Đức tin Kitô giáo - các chiều kích và
đặc tính quy Kitô
Bài viết này thể hiện mong muốn
đáp lại lời Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI mời gọi các tín hữu gia tăng “suy tư
về chính hành vi đức tin” (Porta Fidei, 9). Có nhiều vấn đề cần phải đào
sâu để hiểu hơn về đức tin như: đức tin là ân sủng nhưng đồng thời cũng là hành
vi nhân linh, đức tin là chắc chắn nhưng cũng gắn liền với “đêm tối”, tính cá
vị và tính cộng đoàn của đức tin, diễn tả đức tin bằng ngôn ngữ và bằng hành
động,… Với đề tài được đưa ra là nói về đức tin Kitô giáo trong tương quan với
Đức Kitô - Đấng là nền tảng và điểm quy chiếu của đức tin đó - người
viết bài này chỉ xin trình bày 3 chiều kích liên hệ tới lý trí, tâm cảm và thực
hành (nói tắt và nôm na là biết, cảm, sống) của đức tin và cho thấy Đức Kitô là
nguyên lý của đức tin Kitô giáo thế nào trong 3 chiều kích đó.
Việc chọn trình bày 3 chiều kích
trên của đức tin phát xuất từ thực tế là đa số tín hữu Việt
Việc chưa hiểu rằng đức tin bao
gồm cả 3 chiều kích biết, cảm, sống còn được thể hiện qua khoảng cách thường
thấy giữa việc tin và sống theo những gì mình tin. Tại sao có người đi nhà thờ thường
xuyên, đọc thuộc nhiều kinh mà về nhà lại là hung thần của gia đình và của hàng
xóm? Tại sao trong kỳ tĩnh tâm, tôi cảm thấy dạt dào lòng yêu mến Chúa và quyết
tâm cách rất xác tín mà sau kỳ tĩnh tâm tôi mắc lại các thói xấu và không thể
kiểm soát những cảm xúc tiêu cực như tham lam, ganh ghét, nóng giận của mình?
Nên chăng tôi chỉ cố gắng sống công bình, bác ái, dấn thân vào các hoạt động xã
hội là đủ, mà không cần hoặc lơ là việc đi lễ, đọc kinh và học giáo lý?
Bài viết sẽ cố gắng trả lời các
vấn nạn đó bằng cách chỉ ra, trong phần I, rằng đức tin không chỉ là hoạt động
của lý trí (theo kiểu “tôi tin là ngày mai trời mưa”) hay của tâm cảm (theo
kiểu “tôi thấy rất tin tưởng anh”), mà bao gồm cả hai, cùng với chiều kích thực
hành.
Trong phần II, bài viết sẽ trình
bày Đức Kitô cung cấp nét độc đáo cho đức tin Kitô giáo như thế nào trong 3
chiều kích nói trên.
I. Ba chiều kích của
đức tin Kitô giáo
Thông thường, chúng ta hay quan
niệm rằng đức tin là tin một điều gì đó, tức giới hạn đức tin vào hoạt động của
tâm trí mà thôi. Quan niệm này không sai, nhưng chưa đủ, và vì thế có thể gây
ra một số lệch lạc trong việc sống đạo. Nếu đức tin chỉ là tin một điều gì đó
thì để trẻ em hoặc người tân tòng có đức tin, chỉ cần dạy họ thuộc kinh hoặc
biết các chân lý đức tin là đủ. Thông truyền đức tin dưới dạng kiến thức dẫn
đến tình trạng là tín hữu biết các điều Giáo Hội dạy nhưng chưa hẳn là yêu mến
những giá trị của chúng. Họ xem những điều dạy đó chủ yếu như là luật lệ và cố
gắng tuân giữ, nhưng cảm thấy như gánh nặng. Thực hành tôn giáo vì thế được gói
gọn trong việc chu toàn nghĩa vụ cách sáo rỗng và vụ hình thức.
Để hiểu đức tin là gì, ta cần
đặt đức tin trong tương quan với Mặc Khải. Vì đức tin là hành vi đón nhận Mặc
Khải, nên ta chỉ hiểu đức tin là gì nếu ta có quan niệm đúng đắn về bản chất
của Mặc Khải. Công đồng Vatican II nói về Mặc Khải như sau:
Do lòng nhân lành và khôn ngoan,
Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết mầu nhiệm của ý muốn Ngài
(x. Ep 1,9); … Vậy qua việc mặc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm
1,17), do tình thương chan hoà của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn
hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và liên lạc với họ (x. Br 3,38) để mời gọi họ và
chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài[1].
Như vậy, Mặc Khải trước hết và
trên hết là việc Thiên Chúa đi bước trước đến với con người, ngỏ lời và trao
ban chính Mình để thiết lập tương quan bằng hữu với họ; cùng với món quà “Tự
Thân” đó là các chân lý diễn tả ý muốn cứu độ của Ngài.
Công đồng cũng nói về đức tin
như sau:
Phải bày tỏ “sự vâng phục bằng
đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải.
Nhờ sự vâng phục đó, con người tự do ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng
cách “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý
chí”[5], và bằng cách tự ý ưng thuận mặc khải Ngài đã ban[2].
Vậy đức tin trước hết là phó
thác bản thân mình cho Thiên Chúa và sau đó là tự do chấp nhận những
điều Ngài truyền dạy.
Một cách nôm na, có thể mô tả
Mặc Khải như hành vi và tiến trình Thiên Chúa “tặng quà” cho con người và đức
tin là hành vi và tiến trình con người “nhận quà” từ Thiên Chúa[3]. Khi phân
tích hiện tượng trao tặng và nhận quà, chúng ta thấy rằng hiện tượng này luôn
hàm chứa một tương quan liên vị. Một vật chỉ là quà tặng khi ở trong một mối
tương quan liên vị giữa người tặng và người nhận[4]. Người tặng quà, qua món
quà, mà thường thì có ý nghĩa biểu trưng lớn hơn chức năng hữu dụng, trước hết
muốn diễn tả tâm hồn mình và khao khát muốn thiết lập tương quan yêu thương với
người được tặng. Nói cách khác, món quà biểu trưng cho việc người tặng quà muốn
trao ban chính tâm hồn mình. Tuy nhiên, món quà cũng đóng vai trò quan trọng vì
là một sự diễn tả không thể thiếu của tấm lòng người tặng. Không ai có tấm lòng
ưu ái với người khác mà không tự nhiên bộc lộ ra hay tìm những cách thế khác
nhau để diễn tả tấm lòng đó[5].
Người nhận quà cũng vậy, khi
quyết định nhận món quà là đã quyết định nhận tấm lòng của người tặng và do đó
cũng đã mở lòng mình ra, chấp nhận thiết lập tương quan với họ, tức chấp nhận
cho họ đi vào cuộc đời mình. Như vậy, người nhận quà cũng thực sự đã mở ra và
cho đi - cho đi chính tâm hồn mình. Người không muốn cho đi không thể nhận quà.
Tương tự như đối với người tặng, món quà cũng rất quan trọng đối với người
nhận. Người nhận chỉ thực sự đón nhận tấm lòng người tặng nếu chấp nhận đón lấy
món quà. Khi họ chấp nhận tương quan với người tặng thì họ cũng chấp nhận món
quà người ấy tặng. Món quà trở nên biểu tượng thiết yếu của tương quan giữa họ
với nhau[6].
Để có một cái nhìn loại suy về
đức tin như hành vi “nhận quà”, chúng ta tóm kết lại các đặc tính của tiến
trình nhận quà như một hiện tượng nhân sinh: người nhận quà, khi nhận món quà
(2), phải mở lòng mình ra để đón nhận tấm lòng của người tặng (1); sau khi nhận
quà, người đó được biến đổi nên khác (3), vì cuộc đời họ không như xưa nữa mà
đã có sự hiện diện của và tương quan ở cấp độ mới với một nhân vị mới.
Ta cũng có thể tìm thấy 3 đặc
tính trên nơi hành vi đức tin của Kitô hữu (các đặc tính được đánh số 1, 2 và 3
lần lượt tương ứng với chiều kích tâm cảm, lý trí và thực hành của đức tin).
Trở lại đối chiếu với định nghĩa của Công đồng Vatican II về Mặc Khải và về đức
tin, ta có thể nói rằng đức tin trước hết là mở lòng mình ra đón nhận quà tặng
là chính Thiên Chúa trao ban chính Mình, tức sẵn lòng đi vào trong tương quan
mà Thiên Chúa thiết lập và mời gọi con người có với Ngài. Một cách loại suy, có
thể nói, như trong trường hợp quà tặng, chỉ có đức tin khi có tương quan liên
vị giữa Thiên Chúa và con người[7]. Việc mở lòng, chấp nhận đi vào trong tương
quan liên vị với Thiên Chúa như thế mang đồng thời 3 chiều kích
tương ứng với 3 đặc tính nêu trên của việc nhận quà.
1. Chiều kích tâm
cảm
Đặc điểm dễ thấy nhất của tương
quan liên vị là có một mối thân tình giữa những người liên quan, họ mở lòng,
đón nhận và tin tưởng nhau. Đức tin, trong bối cảnh tương quan liên vị giữa
Thiên Chúa và con người, cũng mang đặc tính này. Tín hữu cảm nghiệm thấy được
Thiên Chúa ngỏ lời mời gọi thương yêu và tin tưởng và vì thế đáp lại bằng tâm
tình phó thác yêu thương.
Đức tin trong chiều kích này có
thể được diễn tả bằng hai chữ “tin vào”. Như trong tương quan giữa người với
người, khi tin vào ai, chúng ta cảm thấy an toàn khi ở bên họ, đức tin trong
chiều kích này làm cho con người “tìm đến nương ẩn” bên Thiên Chúa (Tv 7,1;
31,1), giao phó bản thân “trong vòng tay Ngài” (x. Lc 23,46; Lời cầu nguyện của
Charles de Foucauld).
Đây là lý do truyền thống gọi
đức tin là nhân đức đối thần. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể là đối tượng của
đức tin trong chiều kích này, mới đáng là Đấng để ta tin vào và đặt để đời mình
trong tay Ngài mà chắc chắn không bị thất vọng. Kinh Tin Kính đã diễn tả điều
này khi dùng động từ “tin vào” (credo in) cho các tín khoản liên quan tới từng
Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, không như các tín khoản khác vốn dùng động từ “tin
có” (credo) hoặc “tuyên xưng” (confiteor), “trông chờ” (expecto).
2. Chiều kích lý trí
Nhưng việc phó thác bản thân cho
Thiên Chúa hàm chứa việc biết Thiên Chúa là Đấng thế nào (yêu thương,
đáng tin,…) và xác nhận Ngài là Chủ Tể của vạn vật và của đời mình. Không ai có
thể đặt niềm tin tưởng vào Đấng mà họ không biết. Vì thế, đức tin luôn mang
chiều kích lý trí. Khi tin, chúng ta luôn chấp nhận một điều gì đó khách quan -
một sự kiện hoặc một ý nghĩa - là đúng.
Hơn nữa, cũng như khi tin tưởng
ai thì ta cũng tin những điều họ nói là đúng, việc phó thác bản thân cho Thiên
Chúa luôn hàm chứa và đi đôi với việc chân nhận những điều Ngài truyền dạy là chân
lý. Đức tin không chỉ là cảm xúc mơ hồ không có hoặc không thể được diễn tả
bằng một nội dung khách quan. Đức tin cũng không chỉ là chuyện riêng tư, bên
trong tâm hồn mỗi người mà, vì có nội dung khách quan, cần được “tuyên xưng, cử
hành, sống và cầu nguyện” (Porta Fidei, 9).
Chính vì điều này mà các giáo
phụ nói về “kho tàng đức tin” hay “quy luật đức tin”[8]. Kho tàng hay quy luật
này được tìm thấy trong Thánh Kinh, trong giáo lý và đời sống của Giáo Hội, có
thể được lưu truyền, công bố, giảng dạy và học hỏi. Cũng như món quà là biểu
tượng thiết yếu của tương quan giữa người tặng và người nhận, kho tàng đức tin
được lưu truyền và diễn tả bằng ngôn ngữ, cử hành và các hình thức tổ chức
trong đời sống Giáo Hội đóng vai trò không thể thiếu trong tiến trình đức tin.
Kho tàng này chứa đựng những “món quà” thiết yếu cho mối tương quan giữa Thiên
Chúa với con người. Con người không thật sự đón nhận Thiên Chúa, không thật sự
tin tưởng và phó thác bản thân cho Ngài nếu không đón nhận những “món quà”
khách quan này.
3. Chiều kích thực
hành
Cuối cùng, đức tin đích thực
luôn có và phải có chiều kích thực hành. Đức tin không chỉ là hoạt động của tâm
trí hay rung cảm của tâm hồn, mà là hành vi nhân linh liên hệ tới toàn bộ con
người. Liên quan tới chiều kích này, chúng ta thường hiểu cách đúng đắn rằng đức
tin đích thực phải dẫn tới việc sống đức tin đó cách cụ thể trong đời sống.
Nhưng ở đây chúng ta cũng cần phải xác định xa hơn rằng chính hành động cụ thể
góp phần vào việc hình thành và củng cố đức tin, bằng cách cộng tác với
ơn Chúa, chứ không chỉ là hệ quả của đức tin.
Karl Rahner có thể giúp ta hiểu
hơn điều này khi ông nói về ý chí. Khi ta thực hiện điều ta muốn thì ý chí được
diễn tả chính nó và trở thành xác định. Vậy điều ta thực hiện đó không chỉ là
kết quả của ý muốn mà còn là nguyên nhân sinh ra ý muốn đó. Bởi vì ý muốn đó sẽ
không tồn tại cách nghiêm túc và bất khả thu hồi nếu nó không được thực
hiện[9]. Nói cách khác, ta chưa thật sự muốn một điều gì đó nếu chưa thực hiện
điều đó.
Tương tự, hành vi đức tin chỉ
thực sự xác định và chín muồi khi được thực hành trong cuộc sống. Các tri thức
học được về đạo, các tâm tình sốt mến chỉ đạt được độ chín muồi khi chúng được
kéo dài và diễn tả trong cuộc sống. Nói cách khác, chúng ta chỉ thực sự biết
Chúa và chỉ thực sự yêu Ngài khi sống theo lời Ngài dạy. Như vậy, hành vi đức
tin diễn ra không chỉ khi ta đọc kinh hoặc cầu nguyện sốt sắng, mà cả khi ta
thực hành những quyết định cụ thể. Việc cố gắng giữ mình khỏi lỗi phạm một điều
Chúa dạy là sự kéo dài tâm tình của giờ cầu nguyện trước đó và có giá trị tương
đương như một lời cầu nguyện.
Tóm lại, nếu hiểu hành vi đức
tin bao gồm đồng thời cả ba chiều kích biết, cảm, sống thì ta sẽ hiểu tại sao
học thuộc giáo lý mà thiếu tâm tình yêu mến Chúa (chiều kích 1) thì cũng chưa
phải là có đức tin đích thực. Tương tự, dạt dào cảm xúc yêu mến mà chưa thực
hiện điều Chúa dạy (chiều kích 3) thì cũng chưa thực sự yêu mến Chúa trong đức
tin, mà chỉ mới yêu Chúa với cảm xúc nhân loại chóng qua. Và cuối cùng, việc có
cảm xúc dạt dào hoặc thực hành đúng đắn lời Chúa dạy không miễn cho ta khỏi
phải học hỏi các chân lý đức tin và tham gia vào đời sống Giáo Hội (chiều kích
2), mà ngược lại, luôn giả định, đi đôi và dẫn đến điều đó[10].
II. Đức Kitô - căn
tính độc đáo của đức tin Kitô giáo
Những điều nói ở trên liên quan
đến hành vi con người đáp lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa là những
đặc tính chung của nhiều hình thức đức tin kể cả ngoài Kitô giáo, nên chưa nói
gì về tính độc đáo của đức tin Kitô giáo.
Chúng ta chỉ có thể nhìn rõ căn
tính độc đáo của đức tin Kitô giáo và nhờ thế hiểu hơn về đức tin đó nếu nhìn
vào Đức Kitô. Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu Đức Kitô cung cấp căn tính
cho đức tin Kitô giáo như thế nào bằng việc khảo sát vai trò độc đáo của Ngài
liên quan tới 3 chiều kích nói trên của đức tin.
1. Chiều kích tâm
cảm - Đức Kitô làm cho đức tin khả dĩ xảy ra
Trong hành vi đức tin, cũng như
các tín hữu của các hình thức đức tin khác, Kitô hữu yêu mến phó thác bản thân
mình cho Thiên Chúa; nhưng khác với quan điểm và tâm tình của họ, Kitô hữu tín
thác vào một Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô. Thiên Chúa của Kitô giáo không
chỉ là một thực tại siêu việt, huyền bí và nội tại trong cõi sâu thẳm của lòng
người nhưng còn làm người trong lịch sử, nơi Đức Kitô Giêsu thành
Điều này nói lên căn tính độc
đáo của đức tin Kitô giáo, vì Đức Kitô, tuy là một Ngôi Vị Thiên Chúa, có thể
tương quan với con người trong mức độ nhân loại. Ngài đến với chúng ta trong tư
cách là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người. Ngài yêu chúng ta bằng tình yêu
Thiên Chúa nhưng với một trái tim nhân loại và Ngài cũng có thể là đối tượng
của tình cảm nhân bản của chúng ta, cũng như của những tiếp cận trên bình
diện lịch sử của chúng ta.
Hệ quả là, đức tin Kitô giáo,
trong chiều kích tâm cảm, tự bản chất hàm chứa một mối căng thẳng và liên hệ
biện chứng giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại. Thiên Chúa đã làm
người để có thể yêu chúng ta bằng một trái tim nhân loại, nên đã làm cho tình
yêu nhân loại của chúng ta có khả năng hướng tới Thiên Chúa và tham
gia vào tính chất thần linh của tình yêu của Ngài. Điều này thật sự khả dĩ
và đã xảy ra nơi Đức Kitô. Trong nhân tính của mình, Ngài đã yêu mến Cha bằng
trái tim nhân loại, và vì thế, đã thăng hoa tình yêu đó, làm cho nó tham dự vào
mối Hiệp Thông thần linh giữa Ba Ngôi.
Vì thế, khi yêu mến Đức Kitô
trong đức tin, chúng ta không yêu Ngài như yêu một Siêu Ngã, nhưng cũng không
đơn thuần như một người khác. Tình yêu nhân loại của chúng ta dành cho Ngài,
trong đức tin, đã được nâng lên một tầm cấp khác, có khả năng trở thành “đối
tác”, đáp lại Tình Yêu đi bước trước của Thiên Chúa. Điều này giải thích khả
thể của đức tin nói chung và của đức tin Kitô giáo nói riêng. Mầu nhiệm Thiên
Chúa làm người nơi Đức Kitô đã cung cấp câu trả lời cụ thể dứt khoát cho câu
hỏi “Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt trong khi con người là thụ tạo giới hạn, làm
sao mà con người có thể trở thành ‘đối tác’ của Thiên Chúa trong hành vi đức
tin được?”
2. Chiều kích lý trí
- Đức Kitô quy định nội dung và hình thức diễn tả đức tin
Trong chiều kích lý trí, đức tin
Kitô giáo nhận biết Thiên Chúa là ai và chấp nhận những điều Ngài dạy bảo,
nhưng tất cả những điều đó phải có nội dung như Đức Kitô đã mặc khải bằng lời
dạy và lối sống của Ngài. Mà nội dung của lời dạy và lối sống của Đức Kitô thì
có thể được xác định khá rõ ràng và cụ thể: Ngài hiện thực hoá và rao giảng về
Nước Trời, Ngài tương quan với Thiên Chúa như Cha của Ngài, Ngài sống một cuộc
sống vị tha mà tột đỉnh là cái chết trên thập tự giá. Như vậy, nội dung
đức tin Kitô giáo không bắt nguồn từ một hệ thống suy lý nào, cũng không được
rút ra từ một nguyên lý phổ quát nào, nhưng bị quy định, một cách “võ đoán”,
bởi chính lời dạy và lối sống đặc thù của Đức Kitô[11].
Nội dung đặc thù này của đức tin
Kitô giáo luôn cần phải được diễn tả trong tuyên xưng, cử hành và cầu nguyện,
và chính Đức Kitô cũng cung cấp tiêu chuẩn cho việc diễn tả này. Mọi khẳng định
cũng như tuyên bố thần học, mọi cử hành phụng vụ và cả các hình thức cầu nguyện
đều lấy Đức Kitô làm trung tâm và bị quy định bởi lời dạy và lối sống của Ngài.
Để thấy rõ Đức Kitô quy định các
hình thức diễn tả đức tin Kitô giáo thế nào, chúng ta chỉ cần xét vấn đề
về vai trò của ngôn ngữ trong kinh nghiệm đức tin. Theo Gadamer, ngôn ngữ là
trung gian của kinh nghiệm và là phương tiện để chúng ta hiểu thế giới[12]. Vậy
kinh nghiệm đức tin luôn phải mang chiều kích ngôn ngữ. Hay nói cách khác,
chúng ta luôn cần tới ngôn ngữ để có thể có kinh nghiệm đức tin đích thực, đó
là chưa đề cập đến việc phải diễn tả và truyền thông kinh nghiệm đó cho người
khác. Vấn đề đặt ra là chúng ta dùng thứ ngôn ngữ nào trong kinh nghiệm của đức
tin. Chính ở đây mà chúng ta thấy vai trò thiết yếu của Đức Kitô - Đấng là Ngôi
Lời - đối với kinh nghiệm đức tin Kitô giáo.
Ngôn ngữ con người mang tính
lịch sử và bị ảnh hưởng - kể cả theo nghĩa xấu, tức bị nhuốm bẩn, trở nên hàm
hồ, thô tục - bởi não trạng văn hoá và các cảnh huống xã hội. Vì thế, nếu kinh
nghiệm đức tin được tiếp cận và diễn tả qua trung gian một thứ ngôn ngữ hàm hồ,
mang nặng ảnh hưởng của tội thì chính kinh nghiệm đức tin cũng bị bóp méo và
tha hoá. Ngôn ngữ con người có thể là biểu hiện của cái tôi đầy tham vọng bá
chủ và ước muốn vận dụng, điều khiển những cái khác ngoài mình. Chính Đức Kitô
- Lời đích thực - sẽ cung cấp cho kinh nghiệm đức tin một ngôn ngữ tinh tuyền,
phù hợp và xứng đáng với kinh nghiệm đó. Ngài là Ngôn Ngữ của Thiên Chúa đã “hoá
ra không” (Pl 2,7) để “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Ngài là hiện thân cho ngôn ngữ của tương quan liên vị, yêu thương và cho đi.
3. Chiều kích thực
hành - Đức Kitô chịu đóng đinh là lý tưởng cốt lõi của đời sống đức tin
Đức tin Kitô giáo nhất thiết
phải được diễn tả, không chỉ trong thần học, tuyên xưng, cử hành và cầu nguyện
mà còn trong cuộc sống. Vậy đâu là những đặc tính của lối sống Kitô hữu? Có sự
khác biệt thiết yếu nào giữa Kitô hữu và tín hữu các đạo khác không? Phải chăng
Kitô hữu cũng giống các tín hữu theo các niềm tin khác trong việc “ăn ngay ở
lành” mà thôi?
Chúng ta phải khẳng định rằng
lối sống của con người có sự khác biệt tuỳ thuộc vào việc họ tin hay không tin
vào Đức Kitô. Và chúng ta chỉ thấy được sự khác biệt đó khi ý thức về tầm quan
trọng của Đức Kitô đối với đức tin Kitô giáo.
Trước hết, lối sống Kitô hữu
được rập khuôn theo lối sống đặc thù của Đức Kitô, Đấng đã sống trong lịch sử
này. Ngài không chỉ luôn sống vì người khác - như bao vị thánh nhân khác trong
lịch sử loài người - nhưng còn luôn vâng phục Ý Cha. Toàn bộ cuộc sống,
mọi ý nghĩa và hành vi của Ngài được nuôi sống và thúc đẩy chỉ bởi một động lực
duy nhất là Thánh Ý của Thiên Chúa mà Ngài tương quan như Cha. Chính vì vâng
phục Cha mà Ngài sống xả thân vì người khác và vì nhân loại nói chung. Tình yêu
thương đồng loại của Đức Kitô có nguồn gốc và động lực thần linh, bắt nguồn và
tham dự vào Tình Yêu vĩnh cửu giữa Cha với Ngài.
Chính vì thế mà lối sống Kitô
hữu, vốn cũng được đóng ấn bằng tình yêu thương nhân loại, mang một nét rất độc
đáo, vì có nguồn gốc và động lực thần linh: chúng ta yêu thương người
khác là bởi vì chúng ta yêu mến Đức Kitô và vì họ là hình ảnh của Ngài (x. Mt
25,31-46). Tình yêu thương phải mang đặc nét này thì mới được gọi là tình yêu
thương Kitô giáo. Câu hỏi được đặt ra là, khi yêu thương người khác vì Đức Kitô
như vậy thì ta có yêu thương họ thật sự vì lợi ích của chính họ không hay chỉ
dùng họ như bình phong để yêu mến Đức Kitô? Câu trả lời đã được gợi ý trong
phần nói về vai trò của Đức Kitô đối với đức tin Kitô giáo trong chiều kích tâm
cảm. Tình yêu thương Kitô giáo không mâu thuẫn, bóp méo hay lạm dụng tình yêu
thương nhân loại, mà ngược lại, làm cho nó đích thực hơn, và hơn nữa, nâng nó
lên một cấp độ mới hoàn hảo và có giá trị hơn gấp bội. Làm sao ta biết ta yêu
thương một người cách hoàn toàn tự do, vô vị kỷ và mang lại lợi ích cho họ[13]?
Chính tình yêu đối với Đức Kitô sẽ làm cho tình yêu đồng loại của chúng ta tinh
tuyền hơn, thoát khỏi những toan tính của cái tôi quy kỷ và tội lỗi. Tình yêu
đối với Đức Kitô cũng bảo đảm rằng khi yêu đồng loại, chúng ta làm điều tốt cho
họ và dẫn đưa họ tới hạnh phúc. Vì tình yêu trong đức tin đối với Đức Kitô là
tình yêu đã được ân sủng Thiên Chúa nâng lên, được tham dự vào mối Hiệp Thông
tràn đầy hạnh phúc, niềm vui và bình an giữa Ba Ngôi Thiên Chúa (x. 1 Ga 1,3).
Thứ đến, cũng chính động lực
vâng phục Thánh Ý Cha đã mặc cho lối sống của Đức Kitô một hình thức độc nhất
vô nhị. Lối sống vì người khác của Ngài không thể được xếp vào bất cứ phân loại
nào mà người thời nay có kinh nghiệm. Ngài đã không chữa lành người ta như một
bác sĩ, đã không giúp đỡ người nghèo như một nhà làm công tác xã hội, đã không
cải hoá xã hội như một nhà cách mạng, đã không chết một cái chết già bình
thường, nhưng chết trẻ cách tức tưởi như một tội nhân. Vì vâng phục Cha mà Ngài
không chỉ sống vì người khác cách chung chung, nhưng thể hiện lối sống đó bằng
những hình thức đặc thù của sự “hoá ra không” (kenôsis - x. Pl 2,7) của Mầu
nhiệm Làm Người: nghèo khó, khiêm hạ, khiết tịnh và đặc biệt là cái chết nhục
nhã trên thập tự giá.
Mầu nhiệm “hoá ra không” mà đỉnh
cao là cái chết trên Thập Giá làm nên căn tính độc đáo của lối sống Đức
Kitô cũng như lối sống Kitô hữu. Kitô hữu không đơn thuần chỉ là những người “ăn
ngay ở lành”, mà là những chứng nhân có lối sống được đánh dấu bởi Thập Giá.
Làm chứng tá, ngay cả bằng cái chết tử vì đạo (martyr - chứng tá) là tiêu chuẩn
không thể thiếu của đời sống đức tin Kitô giáo[14]. Hơn bao giờ hết, trong thời
đại trần tục hoá và đa nguyên tôn giáo này chúng ta cần phải ý thức sâu xa hơn
đặc nét này của đời sống đức tin Kitô giáo. Kitô hữu khi tìm cách hoà nhập vào
xã hội họ đang sống, có nguy cơ bị “hoà tan” đến nỗi hạt muối đức tin của họ
không còn mặn nữa (x. Mt 5,13) nếu họ quên đi dấu ấn của Thập Giá trên cuộc
sống mình. Chỉ khi ý thức mình là những môn đệ đi theo bước chân của Đức Kitô
vác thập giá và chịu đóng đinh thì Kitô hữu mới có đủ động lực và can đảm chịu
gièm pha, chịu gạt ra lề để sống sự khác biệt của lối sống Kitô giáo. Chỉ khi
đó Kitô hữu mới xác định chắc chắn được căn tính của mình để có thể đi vào cuộc
đối thoại đích thực, chân thành và bình đẳng với các tín hữu của các tôn giáo
khác.
Cuối cùng, phải nói rằng, lối
sống của Đức Kitô độc đáo không chủ yếu ở hình thức, mà do chính Ngôi Vị Ngài.
Không phải cái chết trên Thập Giá làm cho lối sống Đức Kitô trở nên độc đáo, mà
ngược lại, chính Ngài, với tư cách là Con Thiên Chúa, làm cho cái chết trên
Thập Giá mang đặc tính độc nhất vô nhị - là biến cố qua đó Thiên Chúa cứu độ
con người. Như vậy, đời sống Kitô hữu có giá trị, trước hết không phải là vì mang
những hình thức giống với lối sống của Đức Kitô, mà là vì được Đức Kitô bảo
đảm cho có giá trị độc đáo. Kitô hữu là chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô, nên
cuộc sống của họ là cuộc sống của Nhiệm Thể, được Đức Kitô đảm nhận, thánh hóa
và làm cho có giá trị cứu độ.
Kết luận
Có nhiều cách để tìm hiểu và
nhận ra vai trò thiết yếu của Đức Kitô đối với đức tin Kitô giáo. Chúng ta đã
làm điều đó bằng cách phân tích 3 chiều kích tâm cảm, lý trí và thực hành của
đức tin Kitô giáo. Lựa chọn này phát xuất từ mong muốn giải đáp những vấn nạn
và hiện trạng thực tế của đời sống Kitô hữu Việt Nam liên quan tới đức tin, cầu
nguyện và thực hành đức tin.
Hiểu thấu đáo về 3 chiều kích
của đức tin sẽ giúp Kitô hữu sống đức tin cách hội nhất và toàn diện hơn. Họ
được mời gọi tiếp cận với Chúa cách cá vị hơn, tham gia tích cực và toàn diện
hơn vào đời sống và các hoạt động học hỏi, cầu nguyện, phượng tự của Giáo Hội,
và cuối cùng là nối dài tâm tình đức tin ra cuộc sống hằng ngày, với xác tín
của một môn đệ làm chứng tá cho Đức Kitô chịu đóng đinh.
Tìm hiểu vai trò thiết yếu của
Đức Kitô đối với đức tin, Kitô hữu nhận ra căn tính độc đáo của mình cả trong
tâm tình tôn giáo, lẫn trong tuyên xưng cũng như cử hành tôn giáo để từ đó có
xác tín và can đảm thể hiện lối sống độc đáo của đức tin Kitô giáo trong thực
tế xã hội đa tôn giáo và đang ngày càng bị ảnh hưởng bởi trào lưu trần tục hoá.
----------------------
[1] Hiến chế Tín
lý về Mặc Khải của Thiên Chúa, 1.
[2] Sđd, 5.
[3] Đây là ý tưởng
của Stephen B. Bevans trong cuốn An Introduction to Theology in Global
Perspective, New York 2009, xin xem đặc biệt từ trang 23 tới trang 32.
[4] Cũng vật đó, dù
được gói gém cẩn thận và đẹp mắt, nhưng khi được chưng trên kệ để bán thì chưa
được gọi là quà tặng, mà vẫn chỉ là hàng hoá. Nó chỉ trở thành quà tặng khi có
ai đó trao nó cho một người khác như một món quà.
[5] Ví dụ, không ai
yêu thật sự mà chỉ để ở trong lòng, mà không có những biểu hiện như ánh mắt, sự
ân cần, một bó hoa,…
[6] Ví dụ, không ai
chấp nhận lễ hỏi mà từ chối trầu cau.
[7] Như vậy, một
cách chính yếu, đức tin không phải là một “kho” mà tín hữu có thể lấy và tích
trữ cho mình, mà không cần phải có tương quan cá vị với Thiên Chúa. Nói cách cụ
thể, việc học thuộc các chân lý trong kho tàng đức tin mà chưa có tương quan
với Chúa trong đời sống thiêng liêng thì chưa được coi là dấu chỉ của đức tin
đích thực.
Ở đây cũng cần phải
nói thêm rằng tương quan liên vị giữa Thiên Chúa và con người - vốn chỉ có
Thiên Chúa đi bước trước và tạo điều kiện khả dĩ cho con người đáp lại - không
hoàn toàn giống như tương quan liên vị giữa người với người, vốn mang tính hai
chiều. Theo Karl Rahner, Thiên Chúa đến với con người, tự trao ban Chính Mình
không chỉ như một món quà, mà còn như một điều kiện cần thiết để làm cho việc
con người đón nhận món quà đó có thể xảy ra (x. Foundations of Christian Faith,
London 1978, 128).
[8] Thánh Irênê,
chẳng hạn, đề cập đến các khái niệm này trong cuốn Adversus Haereses III, ii
& iv.
[9] x. K. Rahner
& K.H. Weger, Our Chritian Faith,
[10] John A. Hardon
cho rằng việc học giáo lý là nền tảng cho việc sống chứng tá đức tin cách anh
hùng (x. “The Deposit of Faith and the Catechism” trên trang Web The Real
Presence Association.
http://www.therealpresence.org/archives/Catechism/Catechism_008.htm truy cập
ngày 29.05.2012).
[11] Một ví dụ điển
hình là nội dung giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong khi các triết gia Hy Lạp
cho rằng Thiên Chúa phải là Đấng duy nhất, vì, một cách suy lý, tự khái niệm
Thiên Chúa cho thấy Ngài phải là Đấng duy nhất, nếu không ta sẽ có một khái
niệm tự mâu thuẫn nội tại. Á Đông thì dựa vào kinh nghiệm khá phổ quát rằng mọi
vật đều được sinh ra từ hai vật khác mang tính âm dương bổ túc cho nhau, nên
rút ra kết luận rằng hai Nguyên Lý Âm Dương là nguồn gốc của vũ trụ và mọi loài.
Trong khi đó, giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi chẳng khớp với nguyên tắc suy lý
nào, cũng chẳng phù hợp với kinh nghiệm phổ quát nào, mà có vẻ “võ đoán”. Tại
sao Thiên Chúa lại là Ba Ngôi mà không phải là bốn hay năm ngôi? Tính chất “võ
đoán” này phát xuất từ chính kinh nghiệm và lời dạy của Đức Kitô về Thiên Chúa.
Nói cách đơn giản, chúng ta tin Thiên Chúa là duy nhất và là Ba Ngôi trước hết
là vìchính Đức Kitô đã kinh nghiệm, đã dạy như thế và làm cho ta có kinh nghiệm
đó về Thiên Chúa. Suy tư và diễn giải thần học có thể cho thấy kinh nghiệm này
phủ hợp với cấu trúc của thực tại hay của lịch sử, nhưng luôn phải khởi đi từ
kinh nghiệm này.
[12] x. Hans-Georg
Gadamer, Truth and Method,
[13] Kinh nghiệm
nhân sinh cho ta thấy động lực của tình yêu rất phức tạp. Chúng ta rất nhiều
khi yêu thương người khác không phải vì họ, mà vì sắc đẹp, tiền tài,… và phổ
thông nhất là vì chính mình.
Xét về việc tình yêu
có nhất thiết mang lại lợi ích cho người đựơc yêu, các bậc cha mẹ cũng có kinh
nghiệm là không phải cứ yêu thương mà chiều chuộng con thì sẽ có lợi cho sự
giáo dục của con. Bậc cha mẹ phải biết lựa chọn cách thức yêu thương thì mới có
thể mang lại lợi ích cho con cái được.
[14] Đây là tư tưởng
của Hans Urs von Balthasar, được Eamon
03.06.2012
Nguyễn Hai Tính, SJ Nguồn:
dongten.net