 Pr 3,13). Như thế sự
viên mãn của Nước Thiên Chúa sẽ đạt đến đích điểm, nghĩa là ý định cứu độ của
Thiên Chúa được hoàn thành vĩnh viễn : “Qui tụ muôn loài trong trời đất dưới
quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,10). Khi ấy Thiên Chúa sẽ “có toàn quyền
trên muôn loài” (1 Cr 15,28), trong cuộc sống đời đời. “AMEN”
217. Tiếng Amen, kết thúc Kinh
Tin Kính, có nghĩa là gì ?
1061-1065
Tiếng Do Thái Amen –cũng
được dùng để kết thúc quyển sách cuối cùng của Thánh Kinh, cũng như một số lời
cầu nguyện của Tân Ước và các lời cầu nguyện phụng vụ của Hội thánh– diễn tả
lời ‘Thưa vâng” đầy tin tưởng và trọn vẹn của chúng ta đối với những gì chúng
ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, chúng ta hoàn toàn phó mình cho Đấng là
AMEN tối hậu (Kh 3,14), tức là Đức Kitô.
Trong bức tranh này, Chúa Giêsu tiến đến gần các tông đồ
đang ngồi ở bàn, và từ người này sang người khác, Người cho họ rước lễ. Đây là
một loại hình ảnh cho thấy lòng nhiệt thành đối với Bí tích Thánh Thể của Hội
thánh trong suốt dòng lịch sử.
Thánh tử đạo Éméritus, vào khoảng đầu thế kỷ thứ bốn,
đã nói : “Sine Dominico non possumus - chúng tôi không thể sống thiếu ngày Chúa
nhật -” khi phải chịu đựng một trong những cuộc bách hại tệ hại nhất chống lại người
Kitô hữu, đó là cuộc bách hại dưới trào hoàng đế Diocletianus vào năm 304 scn.
Bị buộc tội đã ban phát Thánh Thể cho cộng đoàn, ngài chấp nhận không chút lưỡng
lự : “Không có Thánh Thể, chúng tôi không thể sống.” Và một trong số những vị
tử đạo thêm vào : “Vâng, tôi đã đến với cộng đoàn và tôi đã cử hành tiệc thánh
của Chúa với anh em tôi, chỉ vì tôi là người Kitô hữu” (Hạnh các thánh tử
đạo tại Abitina, c.11; 7,16). Vì trung thành với Bí tích Thánh Thể, bốn
mươi chín vị chứng nhân của miền bắc Phi Châu đã bị kết án tử hình. Chúa Giêsu
của Bí tích Thánh Thể là sự sống đích thực cho Saturnin và các bạn tử đạo tại
Abitina ở Phi Châu. Các ngài muốn chết hơn là không được lãnh nhận lương thực
Thánh Thể, bánh của đời sống vĩnh cửu.
Thánh Tôma Aquinô có thói quen vào giữa trưa, xuống nhà thờ và,
với lòng tin tưởng và phó thác, ngài áp trán vào Nhà Tạm để chuyện trò thân mật
với Chúa Giêsu Thánh Thể. Vị thần học gia vĩ đại của thời Trung Cổ được
nổi danh vì đã sáng tác các bản văn phụng vụ cho đại lễ Mình Thánh Chúa (Corpus
Domini) trong đó, ngài diễn tả đầy đủ sự sùng kính sâu xa Bí tích Thánh
Thể.
Thánh thi ca tụng (Verbum supernum prodiens) là một bài
tổng hợp linh đạo Bí tích Thánh Thể của Kitô giáo :
Trước khi
nộp mình chịu chết, vì một người môn đệ của mình phản bội,
(Chúa Giêsu) tự ban mình cho các môn đệ làm lương thực sự sống.
Người ban cho họ dưới hai hình dạng, Thịt và Máu của Người;
Để qua bản thể hai hình dạng này, Người nuôi sống trọn loài người.
Khi sinh ra, Người tự hiến mình là bạn đồng hành
Khi ngồi cùng bàn với họ, Người tự hiến như lương thực,
Khi chịu chết, Người tự hiến như phần thưởng.
Thánh Tôma Aquinô gọi Bí tích Thánh Thể là “chóp đỉnh và
sự viên mãn của cả đời sống tinh thần,” làm nổi bật ý thức đức tin của Hội
thánh tin tưởng vào Bí tích Thánh Thể, vào sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa
chúng ta và là lương thực cần thiết cho đời sống tinh thần. Bí tích Thánh Thể
tạo thành sợi chỉ đỏ, khởi đi từ Bàn Tiệc Ly, nối kết mọi thế kỷ lịch sử của
Hội thánh cho đến chúng ta ngày hôm nay. Các lời truyền phép – “Này là Minh
Thầy” và “Này là Máu Thầy” – được nói lên, mãi mãi và ở khắp mọi nơi, ngay cả
trong các trại tập trung, trong các nhà tù còn tồn tại đến ngày nay.
Chính trên chân trời Thánh Thể mà Hội thánh đặt nền tảng cho đời sống, sự hiệp
thông và sứ vụ của mình.
JOOS VAN
WASSENHOVEN, Chúa Giêsu ban Mình Thánh cho các Tông đồ, Phòng trưng bày
họa phẩm quốc gia vùng
PHẦN II
CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KITÔ GIÁO
ĐOẠN THỨ NHẤT
NHIỆM CỤC BÍ TÍCH
Hy tế thập giá là nguồn mạch cho nhiệm cục bí tích của Hội thánh.
Trong ảnh, Đức Maria, tượng trưng cho Hội thánh, đón nhận từ tay trái mình máu
và nước, biểu tượng các Bí tích c?a H?i thánh, đổ ra từ cạnh sườn bị đâm thâu
của Chúa Giêsu : “Khi đến gần Chúa Giêsu và thấy Người đã chết, họ không
đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn
Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,33-34).
Thánh Augustinô chú giải : “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đang khi
chịu đau khổ, đã dâng hiến vì chúng ta điều mà Người đã nhận từ chúng ta khi
sinh ra, và mãi mãi trở nên vị Thượng tế vĩ đại. Người ra lệnh cho chúng ta
dâng hy lễ mà anh em thấy, đó chính là Mình và Máu Người. Thật vậy, thân xác
Người, bị lưỡi đòng đâm thâu qua, tuôn chảy nước và máu, với nước và máu này
Người tha thứ tội lỗi chúng ta. Khi anh em nhớ lại ân sủng này, thì ơn cứu độ
lại hoạt động (vì chính Thiên Chúa đã làm điều này nơi anh em), run rẩy và sợ
sệt, anh em hãy đến gần để chia sẻ từ bàn thánh này. Hãy nhận ra trong bánh này
là chính thân xác mà anh em đã treo trên thập giá, và trong chén này là chính
máu chảy ra từ cạnh sườn Người. Các hy lễ xa xưa của dân Chúa, trong sự đa dạng
của chúng, chỉ tiên báo hy lễ duy nhất sẽ đến. Và Đức Kitô v?a là con chiên, vì
sự vô tội của tâm hồn thanh sạch Người, v?a là con dê, vì xác thịt Người
giống xác thịt của kẻ tội lỗi. Tất cả những gì được tiên báo bằng nhiều
cách khác nhau trong các hy lễ của Cựu Ước đều hướng về hy lễ được mạc khải
trong Tân Ước.
Hãy nhận lấy và ăn Thân mình Đức Kitô, vì ngay lúc này anh em đã trở
nên chi thể của Đức Kitô, trong Thân Thể của Đức Kitô; hãy lãnh nhận và uống
Máu Đức Kitô. Để không phải tách rời nhau, hãy ăn điều nối kết anh em lại; để
không tự đánh giá thấp chính mình, hãy uống giá chu?c của anh em. Mỗi khi anh
em ăn và uống các thứ ấy, chúng biến đổi nên anh em, cũng thế, nếu như trong
đời sống, anh em sống vâng phục và đạo đức, anh em biến đổi nên thân thể Đức
Kitô. Thật vậy, khi gần đến cuộc khổ nạn, khi cử hành lễ Vượt qua với các môn
đệ, Người cầm lấy bánh, tạ ơn mà nói : “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em.”
Cùng một thể thức ấy, sau khi chúc lành, Người trao chén, mà nói : “Đây là Máu
Thầy, máu của Giao ước mới, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Điều ấy,
anh em đã đọc và đã nghe trong Phúc Âm, dù vậy, anh em không biết rằng Bí tích
Thánh Thể là chính Chúa Con; nhưng ngay bây giờ, với trái tim đã được
thanh tẩy trong một lương tâm không tì vết, và với thân xác được rửa sạch trong
nước tinh tuyền, anh em hãy đến gần Người và anh em sẽ được chiếu sáng và sẽ
không còn xấu hổ nữa” (Bài giảng 228B).
Nhà nguyện Redemptoris Mater, Tranh ghép đá của bức tường
trình bày mầu nhiệm Nhập
218. Phụng vụ là gì ?
1066-1070
Phụng vụ là việc
cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, đặc biệt là cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Người.
Trong Phụng vụ, qua trung gian việc thực thi phận vụ tư tế của Đức Giêsu Kitô,
sự thánh hóa con người được biểu lộ và thực hiện qua các dấu chỉ. Thân thể
nhiệm mầu của Đức Kitô, nghĩa là Đầu và các chi thể, thực thi việc thờ phượng
công khai dành cho Thiên Chúa.
219. Phụng vụ có vị trí nào
trong đời sống Hội thánh ?
1071-1075
Là hành động tuyệt đối thánh thiêng, Phụng vụ là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của
Hội thánh đều hướng tới, đồng thời là nguồn mạch phát sinh mọi năng lực của đời
sống Hội thánh. Qua Phụng vụ, Đức Kitô tiếp tục công trình cứu chuộc chúng ta trong
Hội thánh, với Hội thánh và nhờ Hội thánh của Người.
220. Nhiệm cục bí tích cốt tại điều gì ?
1076
Nhiệm
cục bí tích cốt tại việc thông chuyển các hiệu quả ơn cứu chuộc của Đức Kitô
qua việc cử hành các Bí tích của Hội thánh, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, “cho
tới khi Chúa lại đến” (1 Cr 11, 26).
CHƯƠNG MỘT
MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG ĐỜI
SỐNG CỦA HỘI THÁNH
PHỤNG VỤ – CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA BA
NGÔI
221. Chúa Cha là nguồn mạch và cùng đích của Phụng vụ theo nghĩa
nào?
1077-1083
1110
Trong Phụng vụ, Chúa Cha đổ tràn các phúc lành của Ngài cho chúng ta
trong Người Con nhập thể, đã chết và đã sống lại vì chúng ta, và Ngài tuôn đổ
Chúa Thánh Thần vào lòng chúng ta. Đồng thời Hội thánh chúc tụng Chúa Cha qua
việc tôn thờ, ca tụng, tạ ơn, và cầu xin Ngài ban hồng ân là Chúa Con và Chúa
Thánh Thần.
222. Công trình của Đức Kitô trong Phụng vụ là gì ?
1084-1090
Trong Phụng vụ Hội thánh, Đức Kitô biểu lộ và hoàn thành mầu nhiệm
Vượt qua của Người. Khi trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ, Người trao ban cho
họ và những người kế nhiệm họ quyền thực hiện công trình cứu độ qua hy tế Thánh
Thể và qua các Bí tích, nơi chính Người hoạt động để trao ban ân sủng của Người
cho các tín hữu trong mọi thời và trên toàn thế giới.
223. Chúa Thánh Thần hoạt động như thế nào trong Phụng vụ của Hội
thánh ?
1091-1109
1112
Trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần hoạt động cách chặt chẽ nhất với Hội
thánh. Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho Hội thánh gặp gỡ Chúa của mình. Ngài nhắc
nhớ và làm tỏ hiện Đức Kitô cho đức tin của cộng đoàn. Ngài làm cho hiện
diện và hiện tại hóa mầu nhiệm của Đức Kitô; Ngài kết hợp Hội thánh vào đời
sống và sứ vụ của Đức Kitô, làm cho hồng ân hiệp thông được sinh hoa kết quả
nơi Hội thánh.
MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG CÁC BÍ TÍCH CỦA
HỘI THÁNH
224. Các Bí tích là gì ? Đó là những Bí tích nào ?
1113-1131
Các Bí tích là những dấu chỉ khả giác và hữu hiệu của ân sủng, do Đức
Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội thánh; qua các Bí tích, sự sống thần linh
được trao ban cho chúng ta. Có bảy Bí tích : Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể,
Thống hối, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn phối.
225. Đâu là mối liên hệ giữa các Bí tích với Đức Kitô ?
1114-1116
Các mầu nhiệm trong đời sống Đức Kitô là nền tảng cho những gì mà ngày
hôm nay, qua các thừa tác viên của Hội thánh, Đức Kitô trao ban trong các Bí
tích.
“Điều hữu hình nơi Đấng cứu độ chúng ta
được chuyển vào trong các Bí tích ” (thánh Lêo Cả).
226. Đâu là sự liên kết giữa các Bí tích với Hội thánh ?
1117-1119
Đức Kitô đã ủy thác các Bí tích cho Hội thánh của Người. Các Bí tích
này là “của Hội thánh” theo hai nghĩa : các Bí tích là “do Hội thánh,” vì các
Bí tích là hoạt động của Hội thánh, (mà Hội Thánh) là Bí tích của hoạt động Đức
Kitô; các Bí tích là “cho Hội thánh,” theo nghĩa là các Bí tích xây dựng Hội
thánh.
227. Ấn tín Bí tích là gì ?
1121
Là một dấu ấn thiêng liêng được thông ban trong các Bí tích Rửa
tội, Thêm sức và Truyền chức. Ấn tín này là lời hứa và bảo đảm cho sự che chở
của Thiên Chúa. Nhờ ấn tín, người Kitô hữu trở nên đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô; họ được tham dự vào chức tư tế của Người theo nhiều cách. Họ là thành
phần trong Hội thánh theo những bậc sống và phận vụ khác nhau; như thế, ơn gọi
của họ là phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ Hội thánh. Vì ấn tín không thể xóa đi
được, nên ba Bí tích trao ban ấn tín, chỉ được nhận một lần trong đời.
228.
Đâu là mối liên hệ giữa các
Bí tích với đức tin ?
1122-1126
1133
Không những các Bí tích giả thiết phải có đức tin, mà các Bí tích còn
nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin, bằng lời đọc và những nghi thức. Qua
việc cử hành các Bí tích, Hội thánh tuyên xưng đức tin tông truyền. Từ đó có
câu thành ngữ cổ “lex orandi, lex credendi”, điều này muốn nói :
Hội thánh tin như Hội thánh cầu nguyện.
229.
Tại sao các Bí tích hữu hiệu ?
1127-1128
1131
Các Bí tích hữu hiệu “ex opere operato” (do chính hành động
được hoàn tất). Thực vậy, chính Đức Kitô hoạt động trong các Bí tích và thông
ban ân sủng mà các Bí tích biểu lộ, không lệ thuộc vào sự thánh thiện bản thân
của thừa tác viên; tuy nhiên, các hoa trái của Bí tích cũng tùy thuộc vào sự
chuẩn bị nội tâm của người lãnh nhận.
230.
Tại sao các Bí tích cần thiết cho ơn cứu độ ?
1129
Mặc dù không phải tất cả các Bí tích đều được ban cho từng người Kitô
hữu, các Bí tích đều cần thiết cho những ai tin vào Đức Kitô, bởi vì chúng trao
ban các ân sủng Bí tích, ơn tha thứ tội lỗi, ơn được làm nghĩa tử của Thiên
Chúa, ơn nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và ơn được thuộc về Hội thánh.
Chúa Thánh Thần chữa lành và biến đổi những ai lãnh nhận các Bí tích.
231.
Ân sủng Bí tích là gì ?
1129; 1131
1134; 2003
Ân sủng Bí tích là ân sủng của Chúa Thánh Thần, được Đức Kitô trao
ban, mỗi Bí tích theo một cách. Ân sủng này giúp người tín hữu trên bước đường
nên thánh, và cũng giúp Hội thánh tăng trưởng trong đức ái và trong chứng từ
của mình.
232.
Đâu là mối liên hệ giữa các
Bí tích với đời sống vĩnh cửu ?
1130
Trong các Bí tích, Hội thánh đã được tham dự trước vào đời sống vĩnh
cửu, đang khi “chờ đợi ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả
và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 13).
CHƯƠNG HAI
CỬ HÀNH MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
CỬ HÀNH PHỤNG VỤ CỦA HỘI THÁNH
Ai cử hành ?
233.
Ai hoạt động trong Phụng vụ ?
1135-1137
1187
Chính “Đức Kitô toàn thể” (Christus Totus), gồm Đầu và Thân
thể, hoạt động trong Phụng vụ. Với tư cách là vị Thượng tế, Đức Kitô cử hành
cùng với Thân thể Người là Hội thánh trên trời và Hội thánh ở trần gian.
234.
Ai cử hành Phụng vụ trên trời
?
1138-1139
Phụng vụ trên trời được cử hành do các thiên thần, các thánh của Cựu
Ước và Tân Ước, đặc biệt là Mẹ Thiên Chúa, các thánh Tông đồ, các thánh tử đạo
và “một đoàn người thật đông” không tài nào đếm nổi, “thuộc mọi dân, mọi chi
tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9). Khi cử hành mầu nhiệm cứu độ trong các
Bí tích, chúng ta được dự phần vào Phụng vụ vĩnh cửu này.
235.
Hội thánh ở trần gian cử hành
Phụng vụ như thế nào ?
1140-1144
1188
Hội thánh ở trần gian cử hành Phụng vụ với tư cách là dân tư tế, trong
đó mỗi người hoạt động tùy theo phận vụ riêng của mình, trong sự hợp nhất của
Chúa Thánh Thần. Các người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội hiến dâng chính mình
trong hy lễ thiêng liêng, các thừa tác viên có chức thánh cử hành theo thánh
chức mà họ đã lãnh nhận để phục vụ tất cả các chi thể của Hội thánh; các Giám
mục và linh mục hoạt động trong cương vị Đức Kitô, là Thủ lãnh.
Cử hành thế nào ?
236.
Phụng vụ được cử hành thế nào
?
1145
Việc cử hành Phụng vụ được kết thành bằng các dấu chỉ và biểu tượng. Ý
nghĩa của những dấu chỉ và biểu tượng này được bắt nguồn trong công trình tạo
dựng và trong các nền văn hóa nhân loại, được xác định trong các biến cố của
Cựu Ước và được hoàn tất trọn vẹn trong Con Người của Đức Kitô và trong các
hoạt động của Người.
237.
Các dấu chỉ Bí tích bắt nguồn từ đâu ?
1146-1152
1189
Một số dấu chỉ bắt nguồn từ công trình tạo dựng (ánh sáng, nước, lửa,
bánh, rượu, dầu); một số khác từ đời sống xã hội (tẩy rửa, xức dầu, bẻ bánh);
một số khác từ lịch sử cứu độ thời Cựu Ước (các nghi thức Vượt qua, các hy lễ,
việc đặt tay, việc thánh hiến). Những dấu chỉ này, có một số được qui định và
bất biến, đã được Đức Kitô sử dụng và trở thành những phương tiện chuyển thông
hoạt động cứu độ và thánh hóa của Người.
238.
Đâu là mối liên hệ giữa cử
chỉ và lời nói trong việc cử hành Bí tích ?
1153-1155
1190
Trong việc cử hành Bí tích, cử chỉ và lời nói liên hệ với nhau chặt
chẽ. Thật vậy, dù các cử chỉ tượng trưng tự chúng đã là một thứ ngôn ngữ, nhưng
vẫn cần có các lời thuộc nghi thức kèm theo và làm cho chúng sinh động. Trong
Phụng vụ, lời đọc và cử chỉ không thể tách rời nhau vì chúng vừa là dấu chỉ vừa
là giáo huấn; chúng cũng không thể tách rời nhau vì chúng thực hiện điều chúng
biểu thị.
239.
Bài ca và âm nhạc có vai trò
trong việc cử hành Phụng vụ theo những tiêu chuẩn nào ?
1156-1158
1191
Bài ca và
âm nhạc liên kết chặt chẽ với hành vi Phụng vụ. Vì vậy, phải tôn trọng các tiêu
chuẩn sau đây : các bản văn phải phù hợp với giáo lý công giáo, ưu tiên rút từ
Thánh Kinh và các nguồn Phụng vụ; vẻ đẹp diễn cảm của lời cầu nguyện; phẩm chất
âm nhạc; sự tham gia của cộng đoàn; sự phong phú về văn hóa của dân Thiên Chúa;
đặc điểm thánh thiêng và trang trọng của việc cử hành. “Hát là cầu nguyện
hai lần” (thánh Augustinô).
240.
Mục đích của các ảnh tượng
thánh là gì ?
1159-1161
1192
Ảnh tượng Đức Kitô là ảnh tượng phụng vụ cách tuyệt hảo; các ảnh tượng
thánh khác trình bày Đức Trinh Nữ và các thánh, biểu lộ Đức Kitô được tôn vinh
nơi các ngài. Các ảnh tượng này công bố chính sứ điệp Tin Mừng mà Thánh Kinh
chuyển đạt bằng lời. Các ảnh tượng thánh góp phần khơi dậy và nuôi dưỡng đức
tin của các tín hữu.
Phụng vụ được cử hành khi nào ?
241.
Trung tâm của thời gian Phụng
vụ là gì ?
1163-1167
1193
Trung tâm của thời gian Phụng vụ là ngày Chúa Nhật, nền tảng và cốt
lõi của cả năm Phụng vụ. Năm Phụng vụ có chóp đỉnh là lễ Phục sinh, ngày “lễ
của các ngày lễ.”
242.
Ý nghĩa của năm Phụng vụ
là gì ?
1168-1173
1194-1195
Trong năm Phụng vụ, Hội thánh cử hành toàn thể Mầu nhiệm Đức Kitô, từ
lúc Người nhập thể cho đến ngày Người lại đến trong vinh quang. Trong một số
ngày, Hội thánh tôn kính Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc, Mẹ Thiên Chúa, với một
lòng trìu mến đặc biệt; Hội thánh cũng kính nhớ các thánh là những người đã
sống cho Đức Kitô, đã chịu đau khổ với Người và hiện đang ở với Người trong
vinh quang.
243.
Các Giờ kinh Phụng vụ là gì ?
1174-1178
1196
Các Giờ kinh Phụng vụ – Kinh nguyện công khai và thường xuyên của Hội
thánh – là lời cầu nguyện của Đức Kitô cùng với Thân Thể Người. Nhờ Các Giờ
kinh Phụng vụ, Mầu nhiệm của Đức Kitô, mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ,
thánh hóa và làm thay hình đổi dạng thời gian của mỗi ngày. Các Giờ kinh Phụng
vụ được kết thành chủ yếu từ các Thánh Vịnh, các bản văn khác của Thánh Kinh,
cũng như những bài đọc của các Giáo phụ và các tôn sư linh đạo.
Phụng vụ được cử hành ở đâu ?
244.
Hội thánh có cần những nơi
chốn để cử hành Phụng vụ không ?
1197-1198
Việc thờ phượng “trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,24) của Giao ước Mới
không bị lệ thuộc vào bất cứ nơi nào đặc biệt, vì Đức Kitô là Đền Thờ đích thực
của Thiên Chúa; nhờ Người, các người Kitô hữu và toàn thể Hội thánh, dưới tác
động của Chúa Thánh Thần, cũng trở thành đền thờ của Thiên Chúa hằng sống. Tuy
nhiên, Dân Thiên Chúa, trong hoàn cảnh trần thế, cần đến những nơi chốn để cộng
đoàn có thể qui tụ cử hành Phụng vụÏ.
245. Các “thánh đường” là gì ?
1198-1999
Đó là những ngôi nhà của Thiên Chúa, biểu tượng của Hội thánh đang
sống tại đó cũng như biểu trưng nơi cư ngụ thiên quốc. Đó là những nơi
cầu nguyện trong đó Hội thánh cử hành đặc biệt là Thánh lễ và tôn thờ Đức Kitô
thực sự hiện diện trong nhà tạm.
246. Những nơi nào là ưu tiên bên trong các thánh đường ?
1182-1186
Những nơi ưu tiên là : bàn thờ, nhà tạm, nơi cất giữ Dầu thánh
(myron), ngai Giám mục (cathedra) hay linh mục, giảng đài, giếng rửa tội, tòa
giải tội.
SỰ ĐA DẠNG CỦA PHỤNG VỤ – SỰ DUY NHẤT CỦA MẦU NHIỆM
247. Tại sao mầu nhiệm
duy nhất của Đức Kitô lại được cử hành theo nhiều truyền thống Phụng vụ khác
nhau ?
1200-1204
1207-1209
Mầu nhiệm của Đức Kitô phong phú khôn lường nên không một truyền thống
Phụng vụ nào diễn tả trọn vẹn được. Vì vậy, ngay từ ban đầu, sự phong phú
này đã được thể hiện nơi các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau, qua những
cách diễn tả đa dạng và bổ túc cho nhau cách kỳ diệu.
248. Có tiêu chuẩn nào bảo đảm cho tính duy nhất trong sự đa
dạng này ?
1209
Đó là sự trung thành với Truyền thống Tông đồ, nghĩa là sự hiệp thông
trong đức tin và trong các Bí tích đã lãnh nhận từ các Tông đồ; sự hiệp thông
này được biểu lộ và bảo đảm bằng sự liên tục kế nhiệm tông đồ. Hội thánh là
công giáo : do đó, Hội thánh có thể hội nhập tất cả những sự phong phú đích
thực của các nền văn hóa khác nhau vào sự duy nhất của mình.
249. Trong Phụng vụ, có phải tất cả đều bất biến không ?
1205-1206
Trong Phụng vụ, nhất là trong Phụng vụ các Bí tích, có những yếu tố
bất biến vì là thể chế thiên định, đuợc Hội thánh trung thành gìn giữ. Ngoài
ra, cũng có những yếu tố có thể thay đổi mà Hội thánh có quyền và đôi khi có
bổn phận thích nghi với các nền văn hóa của các dân tộc khác nhau.
ĐOẠN THỨ HAI
BẢY BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH
Bảy Bí tích của Hội thánh là :
Rửa tội,
Thêm sức
Thánh Thể
Thống hối
Xức dầu bệnh nhân
Truyền chức
Hôn phối
Các Bí tích của Hội thánh là những hoa trái của hy tế
cứu độ của Chúa Giêsu trên thập giá. Bức tranh ba mảng trình bày một nhà thờ nơi
cử hành bảy Bí tích. Ở giữa, cây thánh giá giương cao một cách vượt trội. Dưới
chân thánh giá có Đức Maria, kiệt lực, được thánh Gioan nâng đỡ, cũng như các
bà đạo đức. Hậu cảnh, một linh mục đang dâng Thánh lễ, nâng cao Bánh thánh sau
truyền phép, cho thấy rằng hy tế thập giá được hiện thực trong việc cử hành Thánh
lễ dưới hai hình bánh rượu. Bên trái cho thấy nhà nguyện bên cạnh, các Bí tích
Rửa tội, Thêm sức được Giám mục trao ban và cả Bí tích Thống hối. Bên phải, các
Bí tích Truyền chức, Hôn phối và Xức dầu bệnh nhân được trao ban.
ROGER VAN DER WEYDEN, Tranh ba mảng về bảy Bí tích, Bảo tàng
Koninklijk voor Schone Kunsten,
250. Các Bí tích của Hội thánh được phân loại thế nào ?
1210-1211
Người ta phân loại : các Bí tích khai tâm Kitô giáo (Rửa tội, Thêm sức
và Thánh Thể), các Bí tích chữa lành (Thống hối và Xức dầu bệnh nhân), các Bí
tích phục vụ cho sự hiệp thông và sứ vụ (Truyền chức thánh và Hôn phối). Bảy Bí
tích liên quan đến những thời điểm quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Tất cả
các Bí tích đều hướng về Bí tích Thánh Thể “như mục đích đặc thù của mình”
(thánh Tôma Aquinô).
CHƯƠNG MỘT
CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM KITÔ
GIÁO
251. Việc khai tâm Kitô giáo được thực hiện thế nào ?
1212
1275
Việc khai tâm Kitô giáo được thực hiện qua ba Bí tích đặt nền tảng
cho đời sống Kitô hữu. Các tín hữu được tái sinh nhờ Bí tích Rửa tội, được củng
cố nhờ Bí tích Thêm sức, và được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thánh Thể.
BÍ TÍCH RỬA TỘI
252. Các tên gọi của Bí tích đầu tiên trong việc khai tâm Kitô giáo là
gì ?
1213-1216
1276-1277
Đầu tiên, người ta gọi Bí tích này là Rửa tội theo nghi thức
chính yếu của việc cử hành. Rửa tội muốn nói việc “dìm xuống” nước. Người được
Rửa tội được dìm vào trong sự chết của Đức Kitô và sống lại với Người như
một “thụ tạo” mới (2 Cr 5,17). Người ta còn gọi Bí tích này là “tắm tái
sinh và đổi mới trong Chúa Thánh Thần” (Tt 3,5), hay là “ơn soi sáng” vì người
được Rửa tội trở thành “con cái sự sáng” (Ep 5, 8).
253. Bí tích Rửa tội được diễn tả bằng những hình ảnh tượng trưng nào
trong Cựu Ước ?
1217-1222
Trong Cựu Ước, người ta gặp nhiều hình ảnh tượng trưng khác nhau về Bí
tích Rửa tội : nước, được coi như nguồn gốc của sự sống và sự chết; tàu
Nôe cứu thoát con người nhờ nước; cuộc vượt qua Biển Đỏ giải phóng
dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập; việc băng qua sông Giođan tiến vào đất
hứa, là hình ảnh của sự sống đời đời.
254.
Ai đã kiện toàn những hình
ảnh tượng trựng đó ?
1223-1224
Những hình ảnh tượng trưng trong Cựu Ước được hoàn thành trong Đức
Giêsu Kitô, Đấng ngay lúc khởi đầu đời sống công khai, đã để cho Gioan Tẩy giả
làm phép rửa cho mình tại sông Giođan. Trên thập giá, từ cạnh sườn của Người bị
đâm thâu, máu và nước đã tuôn trào, là dấu chỉ của Bí tích Rửa tội và Thánh
thể. Sau khi Phục sinh, Người đã ủy thác cho các Tông đồ sứ vụ sau đây : “Anh
em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần” (Mt 28,19-20).
255.
Hội thánh ban Bí tích
Rửa tội cho những ai và từ bao giờ ?
1226-1228
Từ ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội thánh ban Bí tích Rửa tội
cho những ai tin vào Đức Giêsu Kitô.
256.
Nghi thức chính yếu của Bí
tích Rửa tội là gì ?
1229-1245
1278
Nghi thức chính yếu của Bí tích này gồm việc dìm ứng viên xuống nước
hay đổ nước trên đầu họ trong khi kêu cầu : nhân Danh Cha và Con và Thánh
Thần.
257.
Ai có thể lãnh nhận Bí tích
Rửa tội ?
1246-1252
Mọi người chưa lãnh nhận đều có thể lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
258.
Tạo sao Hội thánh Rửa tội cho
các em bé ?
1250
Bởi vì các em bé được sinh ra trong tội nguyên tổ, nên cần được
giải thoát khỏi quyền lực Ác thần và đưa dẫn vào Vương quốc của sự tự do của
con cái Thiên Chúa.
259.
Hội thánh đòi hỏi gì nơi người
sắp lãnh Bí tích Rửa tội ?
1253-1255
Hội thánh đòi hỏi người sắp nhận Bí tích Rửa tội phải tuyên xưng đức
tin; trong trường hợp là một người trưởng thành thì việc tuyên xưng này phải do
chính bản thân họ, nhưng nếu là một em bé, thì việc tuyên xưng do cha mẹ và Hội
thánh. Cha mẹ đỡ đầu và cả cộng đoàn giáo hội đều có trách nhiệm phần nào trong
việc chuẩn bị Bí tích Rửa tội (cho người dự tòng) cũng như trong việc phát
triển đức tin và ân sủng của Bí tích Rửa tội .
260.
Ai có thể ban Bí tích Rửa tội
?
1256
1284
Thừa tác viên thông thường của Bí tích Rửa tội là các Giám mục và linh
mục; trong Giáo hội Latinh còn có cả các phó tế. Trong trường hợp cần thiết,
mọi người đều có thể ban Bí tích Rửa tội, miễn là họ có ý làm điều Hội thánh
làm. Người ban Bí tích Rửa tội đổ nước trên đầu ứng viên và đọc công thức Ba
Ngôi khi Rửa tội : “Tôi Rửa tội cho […] nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần.”
261.
Bí tích Rửa tội có cần thiết cho ơn cứu độ không ?
1257
Bí tích Rửa tội cần thiết cho ơn cứu độ đối với những người đã được
nghe rao giảng Tin Mừng và những người có khả năng xin lãnh nhận Bí tích này.
262.
Người không lãnh Bí tích Rửa
tội có thể được cứu
rỗi không ?
1258-1261
1281-1283
Vì Đức Kitô đã chết để cứu độ tất cả mọi người, nên những người sau
đây có thể được cứu độ dù không lãnh nhận Bí tích Rửa tội : những ai chết vì
đức tin (Rửa tội bằng máu), những người dự tòng và cả những người, dưới
tác động của ân sủng, dù không biết Đức Kitô cũng như Hội thánh của Người,
nhưng đã thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và cố gắng chu toàn thánh ý Người (Rửa
tội bằng lòng ước ao). Về phần các trẻ em chết mà không được Rửa tội, Hội
thánh trong Phụng vụ phó thác các em cho lòng nhân từ của Thiên Chúa.
263.
Bí tích Rửa tội mang lại những hiệu quả nào ?
1262-1274
1279-1280
Bí tích Rửa tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt
do tội. Bí tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn
thánh hóa, nhờ ơn công chính hóa giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội thánh
Người. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho
sự hiệp thông với tất cả các người Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức
đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí tích Rửa tội
thuộc về Đức Kitô luôn mãi : họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (ấn
tín).
264.
Đâu là ý nghĩa của “tên thánh”
khi lãnh Bí tích Rửa tội ?
2156-2159
2167
Mọi tên gọi đều là quan trọng vì Thiên Chúa biết
tên gọi của từng người, nghĩa là biết tính cách độc đáo của mỗi người. Khi lãnh
nhận Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu nhận một tên gọi đặc biệt trong Hội Thánh,
ưu tiên nên chọn tên của một vị thánh, vị này là gương mẫu thánh thiện cho
người nhận tên, và ngài sẽ chuyển cầu cho họ nơi Thiên Chúa.
BÍ TÍCH THÊM SỨC
265.
Bí tích Thêm sức có vị trí nào trong Nhiệm cục Cứu độ ?
1285-1288
1315
Trong Giao ước cũ, các tiên tri đã loan báo việc
tuôn đổ Thánh Thần của Chúa trên Đấng Mêsia đang được mong đợi, và trên toàn
dân của Đấng Mêsia. Trọn đời sống và sứ vụ của Đức Kitô diễn ra trong sự hiệp
thông trọn vẹn với Chúa Thánh Thần. Các Tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần trong
ngày lễ Ngũ tuần và loan báo “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 11). Qua
việc đặt tay, các ngài trao ban cho các người mới lãnh nhận Bí tích Rửa tội
hồng ân của chính Chúa Thánh Thần. Qua bao thế kỷ, Hội thánh liên tục sống nhờ
Chúa Thánh Thần và thông ban Chúa Thánh Thần cho con cái mình.
266.
Tại sao Bí tích này được gọi là Bí tích Dầu thánh hay Thêm sức
?
1289
Người ta gọi Bí tích này là Bí tích Dầu thánh
(trong các Giáo hội đông phương : Chrismation là việc xức bằng dầu
myron, nghĩa là Dầu thánh), bởi vì nghi thức chính yếu của Bí tích này là việc
xức dầu. Người ta gọi Bí tích này là Bí tích Thêm Sức, vì Bí tích này
kiên cường và củng cố ân sủng của Bí tích Rửa tội.
267.
Nghi thức chính yếu của Bí tích Thêm sức là gì ?
1290-1301
1318
1320-1321
Nghi thức chính yếu của Bí tích Thêm sức là việc
xức Dầu thánh (dầu pha hương liệu đã được Giám mục thánh hiến), kèm theo việc
đặt tay của thừa tác viên, ngài sẽ đọc các lời thuộc Bí tích dành riêng
cho nghi thức. Ở Phương Tây việc xức dầu được ghi trên trán của những người đã
được Rửa tội, kèm theo lời này : “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh
Thần”. Trong các Giáo hội Đông Phương theo nghi thức Byzantin, việc xức dầu còn
ghi trên nhiều phần thân thể, với công thức : “Tôi ghi dấu cho anh bằng hồng ân
của Chúa Thánh Thần.”
268.
Bí tích Thêm sức có những hiệu quả nào ?
1302-1305
1316-1317
Hiệu quả của Bí tích Thêm sức là việc đổ tràn
Chúa Thánh Thần cách đặc biệt, như trong ngày lễ Ngũ Tuần. Việc đổ tràn này ghi
một ấn tín không thể tẩy xoá trong linh hồn người lãnh nhận, và gia tăng ân
sủng của Bí tích Rửa tội. Việc tuôn tràn Thánh Thần giúp chúng ta tiến sâu hơn
vào ơn làm con cái Thiên Chúa, kết hợp chúng ta chặt chẽ hơn với Đức Kitô và
với Hội thánh của Người. Bí tích này củng cố trong tâm hồn chúng ta các hồng ân
của Chúa Thánh Thần và trao ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt để làm chứng
cho đức tin Kitô giáo.
269. Ai có thể
lãnh nhận Bí tích Thêm sức ?
1306-1311
1319
Tất cả những ai đã nhận Bí tích Rửa tội đều có
thể và phải nhận Bí tích Thêm sức và chỉ một lần duy nhất. Để lãnh nhận cho có
hiệu quả, người đã được Rửa tội phải ở trong tình trạng ân sủng.
270. Ai là thừa
tác viên của Bí tích Thêm sức ?
1312-1314
Thừa tác viên nguyên thủy của Bí tích Thêm sức là
Giám mục. Đây là cách làm nổi bật sự liên kết giữa người được Thêm sức với Hội
thánh trong cơ cấu tông truyền. Khi linh mục trao ban Bí tích này – điều này
thông thường ở Đông Phương và trong những hoàn cảnh đặc biệt ở Tây Phương – mối
dây liên kết với Giám mục và với Hội thánh được biểu lộ qua linh mục, là cộng
sự viên của Giám mục, và qua Dầu thánh được chính Giám mục thánh hiến.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ
271. Bí tích
Thánh Thể là gì ?
1322-1323
1409
Bí tích Thánh Thể là chính hy tế Mình và Máu của
Chúa Giêsu, mà Người đã thiết lập để lưu tồn hy tế thập giá của Người qua bao
thế kỷ cho đến khi Người lại đến. Như thế, Người ủy thác cho Hội thánh việc
tưởng nhớ cái Chết và cuộc Phục sinh của Người. Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ
hợp nhất, dây bác ái, bữa tiệc vượt qua, nơi chúng ta lãnh nhận Đức Kitô, linh
hồn được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm cho đời sống vĩnh cửu.
272. Chúa Giêsu đã
thiết lập Bí tích Thánh thể khi nào ?
1323
1337-1340
Người đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào ngày Thứ
Năm tuần thánh, “trong đêm bị trao nộp” (1 Cr 11, 23), khi Người ăn bữa tiệc
cuối cùng với các Tông đồ của Người.
273. Người đã thiết
lập Bí tích Thánh Thể như thế nào ?
1337-1340
1365, 1406
Sau khi qui tụ các Tông đồ trong nhà Tiệc ly,
Chúa Giêsu cầm lấy bánh trong tay, bẻ ra và trao cho các ông mà nói : “Anh em
hãy nhận lấy mà ăn : này là Mình Thầy bị nộp vì anh em”. Rồi Người cầm trong
tay chén đầy ruợu và nói với họ : “Anh em hãy nhận lấy mà uống: này là chén Máu
Thầy, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu, đổ ra cho anh em và nhiều người được tha
tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
274. Bí tích Thánh
Thể có ý nghĩa gì trong đời sống của Hội thánh ?
1324-1327
1407
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh
của toàn bộ đời sống Kitô giáo. Thánh Thể là tột đỉnh hoạt động thánh hóa của
Thiên Chúa đối với chúng ta và là tột đỉnh của hoạt động phượng tự chúng ta
dâng lên Ngài. Bí tích Thánh Thể chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội
thánh, đó chính là Đức Kitô, Đấng là Chiên Vượt qua của chúng ta. Việc hiệp
thông vào sự sống của Thiên Chúa và sự hợp nhất của dân Thiên Chúa được diễn tả
và thực hiện nhờ Bí tích Thánh Thể. Qua việc cử hành Thánh lễ, chúng ta được
kết hợp với Phụng vụ trên trời và tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu.
275. Bí tích này còn
được gọi bằng những tên gọi nào ?
1328-1332
Nguồn phong phú vô tận của Bí tích này được diễn
tả qua nhiều tên gọi khác nhau, gợi lên những khía cạnh đặc biệt. Những tên gọi
thông dụng nhất là: Thánh Thể, Thánh lễ, Bữa tiệc của Chúa, lễ Bẻ Bánh, Cử hành
Thánh Thể, Tưởng nhớ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa, Hy lễ
thánh, Phụng vụ thánh và Thần linh, Mầu nhiệm thánh, Bí tích thánh nơi bàn thờ,
Hiệp lễ.
276. Đâu là vị
trí của Bí tích Thánh Thể trong Nhiệm cục cứu độ ?
1333-1344
Trong Giao ước cũ, Bí tích Thánh Thể đặc biệt
được tượng trưng bằng bữa ăn Vượt qua, được Người Hi-pri cử hành hàng năm với
bánh không men, để ghi nhớ ngày ra đi vội vã và giải phóng khỏi đất Ai Cập. Chúa
Giêsu đã báo trước về Bí tích này trong giáo huấn của Người, và Người đã thiết
lập Bí tích này khi cử hành bữa tiệc ly với các Tông đồ, trong khung cảnh bữa
tiệc Vượt qua. Trung thành với lệnh truyền của Chúa : “Hãy làm việc này mà nhớ
đến Thầy” (1 Cr 11, 24), Hội thánh luôn cử hành Bí tích Thánh Thể, nhất là vào
ngày chúa nhật, ngày Phục sinh của Chúa Giêsu.
277. Bí tích
Thánh Thể được cử hành thế nào ?
1345-1355
1408
Bí tích Thánh Thể được cử hành gồm hai phần
chính, hợp thành một hành vi phụng tự duy nhất : Phụng vụ Lời Chúa gồm việc
công bố và lắng nghe Lời Chúa, và Phụng vụ Thánh Thể gồm việc tiến dâng bánh
rượu, kinh nguyện thánh thể (hay anaphore) và hiệp lễ.
278. Ai là thừa
tác viên của Bí tích Thánh Thể ?
1348
1411
Thừa tác viên Bí tích Thánh Thể là vị tư tế (Giám
mục hay linh mục) đã được truyền chức thành sự; vị này cử hành trong cương vị
(in Persona) Đức Kitô – Thủ lãnh và nhân danh Hội thánh.
279. Các chất
liệu chính yếu và cần thiết của Bí tích Thánh Thể là gì ?
1412
Các chất liệu đó là bánh mì và rượu nho.
280. Tại sao
nói Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm hy tế của Đức Kitô ?
1362-1367
Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm theo
nghĩa làm cho hiện diện và hiện tại hoá hy tế thập giá mà Đức Kitô đã dâng lên
Chúa Cha, một lần thay cho tất cả, vì nhân loại. Đặc tính hy tế của Bí tích
Thánh Thể được biểu lộ trong chính những lời thiết lập : “Đây là Mình Thầy, bị
nộp vì anh em” và “Chén này là Giao ước mới trong Máu Thầy, sẽ đổ ra vì anh em”
(Lc 22,19-20). Hy tế thập giá và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất. Hiến
vật và người dâng là một, chỉ khác biệt về cách tiến dâng : cách đổ máu trên
thập giá, cách không đổ máu trong Bí tích Thánh Thể.
281. Hội thánh
tham dự vào hy tế Thánh Thể theo cách nào ?
1368-1372
1414
Trong Bí tích Thánh Thể, hy tế của Đức Kitô cũng
trở thành hy tế của các chi thể trong Thân Thể Người. Đời sống của các tín hữu,
lời ca ngợi, hoạt động, cầu nguyện, lao động của họ được kết hợp với Đức Kitô. Vì
là hy tế, Bí tích Thánh Thể cũng được dâng lên thay cho tất cả các tín hữu,
người còn sống cũng như kẻ đã qua đời, như của lễ đền tội cho tất cả mọi người,
để đón nhận được từ Thiên Chúa những ích lợi thiêng liêng và trần thế. Hơn nữa,
Hội thánh trên trời cũng hiện diện trong lễ dâng của Đức Kitô.
282. Chúa Giêsu
hiện diện trong Bí tích Thánh Thể như thế nào ?
1373-1375
1413
Đức Giêsu Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể
một cách độc nhất vô nhị và không thể so sánh được. Thật vậy, Người hiện diện
cách đích thực, thực sự và theo bản thể: với Mình và Máu Người, với linh
hồn và thần tính của Người. Trong Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô trọn vẹn, vừa là
Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện theo cách Bí tích, nghĩa là dưới hình
bánh và hình rượu.
283. Biến
đổi bản thể nghĩa là gì ?
1376-1377
1413
Biến đổi bản thể nghĩa là sự biến đổi trọn vẹn bản thể bánh thành
bản thể Mình Thánh Đức Kitô, và biến đổi trọn vẹn bản thể rượu thành bản thể
Máu Thánh Người. Sự biến đổi này được thực hiện trong Kinh Nguyện Thánh Thể,
nhờ tính hữu hiệu của lời Đức Kitô và tác động của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên,
những đặc tính khả giác bên ngoài của bánh và rượu, nghĩa là các “hình bánh
rượu,” vẫn không thay đổi.
284. Việc bẻ
bánh có phân chia Đức Kitô không ?
1377
Việc bẻ bánh không phân chia Đức Kitô. Người hiện
diện trọn vẹn và toàn phần trong mỗi hình dạng Thánh Thể, và trong mỗi phần nhỏ
của cả hai hình dạng đó.
285. Sự hiện
diện của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể kéo dài bao lâu ?
1377
Sự hiện diện của Đức Kitô kéo dài bao lâu hình
bánh ruợu đã truyền phép còn tồn tại.
286. Phải tôn
thờ Bí tích Thánh Thể cách nào ?
1378-1381
1418
Đó là sự tôn thờ “latria”, nghĩa là sự tôn thờ
chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa, dù trong Thánh lễ, dù ngoài Thánh lễ. Hội
thánh bảo quản bánh rượu đã truyền phép một cách cẩn thận tối đa; Hội thánh
mang Thánh Thể cho các bệnh nhân, cho những người không có khả năng tham dự
Thánh lễ. Hội thánh trưng Thánh Thể cho các tín hữu tôn thờ cách long trọng ;
mang Thánh Thể đi rước kiệu và mời gọi mọi người thường xuyên kính viếng và thờ
lạy Bí tích cực thánh này, được gìn giữ trong Nhà tạm.
287. Tại sao Bí
tích Thánh Thể là tiệc Vượt qua ?
1382-1384
1391-1396
Bí tích Thánh Thể là tiệc Vượt qua vì khi làm cho
cuộc Vượt qua của Người hiện diện một cách Bí tích, Đức Kitô ban cho chúng ta
Mình và Máu Người làm của ăn thức uống. Người kết hợp chúng ta với Người và với
nhau trong hy tế của Người.
288. Bàn thờ có
ý nghĩa gì ?
1383
1410
Bàn thờ là biểu
tượng của chính Đức Kitô, Đấng đang hiện diện như của lễ hiến tế (bàn thờ - hy
tế thập giá) và như lương thực thần thiêng được ban tặng cho chúng ta (bàn thờ
– bàn tiệc Thánh Thể).
289. Hội thánh
đòi buộc chúng ta phải tham dự Thánh lễ khi nào ?
1389
1417
Hội thánh đòi buộc các tín hữu phải tham dự Thánh
lễ vào các ngày Chúa nhật và các lễ buộc. Hội thánh cũng khuyên chúng ta tham
dự Thánh lễ vào các ngày khác nữa.
290. Khi nào
chúng ta phải rước lễ ?
1389
Hội thánh khuyên các tín hữu, nếu có đủ điều kiện
cần thiết, nên rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Hội thánh buộc chúng ta rước
lễ một năm ít là một lần trong mùa Phục sinh.
291. Phải có
những điều kiện nào để rước lễ ?
1385-1389
Để rước lễ, chúng ta phải hoàn toàn thuộc về Hội
thánh Công giáo và sống trong tình trạng ân sủng, nghĩa là phải ý thức mình
không có tội trọng. Ai ý thức mình đã phạm một tội trọng, phải lãnh nhận Bí
tích Thống hối trước khi rước lễ. Cũng cần phải có sự tịnh tâm và cầu nguyện,
giữ sự chay tịnh do Hội thánh qui định và có những thái độ bên ngoài xứng đáng
(cử chỉ, cách ăn mặc) biểu lộ lòng tôn kính đối với Đức Kitô.
292. Việc rước lễ đem
lại những hiệu quả gì ?
1391-1397
1416
Việc rước lễ làm tăng triển sự hiệp thông của
chúng ta với Đức Kitô và với Hội thánh Người, bảo toàn và canh tân đời sống ân
sủng đã nhận được khi lãnh Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, giúp tăng triển
tình yêu đối với tha nhân. Việc rước lễ làm chúng ta nên mạnh mẽ trong đức ái,
xoá bỏ các tội nhẹ và gìn giữ chúng ta, trong tương lai, khỏi các tội trọng.
293. Khi nào có thể
trao ban Bí tích Thánh Thể cho các người Kitô hữu không công giáo?
1398-1401
Các thừa tác viên công giáo chỉ được phép trao
ban Bí tích Thánh Thể cho những người thuộc các Giáo hội Đông Phương, dù không
hiệp thông trọn vẹn với Hội thánh Công giáo, nếu như chính họ tự ý xin và có đủ
các điều kiện cần thiết. Còn đối với những người thuộc các cộng đoàn giáo hội
khác, các thừa tác viên công giáo được phép trao ban Bí tích Thánh Thể cho họ,
khi có lý do quan trọng, và do chính họ tự ý xin và có đủ các diều kiện cần
thiết, và họ cũng phải biểu lộ đức tin công giáo đối với Bí tích Thánh Thể.
294. Tại sao Thánh Thể là “bảo chứng cho vinh quang mai sau” ?
1402-1405
Vì Bí tích Thánh Thể đổ tràn trong chúng ta tất cả mọi ân sủng và sự
chúc lành của trời cao, nên Bí tích này củng cố chúng ta nên mạnh mẽ trên đường
lữ hành trần gian, và làm cho chúng ta thêm lòng khao khát đời sống vĩnh cửu,
khi đã liên kết chúng ta với Đức Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha,
với Hội thánh thiên quốc, với Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc và với tất cả các
thánh.
Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta bẻ cùng
một tấm bánh là phương dược trường sinh bất tử và của ăn đem lại sự sống muôn
đời trong Đức Kitô” (Thánh
Ignatio Antiokia).
CHƯƠNG HAI
CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH
295. Tại sao Đức Kitô lập Bí tích Thống hối và Xức dầu bệnh nhân
?
1420-1421
1426
Đức Kitô là thầy thuốc chữa lành linh hồn và thể xác, Người đã lập các
Bí tích này vì đời sống mới do Người ban cho chúng ta qua các Bí tích khai tâm
Kitô giáo, có thể bị suy yếu và thậm chí bị mất đi do tội lỗi. Vì thế, Người
muốn rằng Hội thánh tiếp tục công trình chữa lành và cứu độ của Người qua hai
Bí tích chữa lành.
BÍ TÍCH THỐNG HỐI HAY GIAO HÒA
296. Bí tích này được gọi như thế nào ?
1422-1424
Bí tích này được gọi là Bí tích Thống hối, Giao hòa, Tha thứ, Xưng tội
và Sám hối.
297. Tại sao lại có một Bí tích Giao hòa sau Rửa tội ?
1425-1426
1484
Vì đời sống mới trong ân sủng, được lãnh nhận khi lãnh Bí tích Rửa
tội, không tiêu hủy sự yếu đuối của bản tính con người, cũng như sự hướng chiều
theo tội lỗi (có nghĩa là dục vọng, concupiscentia), nên Đức Kitô đã
thiết lập Bí tích Giao hoà để những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội có thể
ăn năn trở lại một khi họ xa lìa Người vì tội lỗi.
298. Đức Kitô thiết lập Bí tích này khi nào ?
1485
Đức Kitô sống lại đã thiết lập Bí tích này khi Người hiện ra với các
Tông đồ vào chiều ngày Phục sinh và nói với họ : “Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần; anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai,
thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
299. Những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội có cần phải hoán
cải hay không ?
1427-1429
Lời kêu gọi hoán cải của Đức Kitô luôn vang vọng trong đời sống những
người đã lãnh Bí tích Rửa tội. Việc hoán cải này là một cuộc chiến đấu liên tục
của toàn thể Hội thánh, tuy có đặc điểm là thánh thiện, nhưng lại bao gồm các
tội nhân.
300. Thống hối nội tâm là gì ?
1430-1433
1490
Là biểu hiện của “tâm hồn tan nát” (Tv 50 [51],19), được ân sủng thần
linh thúc đẩy để đáp lại tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Lòng thống hối bao
hàm sự đau khổ và quay lưng lại với tội lỗi đã phạm, quyết tâm trong tương lai
sẽ không phạm tội nữa và tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Lòng thống
hối được dưỡng nuôi bằng niềm hy vọng vào sự thương xót của Thiên Chúa.
301. Việc thống hối trong đời sống người Kitô hữu được diễn tả
dưới những hình thức nào ?
1434-1439
Việc thống hối được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt
qua việc ăn chay, cầu nguyện, bố thí. Các hình thức thống hối này, và nhiều
hình thức khác, có thể được người Kitô hữu thực hành trong đời sống hằng ngày
của họ, đặc biệt trong Mùa Chay và ngày thứ sáu là ngày sám hối.
302. Các yếu tố chính yếu của Bí tích Giao hòa là gì ?
1440-1449
Có hai yếu tố chính : hành vi của người sám hối, dưới tác động của
Chúa Thánh Thần, và lời xá giải của linh mục, nhân danh Đức Kitô, trao ban ơn
tha thứ và xác định cách đền tội.
303. Hối nhân phải có những hành vi nào ?
1450-1460
1487-1492
Những việc hối nhân phải làm là : xét mình cẩn thận; ăn năn tội
cách trọn khi phát xuất từ lòng yêu mến Chúa và cách không trọn khi dựa vào
những động lực khác, và quyết tâm không tái phạm nữa; xưng tội, tức là
xưng thú tội lỗi với linh mục; đền tội, tức làm một số việc thống hối mà
cha giải tội ấn định để đền bù những hậu quả do tội gây ra.
304. Phải xưng những tội nào ?
1456
Chúng ta phải xưng tất cả các tội trọng nhớ được mà chưa xưng sau khi
đã xét mình cẩn thận. Việc xưng thú các tội trọng là phương tiện thông thường
duy nhất để được ơn tha tội.
305. Khi nào phải xưng thú các tội trọng ?
1457
Mọi tín hữu khi đến tuổi khôn buộc phải xưng các tội trọng của mình ít
nhất một năm một lần và, trong mọi trường hợp, phải xưng các tội trọng trước
khi rước lễ.
306. Tại sao khi xưng tội cũng nên xưng thú các tội nhẹ ?
1458
Hội thánh tha thiết khuyên chúng ta xưng thú các tội nhẹ, mặc dầu điều
này không phải là cần thiết theo nghĩa hẹp, bởi vì việc xưng thú như vậy giúp
tạo nên lương tâm ngay thẳng và giúp chiến đấu chống lại những hướng chiều về
đàng xấu, để chúng ta được Đức Kitô chữa lành và được tiến triển trong đời sống
theo Thánh Thần.
307. Ai là thừa tác viên Bí tích này ?
1461-1466
1495
Đức Kitô đã ủy thác thừa tác vụ Giao hòa cho các Tông đồ của Người,
cho các Giám mục kế nhiệm các ngài, và cho các linh mục, là những cộng tác viên
của Giám mục. Như vậy, tất cả các vị ấy trở thành khí cụ của lòng thương xót và
sự công chính của Thiên Chúa. Các ngài thực thi quyền tha thứ các tội lỗi nhân
danh Cha, Con và Thánh Thần.
308. Việc tha thứ một số tội được dành riêng cho ai ?
1463
Việc xá giải một số tội đặc biệt nghiêm trọng (như những người bị vạ
tuyệt thông) được dành riêng cho Tòa thánh hay vị Giám mục sở tại hay một số
linh mục được các ngài ủy nhiệm. Trong trường hợp nguy tử, bất kỳ linh mục nào
cũng có thể xá giải bất cứ tội lỗi hay vạ tuyệt thông nào.
309. Cha giải tội có bị ràng buộc với bí mật tòa giải tội hay
không ?
1467
Vì sự tế nhị và cao cả của thừa tác vụ này và vì phải tôn trọng những
người xưng tội, mọi cha giải tội buộc phải giữ “ấn tín tòa giải tội,” nghĩa là
phải bí mật tuyệt đối về những tội lỗi người ta đã xưng thú cho ngài trong tòa
giải tội. Vấn đề giữ ấn tín tòa giải tội không có luật trừ, ai vi phạm sẽ bị
những hình phạt rất nặng.
310. Hiệu quả của Bí tích này là gì ?
1468-1470
1496
Hiệu quả của Bí tích Thống hối là : được giao hòa với Thiên Chúa, và
như vậy, được tha thứ tội lỗi; được giao hòa với Hội thánh; được trở lại tình
trạng ân sủng nếu như đã mất; được tha thứ hình phạt đời đời đáng phải
chịu vì các tội trọng đã phạm và, ít nhất một phần, những hình phạt tạm là
hậu quả của tội; được bình an thư thái trong lương tâm và được an ủi; được gia
tăng sức mạnh thiêng liêng để chiến đấu trong cuộc lữ hành.
311. Trong một số trường hợp, có thể cử hành Bí tích này bằng
việc xưng tội chung và xá giải tập thể không ?
1480-1484
Trong những trường hợp thật sự khẩn cấp (như có nguy cơ sắp chết)
người ta có thể cử hành chung Bí tích Giao hòa, gồm có việc xưng tội chung và
xá giải tập thể, nhưng vẫn phải tuân giữ các luật lệ của Hội thánh và với quyết
tâm sẽ xưng riêng các tội trọng vào thời gian sớm nhất.
312. Ân xá là gì ?
1471-1479
1498
Ân xá là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi những hình phạt tạm
đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù đã được tha thứ. Với những điều kiện
được Hội thánh quy định, người tín hữu có thể lãnh nhận ơn tha thứ này cho
chính mình hay cho những người đã qua đời, nhờ thừa tác vụ của Hội thánh, như
là người phân phát ơn cứu chuộc và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức Kitô và
các thánh.
BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
313. Trong Cựu Ước, người ta quan niệm thế nào về bệnh tật ?
1499-1502
Trong Cựu Ước, con người, trong khi bị đau yếu, cảm nghiệm được sự hữu
hạn của mình, đồng thời cũng nhận ra bệnh tật có liên hệ cách bí nhiệm
với tội lỗi. Các tiên tri đã thoáng nhận ra rằng bệnh tật cũng có thể có một
giá trị cứu chuộc các tội lỗi cá nhân của mình và của người khác. Vì thế người
ta đón nhận bệnh tật trước tôn nhan Thiên Chúa và kêu cầu Ngài chữa lành.
314. Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu đối với các bệnh nhân có ý
nghĩa gì ?
1503-1505
Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu đối với các bệnh nhân và nhiều việc chữa
lành Người đã thực hiện là một dấu chỉ chứng tỏ, nơi Người, Nước Thiên Chúa đã
đến, và như vậy, đã đến lúc chiến thắng tội lỗi, đau khổ và cái chết. Bằng cuộc
khổ nạn và cái chết của Người, Chúa Giêsu đem lại cho đau khổ một ý nghĩa
mới, đó là, nếu được kết hợp với sự đau khổ của Người, thì đau khổ có thể trở
thành một phương tiện thanh luyện và cứu độ cho chúng ta và cho những người
khác.
315. Hội thánh đối xử thế nào đối với các bệnh nhân ?
1506-1513
1526-1527
Khi nhận nơi Chúa mệnh lệnh chữa lành các bệnh nhân, Hội thánh cố gắng
chăm sóc và cầu nguyện cho các bệnh nhân. Đặc biệt, Hội thánh có một Bí tích
đặc biệt dành cho các bệnh nhân, do chính Đức Kitô thiết lập và thánh Giacôbê
chứng nhận : “Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục trong Hội
thánh đến và họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa,”
(Gc 5, 14-15).
316. Ai có thể lãnh nhận Bí tích Xức dầu bệnh nhân ?
1514-1515
1528-1529
Mọi tín hữu đều có thể lãnh nhận Bí tích này, khi họ bắt đầu lâm cơn
nguy tử do bệnh tật hay già yếu. Chính người đó có thể lãnh nhận Bí tích này
nhiều lần nữa, khi bệnh trở nặng hay mắc phải một cơn bệnh nặng khác. Nếu có
thể được, nên cho bệnh nhân xưng tội riêng, trước khi cử hành Bí tích
này.
317. Ai ban Bí tích này ?
1516
1530
Chỉ có các tư tế (Giám mục hay linh mục) mới có thể trao ban Bí
tích này.
318. Bí tích này được cử hành thế nào ?
1517-1519
1531
Việc cử hành Bí tích này chính yếu là việc xức dầu, nếu
có thể được là dầu do Giám mục làm phép, trên trán và hai bàn tay của bệnh nhân
(trong nghi thức Rôma) và trên các phần thân thể khác (trong các nghi thức
khác). Việc xức dầu có kèm theo lời nguyện của vị tư tế cầu xin ân
sủng đặc biệt của Bí tích này.
319. Bí tích này mang lại những hiệu quả gì ?
1520-1523
1532
Bí tích này mang lại một ân sủng đặc biệt, giúp bệnh nhân được kết hợp
chặt chẽ hơn với cuộc khổ nạn của Đức Kitô, để mưu ích cho bản thân và
cho toàn thể Hội thánh. Ân sủng này mang lại cho bệnh nhân sức mạnh, bình an,
can đảm và ơn tha thứ tội lỗi nếu bệnh nhân không thể xưng tội được. Đôi khi,
nếu Thiên Chúa muốn, Bí tích này cũng đem lại sự chữa lành thân xác. Dầu sao đi
nữa, Bí tích Xức dầu bệnh nhân chuẩn bị cho một cuộc vượt qua để tiến về Nhà
Cha.
320. Của Ăn đàng là gì ?
1524-1525
Của Ăn đàng là Bí tích Thánh Thể được trao ban cho những người sắp rời
bỏ cuộc sống trần gian và đang chuẩn bị cho cuộc vượt qua tiến vào đời sống
vĩnh cửu. Được lãnh nhận vào lúc sắp rời bỏ thế gian để về với Chúa Cha, việc
rước Mình và Máu Đức Kitô tử nạn và phục sinh là mầm giống cho đời sống vĩnh
cửu và sức mạnh phục sinh.
CHƯƠNG BA
CÁC BÍ TÍCH PHỤC VỤ CHO SỰ
HIỆP THÔNG VÀ CHO SỨ VỤ
321. Các Bí tích nào dành cho việc phục vụ sự hiệp thông và sứ vụ ?
1533-1535
Có hai Bí tích, Truyền chức thánh và Hôn phối, đem lại một ân sủng
riêng cho một sứ vụ đặc biệt trong Hội thánh, để phục vụ việc xây dựng dân
Thiên Chúa. Cả hai đóng góp một cách đặc biệt cho sự hiệp thông trong Hội thánh
và cho ơn cứu độ của những người khác.
BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH
322.
Bí tích Truyền chức thánh là
gì ?
1536
Là Bí tích qua đó, sứ vụ Đức Kitô đã ủy thác cho các Tông đồ của
Người, được tiếp tục thực thi trong Hội thánh, cho đến ngày tận thế.
323. Tại sao gọi là Bí tích Truyền chức thánh (Ordo) ?
1537-1538
Từ Ordo chỉ một phẩm trật của Hội thánh; người gia nhập vào
phẩm trật đó phải được thánh hiến đặc biệt (Ordinatio). Nhờ hồng ân đặc
biệt của Chúa Thánh Thần, việc thánh hiến này cho phép người thụ phong được
thực thi một quyền thánh chức nhân danh và với thẩm quyền của Đức Kitô
để phục vụ Dân Thiên Chúa.
324. Bí tích Truyền chức thánh có vị trí nào trong kế hoạch cứu
độ của Thiên Chúa ?
1539-1546
1590-1591
Trong Cựu Ước, có những hình ảnh tượng trưng về Bí tích này : việc
phục vụ của chi tộc Lêvi, cũng như chức tư tế của ông Aaron và thể chế bảy mươi
kỳ lão (x. Ds 11,25). Các hình ảnh này được kiện toàn nơi Đức Kitô Giêsu, nhờ
hy tế thập giá, là “Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1
Tm 2,5), là “vị thượng tế theo phẩm trật Melkisedec” (Dt 5, 10). Chức tư tế duy
nhất của Đức Kitô được hiện diện qua chức tư tế thừa tác.
“Đức Kitô là vị Tư tế đích thực duy nhất,
người này kẻ khác chỉ là những thừa tác viên của Người” (Thánh Tôma Aquinô).
325. Các cấp bậc khác nhau của Bí tích Truyền chức thánh là
những cấp bậc nào ?
1554
1593
Bí tích Truyền chức thánh gồm có ba cấp bậc, không thể thay thế trong
cơ cấu tổ chức của Hội thánh, đó là chức Giám mục, chức linh mục và chức
phó tế.
326. Việc truyền chức Giám mục có hiệu quả gì ?
1557-1558
1594
Việc truyền chức Giám mục trao ban sự viên mãn của Bí tích Truyền
chức. Bí tích này làm cho Giám mục trở thành người kế nhiệm hợp pháp của các
Tông đồ và hội nhập ngài vào Giám mục đoàn, chia sẻ với Đức Giáo hoàng và
các Giám mục khác sự quan tâm chăm sóc cho toàn thể Hội thánh. Bí tích này trao
ban cho Giám mục trách vụ giảng dạy, thánh hóa và cai quản.
327. Đâu là nhiệm vụ của Giám mục trong Giáo hội địa phương được
uỷ thác cho ngài ?
1560-1561
Trong một Giáo hội địa phương được uỷ thác cho ngài, Giám mục là
nguyên lý hữu hình và là nền tảng cho sự hợp nhất của Giáo hội đó; với tư cách
là người đại diện Đức Kitô, vị Giám mục chu toàn trách nhiệm mục vụ đối với
giáo hội này, với sự giúp đỡ của các linh mục và phó tế của ngài.
328. Việc truyền chức linh mục có hiệu quả gì ?
1562-1567
1595
Việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần ghi nơi linh mục một ấn tín thiêng
liêng không thể tẩy xóa, khiến ngài nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô-Tư Tế,
và trao cho ngài khả năng hoạt động nhân danh Đức Kitô-Thủ Lãnh. Là cộng sự
viên của hàng Giám mục, linh mục được thánh hiến để loan báo Tin Mừng, cử hành
việc phụng thờ Thiên Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể; từ đó ngài rút được sức
mạnh cho thừa tác vụ của mình và cho nhiệm vụ là mục tử của các tín hữu.
329. Linh mục thi hành thừa tác vụ của mình thế nào ?
1568
Dù được truyền chức cho một sứ vụ phổ quát, linh mục thực thi sứ vụ
này trong một Giáo hội địa phương, liên kết trong tình huynh đệ với các linh
mục khác, cùng nhau làm thành linh mục đoàn; các vị này, hiệp thông với Giám
mục và thuộc quyền ngài, chịu trách nhiệm về Giáo hội địa phương đó.
330. Việc phong chức phó tế có hiệu quả gì ?
1569-1571
1596
Được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô-tôi tớ cho mọi người, vị Phó tế
được truyền chức để phục vụ Hội thánh. Dưới quyền Giám mục mình, phó tế thực
thi việc phục vụ trong thừa tác vụ Lời Chúa, việc phụng thờ Thiên Chúa, trong
trách nhiệm mục vụ và bác ái.
331. Bí tích Truyền chức thánh được cử hành thế nào ?
1572-1574
1597
Cho cả ba cấp bậc, Bí tích Truyền chức thánh được trao ban qua việc
Giám mục đặt tay trên đầu tiến chức, rồi long trọng đọc lời nguyện
truyền chức. Qua lời nguyện này, Giám mục cầu xin Thiên Chúa đổ tràn
Chúa Thánh Thần với các hồng ân của Ngài một cách đặc biệt trên tiến chức, giúp
thực thi thừa tác vụ mà tiến chức phải đảm nhận.
332. Ai có thể cử hành Bí tích Truyền chức thánh ?
1575-1576
1600
Chỉ có các Giám mục đã được tấn phong thành sự, với tư cách là người
kế nhiệm các Tông đồ, mới có quyền tấn phong ba cấp bậc của Bí tích Truyền chức
thánh.
333. Ai có thể lãnh nhận Bí tích Truyền chức thánh ?
1577-1580
1598
Chỉ có những người nam đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội mới có thể lãnh
nhận thành sự Bí tích Truyền chức. Hội thánh biết mình bị ràng buộc với sự chọn
lựa của chính Chúa. Không ai có quyền đòi hỏi được lãnh nhận Bí tích Truyền
chức. Nhưng chỉ có thẩm quyền của Hội thánh mới đưa ra phán quyết về khả năng
của các ứng viên.
334. Người lãnh nhận Bí tích Truyền chức thánh có buộc phải
sôÙng độc thân không ?
1579-1580
1599
Hàng Giám mục luôn bị buộc phải sống độc thân. Đối với hàng linh mục,
trong Giáo hội La tinh, theo cách thông thường chỉ chọn các tín hữu phái nam
đang sống độc thân và muốn giữ luật độc thân “vì Nước Trời” (Mt 19, 12). Trong
các Giáo hội Đông Phương, một người sau khi đã được truyền chức linh mục thì
không được phép kết hôn. Những người đã lập gia đình có thể lãnh nhận chức phó
tế vĩnh viễn.
335. Bí tích Truyền chức thánh có những hiệu quả nào ?
1581-1589
Bí tích Truyền chức thánh đem lại sự tràn đầy ân sủng đặc biệt của
Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho người được thánh hiến – thích ứng với từng cấp
bậc của Bí tích – nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong phận vụ của Người
là Tư tế, Tiên tri và Vương đế. Bí tích Truyền chức thánh trao ban một ấn tín
thiêng liêng không thể tẩy xóa, vì vậy không thể tái ban, cũng như không thể
chỉ trao ban (để thi hành) trong một khoảng thời gian giới hạn.
336. Chức tư tế thừa tác được thực thi với thẩm quyền nào ?
1547-1553
1592
Trong việc thực thi thừa tác vụ thánh, các tư tế được truyền chức nói
và làm, không phải do thẩm quyền riêng tư, cũng không phải do mệnh lệnh hoặc sự
uỷ thác của cộng đoàn, nhưng trong cương vị của Đức Kitô – Thủ lãnh và nhân
danh Hội thánh. Vì thế, chức tư tế thừa tác hoàn toàn khác biệt, chứ không chỉ
khác biệt theo mức độ, với chức tư tế chung của tất cả các tín hữu; chính để
phục vụ cho các tín hữu, Đức Kitô đã thiết lập chức tư tế thừa tác.
BÍ TÍCH HÔN PHỐI
337. Ý định của Thiên Chúa đối với người nam và người nữ là gì ?
1601-1605
Thiên Chúa là tình yêu, và đã tạo dựng con người từ tình yêu. Ngài kêu
gọi con người yêu thương. Khi tạo dựng họ có nam có nữ, Người kêu gọi họ sống
đời hôn nhân trong một hiệp thông thân mật của sự sống và tình yêu với nhau,
“vì lẽ đó, họ không còn là hai, nhưng là một thân thể” (Mt 19, 6). Khi chúc
lành cho họ, Thiên Chúa nói : “Hãy sinh sôi nảy nở” (St 1,28).
338. Thiên Chúa đã thiết lập hôn nhân nhằm mục đích gì ?
1659-1660
Sự kết hợp hôn nhân giữa người nam và người nư,õ được đặt nền tảng và
được sắp xếp theo các luật lệ của Đấng Sáng Tạo, tự bản chất được hướng tới sự
hiệp thông và thiện ích của các đôi vợ chồng, cũng như việc sinh sản và giáo
dục con cái. Theo ý định ngay từ ban đầu của Thiên Chúa, sự kết hợp hôn nhân là
bất khả phân ly, như Đức Giêsu Kitô đã xác nhận : “Sự gì Thiên Chúa đã liên
kết, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
339. Tội lỗi đe dọa hôn nhân như thế nào ?
1606-1608
Vì nguyên tội đã gây đổ vỡ cho sự hiệp thông, được Đấng Sáng Tạo ban
tặng, giữa người nam và người nữ, nên sự kết hợp hôn nhân luôn bị đe dọa bởi
bất hoà và sự không chung thuỷ. Tuy nhiên, với lòng nhân từ vô bờ bến, Thiên
Chúa ban cho người nam và người nữ ân sủng để họ thực hiện sự kết hợp đời sống
của họ theo đúng ý định nguyên thủy của Ngài.
340. Cựu Ước dạy gì về hôn nhân ?
1609-1611
Đặc biệt qua việc giáo dục của Lề luật và các tiên tri, Thiên Chúa
giúp đỡ dân Ngài dần dần trưởng thành trong ý thức về tính duy nhất và sự bất
khả phân ly của hôn nhân. Hôn ước giữa Thiên Chúa với Israel chuẩn bị và tượng
trưng cho Giao ước mới, được Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô hoàn thành với
Hội thánh là Hiền thê của Người.
341. Đức Kitô đem lại điều mới mẻ nào cho hôn nhân ?
1612-1617
1661
Đức Giêsu Kitô không những tái lập quy định từ ban đầu do Thiên Chúa
muốn, mà Người còn ban ân sủng để con người có thể sống hôn nhân trong phẩm giá
mới của Bí tích, là dấu chỉ về tình yêu phu thê của Người đối với Hội thánh :
“Người làm chồng hãy yêu thuơng vợ mình như Đức Kitô đã yêu thương Hội thánh”
(Ep 5, 25).
342. Có buộc tất cả mọi người phải kết hôn hay không ?
1618-1620
Hôn nhân không phải là một sự bắt buộc cho hết mọi người. Đặc biệt,
Thiên Chúa kêu gọi một số người nam và người nữ, để theo Chúa Giêsu trong đời
sống khiết tịnh và độc thân vì Nước Trời, giúp họ từ bỏ thiện ích to lớn của
hôn nhân để lo toan những công việc của Chúa và tìm cách làm đẹp lòng Người.
Như thế, họ trở thành dấu chỉ cho sự ưu tiên tuyệt đối của tình yêu Đức Kitô và
sự sốt sắng mong chờ ngày Người đến trong vinh quang.
343. Bí tích Hôn phối được cử hành thế nào ?
1621-1624
Vì hôn nhân làm cho các người phối ngẫu sống một bậc sống công khai
trong Hội thánh, nên việc cử hành Phụng vụ của Bí tích này cũng công khai, dưới
sự chứng kiến của vị tư tế (hay của người chứng hôn được Hội thánh ủy thác) và
các nhân chứng khác.
344. Sự ưng thuận kết hôn là gì ?
1625-1632
1662-1663
Sự ưng thuận kết hôn là ý muốn do người nam và người nữ bộc lộ, để tự
hiến cho nhau một cách dứt khoát, với mục đích sống một giao ước tình yêu chung
thủy và sung mãn. Vì chính sự ưng thuận làm thành Bí tích Hôn phối, nên sự ưng
thuận là điều không thể thiếu và cũng không thể thay thế được. Để Bí tích Hôn
phối thành sự, sự ưng thuận phải có đối tượng là hôn nhân đích thực; và sự ưng
thuận đó phải là một hành vi nhân linh ý thức và tự do, không do bị ép buộc hay
vì sợ hãi một quyền lực nào.
345. Phải làm gì khi một trong hai người phối ngẫu không phải là
công giáo ?
1633-1637
Để hợp pháp, các hôn nhân hỗn hợp (giữa người công giáo và
người đã Rửa tội ngoài công giáo) cần có sự cho phép của thẩm quyền Giáo hội.
Các hôn nhân khác đạo (giữa người công giáo và người không Rửa tội), để
thành sự, cần phải có phép chuẩn. Trong mọi trường hợp, điều chính yếu là
đôi hôn phối phải ý thức chấp nhận những mục đích và đặc tính căn bản của hôn
nhân; và về phần người công giáo, phải chấp nhận những cam kết là giữ đức tin
và bảo đảm việc Rửa tội cũng như giáo dục công giáo cho con cái, cũng phải báo
cho người phối ngẫu biết những điều ấy.
346. Bí tích Hôn phối có những hiệu quả nào ?
1638-1642
Bí tích Hôn phối tạo nên một mối dây liên kết vĩnh viễn và độc nhất
giữa hai người phối ngẫu. Chính Thiên Chúa đã xác nhận sự ưng thuận của những
người kết hôn. Như thế, hôn nhân thành sự và hoàn hợp giữa những người đã được
Rửa tội không bao giờ có thể tháo gỡ được. Mặt khác, Bí tích cũng trao ban cho
đôi vợ chồng ân sủng cần thiết để họ đạt tới sự thánh thiện trong đời sống lứa
đôi, cũng như trong việc sinh con có trách nhiệm và giáo dục con cái.
347. Các tội nghịch lại Bí tích Hôn phối một cách nghiêm trọng
là các tội nào ?
1645-1648
Đó là các tội : ngoại tình và đa thê vì đi ngược lại với
phẩm giá bình đẳng của người nam và người nữ, ngược lại với tính duy nhất độc
hữu của tình yêu hôn nhân; từ chối sinh con, vì loại bỏ khỏi hôn nhân
hồng ân con cái; ly dị, vì đi ngược lại với tính bất khả phân ly của hôn
nhân.
348. Khi nào Hội thánh chấp nhận việc vợ chồng ly thân ?
1629
1649
Hội thánh chấp nhận việc vợ chồng ly thân khi việc họ chung sống, vì
những lý do nghiêm trọng, đã trở nên không thể được trong thực tế, mặc dù Hội
thánh vẫn mong muốn họ hòa giải với nhau. Nhưng bao lâu người phối ngẫu còn
sống, không ai trong đôi vợ chồng được tự do tái hôn; trừ khi hôn phối của họ
là không thành sự và được thẩm quyền Hội thánh tuyên bố điều đó.
349. Hội thánh có thái độ nào đối với những người đã ly dị lại
tái hôn ?
1650-1651
1665
Trung thành với Chúa, Hội thánh không thể công nhận hôn nhân của những
người đã ly dị lại kết hôn theo luật dân sự. “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm
tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm
tội ngoại tình” (Mc 10.11-12). Đối với họ, Hội thánh giữ một thái độ chăm sóc
ân cần, mời gọi họ duy trì đời sống đức tin, cầu nguyện, thực hành các việc bác
ái và chăm lo việc giáo dục con cái theo Kitô giáo. Nhưng bao lâu tình trạng
như thế của họ kéo dài, vì rõ ràng trái với luật Chúa, họ không được xưng tội,
rước lễ, cũng như đảm nhiệm một số trách nhiệm trong Hội thánh.
350. Tại sao gia đình Kitô hữu được gọi là Hội thánh tại gia
?
1655-1658
1666
Gia đình Kitô hữu được gọi là Hội thánh tại gia vì gia đình
biểu lộ và sống bản chất “hiệp thông và gia đình” của Hội thánh như gia đình
của Thiên Chúa. Mọi thành viên trong gia đình, tùy theo vai trò riêng của mình,
thực thi chức tư tế được lãnh nhận từ Bí tích Rửa tội, góp phần xây dựng gia
đình thành một cộng đoàn ân sủng và cầu nguyện, một trường dạy các đức tính
nhân bản và Kitô giáo, là nơi đầu tiên đức tin được loan truyền cho con cái.
CHƯƠNG BỐN
NHỮNG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KHÁC
CÁC Á BÍ TÍCH
351. Các á Bí tích là gì ?
1667-1672
1677-1678
Đó là những dấu chỉ thánh thiêng do Hội thánh thiết lập để thánh hóa
một số hoàn cảnh trong cuộc sống. Các á Bí tích gồm một lời cầu nguyện, kèm
theo là dấu thánh giá và những dấu chỉ khác. Trong số các á Bí tích, quan trọng
nhất là các phép lành. Các phép lành này là một lời ca ngợi Thiên Chúa và một
lời khẩn nguyện để kêu xin những hồng ân của Thiên Chúa; cũng có những việc
thánh hiến con người cũng như các đồ vật được dùng vào việc thờ phượng Thiên
Chúa.
352. Nghi thức Trừ tà là gì ?
1673
Người ta gọi là nghi thức Trừ tà, khi Hội thánh, với thẩm quyền của
mình, nhân danh Chúa Giêsu, kêu xin để một người hay một vật được Thiên Chúa
bảo vệ khỏi ảnh hưởng của Ác thần và giải thoát khỏi ách thống trị của nó.
Trong cử hành Bí tích Rửa tội, có một nghi thức Trừ tà đơn giản. Nghi
thức Trừ tà trọng thể chỉ được thực hiện bởi một linh mục, với sự cho phép của
Giám mục.
353. Đâu là những hình thức đạo đức bình dân kèm theo đời sống Bí tích
của Hội thánh ?
1674-1676
1679
Cảm thức tôn giáo của dân Kitô giáo trong mọi thời đại đều có những
cách diễn tả lòng đạo đức của mình qua nhiều hình thức khác nhau luôn đi kèm theo
đời sống Bí tích của Hội thánh, như việc tôn kính các di tích thánh, kính viếng
các đền thánh, những cuộc hành hương, những cuộc rước kiệu, chặng đàng thánh
giá, kinh Mân côi. Dưới ánh sáng đức tin, Hội thánh soi sáng và cổ võ những
hình thức chính đáng của lòng đạo đức bình dân.
LỄ NGHI AN TÁNG THEO KITÔ GIÁO
354. Có tương quan nào giữa các Bí tích và cái chết của người
Kitô hữu ?
1680-1683
Người Kitô hữu, chết trong Đức Kitô, khi kết thúc cuộc đời trần thế
của mình, đạt đến sự viên mãn của đời sống mới được bắt đầu nơi Bí tích Rửa
tội, được củng cố bằng Bí tích Thêm sức và được nuôi dưỡng bằng Bí tích Thánh
Thể, là tham dự trước vào bàn tiệc thiên quốc. Ý nghĩa cái chết trong Kitô giáo
được biểu lộ dưới ánh sáng sự Chết và sự Phục sinh của Đức Kitô, niềm hy vọng
duy nhất của chúng ta. Người Kitô hữu chết trong Đức Kitô, là ra đi để “cư ngụ
nơi Chúa” ( 2 Cr 5,8).
355. Lễ nghi an táng diễn tả ý nghĩa gì ?
1684-1685
Dù được cử hành theo nhiều nghi thức khác nhau tùy theo hoàn cảnh và
truyền thống địa phương, lễ nghi an táng của Kitô giáo luôn làm nổi bật đặc
tính Vượt qua của cái chết theo Kitô giáo trong niềm hy vọng sống lại, cũng như
ý nghĩa của sự hiệp thông với người đã qua đời, đặc biệt là trong lời cầu
nguyện cho linh hồn họ được thanh luyện.
356. Những giai đoạn chính của lễ nghi an táng là gì ?
1686-1690
Lễ nghi an táng thường gồm bốn phần chính : cộng đoàn đón tiếp quan
tài với những lời an ủi và hy vọng, Phụng vụ Lời Chúa, Hy tế Thánh Thể, và lễ
nghi từ biệt, trong đó linh hồn người quá cố được phó dâng lên Thiên Chúa, Đấng
là nguồn sống vĩnh cửu, trong khi thân xác được an táng trong niềm hy vọng phục
sinh.
Bức
tranh minh họa trình bày bữa Tiệc Ly với việc thiết lập Bí tích Thánh Thể,
trong một phòng lớn trên tầng cao, được phủ đầy những tấm thảm (x. Mc 14,15) :
“Cũng đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao
cho các môn đệ và nói : “Anh em nhận lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” Rồi Người
cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói : “Tất cả anh em hãy uống
chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.
Thầy bảo cho anh em biết : từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây
nho, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước
của Cha Thầy” (Mt 26,26-28).
Trong ảnh, Chúa Giêsu và các Tông đồ ngồi quanh một cái bàn hình chén
rượu. Trên bàn có các hình bánh và rượu. Căn phòng mở ra một hậu cảnh
kiến trúc rất tỉ mỉ, với các lâu đài và một Nhà tạm tròn có bảy cột, biểu trưng
cho Hội thánh, nơi trú ngụ của Chúa Giêsu Thánh Thể. Thánh Gioan đưa ra một chi
tiết có ý nghĩa, ngài nghiêng đầu vào ngực Chúa Giêsu (x. Ga 13,25). Ngài chỉ
cho thấy sự hiệp thông tình yêu mà Bí tích Thánh Thể thực hiện trong người tín
hữu. Đó là câu trả lời của người môn đệ đối với lời mời của Thầy : “Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái… Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.
Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của
Thầy” (Ga 15,5.9-10).
Bí tích Thánh Thể là sự hiệp thông với Chúa Giêsu và là lương thực
thiêng liêng để nâng đỡ người tín hữu trong cuộc chiến đấu hằng ngày; họ
là người được mời gọi để tuân giữ các giới răn : “Đấng Cứu Thế […] luôn hiện
diện trọn vẹn nơi những kẻ sống trong Người : Người chăm lo cho mỗi người đầy
đủ các nhu cầu; Người là tất cả cho họ và Người không cho phép họ hướng cái
nhìn về bất cứ một cái gì khác, cũng như tìm một cái gì khác ngoài Người. Thật
vậy, các Thánh không cần gì ngoài Người : Người ban cho họ cuộc sống, giúp họ
lớn lên và nuôi dưỡng họ, trong họ Người là ánh sáng và hơi thở; Người tạo cho
họ có khả năng để nhìn Người, soi sáng họï ngang qua chính Người và cuối cùng để
cho họ nhìn thấy Người. Người chính là Đấng dưỡng nuôi và cũng là lương thực;
Người là Đấng trao ban Bánh sự sống và điều Người trao ban chính là Người : sự
sống của những người sống, hương thơm cho những người thở, y phục cho những ai
muốn mặc lấy. Chính Người là Đấng cho phép chúng ta tiến lên, vì Người chính là
con đường và cũng là nơi chúng ta an nghỉ, là đích điểm cuối cùng. Chúng ta là
chi thể và Người là Đầu. Nếu như chúng ta phải chiến đấu, thì Người sẽ chiến
đấu bên cạnh chúng ta và chính Người sẽ đem lại chiến thắng cho ai được vinh
dựï. Nếu như chúng ta là những kẻ chiến thắng, thì Người sẽ là vòng hoa chiến
thắng. Như thế Người sẽ hướng dẫn tâm trí chúng ta về với Người và không cho
phép chúng ta hướng về điều gì khác, cũng không yêu điều gì khác {…] Từ những
điều chúng ta đã nói, ta thấy rõ cuộc sống trong Đức Kitô không chỉ hướng về
tương lai, nhưng đã có ngay lúc này đối với các thánh đang sống và hoạt động
trong đời sống đó” (Nicolas
Cabasilas, Đời sống trong Đức Kitô, 1 , 13-15)
Jacob Copiste, Tranh minh họa về Phúc Âm thứ tư, Thư viện của
các cha dòng Méchitaristes,
PHẦN III
ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KITÔ
ĐOẠN THỨ NHẤT
ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI :
ĐỜI SỐNG TRONG CHÚA THÁNH THẦN
Đức Maria,
Đấng Rất thánh (Panhagia) là kỳ công của Chúa Thánh Thần (Đấng Cực Thánh –
Panhagion).
Từ lúc được thụ thai vô nhiễm cho đến khi vinh quang được rước
về trời, cuộc đời của Mẹ được tình yêu Thiên Chúa nâng đỡ. Thánh Thần tình yêu
của Chúa Cha và Chúa Con đã làm cho Đức Maria thành một thụ tạo mới, bà Evà mới
mà trái tim và tâm trí luôn hướng về sự thờ phượng và vâng phục Cha trên trời,
mà Mẹ là người con gái Ngài yêu mến; khi đón nhận và phục vụ cho Chúa Con mà Mẹ
chính là thân mẫu, là người môn đệ và người thân cận; khi đồng thuận và cộng
tác với Chúa Thánh Thần, Mẹ trở thành Đền thờ quí giá của Ngài.
Trong hình ảnh này, Đức Maria được các thiên thần nhạc sĩ bao
quanh và mừng hát. Trên đầu của Mẹ chói sáng ánh quang tình yêu thần linh của
Chúa Thánh Thần, Đấng được tượng trưng bằng chim bồ câu. Đức Maria là Mẹ
và là người Bảo trợ của Hội thánh (dưới chân Mẹ, người ta thấy một ngôi thánh
đường). Nhờ sự cầu bàu từ mẫu đầy hiệu năng gần bên Chúa Giêsu, Mẹ đổ tràn trên
Hội thánh ân sủng bởi trời cách phong phú (được biểu trưng bằng cây hồng đầy
hoa).
Dưới thấp, bên trái, Thánh Gioan Tông đồ, tượng trưng cho mọi
người Kitô hữu, chiêm ngắm Đấng Vô nhiễm Nguyên tội và nhìn Đức Trinh Nữ diễm
phúc là mẫu gương tuyệt vời, và đồng thời cũng là thầy và người hướng dẫn cho
đời sống trong Chúa Thánh Thần.
Thầy dòng Xi-tô (vào thế kỷ 12) đã suy tư về việc chia sẻ các
kinh nghiệm thiêng liêng của các Tông đồ với Đức Maria. Khi so sánh các kinh
nghiệm này với mười hai ngôi sao bao quanh đầu Đức Trinh Nữ diễm phúc, ngài
viết : “Chúng qui tụ quanh Đức Trinh Nữ diễm phúc đầy khôn ngoan như các môn đệ
vây quanh thầy của mình, để học hỏi đầy đủ hơn chân lý về các cử chỉ Mẹ đang
thực hiện; chân lý mà họ phải rao giảng cho kẻ khác vào lúc cần thiết. Vì được
Thiên Chúa thánh hiến và dạy dỗ, Đức Maria như cả thư viện đích thực của sự
khôn ngoan thiên quốc. Vì h?ng ngày, M? dã s?ng g?n gui v?i chính s? Khơn Ngoan
hi?n thân noi Ngu?i Con; Mẹ như người đồng hành cận kề, và đón nhận tất cả
những gì Mẹ được nghe và được thấy vào trong tâm trí để nghiền ngẫm. (Bài giảng
thứ nhất về việc Đức Maria được đón nhận lên trời)
ELGRECO, Thánh
Gioan chiêm ngắm Đấng Vô nhiễm Nguyên tội, Museo de la
357.
Đời sống luân lý của người Kitô hữu được nối kết với đức tin và các Bí tích như
thế nào ?
1691-1698
Điều mà Kinh Tin Kính tuyên xưng, các Bí tích tiếp tục trao ban. Qua
các Bí tích, các tín hữu đón nhận ân sủng của Đức Kitô và hồng ân của Chúa
Thánh Thần. Nhờ đó, họ có khả năng sống đời sống mới với tư cách là con cái
Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng họ đã đón nhận trong đức tin.
“Hỡi người Kitô hữu, hãy ý thức phẩm giá của bạn” (Thánh Lêô Cả).
CHƯƠNG MỘT
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
Con người, hình ảnh của Thiên
Chúa
358. Nền tảng phẩm giá con
người là gì ?
1699-1715
Phẩm giá của con người bắt nguồn trong việc con người được tạo dựng
theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Được phú bẩm một linh hồn thiêng liêng và
bất tử, lý trí và ý chí tự do, con người được qui hướng về Thiên Chúa và được
mời gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cả hồn lẫn xác.
ƠN GỌI ĐƯỢC HẠNH PHÚC
359. Làm thế nào con người đạt tới hạnh phúc ?
1716
Con người đạt được diễm phúc nhờ ân sủng của Đức Kitô, ân sủng này cho
họ được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Kitô chỉ cho
các môn đệ của mình con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu : đó là các Mối phúc.
Ân sủng của Đức Kitô cũng hoạt động trong tất cả những ai, dựa theo lương tâm
ngay thẳng, tìm kiếm và yêu mến chân lý và điều thiện, và tránh điều ác.
360. Tại sao các Mối phúc lại quan trọng đối với chúng ta ?
1716-1717
1725-1726
Các Mối phúc nằm ở trung tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu. Chúng nhắc
lại các lời hứa mà Thiên Chúa đã trao ban từ thời ông Ábraham và hoàn thành các
lời hứa. Các Mối phúc diễn tả chính diện mạo của Chúa Giêsu, nêu lên những đặc
tính đích thực của đời sống người Kitô hữu và mạc khải cho con người cùng đích
hoạt động của họ : đó là hạnh phúc đời đời.
361. Đâu là mối liên hệ giữa các Mối phúc và lòng khao khát hạnh
phúc của con người ?
1718-1719
Các mối phúc đáp lại lòng khao khát bẩm sinh về hạnh phúc mà Thiên
Chúa đã đặt để trong tâm hồn con người để lôi kéo họ về với Ngài và chỉ mình
Ngài mới có thể lấp đầy lòng khao khát ấy.
362. Hạnh phúc đời đời là gì ?
1720-1724
1727-1729
Đó là việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu, ở đó chúng
ta sẽ được trọn vẹn “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thông phần
vinh quang của Đức Kitô và niềm vui của đời sống Ba Ngôi. Hạnh phúc đời đời
vượt quá khả năng con người. Đó là một hồng ân siêu nhiên và nhưng không của
Thiên Chúa, cũng như ân sủng dẫn đưa chúng ta đến đó. Hạnh phúc được hứa ban
đặt chúng ta trước những chọn lựa luân lý quan trọng về của cải trần thế, thúc
đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
SỰ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
363. Tự do là gì ?
1730-1733
1743-1744
Tự do là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để hành động hay không
hành động, để làm việc này hay việc khác, và như vậy, tự mình đưa ra những
quyết định một cách ý thức. Tự do là nét đặc trưng của các hành vi nhân
linh. Càng làm điều thiện, người ta càng tự do hơn. Tự do hướng đến sự hoàn hảo
khi quy hướng về Thiên Chúa, Đấng là sự thiện tối thượng và là hạnh phúc của
chúng ta. Tự do cũng bao hàm khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu. Sự
lựa chọn điều xấu là một lạm dụng tự do, đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội lỗi.
364. Đâu là mối tương quan giữa tự do và trách nhiệm ?
1734-1737
1745-1746
Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình
theo mức độ các hành vi này do chính họ muốn, cả khi việc qui trách và trách
nhiệm về một hành động có thể bị giảm thiểu hoặc đôi khi bị loại bỏ, vì lý do
thiếu hiểu biết, không chú ý, do áp lực, do sợ hãi, do xúc động thái quá, hoặc
do các thói quen.
365. Tại sao mọi người có quyền thực thi tự do của mình ?
1738
1747
Mỗi người đều có quyền sử dụng tự do của mình, vì tự do không thể tách
rời khỏi phẩm giá con người. Vì thế quyền này phải luôn được tôn trọng, đặc
biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo. Quyền tự do này phải được luật dân sự
công nhận và bảo vệ, trong các giới hạn của công ích và trật tự công cộng chính
đáng.
366. Sự tự do của con người nằm ở vị trí nào trong nhiệm cục cứu
độ ?
1739-1742
1748
Sự tự do của chúng ta bị suy yếu vì tội nguyên tổ. Sự suy yếu này càng
trầm trọng hơn vì các tội lỗi sau đó. Nhưng “chính để chúng ta được tự do
mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Nhờ ân sủng của Người, Chúa Thánh
Thần hướng dẫn chúng ta đến sự tự do thiêng liêng, để làm cho chúng ta thành
những cộng tác viên tự do của Người, trong Hội thánh và trong thế giới.
367. Đâu là nguồn gốc luân lý của hành vi nhân linh ?
1749-1754
1757-1758
Tính chất luân lý của hành vi nhân linh dựa trên ba nguồn :
-
Đối tượng được lựa chọn, nghĩa là một điều thiện đích thực hay có
vẻ như thế.
-
Ý hướng của chủ thể hành động, nghĩa là mục đích
khiến cho chủ thể hành động.
-
Các hoàn cảnh của hành động, bao gồm cả các hậu quả
của hành động.
368. Khi nào hành vi là tốt xét về phương diện luân lý ?
1755-1756
1759-1760
Xét về phương diện luân lý, hành vi tốt phải có cùng lúc đối tượng, ý
hướng và các hoàn cảnh đều tốt. Đối tượng được chọn tự nó có thể làm cho hành
vi trở thành xấu, dù có ý hướng tốt. Không được phép làm một điều xấu để đạt
được một điều tốt. Một mục đích xấu có thể hủy hoại hành vi, cho dù đối tượng
tự nó là tốt. Ngược lại, một mục đích tốt không thể làm cho một hành động mà
đối tượng của nó là xấu, trở thành tốt được, vì mục đích không biện minh cho
các phương tiện. Các hoàn cảnh có thể làm giảm thiểu hay gia tăng trách nhiệm
của tác giả hành vi, nhưng chúng không thể làm thay đổi phẩm chất luân lý của
chính các hành vi. Hoàn cảnh không bao giờ có thể làm cho một hành vi tự nó là
xấu trở thành tốt được.
369. Có phải có những hành vi luôn luôn không được phép làm hay
không ?
1756, 1761
Có những hành vi, mà sự lựa chọn chúng luôn luôn là không được phép,
vì đối tượng của chúng (chẳng hạn lộng ngôn, sát nhân và ngoại tình). Việc lựa
chọn những hành vi này đã có một lệnh lạc của ý chí, nghĩa là một điều xấu luân
lý; điều xấu này không thể biện minh bằng việc xét đến những điều tốt có thể
rút ra từ những hành vi đó.
TÍNH LUÂN LÝ CỦA CÁC ĐAM MÊ
370. Các đam mê là gì ?
1762-1766
1771-1772
Đam mê là những cảm xúc, những rung động hay những chuyển biến của sự
nhạy cảm – đó là những yếu tố tự nhiên của tâm lý con người – chúng thúc đẩy
con người hành động hay không hành động, theo điều được cảm nhận là tốt hoặc
xấu. Những đam mê căn bản là yêu và ghét, ước muốn và sợ hãi, vui buồn và phẫn
nộ. Đam mê quan trọng nhất là tình yêu, được h?p d?n b?i điều thiện. Người ta
chỉ yêu điều thiện hảo, hoặc là điều thiện hảo thực sự hoặc là điều người ta
tưởng là thiện hảo.
371. Xét về khía cạnh luân lý, đam mê tốt hay xấu ?
1767-1770
1773-1775
Vì là những rung động của khả năng cảm thụ, đam mê tự chúng không tốt
và cũng chẳng xấu. Đam mê tốt khi đưa đến những hành động tốt, và là xấu
trong trường hợp nghịch lại. Các đam mê có thể được thăng hoa thành các nhân
đức hay thoái hóa thành các nết xấu.
LƯƠNG TÂM LUÂN LÝ
372. Lương tâm luân lý là gì ?
1776-1780
1795-1797
Hiện diện trong sâu thẳm lòng người, lương tâm luân lý là một phán
đoán của lý trí, vào lúc cần thiết, thúc đẩy con người làm lành lánh dữ. Nhờ
lương tâm luân lý, con người nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi
sẽ làm hay đã làm, và đảm nhận trách nhiệm về hành vi đó. Khi lắng nghe tiếng
nói của lương tâm luân lý, con người khôn ngoan có thể nghe được tiếng Thiên
Chúa nói với mình.
373. Phẩm giá con người đòi buộc điều gì đối với lương tâm luân
lý ?
1780-1782
1798
Phẩm giá con người đòi hỏi sự ngay thẳng của lương tâm luân lý, có
nghĩa là lương tâm phải phù hợp với điều công chính và tốt lành dựa theo lý trí
và Lề luật của Thiên Chúa. Căn cứ vào phẩm giá nhân vị như thế, con người không
thể bị ép buộc phải hành động nghịch lại với lương tâm mình, cũng như không thể
bị ngăn cản, trong các giới hạn của công ích, hành động theo lương tâm mình,
nhất là trong lãnh vực tôn giáo.
374. Làm sao đào tạo lương tâm ngay thẳng và chân thật ?
1783-1788
1799-1800
Lương tâm luân lý ngay thẳng và chân thật được đào tạo qua giáo dục,
qua việc thấm nhu?n Lời Chúa và các giáo huấn của Hội thánh. Lương tâm luân lý
được các hồng ân Chúa Thánh Thần nâng đỡ và được các lời khuyên bảo của những
người khôn ngoan trợ giúp. Ngoài ra, cầu nguyện và xét mình cũng đóng góp rất
nhiều vào việc đào tạo luân lý.
375. Đâu là những quy tắc mà lương tâm luôn phải theo ?
1789
Có ba qui tắc căn bản : 1) Không bao giờ được làm điều xấu để đạt
tới điều tốt; 2) Luật vàng: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm
cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12); 3) Đức ái Kitô
giáo luôn đòi hỏi tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ, mặc dù điều đó không
có nghĩa là chấp nhận một điều xấu khách quan như là một điều tốt.
376. Lương tâm có thể đưa ra những phán đoán sai lầm không ?
1790-1794
1801-1802
Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình;
nhưng lương tâm cũng có thể đưa ra những phán đoán sai lầm, vì không phải lúc
nào người ta cũng tránh được lầm lỗi của mình. Tuy nhiên, người ta không thể
qui trách nhiệm cho người thực hiện điều xấu vì sự thiếu hiểu biết ngoài ý
muốn, cả khi đó là một điều xấu khách quan. Chính vì thế, con ngu?i ph?i v?n d?ng h?t m?i kh? nang d? giúp lương
tâm luân lý tránh kh?i những sai lầm.
CÁC NHÂN ĐỨC
377. Nhân đức là gì ?
1803, 1833
Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện.
“Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (thánh
Grêgôriô thành Nyssa). Có những đức tính nhân bản và những nhân đức đối thần.
378. Các d?c tính nhân bản là gì ?
1804
1810-1811
1834, 1839
Các d?c tính nhân bản là xu hướng thường xuyên và kiên trì của
lý trí và ý chí nhằm điều chỉnh hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê và
hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Nhờ đạt được và
củng cố thường xuyên bằng các hành vi luân lý tốt, các d?c tính nhân bản được
ân sủng Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao.
379. Các d?c tính nhân bản chính là gì ?
1805
1834
Đó là các đức tính được gọi là các đức tính “căn bản.” Tất cả
các nhân đức khác đều qui tụ quanh các đức tính này và tạo thành nền tảng cho
đời sống đạo đức. Đó là : khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.
380. Khôn ngoan là gì ?
1806
1835
Khôn ngoan là đức tính giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân
định điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới
điều thiện đó. Sự khôn ngoan hướng dẫn các đức tính khác, bằng cách chỉ ra cho
chúng luật lệ và mức độ của chúng.
381. Công bằng là gì ?
1807
1836
Công bằng là đức tính luân lý thể hiện qua quyết tâm trả cho Thiên
Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân những gì thuộc về tha
nhân. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”.
382. Can đảm là gì ?
1808
1837
Can đảm là đức tính luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo
đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời; can đảm có thể đưa đến khả năng
dám hy sinh chính mạng sống để bảo vệ một điều công chính.
383. Tiết độ là gì ?
1809
1838
Tiết độ là đức tính luân lý giúp ta điều tiết sức lôi cuốn của những
lạc thú, sử dụng chừng mực các của cải trần thế, giúp ý chí làm chủ các bản
năng và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn chính đáng.
384. Các nhân đức đối thần là gì ?
1812-1813
1840-1841
Các nhân đức đối thần là những nhân đức có chính Thiên Chúa là nguồn
gốc, động lực và đối tượng trực tiếp. Các nhân đức này được phú bẩm trong con
người cùng với ân sủng thánh hóa, giúp con người có khả năng sống tương quan
với Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhân đức đối thần tạo nền móng và động lực cho hành
vi luân lý của người Kitô hữu, làm sinh động các đức tính nhân bản. Chúng là
bảo chứng cho sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các khả năng
của con người.
385. Các nhân đức đối thần là những nhân đức nào ?
1813
Các nhân đức đối thần gồm có : đức tin, đức cậy và đức mến.
386. Đức tin là gì ?
1814-1816
1842
Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và
tất cả những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta và những gì Hội thánh dạy chúng
ta tin, bởi vì Thiên Chúa là chính Chân lý. Bằng đức tin, con người phó thác
bản thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế người tin tìm kiếm để nhận
biết và thi hành ý muốn của Ngài, vì “đức tin hoạt động nhờ đức ái” (Gl 5,6).
387. Đức cậy là gì ?
1817-1821
1843
Đức cậy là nhân đức đối thần giúp chúng ta khao khát và mong chờ Thiên
Chúa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu là hạnh phúc của chúng ta, khi tin
tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ơn Chúa Thánh
Thần để xứng đáng hưởng đời sống vĩnh cửu và kiên trì cho đến hết cuộc đời trần
thế.
388. Đức ái là gì ?
1822-1829
1844
Đức ái là nhân đức đối thần giúp chúng ta kính mến Thiên Chúa trên hết
mọi sự và bởi tình yêu đối với Thiên Chúa, chúng ta yêu thương người khác như
chính mình. Chúa Giêsu lấy đức ái làm giới răn mới, là sự viên mãn của Lề luật.
Đức ái là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14), là nền tảng của các nhân đức
khác mà nó làm cho sinh động, gợi hứng và ra lệnh. Không có đức ái, “tôi
sẽ chẳng là gì cả và . . . chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3).
389. Các ơn Chúa Thánh Thần là gì ?
1830-1831
1845
Các ơn Chúa Thánh Thần là những xu hướng thường trực giúp cho con
người ngoan ngoãn theo những linh ứng của Thiên Chúa. Có bảy ơn Chúa Thánh Thần :
khôn ngoan, thông minh, mưu lược, dũng cảm, hiểu biết, hiếu thảo và kính sợ
Thiên Chúa.
390. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là gì ?
1832
Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là những điều thiện hảo được
khắc ghi trong chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền
thống Hội thánh đưa ra mười hai hoa trái của Chúa Thánh Thần : “Bác ái,
hoan lạc, an bình, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung
tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).
TỘI LỖI
391. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải làm
gì ?
1846-1848
1870
Để có thể đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải nhìn
nhận và thống hối các tội lỗi của mình. Chính Thiên Chúa, qua Lời và Thánh Thần
của Ngài, giúp chúng ta thấy rõ tội lỗi của mình, ban cho chúng ta lương tâm
ngay thẳng và niềm hy vọng vào ơn tha thứ.
392. Tội là gì ?
1849-1851
1871-1872
Tội là “một lời nói, hành vi hoặc ước muốn trái nghịch với Luật vĩnh
cửu” (thánh Augustinô). Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, không
vâng phục tình yêu của Người. Tội gây thương tích cho bản tính của con người và
làm thương tổn đến tương quan giữa con người. Qua cuộc Tử nạn, Đức Kitô cho
thấy rõ ràng tích chất trầm trọng của tội và đã chiến thắng nó bằng lòng thương
xót của Người.
393. Có nhiều loại
tội hay không ?
1852-1853
1873
Có rất nhiều loại tội. Các tội có thể được phân biệt theo đối tượng
của chúng hoặc theo các nhân đức hay các giới răn, mà tội đối nghịch. Người ta
còn có thể phân biệt tội theo tương quan trực tiếp của chúng với Thiên Chúa,
với tha nhân hoặc với chính bản thân. Ngoài ra, người ta cũng có thể phân biệt
tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và việc bỏ sót không làm.
394. Người ta phân biệt tội theo tính chất trầm trọng của chúng
như thế nào ?
1854
Người ta phân biệt tội trọng và tội nhẹ.
395. Khi nào người ta phạm tội trọng ?
1855-1861
1874
Người ta phạm tội trọng khi cùng lúc có chất liệu nặng, ý thức đầy đủ,
và tự ý ưng thuận. Tội trọng phá huỷ đức mến trong chúng ta, cướp đi ân sủng
thánh hoá và dẫn chúng ta đến cái chết đời đời trong hỏa ngục nếu không sám
hối. Tội trọng được tha thứ cách thông thường nhờ Bí tích Rửa tội và Bí tích
Thống hối, còn gọi là Bí tích Hòa giải.
396. Khi nào người ta phạm tội nhẹ ?
1862-1864
1875
Khác biệt cách triệt để với tội trọng, người ta phạm tội nhẹ khi chất
liệu là nhẹ, hoặc thậm chí chất liệu là nặng, nhưng không có đầy đủ ý thức hay
không hoàn toàn ưng thuận. Tội nhẹ không cắt đứt tương quan với Thiên Chúa,
nhưng làm suy yếu đức mến. Tội nhẹ biểu lộ lòng quyến luyến lệch lạc đối với
của cải trần thế, ngăn cản sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành nhân
đức và trong việc thực thi điều thiện luân lý. Tội nhẹ đáng chịu những hình
phạt tạm thời để thanh luyện.
397. Tội sinh sôi nảy nở nơi chúng ta như thế nào ?
1865, 1876
Tội tạo nên xu hướng về tội, và do việc lặp đi lặp lại cùng một hành
vi, sẽ tạo nên thói xấu.
398. Các thói xấu là gì ?
1866-1867
Đối nghịch với các nhân đức, các thói xấu là những thói quen lệch lạc
làm mờ tối lương tâm và hướng chiều về điều xấu. Các thói xấu có thể ghép lại
thành bảy mối tội đầu : kiêu ngạo, hà tiện, ganh tị, nóng giận, dâm
dục, mê ăn uống, và lười biếng.
399. Chúng ta có trách nhiệm gì đối với tội người khác không ?
1868
Chúng ta có trách nhiệm đối với tội của người khác, khi chúng ta cộng
tác cách có lỗi vào tội đó.
400. Các cơ cấu của tội là gì ?
1869
Các cơ cấu của tội là những hoàn cảnh xã hội hay những tổ chức
nghịch lại với Luật Thiên Chúa; chúng là những biểu lộ và là hậu quả của các
tội cá nhân.
CHƯƠNG HAI
CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI
CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
401. Chiều kích xã hội của con người hệ tại điều gì ?
1877-1880
1890-1891
Con người không những được kêu gọi theo từng cá nhân để hưởng hạnh
phúc, nhưng còn có một chiều kích xã hội, tạo thành một yếu tố căn bản của bản
chất cũng như ơn gọi của mình. Thật vậy, tất cả mọi người đều được kêu gọi đến
cùng một mục đích là chính Thiên Chúa. Có một sự tương tự nào đó giữa sự hiệp
thông các Ngôi Vị Thiên Chúa với tình huynh đệ mà con người phải thiết lập với
nhau, trong chân lý và tình yêu. Tình yêu đối với tha nhân không thể tách rời
khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa.
402. Đâu là mối tương quan giữa cá nhân với xã hội ?
1881-1882
1892-1893
Nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định chế xã hội là và
phải là con người . Một số cộng đồng, chẳng hạn như gia đình và tập thể
dân sự, rất cần thiết cho con người. Các hiệp hội khác cũng hữu ích cho con
người, cả trên bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế, nhưng phải
tôn trọng nguyên tắc hỗ trợï.
403. Nguyên tắc hỗ trợ là gì ?
1883-1885
1894
Nguyên tắc này có nghĩa là một cộng đồng ở cấp độ cao hơn không được
thâu tóm các phận vụ thuộc cộng đồng ở cấp độ thấp hơn, đến độ cướp mất thẩm
quyền của cộng đồng cấp thấp này. Đúng hơn, cộng đồng cấp cao phải nâng đỡ cộng
đồng cấp thấp trong trường hợp cần thiết.
404. Một cộng đồng nhân loại đích thực còn đòi buộc điều gì khác
nữa ?
1886-1889
1895-1896
Cộng đồng nhân loại đích thực đòi buộc phải tôn trọng sự công bằng,
một bậc thang giá trị đúng đắn, các chiều kích thể lý và bản năng phải phụ
thuộc các chiều kích nội tâm và tinh thần. Đặc biệt, nơi nào tội lỗi làm băng
hoại môi trường xã hội, phải kêu gọi sám hối tâm hồn và kêu cầu đến ân sủng của
Thiên Chúa, để có thể thay đổi xã hội hầu thực sự phục vụ cho tất cả mọi người
và từng cá nhân. Đức ái là giới răn cao cả nhất mang tính xã hội, vì đòi buộc
sự công bằng và giúp thực hiện sự công bằng.
THAM DỰ VÀO ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
405. Quyền bính trong xã hội được đặt trên nền tảng nào ?
1897-1902
1918-1920
Mọi cộng đồng nhân loại đều cần có một quyền bính hợp pháp để bảo đảm
trật tự và góp phần vào việc phục vụ công ích. Quyền bính này đặt nền tảng trên
bản tính con người, vì phù hợp với trật tự được Thiên Chúa thiết lập.
406. Khi nào quyền bính được thực thi hợp pháp ?
1901
1903-1904
1921-1922
Quyền bính được thực thi cách hợp pháp khi hoạt động vì công ích và sử
dụng các phương tiện hợp pháp về mặt luân lý để đạt được công ích ấy. Vì thế,
các thể chế chính trị phải được thiết lập do quyết định tự do của các công dân
và họ phải tuân giữ nguyên tắc “Nhà nước pháp chế,” trong đó luật pháp là tối
thượng chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người. Các luật lệ bất
công và các biện pháp trái nghịch với trật tự luân lý không bó buộc lương tâm
con người.
407. Công ích là gì ?
1905-1906
1924
Công ích được hiểu là toàn thể những điều kiện của đời sống xã hội cho
phép các nhóm và các cá nhân đạt tới sự hoàn hảo của mình.
408. Công ích bao gồm những điều gì ?
1907-1909
1925
Công ích bao gồm : sự tôn trọng và cổ võ các quyền lợi căn bản
của con người, việc phát triển các lợi ích tinh thần và vật chất của con người
cũng như của xã hội, hoà bình và an ninh cho tất cả mọi người.
409. Ở đâu công ích được thực hiện một cách đầy đủ nhất ?
1910-1912
1927
Công ích được thực hiện cách đầy đủ nhất trong các cộng đồng chính trị
nào biết bảo vệ và cổ võ thiện ích cho các công dân và các tổ chức trung gian,
mà không quên thiện ích phổ quát của gia đình nhân loại.
410. Con người tham gia vào việc thực hiện công ích như thế nào
?
1913-1917
1926
Tuỳ theo địa vị và vai trò đảm nhận, mỗi người phải góp phần vào việc
cổ võ công ích : bằng việc tôn trọng các luật công bằng, và dấn thân vào những
lãnh vực mà cá nhân họ có trách nhiệm, như chăm sóc gia đình và dấn thân trong
công việc của mình. Trong khả năng của mình, các công dân cũng phải tích cực
tham gia vào đời sống công cộng.
CÔNG BẰNG XÃ HỘI
411. Làm thế nào xã hội bảo đảm được công bằng xã hội ?
1928-1933
1943-1944
Xã hội bảo đảm công bằng xã hội khi tôn trọng phẩm giá và những quyền
lợi con người; đó chính là mục đích thực sự của xã hội. Ngoài ra, xã hội tìm
kiếm công bằng xã hội, là điều liên hệ đến công ích và việc thực thi quyền
hành, khi xã hội tạo điều kiện để các hiệp hội và các cá nhân đạt được những gì
thuộc về quyền lợi của họ.
412. Đâu là nền tảng sự bình đẳng giữa người với người ?
1934-1935
1945
Mọi người đều được hưởng sự bình đẳng về phẩm giá và những quyền lợi
căn bản, vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa duy nhất và được ban cho
một linh hồn có lý trí. Họ có chung một bản tính và một nguồn gốc, và được mời
gọi chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trong Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy
nhất.
413. Chúng ta đánh giá những bất bình đẳng giữa con người như
thế nào ?
1936-1938
1946-1947
Có những sự bất bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội ảnh hưởng trên hàng
triệu con người. Những bất bình đẳng này đi ngược lại cách công khai với Phúc
Âm và đối nghịch với công bằng, với phẩm giá con người và với hòa bình. Nhưng
cũng có những khác biệt giữa con người, do những nhân tố khác nhau thuộc kế
hoạch của Thiên Chúa. Thật vậy, Thiên Chúa muốn rằng người này nhận ở người kia
những gì họ cần thiết và những ai có những “nén bạc” đặc biệt, nên chia sẻ với
những người khác. Những sự khác biệt này khuyến khích và thường bắt buộc con
người phải sống hào hiệp, nhân từ và chia sẻ. Chúng thúc đẩy các nền văn hóa
làm phong phú lẫn nhau.
414. Tình liên đới nhân loại được biểu lộ như thế nào ?
1939-1942
1948
Xuất phát từ tình huynh đệ nhân bản và Kitô giáo, tình liên đới trước
hết được biểu lộ trong việc phân phối hợp lý các của cải, trong việc trả lương
lao động một cách công bằng và trong việc dấn thân cho một trật tự xã hội công
bằng hơn. Nhân đức liên đới được thực hiện qua việc chia sẻ các của cải
tinh thần của đức tin, điều này còn quan trọng hơn là các của cải vật chất.
CHƯƠNG BA
ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN
CHÚA : LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG
LUẬT LUÂN LÝ
415. Luật luân lý là gì ?
1950-1953
1975-1978
Luật luân lý là công trình khôn ngoan của Thiên Chúa, chỉ cho con
người những con đường và qui luật sống, dẫn đến hạnh phúc Thiên Chúa đã hứa, và
ngăn cấm những nẻo đường đưa con người xa lìa Thiên Chúa.
416. Luật luân lý tự nhiên hệ tại điều gì ?
1954-1960
1978-1979
Được Đấng Sáng Tạo khắc ghi trong tâm hồn mọi người, luật tự nhiên hệ
tại việc tham dự vào sự khôn ngoan và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Luật tự
nhiên diễn tả cảm thức luân lý nguyên thủy, giúp con người sử dụng lý trí để
phân định điều tốt điều xấu. Luật tự nhiên mang tính phổ quát và bất biến, đặt
nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của con người, cũng như của cộng
đồng nhân loại và của chính luật dân sự.
417. Mọi người có nhận thức được luật tự nhiên không ?
1960
Vì tội lỗi, mọi người không thể nhận thức luật tự nhiên cách rõ ràng
và trực tiếp như nhau.
Vì vậy, “Thiên Chúa đã viết trên các bảng
Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong tâm hồn họ” (thánh Augustinô).
418. Tương quan giữa luật tự nhiên và Luật Cựu Ước như thế nào ?
1961-1962
1980
Luật Cựu Ước là cấp độ đầu tiên của Luật mạc khải, trình bày nhiều
chân lý mà lý trí tự nhiên có thể đạt tới; những chân lý này được củng cố và
chính thức hóa trong các Giao ước cứu độ. Các qui định luân lý của chúng được
tóm lại trong Mười điều răn, đặt nền tảng cho ơn gọi của con người. Các qui
định này ngăn cấm những gì nghịch lại tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với
tha nhân, và ấn định những đòi hỏi căn bản của tình yêu ấy.
419. Luật Cựu Ước có vị trí nào trong kế hoạch cứu độ ?
1963-1964
1982
Luật Cựu Ước giúp chúng ta nhận biết nhiều chân lý mà lý trí có thể
đạt được. Luật Cựu Ước chỉ cho thấy điều người ta phải làm hay không được phép
làm, và nhất là, như một nhà sư phạm khôn ngoan, chuẩn bị con người sám hối để
đón nhận Tin Mừng. Tuy nhiên, dù thánh thiện, thiêng liêng và tốt lành, Luật
Cựu Ước vẫn bất toàn, vì tự nó không ban sức mạnh và ân sủng của Chúa Thánh
Thần để giúp người ta tuân giữ nó.
420. Luật Mới hay Luật Tin Mừng là gì ?
1965-1972
1983-1985
Luật Mới hay Luật Tin Mừng được Đức Kitô rao giảng và thực hiện, là sự
viên mãn và hoàn thành Luật Thiên Chúa, tự nhiên và mạc khải. Luật Mới được tóm
kết trong giới răn mến Chúa yêu người, “yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu
thương chúng ta”. Luật Mới cũng là một thực tại trong thâm tâm con người, đó là
ân sủng của Chúa Thánh Thần giúp chúng ta có thể thực hiện một tình yêu như
thế. Đó là “luật tự do” (Gc 1,25), hướng dẫn chúng ta mau mắn hành động dưới sự
thúc đẩy của tình yêu.
“Trước tiên, Luật Mới là ân sủng của
Chúa Thánh Thần, được ban cho các tín hữu trong Đức Kitô” (thánh Tôma Aquinô).
421. Chúng ta gặp được Luật Mới ở đâu ?
1971-1974
1986
Chúng ta gặp được Luật Mới trong suốt cuộc đời và lời rao giảng của
Đức Kitô, cũng như trong huấn giáo luân lý của các Tông đồ. Bài giảng trên núi
là cách diễn tả chính yếu của luật này.
ÂN SỦNG VÀ CÔNG CHÍNH HOÁ
422. Công chính hoá là gì ?
1987-1995
2017-2020
Công chính hoá là công trình tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa. Đó là
hành động nhân từ và nhưng không của Thiên Chúa, Đấng tha thứ tội lỗi cho chúng
ta và làm cho chúng ta nên công chính, thánh thiện trong con người chúng ta.
Điều đó được thực hiện bằng ân sủng của Chúa Thánh Thần, ân sủng đó được dành
sẵn cho chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, và được trao ban cho chúng ta
qua Bí tích Rửa tội. Việc công chính hóa mở đường cho lời đáp trả tự do của con
người, nghĩa là cho đức tin vào Đức Kitô và cho sự cộng tác với ân sủng của
Chúa Thánh Thần.
423. Ân sủng công chính hóa chúng ta là gì ?
1996-1998,
2005
2021
Ân sủng là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban giúp chúng ta tham dự
vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động vì tình yêu dành
cho Ngài. Ân sủng được gọi là ơn thường sủng, ơn thánh hóa hay ơn
thần hóa, vì ân sủng thánh hóa và thần hóa chúng ta. Ân sủng siêu nhiên, vì
tùy thuộc hoàn toàn vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa và vượt quá mọi
khả năng của lý trí và sức lực con người. Vì vậy, ân sủng vượt khỏi kinh nghiệm
của chúng ta.
424. Các loại ân sủng khác là gì ?
1999-2000
2003-2004
2023-2024
Ngoài ơn thường sủng, còn có ơn hiện sủng (ân sủng tùy
hoàn cảnh), các ơn Bí tích (ân sủng đặc biệt của mỗi Bí tích), các ân
sủng đặc biệt hay đặc sủng (có mục đích là sự thiện ích của Hội thánh), trong
đó có ơn chức phận, là ơn đi kèm theo việc thi hành các thừa tác vụ
trong Hội thánh và các trách nhiệm của đời sống.
425. Đâu là tương quan giữa ân sủng với tự do con người ?
2001-2002
Ân sủng dọn đường, chuẩn bị và khơi dậy lời đáp trả tự do của con
người. Ân sủng thỏa mãn những khát vọng thâm sâu của sự tự do con người, mời
gọi tự do cộng tác, và hướng dẫn tự do đến sự toàn
thiện.
426. Công phúc là gì ?
2006-2010
2025-2026
Công phúc là điều đem lại quyền được thưởng cho một hành động tốt.
Trong những liên hệ với Thiên Chúa, con người tự mình không có gì được gọi là
công phúc, vì họ lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho con
người khả năng lập công nhờ kết hợp vào đức ái của Đức Kitô, nguồn mạch các
công phúc của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, công phúc của những việc
lành trước hết là do ân sủng của Thiên Chúa, thứ đến mới do ý chí tự do của con
người.
427. Chúng ta có thể lập công để lãnh nhận những điều thiện hảo
nào ?
2010-2011
2027
Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể lập công để lãnh
nhận, cho chính mình và cho người khác, những ân sủng hữu ích cho việc thánh
hoábản thân và cho việc đạt tới đời sống vĩnh cửu, cũng như của cải vật chất
cần thiết cho chúng ta, theo kế hoạch của Thiên Chúa. Tuy nhiên, không ai có
thể lập công để lãnh nhận ân sủng đầu tiên, là ân ban lúc khởi đầu để
sám hối và được nên công chính.
428. Có phải mọi người đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện
Kitô giáo không ?
2012-2016
2028-2029
Mọi tín hữu đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện Kitô giáo. Sự
thánh thiện này là sự viên mãn của đời sống Kitô hữu, sự toàn hảo của tình yêu,
được thực hiện trong việc kết hợp mật thiết với Đức Kitô và, trong Người, với
Thiên Chúa Ba Ngôi. Con đường nên thánh của người Kitô hữu, sau khi kinh qua
thập giá, sẽ được hoàn thành trong cuộc phục sinh chung cuộc của những người
công chính, trong đó “Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi loài.”
GIÁO HỘI, MẸ VÀ THẦY
429. Hội thánh nuôi dưỡng đời sống luân lý của người Kitô hữu
như thế nào ?
2030-2031
2047
Hội thánh là cộng đoàn các người Kitô hữu. Trong Hội thánh, họ đón
nhận lời Chúa và những giáo huấn về “Luật của Đức Kitô” (Gl 6,2), lãnh nhận ân
sủng các Bí tích, kết hợp bản thân vào hy lễ Thánh Thể của Đức Kitô, để đời
sống luân lý của họ trở thành một phượng tự thiêng liêng. Trong Hội thánh, họ
học gương thánh thiện của Đức Trinh Nữ Maria và của các thánh.
430. Tại sao Huấn quyền Hội thánh can thiệp vào lãnh vực luân lý ?
2032-2040
2049-2051
Trách nhiệm của Huấn quyền Hội thánh là rao giảng đức tin để mọi người
tin và áp dụng vào đời sống cụ thể. Trách nhiệm này cũng bao gồm cả những giới
luật đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì tuân giữ những giới luật đó rất cần
thiết cho ơn cứu độ.
431. Các điều răn của Hội thánh có mục đích gì ?
2041
2048
Năm điều răn của Hội thánh có mục đích bảo đảm cho người tín hữu những
điều tối thiểu thiết yếu về tinh thần cầu nguyện, đời sống Bí tích, dấn thân
luân lý và tăng trưởng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.
432. Năm điều răn của Hội thánh là gì ?
2042-2043
Năm điều răn của Hội thánh là : (1) tham dự Thánh lễ Chúa nhật
cũng như các ngày lễ buộc, kiêng việc xác và những hoạt động có thể cản trở
việc thánh hoá những ngày đó; (2) xưng tội để lãnh nhận Bí tích Giao hoà ít là
mỗi năm một lần; (3) Rước lễ ít là trong mùa Phục sinh; 4) Kiêng thịt và giữ
chay trong những ngày Hội thánh quy định; (5) Mỗi người theo khả năng, đóng góp
cho các nhu cầu vật chất của Hội thánh.
433. Tại sao đời sống luân lý của người Kitô hữu rất cần thiết
để loan báo Tin Mừng ?
2044-2046
Nhờ đời sống luân lý phù hợp với Chúa Giêsu, các người Kitô hữu lôi
kéo mọi người tin vào Thiên Chúa thật; họ xây dựng Hội thánh; đem tinh thần
Phúc Âm vào giữa lòng đời và chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa đến.
ĐOẠN THỨ HAI
MƯỜI ĐIỀU RĂN
Một anh thanh niên đã hỏi Chúa Giêsu câu này : “Thưa Thầy, tôi phải
làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời ?” Chúa Giêsu trả lời anh ta :
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người
nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,17.21)
Việc “Theo Chúa Giêsu” đòi buộc chúng ta phải tuân giữ các điều răn.
Luật Cũ không bị bỏ đi, nhưng chúng ta được mời gọi tìm lại luật đó trong con
người của vị Thầy chí thánh, Đấng thực hiện Lề luật cách trọn hảo ngay trong bản
thân mình, khi mạc khải trọn vẹn ý nghĩa và xác nhận giá trị tồn tại của nó.
Hình ảnh của đoạn này trình bày Chúa Giêsu đang dạy
các môn đệ Bài giảng trên núi (x. Mt 5-7). Những yếu tố quan trọng nhất của bải
giảng này chính là : Tám mối phúc thật, việc hoàn thiện Luật Cũ, kinh Lạy Cha,
những hướng dẫn về chay tịnh, lời mời gọi các môn đệ trở thành muối đất và ánh
sáng thế gian.
Núi nằm ở vị trí cao hơn mặt đất và gần trời hơn, cho thấy đó là một
nơi thích hợp nhất để gặp gỡ Thiên Chúa. Chúa Giêsu như vị Thầy, ngồi trên tảng
đá như bục giảng ở vị trí thật tốt, với ngón trỏ bàn tay phải hướng lên trời,
để chỉ xuất xứ thần linh của các lời nói của Người về cuộc sống và hạnh phúc.
Cuộn giấy Người cầm nơi bàn tay trái cho thấy giáo huấn trọn vẹn của Người,
giáo huấn mà Người gởi gấm cho các Tông đồ một cách tin tưởng; Người mời gọi họ
rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần.
Mười hai Tông đồ, ngồi vòng quanh như một mũ triều dưới chân
Thầy, mỗi người đều có hào quang trên đầu để chỉ sự trung tín với Chúa Giêsu và
chứng tá về sự thánh thiện trong Hội thánh. Một người, hơi bị khuất bên phía
mặt, có một vòng đen, nói lên sự bất trung đối với Tin Mừng. Lời công bố Nước
Thiên Chúa của Chúa Giêsu không phải là những lời trống rỗng và bất định, nhưng
đầy hiệu năng và trường tồn. Về điểm này, chúng ta đọc được đoạn nói về người
bất toại ở Capharnaum, được ba Phúc Âm Nhất Lãm trình thuật, rất có ý nghĩa :
“Chúa Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Và kìa,
người ta khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng
tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt : “Này con, cứ yên tâm, con đã được
tha tội rồi !” Và kìa mấy kinh sư nghĩ bụng rằng : “Ông này nói phạm thượng.”
Nhưng Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói : “Sao các ông lại nghĩ xấu trong
bụng như vậy ? Trong hai điều : một là bảo : “Con đã được tha tội rồi”, hai là
bảo : “Đứng dậy mà đi” điều nào dễ hơn ? Vậy để các ông biết : ở dưới đấy
này, Con Người có quyền tha tội – bấy giờ Chúa Giêsu bảo người bại liệt : “Hãy
đứng dậy, vác giường mà về nhà đi !” (Mt 9,1-6).
Trong sự kiện này, việc chữa lành về mặt thể lý là phương diện khả
giác của phép lạ thiêng liêng về việc giải phóng khỏi tội lỗi. Chữa lành và tha
thứ vẫn là những cử chỉ tiêu biểu cho việc giáo dục của Chúa Giêsu, vị
Thầy thần linh.
FRA ANGELICO, Bài giảng trên núi, Bảo tàng viện Thánh
Marco,
Xuất hành 20, 2-17
“Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao,
cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.
Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ : vì Ta, Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét
Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai
yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn
đời.
Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách
bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Ngài một cách bất xứng.
Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày,
ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày
sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công
việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại
kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất,
biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Ngài đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức
Chúa đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người
ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.”
Đệ nhị luật 5, 6-21
“Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập,
khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
Ngươi không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng
như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không
được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ : vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu
đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các
mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách
bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Ngài một cách bất xứng.
Ngươi hãy giữ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh, như Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm
mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi, cũng như
con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc của ngươi, và ngoại kiều
ở trong thành của ngươi, để tôi tớ nam nữ của ngươi được nghỉ như ngươi. Ngươi
hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày sa-bát.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã
truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa,
Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng dối hại người.
Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được thèm muốn nhà
của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của
người ta.”
Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn
Thứ nhứt, thờ phượng Đức Chúa Trời và kính mến Ngài trên hết mọi
sự.
Thứ hai, chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ.
Thứ ba, giữ ngày Chúa Nhật,
Thứ bốn, thảo kính cha mẹ,
Thứ năm, chớ giết người,
Thứ sáu, chớ làm sự dâm dục,
Thứ bảy, chớ lấy của người,
Thứ tám, chớ làm chứng dối,
Thứ chín, chớ muốn vợ chồng người,
Thứ mười, chớ tham của người
434. “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống
đời đời ?” (Mt 19,16)
2052-2054
2075-2076
Khi người thanh niên hỏi câu này, Chúa Giêsu trả lời : “Nếu anh muốn
vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn,” rồi Người thêm : “Hãy đến theo Tôi”
(Mt 19, 16-21). Việc theo Chúa Giêsu bao gồm cả việc tuân giữ các điều răn. Lề
luật không bị phá bỏ, nhưng chúng ta được mời gọi tìm lại Lề luật nơi Con người
của Vị Tôn sư thần linh của mình, Đấng thực thi trọn vẹn Lề luật nơi chính
mình, Đấng mạc khải trọn vẹn ý nghĩa của Lề luật, và chứng nhận tính trường tồn
của Lề luật.
435. Chúa Giêsu giải thích Lề luật thế nào ?
2055
Chúa Giêsu giải thích Lề luật dưới ánh sáng của giới răn yêu thương
duy nhất nhưng có hai vế, là sự viên mãn của Lề luật : “Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là
điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là : ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật
Môsê và các sách tiên tri đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40).
436. “Mười điều răn” nghĩa là gì ?
2056-2057
“Mười điều răn” có nghĩa là “mười lời” (Xh 34, 28), tóm tắt Lề luật do
Thiên Chúa ban cho dân Israel trong bối cảnh của Giao ước qua trung gian Môsê.
Khi trình bày các giới răn về tình yêu đối với Thiên Chúa (ba giới răn đầu) và
đối với tha nhân (bảy giới răn sau), Mười điều răn vạch ra cho dân Chúa và từng
người con đường dẫn đến cuộc sống được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi .
437. Liên hệ giữa Mười điều răn với Giao ước như thế nào ?
2058-2063
2077
Mười điều răn phải được hiểu dưới ánh sáng của Giao uớc; trong ánh
sáng đó Thiên Chúa tự mạc khải và cho biết ý muốn của Ngài. Bằng việc tuân giữ
các giới răn, dân Chúa muốn nói lên sự lệ thuộc của mình vào Thiên Chúa và đáp
lại sáng kiến yêu thương của Ngài với lòng biết ơn.
438. Hội thánh dành cho Mười điều răn tầm quan trọng nào ?
2064-2068
Trung thành với Thánh Kinh và với gương của Chúa Giêsu, Hội thánh nhìn
nhận Mười điều răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu. Các người Kitô hữu
buộc phải tuân giữ Mười điều răn.
439. Tại sao Mười điều răn tạo thành một thể thống nhất ?
2069
2079
Mười điều răn tạo thành một thể thống nhất và không thể phân chia, vì
mỗi giới răn đều liên kết với các giới răn khác và với toàn thể Mười điều răn.
Vì vậy, vi phạm một giới răn là vi phạm toàn bộ Lề luật.
440. Tại sao Mười điều răn đòi buộc một cách nghiêm trọng ?
2072-2073,
2081
Bởi vì Mười điều răn trình bày những trách nhiệm căn bản của con người
đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân.
441. Chúng ta có khả năng tuân giữ Mười điều răn không ?
2074
2082
Thưa có, vì Đức Kitô, Đấng mà không có Người chúng ta không thể làm
được việc gì, ban cho chúng ta có khả năng tuân giữ Mười điều răn, nhờ hồng ân
Thánh Thần và ân sủng của Người.
CHƯƠNG MỘT
“NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA,
THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI
HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT
TRÍ KHÔN NGƯƠI”
ĐIỀU RĂN THỨ NHẤT :
TA LÀ ĐỨC CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI.
NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC CÓ THẦN NÀO KHÁC .
442. Lời tuyên bố của Thiên Chúa : “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi” (Xh 20,2) bao hàm điều gì ?
2083-2094
2133-2134
Đối với người tín hữu, câu này buộc phải giữ và thực hành ba nhân đức
đối thần, tránh các tội nghịch lại những nhân đức ấy. - Đức tin giúp tin
tưởng vào Thiên Chúa và loại trừ những gì trái ngược, chẳng hạn như cố tình
nghi ngờ, cứng tin, lạc giáo, bội giáo, ly giáo. - Đức cậy giúp
tin tưởng chờ đợi sự hưởng kiến Thiên Chúa và ơn phù trợ của Ngài, tránh sự ngã
lòng và tự phụ. - Đức mến giúp yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và
phải loại trừ tội lãnh đạm, vô ơn, nguội lạnh, lười biếng hoặc uể oải tinh
thần, và tội oán ghét Thiên Chúa phát sinh từ kiêu ngạo.
443. Lời Chúa truyền “Ngươi phải thờ phượng một mình Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” gồm
những điều gì ?
2095-2105
2135-2136
Câu này buộc phải thờ lạy Thiên Chúa là Chúa tể của tất cả những gì
hiện hữu; phải tôn thờ Ngài xứng đáng với tư cách cá nhân hay tập thể; phải cầu
nguyện bằng những lời ca ngợi, tạ ơn và cầu khẩn; phải dâng lên Ngài những lễ
tế, nhất là lễ tế thiêng liêng của cuộc đời chúng ta, kết hợp với hy lễ tuyệt
hảo của Đức Kitô; phải giữ những lời hứa và lời khấn đã dâng lên Thiên Chúa.
444. Bằng cách nào con người thực hiện quyền lợi của mình, là
được thờ phượng Thiên Chúa trong chân lý và tự do ?
2104-2109
2137
Mỗi người đều có quyền và bổn phận luân lý phải tìm kiếm chân lý, đặc
biệt là những gì liên quan đến Thiên Chúa và Hội thánh của Ngài. Và một khi đã
nhận biết Ngài, mỗi người đều có quyền và bổn phận luân lý phải đón nhận Ngài,
trung thành với Ngài, bằng việc dâng lên Ngài một sự thờ phượng đích thực. Đồng
thời, phẩm giá con người đòi hỏi về phương diện tôn giáo không ai có thể bị ép
buộc hành động trái với lương tâm, và cũng không ai được ngăn cản họ hành động
theo lương tâm, riêng tư cũng như công khai, một mình hay chung với những người
khác, trong ranh giới của trật tự công cộng.
445. Thiên Chúa cấm đoán điều gì khi Ngài ra lệnh : “Ngươi không
được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20, 2) ?
2110-2128
2138-2140
Giới răn này cấm :
- tội đa thần
và thờ ngẫu tượng là thần thánh hóa một thụ tạo, quyền lực, tiền bạc hay
cả ma quỉ.
- tội mê tín là
một lệch lạc trái với việc tôn thờ Thiên Chúa đích thực. Mê tín biểu lộ dưới những
hình thức khác như : bói toán, ma thuật, phù thủy và chiêu hồn;
- tội vô đạo biểu
hiện bằng hành động thử thách Thiên Chúa, trong lời nói hay trong hành động; bằng
việc phạm thượng, nghĩa là xúc phạm đến người hay đồ vật đã thánh hiến, nhất là
Bí tích Thánh Thể; mại thánh, nghĩa là muốn mua bán những thực tại linh thiêng;
- tội vô thần là
loại trừ sự hiện hữu của Thiên Chúa, thường phát xuất từ một quan niệm sai lạc về
quyền tự lập của con người;
- chủ thuyết bất khả
tri là cho rằng con người không thể nào biết về Thiên Chúa, và bao
gồm chủ trương lãnh đạm tôn giáo và vô thần thực hành.
446. Giới răn của Thiên Chúa : “Ngươi không đựơc tạc tượng, vẽ
hình . . .”, có phải là cấm việc tôn thờ ảnh tượng không ?
2129-2132
2141
Trong Cựu Ước, giới răn này cấm trình bày Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối
siêu việt, bằng bất cứ hình thức nào. Nhưng khởi từ mầu nhiệm Nhập thể của Con
Thiên Chúa, việc tôn kính ảnh tượng thánh của người Kitô hữu được xác nhận (qua
Công đồng Nicea II, năm 787), vì việc tôn kính này được đặt nền tảng trên mầu
nhiệm Con Thiên Chúa làm người, qua đó Thiên Chúa siêu việt trở nên hữu hình.
Đây không phải là việc thờ lạy ảnh tượng, nhưng là việc tôn kính Đấng được
trình bày qua ảnh tượng : Đức Kitô, Đức Trinh Nữ, các thiên thần và các thánh.
ĐIỀU RĂN THỨ HAI
NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC KÊU TÊN THIÊN CHÚA CÁCH
BẤT XỨNG
447. Chúng ta phải tôn kính thánh Danh Thiên Chúa như thế nào ?
2142-2149
2160-2162
Chúng ta tôn kính thánh Danh Thiên Chúa bằng việc kêu cầu, chúc tụng,
ca ngợi và tôn vinh Ngài. Vì vậy, cấm không được kêu đến Danh Ngài để làm chứng
cho một tội ác, và không được sử dụng cách bất xứng Danh thánh Ngài, như lộng
ngôn, điều này tự bản chất là một tội trọng, cũng như chửi thề và bất
trung với những lời hứa nhân Danh Thiên Chúa.
448. Tại sao cấm thề gian ?
2150-2151
2163-2164
Vì người ta nại đến Thiên Chúa, Đấng là chính Chân lý, để làm chứng
cho một lời nói dối.
“Đừng thề nhân danh Đấng Sáng Tạo,
cũng đừng thề nhân danh thụ tạo, trừ khi ta nói thành thật và cần thiết với
lòng tôn kính” (thánh
Inhaxiô Loyola).
449. Bội thề là gì ?
2152-2155
Bội thề khi đưa ra một lời hứa kèm theo một lời thề, nhưng cố ý không
tuân giữ hay sau đó sẽ phá bỏ. Đó là một tội trọng phạm đến Thiên Chúa vì Ngài
là Đấng luôn trung tín với những lời Ngài đã hứa.
ĐIỀU RĂN THỨ BA
NGƯƠI PHẢI THÁNH HÓA NGÀY CỦA ĐỨC CHÚA
450. Tại sao Thiên Chúa “đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó
là ngày thánh” (Xh 20, 11) ?
2168-2172
2189
Trong ngày sabát, dân Do Thái tưởng nhớ việc Thiên Chúa nghỉ ngơi
vào ngày thứ bảy theo như trình thuật Tạo dựng, cũng như nhớ đến việc giải
thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập và nhớ đến Giao ước được Thiên Chúa thiết
lập với dân Ngài.
451. Chúa Giêsu xử sự thế nào đối với ngày sa-bát ?
2173
Chúa Giêsu công nhận sự thánh thiêng của ngày sabát và Người dùng thẩm
quyền thần linh để đưa ra giải thích đích thực về ngày này : “Ngày sabát được
lập ra vì loài người chứ không phải loài người vì ngày sabát” (Mc 2, 27).
452. Lý do nào người Kitô hữu thay thế ngày sabát bằng ngày Chúa
nhật ?
2174-2176
2190-2191
Ngày Chúa nhật là ngày Phục sinh của Đức Kitô. Là “ngày thứ nhất trong
tuần” (Mc 16,2), ngày Chúa nhật gợi lại cuộc sáng tạo lần thứ nhất; là “ngày
thứ tám” tiếp sau ngày sabát, ngày Chúa nhật biểu trưng một cuộc sáng tạo mới
được khởi đầu bằng cuộc Phục sinh của Đức Kitô. Như thế, đối với các người Kitô
hữu, ngày Chúa nhật trở thành ngày thứ nhất của mọi ngày và của tất cả mọi ngày
lễ : ngày của Chúa; trong ngày này, nhờ cuộc Vượt qua, Đức Kitô hoàn tất
ý nghĩa thiêng liêng ngày sabát của người Do Thái và loan báo sự an nghỉ đời
đời của con người trong Thiên Chúa.
453. Phải thánh hóa ngày Chúa nhật thế nào ?
2177-2185
2192-2193
Các người Kitô hữu thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc khác
bằng việc tham dự tiệc Thánh Thể của Chúa và tránh mọi hoạt động làm ngăn trở
việc thờ phượng Thiên Chúa, hay làm xáo trộn niềm vui đặc thù trong ngày của
Chúa, cũng như việc nghỉ ngơi cần thiết cho tinh thần và thân xác. Tuy nhiên,
trong ngày Chúa nhật, các người Kitô hữu có thể làm những việc liên quan đến
nhu cầu gia đình hay phục vụ cho những lợi ích quan trọng của xã hội, với điều
kiện những hoạt động này không tạo thành những thói quen có hại cho việc thánh
hóa ngày Chúa nhật, cho cuộc sống gia đình hay cho sức khỏe.
454. Tại sao phải đấu tranh để luật dân sự công nhận ngày Chúa nhật là
ngày lễ nghỉ ?
2186-2188
2194-2195
Để cho tất cả mọi người đều có thể nghỉ ngơi đầy đủ và có được một
thời gian rảnh rỗi để chăm lo việc tôn giáo, gia đình, văn hóa và xã hội; tìm
được thời gian thuận tiện để suy niệm, suy tư, yên tĩnh và học tập; để làm
những việc thiện ích, đặc biệt là việc phục vụ những người bệnh tật và già yếu.
CHƯƠNG HAI
“NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI
THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH”
ĐIỀU RĂN THỨ TƯ
NGƯƠI HÃY THỜ CHA KÍNH MẸ
455. Điều răn thứ tư dạy điều gì ?
2196-2200
2247-2248
Điều răn thứ tư dạy chúng ta phải tôn kính và chăm sóc cha mẹ và những
ai được Thiên Chúa trao ban quyền hành để mưu ích cho chúng ta.
456. Bản chất của gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa như thế
nào ?
2201-2205
2249
Người nam và người nữ kết hợp với nhau qua hôn nhân, cùng với con cái
tạo thành một gia đình. Thiên Chúa đã thiết lập gia đình và đặt nền tảng căn
bản cho gia đình. Hôn nhân và gia đình được sắp xếp hướng về thiện ích của đôi
vợ chồng, về việc sinh sản và giáo dục con cái. Giữa các thành viên trong gia
đình có những mối liên hệ cá nhân và những trách nhiệm hàng đầu. Trong Đức
Kitô, gia đình trở thành một Hội thánh tại gia, vì đó là một cộng đoàn
đức tin, đức cậy và đức mến.
457. Gia đình có vai trò gì trong xã hội ?
2207-2208
Gia đình là tế bào nguyên thủy của xã hội loài người, có trước bất kỳ
sự công nhận nào của chính quyền. Các nguyên tắc và giá trị của gia đình tạo
thành nền tảng cho đời sống xã hội. Đời sống gia đình là khởi điểm của đời sống
xã hội.
458. Xã hội có trách nhiệm gì đối với gia đình ?
2209-2213
2250
Xã hội có trách nhiệm nâng đỡ và củng cố hôn nhân và gia đình, nhưng
vẫn tôn trọng nguyên tắc hỗ trợ. Các chính quyền phải tôn trọng, bảo vệ và cổ
võ bản chất đích thực của hôn nhân và gia đình, đạo đức chung, các quyền của
cha mẹ và sự thịnh vượng của các gia đình.
459. Con cái có những bổn phận nào đối với cha mẹ ?
2214-2220
2251
Con cái phải hiếu thảo, biết ơn, ngoan ngoãn và vâng phục cha mẹ. Nhờ
những tương quan tốt đẹp với anh em, con cái góp phần làm tăng thêm sự hòa
thuận và thánh thiện của toàn bộ đời sống gia đình. Khi cha mẹ nghèo túng, bệnh
tật, cô đơn hay già yếu, con cái đã trưởng thành phải trợ giúp các ngài về vật
chất và tinh thần.
460. Cha mẹ có những trách nhiệm nào đối với con cái ?
2221-2231
Vì được tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa, cha mẹ là những người
đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái, và cũng là những người đầu tiên giáo
dục đức tin cho con cái. Họ có nhiệm vụ yêu thương và tôn trọng con cái, là
những nhân vị và con cái của Thiên Chúa; Họ có nhiệm vụ cung cấp
cho con cái, theo hết khả năng mình, những nhu cầu vật chất và tinh thần, chọn
cho chúng những trường học thích hợp, và với những lời khuyên khôn ngoan, giúp
chúng chọn lựa nghề nghiệp hay bậc sống. Đặc biệt, cha mẹ có sứ vụ giáo dục đức
tin Kitô giáo cho con cái.
461. Làm thế nào cha mẹ giáo dục đức tin Kitô giáo cho con cái
?
2252-2253
Cha mẹ giáo dục đức tin Kitô giáo cho con cái chủ yếu bằng gương sáng,
kinh nguyện, dạy giáo lý trong gia đình và tham dự vào đời sống giáo hội.
462. Các mối liên hệ trong gia đình có giá trị tuyệt đối không ?
2232-2233
Các mối liên hệ trong gia đình, dù rất quan trọng, nhưng không phải
tuyệt đối, bởi vì ơn gọi tiên quyết của người Kitô hữu là bước theo Đức Kitô
bằng cách yêu mến Người : “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không đáng làm môn đệ
Thầy. Ai yêu con trai con gái mình hơn Thầy thì không đáng làm môn đệ Thầy” (Mt
10,37). Cha mẹ phải vui mừng giúp đỡ con cái bước theo Chúa Giêsu trong tất cả
các bậc sống, kể cả trong đời sống thánh hiến hay thừa tác vụ linh mục.
463. Quyền bính phải được thực thi thế nào trong những lãnh vực
khác nhau của xã hội dân sự ?
2234-2237
2254
Quyền bính phải được thực thi như một sự phục vụ, nhờ tôn trọng các
quyền lợi căn bản của con người, một bậc thang giá trị đúng đắn, các luật lệ,
sự công bằng phân phối và nguyên lý hỗ trợ. Khi thực thi quyền hành, mỗi người
phải tìm lợi ích cho tập thể chứ không phải cho bản thân. Các quyết định của họ
phải dựa trên chân lý về Thiên Chúa, về con người và về thế giới.
464. Người công dân có những bổn phận nào đối với chính quyền
dân sự ?
2238-2241
2255
Công dân phải coi cấp trên như những người đại diện Thiên Chúa, góp
phần cộng tác cách chính trực với họ để đời sống công cộng và xã hội được hoạt
động tốt đẹp. Điều này bao gồm cả tình yêu và việc phục vụ tổ quốc, quyền lợi
và bổn phận bầu cử, đóng thuế, bảo vệ tổ quốc và quyền phê phán mang tính chất
xây dựng.
465. Khi nào người công dân không được vâng phục chính quyền dân
sự ?
2242-2243
2256
Theo lương tâm, người công dân không được vâng phục những mệnh lệnh
của chính quyền dân sự, khi chúng đi ngược lại các đòi hỏi của trật tự luân lý
: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người” (Cv 5,29).
ĐIỀU RĂN THỨ NĂM
NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI
466. Tại sao phải tôn trọng sự sống con người ?
2258-2262
2318-2320
Vì sự sống con người là điều linh thánh. Ngay từ đầu, sự
sống cần đến một tác động sáng tạo của Thiên Chúa và sự sống mãi mãi nằm trong
một liên hệ đặc biệt với Đấng Sáng Tạo, là cùng đích duy nhất của mình. Không
ai được phép trực tiếp huỷ hoại một con người vô tội, vì điều này đối nghịch
cách nghiêm trọng với phẩm giá con người và với sự thánh thiện của Đấng Sáng
Tạo. “Ngươi không được giết người vô tội và người công chính” (Xh 23,7).
467. Tại sao bảo vệ con người và xã hội một cách hợp pháp không
đối nghịch với luật tuyệt đối này ?
2263-2265
Qua việc bảo vệ hợp pháp, người ta chọn sự tự vệ và bảo vệ mạng sống
cho bản thân hay cho người khác, chứ không phải chọn việc giết người. Đối với
những người có trách nhiệm về mạng sống của người khác, việc bảo vệ hợp pháp
không những là một quyền mà còn là một nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, không
được sử dụng bạo lực vượt quá những gì cần thiết.
468. Hình phạt có mục đích gì ?
2266
Hình phạt được chính quyền dân sự hợp pháp đề ra có mục đích để sửa
chữa những xáo trộn do lỗi lầm gây nên, để bảo vệ trật tự công cộng và an ninh
cho mọi người, và để góp phần cải hóa phạm nhân.
469. Người ta có thể đề ra những hình phạt nào ?
2267
Hình phạt được chính quyền dân sự đề ra phải tương xứng với tính chất
trầm trọng của hành vi tội ác. Ngày nay với những khả năng Nhà Nước có thể sử
dụng để dẹp được tội ác bằng cách vô hiệu hoá kẻ phạm tội, những trường hợp tuyệt
đối cần thiết phải sử dụng án tử hình “từ nay sẽ hiếm đi, nếu như trong thực tế
có thể nói là không còn tồn tại nữa” (Evangeliun vitae). Nếu các phương
tiện không gây đổ máu là đủ, thì chính quyền phải sử dụng các phương tiện này,
vì chúng tương ứng hơn với những điều kiện cụ thể của công ích, chúng phù hợp
hơn với phẩm giá con người và không xoá sổ cách vĩnh viễn khả năng sửa sai của
kẻ phạm tội.
470. Điều răn thứ năm cấm những gì ?
2268-2283
2321-2326
Điều răn thứ năm cấm những tội trái ngược cách nghiêm trọng với luật
luân lý :
- tội giết người
cố ý và trực tiếp, cũng như việc đồng lõa trong tội đó;
- tội phá thai trực
tiếp, có ý coi đó là mục đích hay phương tiện, cũng như việc cộng tác vào
tội này. Hội thánh đã ra vạ tuyệt thông cho người phạm tội này, bởi vì những
con người, ngay từ lúc được thụ thai, phải được bảo vệ và che chở một cách
tuyệt đối trong sự toàn vẹn của nó;
- tội an tử trực
tiếp, có mục đích chấm dứt sự sống của những người tật nguyền, đau yếu hay
hấp hối, bằng một hành động hay bỏ không làm một hành động cần kíp;
- tội tự sát và
chủ ý cộng tác vào việc tự sát, tội này là một xúc phạm nghiêm trọng đến tình
yêu chính đáng đối với Thiên Chúa, đối với chính mình và đối với tha nhân. Về
phần trách nhiệm, tội tự sát có thể nghiêm trọng hơn khi gây gương xấu, nhưng
cũng có thể giảm thiểu vì những rối loạn tâm lý đặc biệt hoặc vì những sợ hãi
trầm trọng.
471. Những chữa trị y dược nào được phép khi cái chết như sắp
gần kề ?
2278-2279
Việc cắt ngang những chăm sóc thường xuyên cho bệnh nhân không thể coi
là hợp pháp được. Tuy nhiên, được phép sử dụng các thuốc giảm đau nào không có
mục đích làm cho chết, và được phép từ chối “việc trị liệu khắc nghiệt,” nghĩa
là việc chữa trị quá tốn kém, nhưng không đem lại chút hy vọng nào để đạt được
kết quả tích cực.
472. Tại sao xã hội có trách nhiệm phải bảo vệ mọi thai nhi ?
2273-2274
Quyền sống của con người, ngay từ lúc được thụ thai, là một yếu tố làm
thành xã hội dân sự và luật pháp của xã hội. Khi Nhà Nước không cố gắng phục vụ
cho các quyền lợi của mọi người, và đặc biệt cho những người yếu đuối nhất,
trong số đó có các em béù đã được thụ thai mà chưa được sinh ra, thì chính
những nền tảng của Nhà Nước pháp quyền đã bị xói mòn.
473. Làm thế nào để tránh gương xấu ?
2284-2287
Gương xấu hệ tại ở việc dẫn người khác đến chỗ phạm tội. Người ta phải
loại bỏ gương xấu vì tôn trọng linh hồn và thể xác con người. Nếu ai cố ý dẫn
dắt người khác phạm một điều xấu nặng nề, thì chính người dẫn dắt đã phạm một
tội nghiêm trọng.
474. Chúng ta có trách nhiệm nào đối với thân xác ?
2288-2291
Chúng ta phải chăm sóc sức khỏe thân xác của mình và của tha
nhân cách hợp lý, nhưng phải tránh xa việc tôn thờ thân xác và mọi thứ
thái quá. Ngoài ra còn phải tránh việc sử dụng ma túy, vì nó gây nên sự hủy
hoại trầm trọng cho sức khỏe và đời sống con người, cũng phải tránh sự lạm dụng
các thứ như thực phẩm, rượu, thuốc hút và các thứ thuốc men.
475. Khi nào các thí nghiệm khoa học, y khoa hay tâm lý, trên
con người hay nhóm người, là hợp pháp về mặt luân lý ?
2292-2295
Về mặt luân lý, các thí nghiệm ấy là hợp pháp nếu chúng phục vụ cho
lợi ích toàn vẹn của cá nhân và xã hội, mà không gây ra những rủi ro không cân
xứng cho sự sống và sự toàn vẹn thể lý hay tâm lý của các cá nhân; những người
nhận thí nghiệm phải được thông báo trước, và đã ưng thuận.
476. Trước và sau khi chết, có được phép hiến tặng và ghép các
bộ phận hay không ?
2296
Về mặt luân lý, việc ghép các bộ phận cơ thể có thể được chấp nhận với
sự ưng thuận của người cho và không gây nguy hiểm quá đáng cho người đó. Hiến
tặng các bộ phận sau khi chết là một hành vi cao quý, nhưng trước khi lấy các
bộ phận đó, phải xác định người hiến tặng chắc chắn đã chết.
477. Những việc nào đối nghịch với việc tôn trọng sự toàn vẹn
thể lý của con người ?
2297-2298
Những việc đó là
: bắt cóc, bắt người làm con tin, khủng bố, tra tấn, bạo lực, trực tiếp làm
người ta vô sinh. Việc cắt bỏ một phần thân thể của một người chỉ được chấp
nhận về mặt luân lý nếu mục đích là để chữa bệnh cho chính người đó.
478. Phải chăm sóc những người hấp hối như thế nào ?
2299
Những người hấp hối có quyền được sống xứng đáng với phẩm giá vào
những giây phút cuối cùng của đời sống trần thế, nhất là được nâng đỡ bằng lời
cầu nguyện và các Bí tích, giúp họ chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống.
479. Phải đối xử với thân xác kẻ chết như thế nào ?
2300-2301
Thi hài người quá cố phải được đối xử với lòng tôn trọng và bác ái.
Hội thánh cho phép hỏa táng, nếu việc này không gây rắc rối cho đức tin về sự
phục sinh thân xác.
480. Chúa đòi hỏi mỗi người điều gì về vấn đề hòa bình ?
2302-2303
Đức Kitô, Đấng đã tuyên bố “phúc cho ai xây dựng hòa bình” (Mt 5, 9),
đòi hỏi sự bình an của tâm hồn và kết án thái độ giận dữ, là muốn báo thù vì
điều xấu đã phải gánh chịu, và lòng thù ghét, là ao ước điều xấu cho tha nhân.
Những thái độ này, nếu cố ý và ưng theo trong những vấn đề rất quan trọng, đều
là những tội trọng nghịch lại với đức ái.
481. Hòa bình trên thế giới là gì ?
2304-2305
Hòa bình trên thế giới cần thiết để đời sống con người được tôn trọng
và phát triển. Hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh hay là sự cân bằng
các thế lực đối lập, nhưng là sự “ổn định trật tự” (thánh Augustinô), “thành
quả của công lý” (Is 32, 17) và hiệu quả của đức ái. Hòa bình trần thế là hình
ảnh và hoa trái bình an của Đức Kitô.
482. Hòa bình trên thế giới đòi buộc điều gì ?
2304;
2307-2308
Hòa bình trên thế giới đòi buộc sự phân phối cách công bằng và bảo vệ
tài sản của con người, sự tự do giao tiếp giữa con người, sự tôn trọng phẩm giá
con người và các dân tộc, sự kiên trì thực hiện công bằng và tình huynh đệ.
483. Về mặt luân lý, khi nào được phép sử dụng sức mạnh quân sự ?
2307-2310
Việc sử dụng sức mạnh quân sự chỉ được biện minh về mặt luân lý khi
hội đủ những điều kiện sau đây : chắc chắn về sự thiệt hại phải chịu là trầm
trọng và kéo dài; tất cả các giải pháp hòa bình đều thất bại; những điều kiện
quan trọng để thành công; việc loại bỏ những thiệt hại lớn nhất, sau khi đã cân
nhắc về sức tàn phá của những phương tiện chiến tranh hiện đại.
484. Trong trường hợp có nguy cơ chiến tranh, ai có quyền phán đoán về
những điều kiện đó ?
2309
Quyền này tùy thuộc vào sự phán đoán khôn ngoan của những vị cầm
quyền, những vị này cũng có quyền đề ra cho công dân nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc.
Những ai vì lý do lương tâm không thi hành nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, phải phục
vụ xã hội bằng những hình thức khác.
485. Trong trường hợp chiến tranh, luật luân lý đòi buộc điều gì ?
2312-2314
2328
Ngay cả trong trường hợp chiến tranh, luật luân lý vẫn luôn có hiệu
lực. Luật này đòi buộc phải xử sự cách nhân đạo với những người không chiến
đấu, các chiến binh bị thương và các tù binh. Các hành động cố ý đi ngược với
quyền lợi của các dân tộc và các mệnh lệnh buộc thi hành các hành động đó, đều
là những tội ác mà sự vâng phục tối mặt không đủ để chạy tội. Phải kết án những
sự huỷ diệt hàng loạt, cũng như việc tiêu diệt một dân tộc hay một sắc tộc
thiểu số. Đó là những tội rất nặng nề. Về mặt luân lý, phải chống lại các mệnh
lệnh buộc thi hành các tội ác như thế.
486. Chúng ta phải làm gì để tránh chiến tranh ?
2315-2317
2327-2330
Vì chiến tranh gây ra những sự dữ và bất công, nên chúng ta phải làm
tất cả những gì hợp lý để ngăn chận chiến tranh bằng bất cứ giá nào. Đặc biệt
phải tránh việc tích trử và buôn bán vũ khí không do các chính quyền hợp pháp
qui định; phải tránh những bất công về mặt kinh tế và xã hội; tránh việc
kỳ thị chủng tộc và tôn giáo; phải tránh ganh ghét, thách thức, kiêu căng và
tinh thần báo thù. Tất cả những gì được thực hiện để khắc phục các tệ hại này
và những xáo trộn khác, đều giúp xây dựng hòa bình và đẩy xa chiến tranh.
ĐIỀU RĂN THỨ SÁU
NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC NGOẠI TÌNH
487. Con người có bổn phận gì đối với phái tính của mình ?
2331-2336
2392-2393
Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, có cùng một phẩm giá
nhân bản. Ngài đã khắc ghi ơn gọi yêu thương và hiệp thông nơi mỗi người. Mỗi
người phải chấp nhận phái tính riêng của mình và nhận ra tầm quan trọng của nó
đối với toàn thể con người, tính đặc thù của mỗi phái tính và việc hai phái
tính bổ túc cho nhau.
488. Khiết tịnh là gì ?
2337-2338
Khiết tịnh là sự hoà nhập phái tính trong con người của mình cách
thành công. Tính dục thực sự nhân bản khi được hoà nhập cách đúng đắn trong
liên hệ giữa người và người. Khiết tịnh là một nhân đức luân lý, một ơn huệ của
Thiên Chúa, một ân sủng, một hoa trái của Chúa Thánh Thần.
489. Nhân đức khiết tịnh đòi hỏi những gì ?
2339-2341
Nhân đức khiết tịnh đòi hỏi sự rèn luyện để làm chủ bản thân, như cách
biểu lộ sự tự do nhân bản, hướng đến việc tự hiến bản thân. Để đạt được mục
đích này, cần phải có sự giáo dục đầy đủ và thường xuyên, được thực hiện qua
từng giai đoạn tăng trưởng.
490. Có những phuơng tiện nào giúp chúng ta sống khiết tịnh ?
2340-2347
Có nhiều phuơng tiện như ân sủng Thiên Chúa, sự trợ giúp của các Bí
tích, việc cầu nguyện, sự tự biết mình, việc thực hành khổ chế tùy theo những
hoàn cảnh khác nhau, việc thực hành các nhân đức luân lý, đặc biệt là nhân đức
tiết độ, nhằm để lý trí hướng dẫn các đam mê.
491. Tất cả những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội được mời gọi sống
đức khiết tịnh theo cách nào ?
2348-2350
2394
Các người Kitô hữu luôn nhìn Đức Kitô là khuôn mẫu đời sống khiết
tịnh; họ được mời gọi sống khiết tịnh tuỳ theo bậc sống của mình : những người
sống bậc đồng trinh hay độc thân của đời thánh hiến, là cách sống trổi vượt để
sẵn sàng hiến mình cho Thiên Chúa với trọn tâm hồn; những nguời lập gia đình
được mời gọi sống khiết tịnh theo bậc vợ chồng; những người không lập gia đình
cũng đuợc mời gọi sống khiết tịnh bằng cách tiết dục.
492. Những tội chính phạm đến đức khiết tịnh là những tội nào ?
2351-2359
2396
Những tội nặng phạm đến đức khiết tịnh, tùy theo bản chất của từng đối
tượng, đó là ngoại tình, thủ dâm, tà dâm, khiêu dâm, mại dâm, hiếp dâm, các
hành vi đồng tính luyến ái. Các tội này là biểu hiện của đam mê dâm đãng. Nếu
phạm các tội này với các trẻ vị thành niên, thì sẽ xúc phạm cách nặng nề hơn
vào sự toàn vẹn thể lý và luân lý của các em.
493. Tại sao giới răn thứ sáu “Ngươi không được ngoại tình” lại ngăn
cấm tất cả các tội lỗi nghịch với đức khiết tịnh ?
2336
Dù trong bản văn Thánh Kinh về Mười điều răn, chúng ta chỉ đọc “Ngươi
chớ phạm tội ngoại tình” (Xh 20,14), nhưng Truyền thống Hội thánh vẫn theo sát
các giáo huấn luân lý của Cựu Ước và Tân Ước, luôn xem giới răn thứ sáu như bao
gồm tất cả các tội phạm đến đức khiết tịnh.
494. Đâu là trách nhiệm của chính quyền dân sự đối với đức khiết
tịnh ?
2354
Chính quyền có trách nhiệm cổ võ sự tôn trọng phẩm giá con người, cũng
có trách nhiệm góp phần tạo ra một môi truờng xã hội thuận lợi cho đức khiết
tịnh. Nhờ những luật lệ thích hợp, chính quyền phải ngăn chận việc bành trướng
các trọng tội nghịch đức khiết tịnh đã kể trên, đặc biệt để bảo vệ các trẻ vị
thành niên và những người yếu đuối.
495. Tình yêu hôn nhân, gồm cả tính dục được Thiên Chúa định
hướng vào hôn nhân, có được những điều tốt lành nào ?
2360-2361
2397-2398
Đối với những người đã được rửa tội, những điều tốt lành của tình yêu
hôn nhân, một tình yêu đã được thánh hoá bằng Bí tích Hôn phối, đó là sự duy
nhất, chung thủy, tính bất khả phân ly và sẵn sàng đối với việc truyền sinh.
496. Hành vi vợ chồng có ý nghĩa gì ?
2362-2367
Hành vi vợ chồng có hai ý nghĩa : sự kết hợp (là hành vi hiến thân cho
nhau của đôi vợ chồng), và việc truyền sinh (là hành vi mở ngỏ cho việc sinh
sản con cái). Không ai được phép phá vỡ sự liên kết bất khả phân ly, do Thiên
Chúa thiết lập, giữa hai ý nghĩa đó của hành vi vợ chồng, bằng cách loại bỏ một
trong hai ý nghĩa đó.
497. Khi nào việc điều hòa sinh sản là phù hợp với luân lý ?
2368-2369
2399
Việc điều hòa sinh sản là một trong những phương diện của trách nhiệm
làm cha làm mẹ. Việc làm này phù hợp cách khách quan với luật luân lý, khi được
chính đôi vợ chồng thực hiện, mà không bị một áp lực bên ngoài, cũng không do
ích kỷ, nhưng vì những lý do chính đáng và bằng những phương pháp phù hợp với
những tiêu chuẩn khách quan của luân lý, nghĩa là nhờ việc tiết dục định kỳ và
sử dụng những thời kỳ không thể thụ thai.
498. Đâu là những phương pháp điều hòa sinh sản không phù hợp
với luân lý ?
2370-2372
Những hoạt động sau đây phải coi là không phù hợp với luân lý, đó là
trực tiếp triệt sản hoặc ngừa thai, được thực hiện trước hoặc trong khi giao
hợp, hoặc trong quá trình dẫn đến kết quả tự nhiên của việc giao hợp, nhằm mục
đích hay tạo phương thế để ngăn cản sự truyền sinh.
499. Tại sao thụ tinh và thụ thai nhân tạo không hợp với luân lý
?
2373-2377
Thụ tinh và thụ thai nhân tạo không thể chấp nhận về mặt luân lý, vì
tách rời việc sinh sản với sự giao hợp, trong hành động này đôi vợ chồng trao
hiến cho nhau, và như vậy, đặt kỹ thuật lên trên nguồn gốc và vận mệnh của con
người. Hơn nữa, việc thụ tinh và thụ thai do người khác, tức là có một người
thứ ba can thiệp vào hành vi vợ chồng nhờ qua kỹ thuật; hành động này vi phạm
quyền của đứa bé được sinh ra từ người cha và người mẹ của nó, hai người được
liên kết với nhau bằng hôn nhân và có độc quyền là chỉ nhờ nhau mà cả hai mới
được làm cha, làm mẹ.
500. Người ta phải nhìn em bé như thế nào ?
2378
Em bé là một tặng phẩm của Thiên Chúa, tặng phẩm tuyệt hảo nhất
của hôn nhân. Không có một quyền nào để có những đứa con (theo nghĩa là
được quyền có con với bất cứ giá nào). Trái lại, đứa con có quyền là hoa trái
của hành vi hôn nhân của cha mẹ em, cũng như có quyền được tôn trọng là một
nhân vị ngay từ lúc em được thụ thai.
501. Đôi vợ chồng có thể làm gì nếu họ không có con ?
2379
Nếu không đuợc Thiên Chúa ban tặng con cái, sau khi đã tận dụng mọi
trợ giúp chính đáng của y khoa, đôi vợ chồng có thể sống quảng đại qua việc bảo
trợ hay nhận con nuôi, hay tham gia những công tác phục vụ tha nhân. Như vậy họ
thực hiện một sự sinh sản quý giá về mặt thiêng liêng.
502. Những tội nào phạm đến phẩm giá của hôn nhân ?
2380-2391
2400
Những tội phạm đến phẩm giá của hôn nhân là : ngoại tình, ly dị, đa
thê, loạn luân, tự do sống chung (chung sống không hôn nhân, nhân tình), hành
vi tính dục trước hôn nhân hay ngoài hôn nhân.
ĐIỀU RĂN THỨ BẢY
NGUƠI KHÔNG ĐUỢC TRỘM CẮP
503. Điều răn thứ bảy nói lên điều gì ?
2401-2402
Điều răn này nói lên sự xác định và phân phối của cải cách phổ quát,
nói về quyền tư hữu, việc tôn trọng con người và tài sản của họ, việc tôn trọng
tính toàn vẹn của công trình tạo dựng. Hội thánh nhìn giới răn này là nền tảng
cho giáo huấn xã hội của mình, để xét đến hành động đúng đắn trong lãnh vực
kinh tế, trong đời sống xã hội và chính trị, trong quyền lợi và trách nhiệm lao
động của con người, trong công bằng và tình liên đới giữa các quốc gia, trong
tình thương đối với người nghèo.
504. Đâu là những điều kiện của quyền tư hữu ?
2403
Người ta có quyền tư hữu với điều kiện là tài sản đó đạt được hay nhận
được một cách chính đáng, và việc sử dụng của cải là nhằm thỏa mãn những nhu
cầu căn bản của mọi người.
505. Mục đích của quyền tư hữu là gì ?
2404-2406
Tài sản riêng có mục đích bảo đảm sự tự do và phẩm giá của các cá
nhân, giúp họ thoả mãn những nhu cầu căn bản cho những người mà họ có trách
nhiệm, và cho cả những ai đang sống thiếu thốn.
506. Điều răn thứ bảy quy định những gì ?
2407
2450-2451
Điều răn thứ bảy buộc phải tôn trọng tài sản của người khác, qua việc
thực thi công bằng và bác ái, sống tiết độ và liên đới. Đặc biệt, điều răn này
đòi buộc :
- tôn trọng các lời
hứa và các hợp đồng đã cam kết;
- đền bù những điều
bất công đã gây ra và hoàn trả những gì đã trộm cắp;
- tôn trọng sự toàn
vẹn của công trình sáng tạo, bằng cách sử dụng khôn ngoan và chừng mực những
tài nguyên khoáng chất, thực vật và động vật trong vũ trụ, đặc biệt quan tâm
đến những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.
507. Con nguời phải có thái độ nào đối với các động vật ?
2416-2418
2457
Con nguời phải đối xử tốt đẹp với các động vật vì chúng là những thụ
tạo của Thiên Chúa, tránh cách yêu thương thái quá hoặc sử dụng mù quáng, nhất
là với các thí nghiệm khoa học vượt quá giới hạn hợp lý và gây đau đớn vô ích
cho chúng.
508. Điều răn thứ bảy cấm những điều gì ?
2408-2413
2453-2455
Điều răn thứ bảy cấm :
- trộm cắp, đó là việc
chiếm đoạt tài sản người khác trái với ý muốn hợp lý của họ.
- trả lương không công
bằng,
- lũng đoạn giá trị
của cải để từ đó rút ra lợi nhuận cho mình mà làm thiệt hại cho người khác,
- việc giả mạo các thương
phiếu hay hóa đơn.
- trốn thuế hoặc
buôn bán gian lận, cố ý phá hoại tài sản cá nhân cũng như công cộng,
- đầu cơ, tham nhũng,
lạm dụng tài sản công làm của riêng, cố ý làm sai trái trong lao động, lãng
phí.
509. Nội dung Học thuyết xã hội của Hội thánh là gì ?
2419-2423
Học thuyết xã hội của Hội thánh, là sự khai triển có hệ thống các chân
lý của Tin Mừng về phẩm giá con nguời và chiều kích xã hội của con nguời, đề ra
những nguyên tắc để suy tư, qui định những tiêu chuẩn để phán đoán, và trình
bày những qui luật và định huớng để hành động.
510. Khi nào Hội thánh can thiệp vào lãnh vực xã hội ?
2420
2458
Hội thánh can thiệp khi các quyền căn bản của con nguời, thiện ích
chung hoặc phần rỗi các linh hồn bị vi phạm. Hội thánh can thiệp bằng việc đưa
ra một phán đoán luân lý trong lãnh vực kinh tế và xã hội.
511. Đời sống kinh tế và xã hội phải được thực hiện như thế nào ?
2459
Đời sống kinh tế và xã hội phải được thực hiện theo những phương pháp
riêng của mình, trong vòng trật tự luân lý, để phục vụ con người trong sự toàn
vẹn của họ và phục vụ cho toàn thể cộng đồng nhân loại, trong sự tôn trọng công
bằng xã hội. Đời sống kinh tế và xã hội phải lấy con nguời làm đối tượng, trung
tâm và cùng đích của nó.
512. Điều gì đi nguợc với Học thuyết xã hội của Hội thánh ?
2424-2425
Đi ngược với Học thuyết xã hội của Hội thánh là các hệ thống kinh tế
và xã hội chủ trương hy sinh những quyền lợi căn bản của con người, hay coi lợi
nhuận là quy luật tuyệt đối và mục đích tối hậu của chúng. Do đó, Hội thánh phi
bác các ý thức hệ trong thời đại mới dưới hình thức “chủ nghĩa cộng sản”, hay
dưới những hình thức vô thần và độc tài khác của “chủ nghĩa xã hội”. Ngoài ra,
trong việc thực hành “chủ nghĩa tư bản”, Hội thánh phi bác chủ nghĩa cá nhân và
quan niệm coi luật thị trường có vị trí tuyệt đối trên lao động của con nguời.
513. Lao động có ý nghĩa gì đối với con người ?
2426-2428
2460-2461
Đối với con người, lao động vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi, nhờ đó
con người cộng tác với Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo. Thật vậy, bằng lao động
cách cẩn trọng và tinh thông, con nguời phát huy những khả năng đã được ghi
khắc trong bản tính của mình, biểu lộ những hồng ân của Đấng Sáng Tạo và những
tài năng mà họ đã lãnh nhận; thỏa mãn những nhu cầu của bản thân và những người
thân cận; cũng như phục vụ cộng đồng nhân loại. Ngoài ra, với ân sủng của Thiên
Chúa, lao động có thể là một phương tiện để thánh hóa và cộng tác với Đức Kitô
để cứu độ những người khác.
514. Mọi nguời đều được quyền gì về vấn đề lao động ?
Mọi người đều được quyền có một việc làm ổn định và luơng thiện, không
bị kỳ thị bất công, được quyền tự do chọn lựa về mặt kinh tế và được quyền
hưởng đồng lương công bằng.
515. Nhà Nước có trách nhiệm gì với lao động ?
2431
Nhà Nước có trách nhiệm bảo đảm sự tự do cá nhân và quyền tư hữu, cũng
như giá trị tiền tệ ổn định và những việc phục vụ xã hội có hiệu quả, phải
trông coi và hướng dẫn việc thực thi các quyền con người trong lãnh vực kinh
tế. Thích ứng với hoàn cảnh, xã hội phải trợ giúp các công dân tìm được việc
làm.
516. Những nguời lãnh đạo xí nghiệp có trách nhiệm gì ?
2432
Những người lãnh đạo xí nghiệp phải chịu trách nhiệm về hậu quả kinh
tế và môi sinh do các công việc của họ. Họ phải chú tâm đến thiện ích của con
người chứ không chỉ nhắm làm gia tăng các lợi nhuận, mặc dầu lợi nhuận cũng cần
thiết để bảo đảm các cuộc đầu tư, tương lai của xí nghiệp, việc làm, và sự phát
triển tốt đẹp của đời sống kinh tế.
517. Các công nhân có trách nhiệm gì ?
2435
Họ phải chu toàn các công việc của mình một cách có lương tâm, thành
thạo và nhiệt tình, tìm cách giải quyết các tranh chấp bằng đối thoại. Việc sử
dụng đình công bất bạo động là hợp pháp về mặt luân lý khi đó là một phương
cách cần thiết để đạt được quyền lợi chính đáng, nhưng phải nhắm đến công ích.
518. Làm thế nào thực hiện sự công bằng và tình liên đới giữa
các quốc gia ?
2437-2441
Trên bình diện quốc tế, tất cả các quốc gia và các cơ chế phải hoạt
động trong tình liên đới và nguyên tắc hỗ trợ, nhằm mục đích loại bỏ hay ít là
giảm thiểu sự khốn cùng, sự bất bình đẳng về tài nguyên và các phương tiện kinh
tế, các bất công kinh tế và xã hội, việc bóc lột con người, sự gia tăng mức nợ
của các nước nghèo, những chủ thuyết máy móc bất nhân gây chướng ngại cho sự
phát triển của các quốc gia chậm tiến.
519. Các người Kitô hữu tham gia vào đời sống chính trị và xã
hội như thế nào ?
2442
Các người Kitô hữu giáo dân trực tiếp tham gia vào đời sống chính trị
và xã hội bằng cách làm cho tinh thần Kitô giáo thấm nhập vào các thực tại trần
thế, cộng tác với mọi người, như những chứng nhân đích thực của Tin Mừng và là
những người kiến tạo hòa bình và công lý.
520. Tình yêu đối với người nghèo dựa trên nền tảng nào ?
2443-2449
2462-2463
Tình yêu đối với người nghèo dựa trên nền tảng Tin Mừng của các Mối
phúc và theo gương của Chúa Giêsu, Đấng luôn quan tâm đến người nghèo. Chúa
Giêsu đã nói : “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé mọn
nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tình yêu đối
với kẻ nghèo thể hiện qua việc dấn thân chống lại sự nghèo khổ về vật chất và
rất nhiều hình thức nghèo đói về văn hoá, luân lý và tôn giáo. Các việc bác ái,
tinh thần hay vật chất, và nhiều tổ chức từ thiện đã xuất hiện trải qua bao thế
kỷ, là một chứng từ cụ thể về tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo, là nét đặc
trưng của các môn đệ Chúa Giêsu.
ĐIỀU RĂN THỨ TÁM
NGUƠI KHÔNG ĐUỢC LÀM CHỨNG GIAN
521. Con nguời có bổn phận nào đối với chân lý ?
2464-2470
2504
Mọi người đều được kêu gọi phải thành thật và trung thực trong hành
động cũng như trong lời nói, buộc phải tìm kiếm và gắn bó với chân lý, hướng
cuộc đời mình theo các đòi hỏi của chân lý. Trong Đức Giêsu Kitô, chân lý về
Thiên Chúa được tỏ hiện cách trọn vẹn. Người là Chân Lý. Ai bước theo
Người, phải sống trong Thánh Thần chân lý và tránh xa lối sống hai mặt, dối trá
và giả hình.
522. Người Kitô hữu làm chứng cho chân lý như thế nào ?
2471-2474
2505-2506
Người Kitô hữu phải làm chứng cho chân lý Tin Mừng trong mọi lãnh vực
của hoạt động công khai và riêng tư, dù phải hy sinh mạng sống mình, nếu cần
thiết. Tử đạo là chứng từ cao cả nhất cho chân lý đức tin.
523. Điều răn thứ tám cấm những gì ?
2475-2487
2507-2509
Điều răn thứ tám cấm:
- làm chứng dối, thề thốt và dối trá; mức độ nặng nhẹ
căn cứ trên sự sai lệch của sự thật, trên những hoàn cảnh, trên những ý hướng
của kẻ nói dối và mức độ thiệt hại mà các nạn nhân phải gánh chịu;
- phán đoán hồ đồ, nói xấu, vu khống, bôi nhọ, là những tội làm
giảm hay phá hoại uy tín và danh dự mà mỗi người có quyền hưởng.
- nịnh hót, tâng bốc và xu nịnh, nhất là khi nhằm mục đích phạm
tội trọng hay thủ lợi bất chính.
Tất cả tội phạm nghịch với sự thật buộc phải đền bù lại nếu gây tai
hại cho kẻ khác.
524. Điều răn thứ tám đòi buộc những gì ?
2488-2492
2510-2511
Điều răn thứ tám đòi buộc chúng ta phải tôn trọng sự thật, kèm theo sự
tế nhị của đức ái: trong lãnh vực truyền thông và thông tin, phải
biết đánh giá lợi ích riêng và lợi ích chung, bảo vệ đời sống riêng tư, tránh
gây gương xấu. Phải luôn bảo vệ các bí mật nghề nghiệp, trừ những
trường hợp ngoại lệ, và vì những lý do nghiêm trọng và cân xứng. Cũng phải tôn
trọng những chuyện tâm sự mà chúng ta đã hứa giữ bí mật.
525. Phải sử dụng những phuơng tiện truyền thông xã hội thế nào ?
2493-2499
2512
Thông tin bằng các phương tiện truyền thông phải phục vụ ích lợi
chung; về nội dung, thông tin phải luôn đúng sự thật và trong giới hạn của công
lý và bác ái, phải mang tính chất toàn vẹn. Mặt khác, thông tin phải được diễn
tả cách chân thật và thích hợp, cẩn thận tuân giữ các luật luân lý, các quyền
lợi chính đáng và phẩm giá con nguời.
526. Đâu là tuơng quan giữa chân lý, vẻ đẹp và mỹ thuật thánh ?
2500-2503
2513
Chân lý tự bản chất là đẹp. Chân lý bao gồm sự huy hoàng của vẻ đẹp
tinh thần. Ngoài lời nói, còn có nhiều cách diễn tả chân lý, đặc biệt là các
tác phẩm nghệ thuật. Chúng là hoa trái của một tài năng được Thiên Chúa trao
ban, và cố gắng của con người. Mỹ thuật thánh được xem là chân thật và
đẹp đẽ, phải gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm Thiên Chúa được mạc khải trong Đức
Kitô, phải dẫn đến tình yêu của Thiên Chúa và thờ lạy Ngài là Đấng Sáng Tạo và
Cứu Độ, là Vẻ đẹp tối cao của Chân lý và Tình yêu.
ĐIỀU RĂN THỨ CHÍN
NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC HAM MUỐN VỢ NGƯỜI TA
527. Điều răn thứ chín đòi buộc điều gì ?
2514-2516
2528-2530
Điều răn thứ chín đòi buộc phải chiến thắng đam mê xác thịt trong tư
tưởng cũng như trong ước muốn. Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng phải cần đến
việc thanh luyện tâm hồn và thực hành đức tiết độ.
528. Điều răn thứ chín cấm điều gì ?
2517-2519
2531-2532
Điều răn thứ chín cấm nuôi dưỡng những ý tưởng và ước muốn về những
hành vi bị giới răn thứ sáu cấm đoán.
529. Làm thế nào để đạt tới sự thanh sạch của tâm hồn ?
2520
Với ơn Chúa, trong cuộc chiến đấu chống lại các ước muốn sai trái,
người tín hữu đạt được sự thanh sạch của tâm hồn nhờ nhân đức và hồng ân khiết
tịnh, nhờ sự trong sáng nơi ý hướng, nơi cái nhìn bên ngoài và bên trong, nhờ
chế ngự các giác quan và trí tưởng tượng, và nhờ cầu nguyện.
530. Sự thanh sạch còn có những đòi buộc nào khác nữa không ?
2521-2527
2533
Sự thanh sạch đòi hỏi phải có nết na; gìn giữ những gì thầm kín
của con nguời, diễn tả sự tế nhị của đức khiết tịnh, kiểm soát cái nhìn và cử
chỉ cho phù hợp với phẩm giá của con người và những giao tế của họ. Sự thanh
sạch đòi buộc phải ngăn chặn thói khiêu dâm đang lan tràn và tránh xa những gì
đưa đến sự tò mò không lành mạnh. Điều này còn đòi buộc phải thanh tẩy môi
trường xã hội, bằng cuộc chiến đấu chống lại sự suy thoái phong hóa dựa
trên một quan niệm sai lạc về tự do của con nguời.
ĐIỀU RĂN THỨ MƯỜI
NGƯƠI KHÔNG ĐUỢC HAM MUỐN TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI TA
531. Điều răn thứ mười đòi buộc điều gì và cấm điều gì ?
2534-2540
2551-2554
Điều răn này bổ túc cho điều răn truớc, buộc phải có thái độ tôn trọng
tài sản của kẻ khác. Điều răn này cấm : tham lam và ham muốn bất chính
tài sản của người khác; cấm ganh tị, nghĩa là cảm thấy buồn phiền khi
thấy nguời khác có tài sản, và ước ao vô độ muốn chiếm đoạt tài sản đó.
532. Chúa Giêsu đòi buộc điều gì khi dạy tinh thần nghèo khó ?
2544-2547
2556
Chúa Giêsu đòi buộc các môn đệ yêu mến Nguời trên hết mọi sự và mọi
nguời. Việc từ bỏ sự giàu sang trong tinh thần khó nghèo theo Tin Mừng và phó
thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng giải thoát chúng ta khỏi những âu
lo của ngày mai, sẽ chuẩn bị cho chúng ta hưởng mối phúc của “những người nghèo
khó trong tinh thần, vì Nước Trời đã thuộc về họ” (Mt 5, 3).
533. Khao khát lớn nhất của con người là gì ?
2548-2550
2557
Khao khát lớn nhất của con người là được nhìn thấy Thiên Chúa. Tiếng
kêu khát vọng của con người là : “Tôi muốn nhìn thấy Thiên Chúa.” Thật vậy, con
người chỉ có thể tìm được hạnh phúc đích thực và trọn vẹn của mình trong sự
hưởng kiến và hạnh phúc nơi Đấng đã dựng nên họ vì tình yêu và cũng là Đấng lôi
kéo họ về với Ngài trong tình yêu vô tận.
“Ai thấy Thiên Chúa thì đã đạt được mọi
phúc lộc mà nguời ta có thể nghĩ tuởng ra đuợc” (thánh Grêgôriô thành Nysse).
PHẦN THỨ TƯ
KINH NGUYỆN KITÔ GIÁO
Ảnh thánh lấy lại trình thuật Thánh Kinh về ngày Hiện Xuống : “Khi đến
ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một
tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi
họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng
người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ
tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Trong ảnh thánh, từ chim bồ câu, tượng trưng Chúa Thánh Thần, chúng ta
thấy một cột trụ ánh sáng dày đặc đổ xuống, phủ trên Đức Maria và các Tông đồ.
Đó là ánh sáng chiếu soi tâm trí các Tông đồ khi trao ban cho họ các hồng ân
kiến thức, khôn ngoan, thông suốt các thực tại thiêng liêng, nhưng cũng có
những hồng ân đạo đức, sức mạnh, an ủi và kính sợ Thiên Chúa.
Ngoài ra, trên đầu họ có những lưỡi lửa, như muốn nói lên tình yêu
tràn đầy của Thiên Chúa thúc đấy họ trở thành những người rao giảng Tin Mừng
cho muôn dân. Thật vậy, nhờ được tràn đầy ân sủng, mọi người có thể hiểu được
các Tông đồ; tiếng nói của tình yêu mang tính phổ quát và có thể đến với mọi
người. Để chữa trị việc chia rẽ ngôn ngữ giữa các dân tộc, lễ Hiện Xuống đã
đưa ra phương thuốc giúp các dân tộc hợp nhất với nhau.
Giữa bức tranh, Đức Maria ngự trị như người Mẹ của Hội thánh, Nữ hoàng
của các Tông đồ và của những ai cầu nguyện trọn hảo. Chính trong tình yêu của
Chúa Thánh Thần, các tín hữu có thể dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện
đầy tình hiếu thảo, như lời của Thánh Tông đồ : “Để chứng thực anh em là con
cái, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu
lên : “Ábba, Cha ơi !” (Gl 4,6).
Tranh thánh của người Copte về ngày Lễ Hiện Xuống.
ĐOẠN THỨ NHẤT
KINH NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG
KITÔ HỮU
Mọi thời gian đều thuận tiện để cầu nguyện. Dù vậy, Hội
thánh đề nghị các tín hữu nên dành thời gian cho việc cầu nguyện liên tục :
Kinh sáng và kinh tối; kinh nguyện trước và sau khi dùng cơm, Phụng vụ các giờ
kinh, cử hành Thánh lễ ngày Chúa nhật, chuỗi Mân côi, các lễ trong năm Phụng
vụ.
Tranh thánh cho thấy một vài lễ chính thức trong năm Phụng vụ, đánh
dấu kinh nguyện của Hội thánh. Ở trung tâm trình bày mầu nhiệm Vượt qua : cuộc
Phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu. Từ đại lễ này là chóp đỉnh của cầu
nguyện Phụng vụ, các ngày lễ khác kính Chúa và Mẹ Maria rút được ý nghĩa
và hiệu quả cứu độ của mình.
Tranh thánh của Phụng vụ Byzantine về các ngày lễ chính của Phụng vụ.
534. Cầu nguyện là gì ?
2558-2565
2590
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là dâng lời cầu lên
Thiên Chúa để xin những ơn lành phù hợp với thánh ý của Ngài. Cầu nguyện luôn
là một hồng ân của Thiên Chúa, Đấng đến gặp gỡ con người. Cầu nguyện theo Kitô
giáo là một liên hệ cá nhân và sống động của con cái với Cha là Thiên Chúa vô
cùng nhân lành, với Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô và với Chúa Thánh Thần, Đấng
ngự trong tâm hồn họ.
CHƯƠNG MỘT
MẠC KHẢI VỀ CẦU NGUYỆN
535. Tại sao mọi người đều được mời gọi cầu nguyện ?
2566-2567
Chỉ vì Thiên Chúa đã sáng tạo mọi sự từ hư không và vì con người, sau
khi phạm tội, vẫn còn khả năng nhận biết Đấng Sáng Tạo của mình, nên vẫn khao
khát hướng về Đấng đã tạo dưng nên mình. Mọi tôn giáo, và đặc biệt trong toàn
bộ lịch sử cứu độ, làm chứng cho sự khao khát Thiên Chúa nơi con người. Nhưng
chính Thiên Chúa đã đi bước trước, không ngừng lôi kéo mỗi người đến gặp gỡ
Ngài cách huyền nhiệm trong việc cầu nguyện.
MẠC KHẢI VỀ CẦU NGUYỆN TRONG CỰU ƯỚC
536. Ông Ábraham là mẫu gương về cầu nguyện như thế nào ?
2570-2573
2592
Ông Ábraham là mẫu gương về cầu nguyện bởi vì ông bước đi trước nhan
Thiên Chúa, Đấng ông lắng nghe và vâng phục. Lời cầu nguyện của ông là một cuộc
chiến đấu của đức tin, vì ngay khi bị thử thách, ông vẫn xác tín vào sự trung
thành của Thiên Chúa. Ngoài ra, sau khi đón tiếp Chúa trong lều của mình và
được Ngài cho biết các kế hoạch, ông cả dám chuyển cầu cho các kẻ tội lỗi với
một lòng tin tưởng táo bạo.
537. Ông Môsê đã cầu nguyện thế nào ?
2574-2577
2593
Lời cầu nguyện của ông Môsê tiêu biểu cho lời cầu nguyện chiêm niệm.
Thiên Chúa, Đấng đã gọi ông từ Bụi Gai bốc cháy, thường xuyên tiếp xúc lâu giờ
với ông, “mặt giáp mặt như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11). Trong tình thân
mật với Thiên Chúa, ông Môsê rút được sức mạnh để kiên trì chuyển cầu cho dân
mình : như vậy, lời cầu nguyện của ông tượng trưng cho lời chuyển cầu của Đấng
Trung Gian duy nhất là Đức Giêsu Kitôâ.
538. Trong Cựu Ước, nhà vua và đền thờ có liên quan gì đến cầu
nguyện ?
2578-2580
2594
Kinh nguyện của Dân Thiên Chúa được phát triển dưới bóng Nhà Chúa –
bên Hòm bia Giao ước, rồi nơi Đền thờ – nhờ sự hướng dẫn của các vị Mục tử.
Trong số đó, có Đavít, là vị vua “được đẹp lòng Thiên Chúa”, là người mục tử
cầu nguyện cho dân của mình. Lời cầu nguyện của ông là mẫu mực cho kinh nguyện
của dân, vì lời này luôn gắn bó với lời hứa của Thiên Chúa, được dâng lên với
lòng tin tưởng yêu kính đối với Đấng là Vua và là Chúa duy nhất.
539. Cầu nguyện có vai trò gì trong sứ vụ của các tiên tri ?
2581-2584
Nhờ cầu nguyện, các tiên tri tìm được ánh sáng và sức mạnh để thúc đẩy
dân chúng tin tưởng và hoán cải tâm hồn. Các ngài sống trong sự thân mật sâu xa
với Thiên Chúa và chuyển cầu cho anh em của mình, là những người được các ngài
loan báo điều họ đã thấy và đã nghe từ nơi Thiên Chúa. Ông Êlia là tổ phụ các
tiên tri, nghĩa là những người tìm kiếm Tôn nhan Thiên Chúa. Trên đỉnh Carmel,
ông đã giúp cho dân chúng quay về với đức tin, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa,
Đấng ông cầu khẩn : “Xin đáp lời con, lạy Chúa, xin đáp lời con” (1 V 18,37).
540. Các Thánh Vịnh có tầm quan trọng thế nào trong kinh nguyện ?
2579
2585-2589
2596-2597
Các Thánh Vịnh là tột đỉnh của kinh nguyện Cựu Ước : Lời Thiên Chúa đã
trở thành lời cầu nguyện của con người. Vừa mang tính cá nhân, vừa mang có tính
cộng đoàn, các Thánh Vịnh được Thánh Thần linh ứng, ca ngợi những kỳ công của
Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch sử cứu độ. Đức Kitô đã cầu
nguyện bằng các Thánh Vịnh và đã đưa chúng đến mức toàn hảo. Vì thế, các Thánh
Vịnh là một yếu tố chính yếu và thường xuyên trong kinh nguyện của Hội thánh;
chúng thích hợp cho con người trong mọi hoàn cảnh và qua mọi thời gian.
TRONG CHÚA GIÊSU,
VIỆC CẦU NGUYỆN ĐÃ ĐƯỢC MẠC KHẢI VÀ THỰC HIỆN CÁCH TRỌN
VẸN
541. Chúa Giêsu đã học cầu nguyện với ai ?
2599
2620
Trong nhân loại, Chúa Giêsu đã học cầu nguyện từ Mẹ Người và từ truyền
thống Do Thái. Nhưng lời cầu nguyện của Người còn phát xuất từ một nguồn mạch
sâu thẳm hơn nữa, vì Người là Con vĩnh cửu của Thiên Chúa. Trong nhân tính
thánh thiện, Chúa Giêsu dâng lên Cha của Người lời kinh tuyệt vời trong tình
con thảo.
542. Chúa Giêsu cầu nguyện khi nào ?
2600-2604
2620
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu thường xuyên cầu nguyện. Người thường lui
vào nơi hoang vắng, kể cả lúc ban đêm. Người cầu nguyện trước những thời điểm
quyết định cho sứ vụ của mình hay của các tông đồ. Thực ra, cả cuộc đời của
Người là cầu nguyện, vì Người luôn sống trong sự hiệp thông tình yêu với Cha
của mình.
543. Chúa Giêsu cầu nguyện như thế nào trong suốt cuộc khổ nạn ?
2605-2606
2620
Trong cơn hấp hối nơi vườn Ghếtsêmani, cũng như qua các lời cuối cùng
trên Thánh giá, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mạc khải chiều sâu thẳm của lời
cầu nguyện trong tình con thảo của Người. Chúa Giêsu chu toàn ý định yêu thương
của Chúa Cha và mang lấy trên mình Người tất cả âu lo của nhân loại, tất cả mọi
lời van xin và chuyển cầu của lịch sử cứu độ. Người dâng lên Chúa Cha,
Đấng đón nhận những lời cầu nguyện ấy và đáp lại một cách vượt quá sự chờ mong,
bằng cách làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại.
544. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như thế nào ?
2608-2614
2621
Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện không những với lời kinh Lạy Cha,
nhưng còn dạy chúng ta cầu nguyện ngay cả lúc Người cầu nguyện. Với cách thức
này, Người cho chúng ta thấy, bên cạnh nội dung của lời cầu nguyện, còn có
những thái độ cần thiết cho việc cầu nguyện đích thực : tâm hồn thanh sạch đang
tìm kiếm Nước Trời và sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù của mình; sự tin tưởng mạnh
mẽ, đầy tình con thảo, vượt quá những gì chúng ta có thể cảm nghiệm và thấu
hiểu; sự tỉnh thức giúp người môn đệ tránh được cơn cám dỗ.
545. Tại sao lời cầu nguyện của chúng ta mang lại hiệu quả ?
2615-2616
Lời cầu nguyện của chúng ta mang lại hiệu quả, vì được kết hợp với lời
cầu nguyện của Chúa Giêsu trong đức tin. Trong Người, lời cầu nguyện Kitô giáo
trở thành sự hiệp thông tình yêu với Chúa Cha. Lúc đó, chúng ta có thể dâng
những lời cầu xin lên Thiên Chúa và sẽ được nhậm lời : “Anh em hãy xin, anh em
sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16,24).
546. Đức Trinh Nữ Maria đã cầu nguyện thế nào ?
2617; 2618
2622; 2674
2679
Kinh nguyện của Đức Maria phát xuất từ niềm tin và việc quảng đại hiến
dâng cuộc đời cho Thiên Chúa. Mẹ của Chúa Giêsu cũng là bà Eva Mới, là “Mẹ của
chúng sinh”. Mẹ đã cầu xin Chúa Giêsu, Con của Mẹ, cho những nhu cầu của loài
người.
547. Trong Tin Mừng, có lời cầu nguyện nào của Đức Maria
không ?
2619
Ngoài lời chuyển cầu của Đức Maria tại Cana miền Galilê, Tin Mừng còn
ghi lại kinh Magnificat (Lc 1,46-55), là lời ca tụng của Mẹ Thiên Chúa
và Mẹ Hội thánh, là lời tạ ơn trong hân hoan xuất phát từ tâm hồn của những
người nghèo khó, vì niềm hy vọng của họ sẽ trở thành hiện thực khi Thiên Chúa
thực hiện các lời hứa của Ngài.
KINH NGUYỆN TRONG THỜI HỘI THÁNH
548. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi tại Giêrusalem đã cầu nguyện
như thế nào ?
2623-2624
Khởi đầu sách Công Vụ Tông Đồ có ghi lại, trong cộng đoàn tiên
khởi tại Giêrusalem được Thánh Thần dạy cho biết cầu nguyện, “các tín hữu
chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng
tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42).
549. Chúa Thánh Thần can thiệp như thế nào trong kinh nguyện của
Hội thánh ?
2623; 2625
Chúa Thánh Thần, bậc thầy nội tâm của kinh nguyện Kitô giáo, dạy Hội
thánh đời sống cầu nguyện; Ngài hướng dẫn Hội thánh luôn đi sâu vào việc chiêm
ngắm và kết hợp với mầu nhiệm khôn lường của Đức Kitô. Các hình thức cầu
nguyện, như được trình bày trong các tác phẩm thời các Tông đồ và Tân Ước, vẫn
luôn là mẫu mực cho kinh nguyện Kitô giáo.
550. Các hình thức chính yếu của kinh nguyện Kitô giáo là gì ?
2643-2644
Đó là chúc tụng và thờ lạy, xin ơn và chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi.
Thánh lễ chứa đựng và diễn tả tất cả các hình thức cầu nguyện này.
551. Lời kinh chúc tụng là gì ?
2626-2627
2645
Lời kinh chúc tụng là lời con người đáp lại các hồng ân của Thiên
Chúa. Chúng ta chúc tụng Đấng Toàn Năng, Đấng đã chúc lành cho chúng ta trước
và ban tràn đầy hồng ân của Ngài cho chúng ta.
552. Việc thờ lạy là gì ?
2628
Việc thờ lạy là sự phủ phục của con người, tự nhận mình là thụ tạo
trước Đấng Sáng Tạo muôn trùng chí thánh của mình.
553. Những hình thức khác nhau của lời kinh xin ơn là gì ?
2629-2633
2646
Đây có thể là một lời xin ơn tha thứ hay còn là một lời khiêm tốn và
tin tưởng xin ơn cho tất cả mọi nhu cầu tinh thần lẫn vật chất của chúng ta.
Nhưng điều trước hết phải nài xin, là cầu cho Nước Thiên Chúa mau đến.
554. Lời kinh chuyển cầu là gì ?
2634-2636
2647
Kinh chuyển cầu là lời cầu nguyện xin ơn cho một người khác. Lời kinh
này giúp chúng ta nên giống Chúa Giêsu, kết hợp chúng ta với kinh nguyện của
Người, Đấng chuyển cầu lên Thiên Chúa cho tất cả mọi người, đặc biệt cho những
người tội lỗi. Lời kinh chuyển cầu cần phải mở rộng đến cả kẻ thù của chúng ta.
555. Khi nào chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời kinh tạ ơn ?
2637-2638
2648
Hội thánh không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, nhất là khi cử hành Thánh lễ,
trong đó Đức Kitô cho Hội thánh tham dự vào hành động tạ ơn của Người dâng lên
Thiên Chúa Cha. Đối với người Kitô hữu, mọi biến cố trong đời sống đều trở
thành chất liệu để tạ ơn.
556. Lời kinh ca ngợi là gì ?
2639-2643
2649
Lời kinh ca ngợi là kinh nguyện công nhận Thiên Chúa là Chúa một cách
trực tiếp. Lời kinh này hoàn toàn vô vị lợi : ca ngợi Thiên Chúa vì chính Ngài,
và tôn vinh Ngài vì Ngài hiện hữu.
CHƯƠNG HAI
TRUYỀN THỐNG CẦU NGUYỆN
557. Truyền thống có tầm quan trọng nào đối với việc cầu nguyện ?
2650-2651
Trong Hội thánh, qua Thánh truyền sống động, Chúa Thánh Thần dạy cho
con cái Thiên Chúa biết cầu nguyện. Thật vậy, kinh nguyện không hạn hẹp vào một
sự bộc phát nội tâm, nhưng bao gồm cả việc chiêm niệm, học hỏi và tiến sâu vào
những thực tại thiêng liêng mà con người có thể cảm nghiệm được.
NHỮNG NGUỒN MẠCH CỦA KINH NGUYỆN
558. Kinh nguyện Kitô giáo có những nguồn mạch nào ?
2652-2662
Đó là :
- Lời Chúa trao
ban cho chúng ta “khoa học siêu việt” về Đức Kitô (Pl 3, 8);
- Phụng vụ của Hội
thánh loan báo, hiện tại hoá và thông truyền mầu nhiệm cứu độ;
- Các Nhân đức đối
thần ;
- Những hoàn cảnh
thường ngày, trong đó chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, con yêu mến Ngài, và
ân sủng duy nhất mà con cầu xin là cho con được yêu mến Ngài mãi mãi […] Lạy
Thiên Chúa của con, nếu miệng lưỡi con không thể lúc nào cũng lập lại rằng con
yêu mến Ngài, con muốn rằng tim con luôn lặp lại lời đó với Chúa theo từng nhịp
thở của con” (thánh Gioan Maria Vianney).
CON ĐƯỜNG CẦU NGUYỆN
559. Hội thánh có nhiều con đường cầu nguyện không ?
2663
Hội thánh có nhiều con đường cầu nguyện khác nhau, tùy theo môi trường
lịch sử, xã hội và văn hóa. Chỉ Huấn quyền mới có quyền nhận định những con
đường này có trung thành với đức tin tông truyền hay không; các vị mục tử và
giáo lý viên có trách nhiệm giải thích ý nghĩa của các con đường này;
ý nghĩa đó phải luôn gắn bó với Đức Giêsu Kitô.
560. Con đường cầu nguyện của chúng ta là con đường nào ?
2664
2680-2681
Con đường cầu nguyện của chúng ta là chính Đức Kitô. Lời cầu nguyện
chúng ta dâng lên Thiên Chúa, Cha chúng ta, nhưng chỉ lên tới Ngài khi chúng ta
cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu, ít nhất là cách mặc nhiên. Nhân tính của Chúa
Giêsu là con đường duy nhất, qua đó Chúa Thánh Thần dạy chúng ta cầu nguyện lên
Cha của chúng ta. Vì thế các lời kinh Phụng vụ đều kết thúc bằng công thức :
“Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”.
561. Chúa Thánh Thần có vai trò gì trong việc cầu nguyện của
chúng ta ?
2670-2672
2680-2681
Chúa Thánh Thần là bậc Thầy nội tâm của kinh nguyện Kitô giáo và
“chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26), nên Hội thánh
khuyến khích chúng ta kêu cầu và van nài trong mọi hoàn cảnh : “Lạy Chúa Thánh
Thần, xin ngự đến!”
562. Kinh nguyện Kitô giáo dâng lên Đức Maria nhằm ý hướng gì ?
2673-2679
2682
Vì sự cộng tác độc đáo của Đức Maria vào hoạt động của Chúa Thánh
Thần, nên Hội thánh yêu thích kêu cầu Mẹ và cùng cầu nguyện với Mẹ, vì Mẹ là
người cầu nguyện tuyệt hảo, nhờ đó cùng với Mẹ chúng ta tôn vinh và kêu cầu Chúa.
Thật vậy, Đức Maria chỉ “đường” cho chúng ta, con đường ấy chính là Con của Mẹ,
Đấng Trung Gian duy nhất.
563. Hội thánh cầu nguyện với Đức Maria như thế nào ?
2676-2678
2682
Hội thánh cầu nguyện với Đức Maria trước tiên là bằng kinh Kính
Mừng Maria, nhờ lời kinh đó Hội thánh van xin sự chuyển cầu của Đức Trinh
Nữ. Còn nhiều kinh khác để dâng lên Đức Maria, trong đó có chuỗi Mân Côi,
các kinh cầu Đức Bà cũng như các thánh thi và thánh ca theo nhiều truyền
thống Kitô giáo khác nhau.
CÁC LINH ĐẠO CẦU NGUYỆN
564. Các thánh là những người dẫn đường cầu nguyện như thế nào ?
2683-2684
2692-2693
Các thánh là những mẫu gương cho chúng ta về cầu nguyện và chúng ta
cũng van xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta và cho toàn thế giới nơi Thiên
Chúa Ba Ngôi. Lời chuyển cầu của các ngài là việc các ngài phục vụ một cách cao
cả nhất cho kế hoạch của Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm các thánh thông công, đã
có nhiều đường hướng linh đạo phát sinh suốt dòng lịch sử Hội thánh, để
dạy chúng ta cách sống và thực hành việc cầu nguyện.
565. Ai có thể dạy chúng ta cầu nguyện ?
2685-2690
2694-2695
Gia đình Kitô hữu là nơi đầu tiên để dạy cầu nguyện. Hội thánh đặc
biệt khuyến khích các gia đình nên cầu nguyện hằng ngày, vì đó là chứng từ đầu
tiên của đời sống cầu nguyện của Hội thánh. Việc huấn giáo, những nhóm cầu
nguyện, việc linh hướng tạo thành một trường học và một sự nâng đỡ cho việc cầu
nguyện.
566. Những nơi nào thuận tiện cho việc cầu nguyện ?
2691
2696
Chúng ta có thể cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, nhưng việc chọn một nơi
thích hợp sẽ giúp ích hơn cho việc cầu nguyện. Nhà thờ là nơi dành riêng cho
kinh nguyện Phụng vụ và việc tôn thờ Thánh Thể. Những nơi khác cũng có thể giúp
chúng ta cầu nguyện, chẳng hạn “một góc cầu nguyện” trong gia đình, một tu
viện, một đền thánh.
CHƯƠNG BA
ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN
567. Thời gian nào thích hợp nhất cho việc cầu nguyện ?
2697-2698
2720
Mọi thời điểm đều thích hợp cho việc cầu nguyện. Nhưng Hội thánh đề
nghị cho các tín hữu những chu kỳ cố định để nuôi đưỡng việc cầu nguyện liên
tục : kinh sáng và kinh chiều, trước và sau khi dùng cơm, Các Giờ kinh Phụng
vụ, Thánh lễ ngày Chúa nhật, kinh Mân Côi, các lễ mừng
trong năm Phụng vụ.
“Chúng ta phải nhớ đến Chúa, thường hơn là
chúng ta hít thở” (thánh
Grêgôriô thành Nazianze)
568. Có mấy hình thức diễn tả đời sống cầu nguyện ?
2697-2699
Truyền thống Kitô giáo đã lưu giữ ba hình thức chính để diễn tả và
sống việc cầu nguyện : khẩu nguyện, suy niệm và cầu nguyện chiêm niệm.
Đặc điểm chung của cả ba hình thức này là tập trung tâm trí.
NHỮNG HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN
569. Khẩu nguyện có đặc tính gì ?
2700-2704
2722
Khẩu nguyện liên kết thân xác chúng ta với lời cầu nguyện nội tâm.
Ngay cả lời cầu nguyện thầm kín nhất cũng phải cần đến khẩu nguyện. Trong mọi
trường hợp, khẩu nguyện phải luôn xuất phát từ đức tin của bản thân người cầu
nguyện. Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta một công thức tuyệt hảo của khẩu nguyện,
đó là kinh Lạy Cha.
570. Suy niệm là gì ?
2705-2708
2723
Suy niệm là suy tư trong cầu nguyện. Việc suy tư này phải bắt đầu từ
Lời Chúa trong Thánh Kinh. Suy niệm vận dụng lý trí, trí tưởng tượng, tình cảm,
ước muốn, để đào sâu đức tin, hoán cải tâm hồn và củng cố ý chí muốn bước theo
Đức Kitô. Đây là bước khởi đầu tiến đến việc kết hợp với Chúa trong tình yêu.
571. Cầu nguyện chiêm niệm là gì ?
2709-2719
2724
2739-2741
Chiêm niệm là đơn sơ chiêm ngắm Thiên Chúa, trong thinh lặng và trong
tình yêu. Đó là một hồng ân của Thiên Chúa, một khoảnh khắc của đức tin thuần
túy trong đó người cầu nguyện tìm kiếm Đức Kitô, phó thác mình cho ý định yêu
thương của Chúa Cha và đặt mình dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thánh Têrêsa
Avila định nghĩa chiêm niệm như “một cuộc trao đổi thân tình giữa bạn
hữu, một mình bên Đấng mà chúng ta biết là Ngài yêu thương ta.”
CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA CẦU NGUYỆN
572. Tại sao cầu nguyện lại là một cuộc chiến đấu ?
2725
Cầu nguyện là một quà tặng của ân sủng, nhưng trước đó phải có một lời
đáp trả dứt khoát từ phía chúng ta. Ai cầu nguyện cũng “phải chiến đấu” chống
lại chính bản thân mình, chống lại những gì chung quanh và nhất là chống lại
tên cám dỗ, là kẻ làm tất cả để ngăn chận việc cầu nguyện. Cuộc chiến đấu trong
cầu nguyện phải gắn liền với sự tấn tới trong đời sống thiêng liêng. Chúng ta
cầu nguyện như chúng ta sống, bởi vì chúng ta sống như chúng ta cầu nguyện.
573. Có những chướng ngại nào cản trở việc cầu nguyện không ?
2726-2728
2752-2753
Có nhiều quan niệm sai lệch về cầu nguyện. Nhiều người cho rằng họ
không có thời giờ để cầu nguyện hay cầu nguyện là vô ích. Người cầu nguyện có
thể nản lòng trước những khó khăn và những điều xem ra thất bại. Để thắng vượt
những chướng ngại này, chúng ta cần sự khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì.
574. Đâu là những khó khăn trong việc cầu nguyện ?
2729-2733
2754-2755
Lo ra (chia trí) là
khó khăn thường xuyên của việc cầu nguyện. Lo ra tách sự chú ý của chúng ta ra
khỏi Thiên Chúa, và cũng có thể cho thấy chúng ta đang quyến luyến điều gì. Lúc
đó tâm hồn chúng ta phải khiêm tốn quay về với Chúa. Lời cầu nguyện còn thường
bị sự khô khan tấn công. Ai muốn chiến thắng sự khô khan, phải gắn bó
với Thiên Chúa bằng đức tin, cho dù không cảm thấy một sự an ủi nào. Sự
nguội lạnh là một hình thức lười biếng về mặt thiêng liêng do lơ là việc
tỉnh thức và do sự chểnh mảng của tâm hồn.
575. Làm thế nào để củng cố lòng tin tưởng hiếu thảo của chúng ta ?
2734-2741
2756
Lòng tin tưởng của người con hiếu thảo bị thử thách khi nghĩ rằng
chúng ta không được Thiên Chúa nhậm lời. Lúc đó, phải tự vấn xem, đối với chúng
ta, Thiên Chúa thực sự là một người Cha mà chúng ta đang cố gắng thực thi ý
Ngài, hay Ngài chỉ là phương tiện để chúng ta đạt được điều mong muốn. Nếu kết
hợp lời cầu nguyện của chúng ta với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, chúng ta
biết rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta còn nhiều ơn hơn chúng ta cầu xin : đó là
chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng thay đổi tâm hồn chúng ta.
576. Có thể cầu nguyện trong mọi lúc hay không ?
2742-2745
2757
Chúng ta có thể cầu nguyện luôn luôn, vì thời gian của người Kitô hữu
là thời gian của Đức Kitô phục sinh, Đấng “ở với chúng ta mọi ngày” (Mt 28,20).
Cầu nguyện không thể tách rời khỏi đời sống của người Kitô hữu.
“Bạn có thể cầu nguyện thường xuyên và sốt
sắng, khi ở ngoài chợ hay khi đi dạo một mình, khi đang ngồi ở cửa hàng
hay khi đang mua bán, và ngay cả khi làm bếp” (thánh Gioan Kim Khẩu).
577. Kinh nguyện của Chúa Giêsu trong Giờ của Người là gì ?
2604
2746-2751
2758
Người ta gọi kinh nguyện này là “lời nguyện tư tế” của Chúa Giêsu
trong bữa tiệc cuối cùng. Chúa Giêsu, vị Thượng tế của Giao ước mới, dâng lời
cầu nguyện này lên Cha của Người khi Giờ của “cuộc vượt qua” , Giờ Hy
tế của Người, đã đến.
ĐOẠN THỨ HAI
LỜI KINH CHÚA DẠY: KINH LẠY
CHA
KINH LẠY CHA
Lạy Cha chúng con ở trên trời;
Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng;
Nước Cha trị đến,
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
Xin Cha cho chúng con,
hôm nay lương thực hằng ngày;
Và tha nợ chúng con,
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ;
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự Dữ.
PATER NOSTER
Pater noster qui es in caelis :
sanctificetur Nomen Tuum;
adveniat Regnum Tuum;
fiat voluntas Tua,
sicut in caelo, et in terra.
Panem nostrum quotidianum da nobis hodie;
et dimitte nobis debita nostra,
sicut et nos dimittimus debitoribus nostris;
et ne nos inducas in tentationem;
sed libera nos a Malo
“Có một lần Chúa Giêsu cầu nguyện nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong,
có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con
cầu nguyện !” (Lc 11,1). Chúa Giêsu nhận lời cầu xin này và dạy Kinh Lạy Cha.
Các môn đệ là những người đã có kinh nghiệm với việc cầu nguyện theo
Do Thái giáo vào thời đó, rất xúc động vì tính cách đặc biệt của việc cầu
nguyện của Thầy mình. Thật vậy, Chúa Giêsu luôn sống với lời cầu nguyện (x. Lc
5,16). Những thời điểm quan trọng nhất trong cuộc đời của Người đều đi kèm với
lời cầu nguyện : Chúa Giêsu cầu nguyện khi lãnh nhận nghi thức thanh tẩy ở sông
Giordan (Lc 3,21); trước khi kêu gọi các tông đồ (Lc 6,12); trước khi hiển dung
(Lc 9,28). Người cầu nguyện cho đức tin của ông Phêrô (Lc 22,31-32) và cho việc
Thánh Thần đến (Ga 14,15-17). Người cầu nguyện trước khi cho Lazarô sống lại
(Ga 11,41) và khi Người tiến bước vào thành Giêrusalem thật long trọng (Ga
12,27). Trong bữa Tiệc ly, Người cầu nguyện với Chúa Cha cho việc tôn vinh
Người (Ga 17,1-5), cho các môn đệ (Ga 17,6-19) và cho tất cả những kẻ tin
Người (Ga 17,20-26). Người cầu nguyện trước cuộc khổ nạn (Lc 22,39-46) và ngay
lúc hấp hối, Người cầu nguyện cho các kẻ thù của mình (Lc 23,34).
Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trong một cuộc đối thoại vâng phục,
đem lại cho sứ vụ của Người đầy sức sống : “Lương thực của Thầy là thi hành ý
muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Chính sự
hiệp thông thân tình với Chúa Cha là nguồn vui và là nguồn ca tụng : “Lạy Cha
là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha […] Cha Tôi đã giao phó mọi sự cho
Tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ
Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,25.27).
Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Cha là hơi thở của đời sống trần thế của
Người. Cho dù hoàn toàn ở giữa chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ ở xa Nhà của
Chúa Cha, có nghĩa là luôn hiệp thông với Cha trong kinh nguyện. Mặt khác,
chính sự thân mật hiếu thảo này trở thành sự gần gũi mang lại ơn cứu độ và nhân
từ đối với anh em của mình, cho đến hy tế cao vời trên thập giá.
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trong ngày hôm
nay (x. Dt 7,25). Trong Phụng vụ Thánh lễ, Đức Kitô, vị Thượng Tế, dâng lên Cha
hy tế cứu độ của Người. Người dâng lên trong sự hiệp thông với Thân Thể của
Người là Hội thánh. Mỗi lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Thiên Chúa Cha
“nhờ Đức Kitô Chúa chúng con”. Chính lời cầu nguyện của Đức Kitô nâng đỡ tất cả
lời cầu nguyện của chúng ta, những khẩu nguyện cũng như tâm nguyện. Khi Hội
thánh cầu nguyện, thì chính lúc Chúa Con ôm hôn đầu gối của Chúa Cha. Lời cầu
nguyện của con cái hướng lên Cha ngang qua tiếng nói của Vị Trưởng Tử. Họ rất
đông, nhiều cánh tay giơ lên để kêu cầu, ca ngợi và van nài; nhưng chỉ một
tiếng nói duy nhất, đó là tiếng nói của Chúa Con.
Bức tranh trình bày Chúa Giêsu đang cầu nguyện trong vườn Gethsemani.
Người đón nhận chén đắng của cuộc khổ nạn bằng sự vâng phục tuyệt đối Chúa Cha
để cứu độ nhân loại.
EL GRECO, Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu,
Bảo tàng nghệ thuật TOLEDO (OHIO).
578. Đâu là nguồn gốc của kinh Lạy Cha ?
2759-2760
2773
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta lời kinh không thể thay thế được của Kitô
giáo, đó là kinh Lạy Cha, khi một môn đệ thấy Người cầu nguyện, đã xin
Người “dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11, 1). Truyền thống Phụng vụ Hội thánh
luôn dùng bản văn của thánh Mátthêu (6, 9-13).
“BẢN TÓM LƯỢC TOÀN BỘ TIN MỪNG”
579. Kinh Lạy Cha có vị trí nào trong Sách Thánh ?
2761-2764
2774
Kinh Lạy Cha là “bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng” (Tertullianô), là “lời
cầu nguyện tuyệt hảo” (thánh Tôma Aquinô). Kinh Lạy Cha nằm ở trung tâm Bài
giảng trên núi (Mt 5-7), và lấy lại nội dung chính yếu của Tin Mừng dưới hình
thức một kinh nguyện.
580. Tại sao kinh này được gọi là “lời kinh của Chúa” ?
2765-2766
2775
Kinh Lạy Cha được gọi là “lời kinh của Chúa,” vì do chính Chúa
Giêsu đã dạy cho chúng ta.
581. Kinh Lạy Cha giữ vị trí nào trong kinh nguyện của Hội thánh
?
2767-2772
2776
Kinh Lay Cha là lời kinh tuyệt hảo của Hội thánh. Kinh này chỉ được
“trao” cho những người con của Thiên Chúa vào lúc lãnh nhận Bí tích Rửa tội để
nhấn mạnh việc tái sinh vào đời sống thần linh . Bí tích Thánh Thể mạc khải ý
nghĩa tròn đầy của lời kinh này : những lời cầu xin của kinh này, dựa trên mầu
nhiệm cứu độ đã được thực hiện, sẽ được nhậm lời cách trọn vẹn khi Chúa đến.
Kinh Lạy Cha là thành phần chính yếu của Các giờ kinh Phụng vụ.
“LẠY CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI”
582. Tại sao chúng ta có thể “dám tin tưởng đến gần” Chúa Cha ?
2777-2778
2797
Vì Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ, hướng dẫn chúng ta đến trước Tôn Nhan Chúa
Cha, và vì Thánh Thần của Người đã làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên
Chúa. Như thế, chúng ta có thể cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha với sự tin
tưởng đơn sơ và hiếu thảo, với sự vui mừng an tâm, sự can đảm khiêm hạ và trong
sự xác tín được Thiên Chúa yêu thương và nhậm lời.
583. Làm sao chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là “Cha” ?
2779-2785
2789
2798-2800
Chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, vì Con Thiên Chúa làm người đã
mạc khải cho chúng ta và Thánh Thần của Ngài đã giúp chúng ta nhận biết điều
đó. Việc kêu cầu Thiên Chúa Cha đưa chúng ta vào mầu nhiệm của Ngài, với lòng
thán phục luôn mới mẻ, và gợi lên trong chúng ta sự ước muốn sống đời con thảo.
Như vậy với kinh Lạy Cha, chúng ta phải ý thức rằng chính chúng ta là con Thiên
Chúa, trong Người Con chí ái của Ngài.
584. Tại sao chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha “chúng con” ?
2786-2790
2801
Thuật ngữ “chúng con” diễn tả một tương quan hoàn toàn mới mẻ với
Thiên Chúa. Khi cầu nguyện với Chúa Cha, chúng ta thờ lạy và tôn vinh Ngài cùng
với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Đức Kitô, chúng ta là Dân “của Ngài” và
Ngài là Thiên Chúa “của chúng ta”, bây giờ và mãi mãi. Thật vậy, chúng ta gọi
Ngài là Cha “chúng con” vì Hội thánh của Đức Kitô là sự hiệp thông gồm đông đảo
anh em, tạo nên “một trái tim và một linh hồn ” (Cv 4,32).
585. Chúng ta cầu
nguyện Lạy Cha “chúng con” với tinh thần hiệp thông và truyền giáo nào ?
2791-2793
2801
Kinh Lạy Cha “chúng con” là gia sản chung của tất cả những
người đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nên họ phải cảm nhận lời kêu gọi khẩn
thiết cùng với Chúa Giêsu cầu nguyện cho sự hợp nhất của các môn đệ Người. Cầu
nguyện bằng kinh “Lạy Cha chúng con,” tức là cầu nguyện với và cho tất cả mọi
người, để họ nhận biết một Thiên Chúa thật và phải hợp nhất với nhau.
586. Thuật ngữ “ở trên trời” có nghĩa là gì ?
2794-2796
2802
“Ở trên trời” là một cách diễn tả theo Thánh Kinh, không muốn chỉ một
vị trí, nhưng muốn nói lên một cách hiện hữu : Thiên Chúa vượt quá và vượt trên
tất cả. Thuật ngữ này diễn tả sự uy nghi, sự thánh thiện của Thiên Chúa, cũng
như sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn những người công chính. Trời, hay Nhà
Cha, là quê hương đích thực mà lòng chúng ta hằng hướng đến trong niềm hy vọng,
ngay khi chúng ta còn đang sống trên mặt đất này. Là những người “hiện đang
tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3), chúng ta đã sống trên trời.
BẢY LỜI CẦU XIN
587. Lời kinh của Chúa được cấu tạo như thế nào ?
2803-2806
2857
Lời kinh của Chúa có bảy lời cầu xin dâng lên Thiên Chúa là Cha. Ba
lời đầu tiên, có tính đối thần, hướng chúng ta về Thiên Chúa, vì vinh quang của
Ngài : lời kinh này tự bản chất thuộc về tình yêu và trước tiên nghĩ đến Đấng
chúng ta yêu. Ba lời đó cho thấy những điều mà chúng ta đặc biệt cầu xin : sự
thánh hóa Danh Thiên Chúa, việc Vương quốc sẽ đến và việc thi hành Ý của Ngài.
Bốn lời cầu xin cuối trình bày với Cha nhân từ những thống khổ và những chờ đợi
của chúng ta. Chúng ta van xin Người lương thực, sự tha thứ, sự trợ giúp trong
các cơn cám dỗ và sự giải thoát khỏi thần Dữ.
588. Lời cầu xin “Nguyện danh Cha cả sáng” có ý nghĩa gì ?
2807-2812
2858
“Danh Cha cả sáng” trước hết là một lời ca ngợi công nhận Thiên Chúa
là Đấng Thánh. Thật vậy, Thiên Chúa đã mạc khải Danh Thánh của Ngài cho Môsê và
Ngài muốn cho dân Ngài được thánh hiến dành riêng cho Ngài, là một dân
tộc thánh thiện mà Ngài yêu thích cư ngụ nơi họ.
589. Danh Thiên Chúa được thánh hóa nơi chúng ta và trên thế giới như
thế nào ?
2813-2815
Thiên Chúa buộc chúng ta phải “nên thánh”(1 Ts 4,7). Câu “Danh
Thiên Chúa được thánh hoá” muốn nói lên đòi hỏi việc hiến thánh của Bí tích Rửa
tội phải làm sinh động cả cuộc đời chúng ta; ngoài ra còn mang ý nghĩa, chúng
ta phải chăm sóc cuộc đời và lời cầu nguyện của chúng ta như thế nào để Danh
Thiên Chúa được mọi người nhận biết và chúc tụng
590. Hội thánh xin gì khi cầu nguyện “Nước Cha trị đến” ?
2816-2821
2859
Hội thánh xin cho Nước Thiên Chúa trị đến một cách dứt khoát qua việc
Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Nhưng Hội thánh cũng cầu xin cho vương quyền
của Thiên Chúa ngày càng lớn lên trong hiện tại qua việc thánh hóa con người
trong Chúa Thánh Thần, và nhờ sự cố gắng của họ trong việc phục vụ công lý và
hòa bình theo các Mối phúc. Lời cầu xin này là tiếng kêu của Chúa Thánh Thần và
của Hiền thê : “Lạy Chúa Giêsu ! xin hãy đến” (Kh 22,20).
591. Tại sao chúng ta cầu xin : “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời” ?
2822-2827
2860
Ý muốn của Cha chúng ta là “tất cả mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,3).
Vì thế, Chúa Giêsu đã đến để chu toàn cách trọn hảo ý định cứu độ của Cha.
Chúng ta cầu xin Thiên Chúa là Cha kết hợp ý muốn của chúng ta vào ý muốn Con
của Ngài, theo gương của Đức Trinh Nữ rất Thánh và của các thánh. Chúng ta cầu
xin cho ý định của tình yêu nhân hậu của Ngài được thực hiện trọn vẹn
dưới đất như đã được thực hiện trọn vẹn trên trời. Chính nhờ lời cầu nguyện này
mà chúng ta có thể “nhận ra ý muốn của Thiên Chúa” (Rm 12,2) và “kiên trì thi
hành thánh ý” (Dt 10,36).
592. Lời cầu “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày” có nghĩa gì ?
2828-2834
2861
Với lòng phó thác tin tưởng của phận làm con, chúng ta xin Thiên Chúa
ban lương thực hằng ngày để mọi người được sống và chúng ta công nhận Ngài là
Cha chúng ta, Đấng tốt lành vượt quá mọi sự tốt lành. Chúng ta cũng xin Ngài
cho biết phải hoạt động thế nào để công lý và tình liên đới buộc những ai dư
đầy biết giúp đỡ các nhu cầu của những kẻ thiếu thốn.
593. Lời cầu xin này có ý nghĩa đặc thù nào cho người Kitô hữu ?
2835-2837
2861
Vì “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng
Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4), lời cầu xin này cũng bao hàm cả cơn đói khát Lời
Chúa và Mình Thánh Chúa trong Bí tích Thánh Thể, cũng như đói
khát Chúa Thánh Thần. Chúng ta cầu xin những điều này với lòng tin tưởng
tuyệt đối cho ngày hôm nay của Thiên Chúa. Những điều này được ban cho
chúng ta đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, một sự tham dự trước vào bàn tiệc
của Vương quốc sẽ đến.
594. Tại sao
chúng ta nói “xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” ?
2838-2839
2862
Khi xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, chúng ta nhận biết
mình là kẻ tội lỗi trước mặt Ngài. Nhưng đồng thời chúng ta cũng tuyên xưng
lòng thương xót của Ngài, vì trong Chúa Con và qua các Bí tích, “chúng ta được
ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1, 14). Tuy nhiên, lời cầu xin của
chúng ta chỉ có thể được nhậm lời, với điều kiện là, về phần chúng ta, chúng ta
phải tha thứ trước.
595. Làm sao có thể tha thứ được ?
2840-2845
2862
Lòng thương xót chỉ có thể đi vào tâm hồn, nếu như chính chúng ta biết
tha thứ cho cả kẻ thù của mình. Dù đối với con người, điều này xem ra không thể
thực hiện được, nhưng một trái tim rộng mở cho Chúa Thánh Thần sẽ có khả năng,
như Chúa Giêsu, yêu thương cho đến cùng, biến đổi thương đau thành lòng trắc
ẩn, và sự xúc phạm thành lời chuyển cầu. Tha thứ chính là tham dự vào
lòng khoan dung của Thiên Chúa và là một trong những đỉnh cao của kinh nguyện
Kitô giáo.
596. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” nghĩa là gì ?
2846-2849
2863
Chúng ta xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, đừng để chúng ta đơn độc dưới
quyền lực của cơn cám dỗ. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần để biết nhận định,
một đàng, giữa thử thách giúp ta tăng trưởng trong sự lành và sự cám
dỗ dẫn đến tội lỗi và sự chết, và đàng khác, giữa bị cám dỗ và thuận
theo cơn cám dỗ. Lời cầu xin này kết hợp chúng ta với Chúa Giêsu, Đấng đã
chiến thắng cám dỗ bằng lời cầu nguyện của Người. Lời cầu này cũng van xin ơn
tỉnh thức và bền đỗ đến cùng.
597. Tại sao
chúng ta lại kết thúc bằng lời cầu xin “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự Dữ” ?
2850-2854
2864
Sự Dữ muốn ám chỉ một nhân vật là Satan, kẻ đối nghịch với Thiên Chúa,
“kẻ chuyên mê hoặc toàn thể nhân loại” (Kh 12,9). Đức Kitô đã chiến thắng ma
quỷ. Nhưng chúng ta cầu xin cho cả gia đình nhân loại được giải thoát khỏi
Satan và mọi việc làm của nó. Chúng ta cũng cầu xin hồng ân quí giá là sự bình
an và ân sủng để kiên trì chờ đợi Đức Kitô lại đến, Đấng giải thoát chúng ta
khỏi sự Dữ cách dứt khoát.
598 . Chữ “Amen” cuối cùng có nghĩa là gì ?
2855-2856
2865
“Sau khi đọc kinh xong, bạn đọc Amen, nhấn
mạnh lời Amen, nghĩa là ‘xin Chúa cứ làm cho con như vậy’, chúng ta quyết tâm
đón nhận tất cả những điều Chúa dạy trong lời kinh này” (thánh Xyrilô thành Giêrusalem).
Các thiên thần là những thụ tạo của Thiên Chúa. Một số đông đã và vẫn
luôn trung thành với Thiên Chúa, trước tôn nhan Ngài, trong sự phục vụ Ngài và
Hội thánh, kết hợp với những người đã được cứu chuộc trong vinh quang thiên
quốc.
Như trong thị kiến của Giacóp về cái thang – “trên đó, các sứ thần của
Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28,12) – các thiên thần là những sứ giả
năng động và tràn đầy sức lực nối kết trời với đất. Giữa Thiên Chúa và nhân
loại không có sự thinh lặng và câm nín, nhưng vẫn đối thoại liên
tục, sự hiệp thông không bao giờ ngưng trệ. Và con người, được xác định cho sự
hiệp thông này, phải có một thính giác tinh thần thật linh hoạt để nghe và hiểu
tiếng nói của thiên thần, sẽ gợi lên những lời tốt đẹp, những tình cảm thánh
thiện, những hoạt động nhân từ, những thái độ bác ái và những liên hệ thật xây
dựng.
Đó là những gì chúng ta xin với thiên thần hộ thủ trong lời kinh nổi
tiếng của đạo đức bình dân Kitô giáo.
Lạy thiên thần của Thiên Chúa,
sứ giả bảo vệ con !
Thiên Chúa đã gởi ngài đến để đồng hành với con.
Hãy soi sáng, che chở, hướng dẫn và dìu dắt con.
Amen.
Hình ảnh trình bày một nhóm thiên thần không có cánh, đang cầu
nguyện khi hát. Các ngài mặc những phẩm phục chói lọi thánh thiện để thấy các
ngài đang thực hiện một công tác Phụng vụ trang trọng. Thật vậy, các thiên thần
không những là những sứ giả được Thiên Chúa sai đi, để thông báo ý muốn
của Ngài cho con người, nhưng các ngài còn có trách vụ ca tụng Thiên Chúa trong
Phụng vụ thiên quốc vĩnh cửu (x. Kh 8,2).
JAN VAN EYCK, Các thiên thần ca hát, Bức tranh ghép nhiều mảng
của nhà thờ chánh tòa Gand.