TIẾN TRÌNH DỰ TÒNG
(giaolyductin.org 25/02/13, 11:02 am)
TIẾN TRÌNH DỰ
TÒNG Theo "Nghi thức gia nhập Kitô giáo dành cho người lớn”
(Ordo initiationis christianae adultorum, 1972)
Ngay từ thời các Tông Đồ, để trở thành Kitô hữu, người ta
phải trải qua một hành trình khai tâm gồm nhiều giai đoạn. Hành trình này có
thể nhanh hay chậm, tùy theo đối tượng, nhưng luôn hội đủ những điều cốt yếu
sau: loan báo Lời Chúa, đón nhận Tin Mừng kèm theo là hối cải, tuyên xưng đức
tin, Rửa Tội, ban Thánh Thần, lãnh nhận Thánh Thể.[1]
Việc khai tâm này, trải qua các thời đại và theo những hoàn
cảnh khác nhau, đã có nhiều biến đổi. Vào các thế kỷ đầu tiên của Hội Thánh,
việc khai tâm Kitô giáo được triển khai đáng kể, với một giai đoạn dự tòng
lâu dài và một chuỗi các nghi thức dọn đường, đánh dấu con đường chuẩn bị của
thời kỳ dự tòng bằng những cột mốc phụng vụ và dẫn đến việc cử hành các bí tích
khai tâm Kitô giáo.[2]
Trong bài viết này, trước khi trình bày tiến trình dự tòng
theo “Nghi thức gia nhập Kitô giáo dành cho người lớn” (Ordo initiationis
christianae adultorum) do Thánh Bộ về Phượng Tự ban hành ngày 6.01.1972, thiết
tưởng chúng ta cũng nên lược lại một vài nét lịch sử về dự tòng và những biến
chuyển của nó: từ việc gia nhập cộng đoàn môn đệ Đức Kitô đến những ngày đầu
khai sinh Hội thánh, và sự thích ứng với công việc truyền giáo ngày nay, để
thấy ý nghĩa của tiến trình dự tòng mà Giáo Hội, người mẹ hiền đã ân cần chăm
lo cho con cái mình.
I. DỰ TÒNG QUA CÁC TRÌNH THUẬT TÂN
ƯỚC
Lộ trình gia nhập cộng đoàn các Tông đồ của Đức Kitô được
ghi dấu từ thời Tân ước, khởi đi từ việc Chúa Giêsu sai các Tông đồ trong Mc
16,15-16 và Mt 28,19-20, đây là những nét quan trọng của việc khai tâm Kitô
giáo. Việc đón nhận vào cộng đoàn các môn đệ là việc bảo đảm sự hiện diện của
Chúa và hoạt động cứu độ của Người, bao gồm việc loan báo Tin Mừng Đức Kitô
chịu chết và sống lại, sự tiếp nhận một giáo lý dựa trên lời đức tin và việc
thực hành đời sống Kitô hữu.
Chúng ta cũng thấy lộ trình này được hình thành trong ngày
lễ Ngũ Tuần (Cv 2,36-42). Trong đó có sự liên kết chặt chẽ giữa việc loan báo
Đức Kitô chết và sống lại với việc hoán cải, giáo lý, phép Rửa, ơn Thánh Thần,
việc thu nạp vào cộng đoàn, sự thông dự vào đời sống của cộng đoàn, lắng nghe
và lĩnh hội lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp thông huynh đệ, cử hành “bẻ
bánh”, cầu nguyện chung với nhau, làm chứng cho Tin Mừng.
Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy các bản văn Tân ước không cung
cấp những thông tin về thực hành thánh tẩy nơi các cộng đoàn, mà chỉ thuật lại
việc những người trở lại sau khi đã nghe loan báo (kerigma), chấp nhận tin,
được tháp nhập vào dân Thiên Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy, ân sủng Thánh Thần và
sự thông dự vào Thân Mình Đức Kitô (Cv 2,38; 1 Cr 10,1-4; Ef 5,26.29; Dt
6,4-5).
Thông qua những trình thuật Tông đồ công vụ, chúng ta còn thấy
nổi bật lên những điều kiện để được chịu Thánh Tẩy: tin và hoán cải, nghĩa là
gắn bó với Đức Kitô và sám hối, nhận biết Giáo Hội và chấp nhận là thành phần
của cộng đoàn; thỉnh nhân đối thoại và xét mình để kiểm thảo thái độ và tâm
tình của mình, sau hết là quyết định cuối cùng của vị hữu trách cộng
đoàn; việc tuyên xưng đức tin và phép Rửa (x. phép Rửa cho viên thái giám người
Ê-thi-óp trong Cv 8,26-38 và phép Rửa cho Phaolô trong Cv 9,9.17-18).
Liên kết với phụng vụ phép Rửa chúng ta thấy cử chỉ đặt tay
là dấu chỉ đặc biệt về ân sủng Thánh Thần (Dt 6,1-2) và việc những người được
rửa tội thông dự vào biến cố Ngũ Tuần. Phêrô và Gioan đặt tay trên những người
Samari đã được rửa tội, dấu hiệu này nói lên việc các Tông đồ xác nhận sứ mạng
của Philipphê tại Samari đồng thời cũng xác nhận phép Rửa tại đây không khác
phép Rửa và việc lãnh nhận Thánh Thần mà các Tông đồ đã thực hiện ở Giêrusalem
(Cv 8,14-17). Cũng thấy tương tự như thế trong việc Phaolô đã làm ở Êphêsô.
II. DỰ TÒNG TRONG
THỜI GIÁO HỘI SƠ KHAI
Giáo Hội thận trọng với những quy định của Tân ước và tìm
cách đưa những quy định đó vào trong các môi trường văn hóa khác nhau.
Một đặc điểm có tính cố định về tiến trình chịu phép Rửa
thời Giáo Hội sơ khai là việc hướng dẫn về nội dung đức tin và việc luyện tập
đời sống Kitô hữu trước khi chịu phép Rửa, cùng với sự đồng hành của cộng đoàn.
Việc huấn luyện những tín hữu mới, giữa thế kỷ thứ II và đầu thế kỷ III dẫn tới
việc thành lập một các rất chắc chắn sự thiết lập một địa vị đặc biệt của dự
tòng, như hình thức đặc biệt của việc trở thành Kitô hữu.
Một trong những chứng từ khá rõ nét của việc khai sinh dự
tòng đó là tư tưởng của thánh Giustinô, vị hộ giáo và tử đạo: “Những người nhận
biết và tin giáo huấn mà chúng ta dạy bảo và tuyên xưng là đích thực, rồi đưa
vào trong đời sống, chúng ta cầu nguyện và dạy họ cầu nguyện đồng thời xin ơn
tha thứ mọi tội lỗi, nhờ chay tịnh. Có như thế chúng ta mới dẫn họ đến nguồn
nước, nơi đó họ được tái sinh cũng như chúng ta đã được tái sinh… Việc tắm gội
trong nguồn nước này trở sẽ trở nên hữu hiệu cho những ai tin và ưng thuận,
chúng ta cũng dẫn họ đến nơi có cộng đoàn nhóm họp để ở đó họ được gọi là anh
em và cùng chúng ta dâng lời khẩn nguyện”.
Dự tòng trong thời sơ khai là như thế, đó là sự chỉ bảo dạy
dỗ chủ yếu là sự đồng hành của người trưởng thành trong hành trình đức tin, cho
đến khi người ứng viên lãnh các bí tích khai tâm: Rửa tội, Thêm sức và Thánh
Thể. Những bí tích khai tâm làm họ trở thành Kitô hữu, dẫn họ vào sự hiệp thông
trong thân thể Đức Kitô là Giáo Hội và đến sự tham dự trọn vẹn vào đời sống của
Giáo Hội.
Mặc dù có những hình thức khác nhau trong mỗi Giáo Hội địa
phương, tùy theo những hoàn cảnh khác nhau, nhưng giai đoạn dự tòng cũng có
những đặc điểm chung: quy định những giai đoạn huấn luyện trước khi lãnh bí
tích Thánh Tẩy, mở đầu là thời gian chuẩn bị hướng đến đức tin sắp lãnh nhận,
sau đó là kết thúc bằng thời gian suy tư kỹ lưỡng về kinh nghiệm bí tích.
Thật vậy, trong những thế kỷ đầu, hành trình trở thành Kitô
hữu phát triển trong hầu hết các Giáo Hội, gồm bốn giai đoạn:
- “truyền giáo” hoặc loan báo Tin Mừng, giai đoạn này
nhằm khơi dậy đức tin và hoán cải nơi dân ngoại nhờ việc rao giảng Tin Mừng;
đỉnh cao của thời kỳ này là việc gia nhập dự tòng sau cuộc khảo nghiệm về những
động lực và tâm tính của thỉnh nhân;
- “dự tòng”: thông thường kéo dài trong 3 năm, là
thời gian huấn luyện và thử thách, dưới sự hướng dẫn và đồng hành của một số
Kitô hữu trưởng thành trong đức tin; cuối chặng này, thường là một cuộc khảo
nghiệm về sự hoán cải đích thực của người dự tòng và về kiến thức đức tin đã
được học hỏi;
- “mùa Chay” là thời gian chuẩn bị cuối cùng về giáo
lý, việc hãm mình-thống hối và phụng vụ; thời gian này nhấn mạnh đến những nghi
thức mà đỉnh cao là việc cử hành bí tích Thánh Tẩy, Thêm sức và Thánh Thể trong
đêm Vọng Phục Sinh;
- “mùa Phục Sinh”: kéo dài trong tuần Bát nhật Phục
Sinh, khai triển giáo lý nhiệm huấn, gồm việc giải thích các dấu chỉ phụng vụ
và ý nghĩa các dấu chỉ trong đời sống Kitô hữu; hoàn tất việc tháp nhập hoàn
toàn vào đời sống cộng đoàn.
Thể chế về dự tòng phát triển đáng kể vào thế kỷ thứ III và
thứ IV, nhưng bị khủng hoảng vào nửa sau thế kỷ V, cho đến khi từ từ mất hẳn
vào những thế kỷ tiếp sau đó do ảnh hưởng phần lớn những nguyên nhân như: ngoài
sự khái quát hóa bí tích Rửa tội cho các trẻ nhỏ và sự trở lại của đám đông dân
chúng do xu thời, là việc quyết định của vua chúa và của các nhà lãnh đạo hoặc
vì sự cưỡng ép của các hoàng đế theo Kitô giáo, sự phát triển mối liên hệ giữa
Giáo Hội và xã hội dân sự, những sự kiện này dẫn đến việc thực hành đồng nhất
giữa tiến trình khai tâm Kitô giáo với tiến trình phức tạp xã hội hóa trong một
xã hội có khuynh hướng tự xưng là Kitô hữu.
III. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II VÀ
SỰ PHỤC HƯNG DỰ TÒNG
Từ Công đồng Vaticanô II, đối với Giáo Hội La tinh, “thời
kỳ dự tòng dành cho người ở tuổi vị thành niên chia thành nhiều giai đoạn” đã
được tái lập. Các nghi thức của thời kỳ này được trình bày trong quyển “Ordo
initiationis christianae adultorum (1972)” - “Nghi thức gia nhập Kitô
giáo dành cho người lớn (NGKL)”. Ngoài ra Công đồng còn cho phép, “ngoài
những yếu tố đã có trong truyền thống Kitô giáo”, các xứ truyền giáo được chấp
nhận “cả những yếu tố vẫn thấy được sử dụng nơi mỗi dân tộc, miễn là các yếu tố
đó có thể được thích nghi với nghi thức Kitô giáo”.[3]
Vì vậy, ngày nay trong tất cả các nghi lễ Latinh và Đông
phương, việc khai tâm Kitô giáo dành cho người lớn bắt đầu bằng việc họ bước
vào giai đoạn dự tòng, và việc khai tâm đó đạt tới tột đỉnh trong một cuộc cử
hành duy nhất gồm cả ba bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể.[4]
Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo chỉ rõ: thời gian dự tòng
“không đơn giản chỉ là một giảng khoá để trình bày giáo thuyết và các giới răn,
nhưng là chương trình đào tạo toàn bộ đời sống Kitô hữu, đồng thời cũng là thời
gian tập sự cần thiết để giúp các môn sinh sống mối tương giao với Thầy của
mình là Chúa Kitô. Vì thế, các dự tòng phải được khai tâm đầy đủ về mầu nhiệm
cứu độ, thực tập nếp sống theo Tin Mừng, và qua các nghi lễ thánh được cử hành
theo từng giai đoạn nối tiếp nhau[5], họ được dẫn nhập
vào đời sống đức tin, phụng vụ và bác ái của đoàn Dân Thiên Chúa.
Sau đó, khi đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm nhờ
việc lãnh nhận các bí tích gia nhập Kitô giáo, cùng chết, cùng được mai táng và
cùng sống lại với Chúa Kitô, họ lãnh nhận Thánh Thần làm cho họ trở nên nghĩa
tử, và cùng với toàn thể Dân Chúa, họ cử hành lễ tưởng niệm việc Chúa chịu chết
và sống lại”.[6]
Mục vụ dành cho việc khai tâm Kitô giáo của người lớn trong
thời kỳ dự tòng không nhắm đến việc phục hưng một thể chế của Giáo Hội thời sơ
khai mà người ta thường nói là thời huy hoàng Kitô giáo, nhưng là đáp ứng những
vấn đề của con người và Giáo Hội hôm nay, nhờ việc kết hợp với kho tàng kinh
nghiệm sống động của Giáo Hội qua hàng thế kỷ, nhưng trên hết vẫn là muốn trung
thành hoàn toàn với những quy định của Tân ước về việc gia nhập cộng đoàn những
người theo Chúa Kitô. (Còn tiếp).
Md. Phạm Thúy
Ban giáo lý Gp Tp.HCM
[1]GLHTCG, 1229.
[2]GLHTCG, 1230.
[3]GLHTCG, 1232; CĐ
VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 64 và
71.
[4]GLHTCG, 1233
[5]x. CĐ VATICANÔ II, Hiến
chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 64-65.
[6] CĐ VATICANÔ II, Sắc
lệnh về hoạt động truyền giáo Ad gentes, 14.