YOUCAT
YOUTH CATECHISM
GIỚI THIỆU
SÁCH GIÁO LƯ CHO NGƯỜI TRẺ
Antôn Nguyễn Mạnh Đồng,
Nhà Hưu Dưỡng Linh Mục Cần Thơ
Lời nói đầu
Đầu năm
2013 tôi gửi lên mạng bài giới thiệu cuốn “Giáo
lư cho người trẻ” (YOUCAT) là sách giáo lư hiện
đại nhất của Hội Thánh Công Giáo. Độc
giả chưa biết có thể mở Google
tìm: “Youcat Sách Giáo
lý hiện đại nhất của HTCG”. Cuốn
này được phát hành vào ngày Giới Trẻ Thế
Giới ở
Nay
theo yêu cầu của bạn bè, tôi dành thời gian sẵn
có ở nhà hưu để chuyển ư toàn bộ sách Youcat,
và xin lần lượt chia sẻ từng phần một
để sử dụng nội bộ, v́ tôi cho rằng
đây là tài liệu rất cần thiết, rất hữu
ích để người trẻ học giáo lư. Chia sẻ
này nhằm giới thiệu chi tiết hơn những
đặc điểm độc đáo của Youcat mà
độc giả có thể kiểm chứng
được nhờ có sẵn bản văn Youcat trong
tay.
Độc
giả đă biết, các soạn giả của Youcat là
Đức Hồng Y Schönborn, người đă có mặt
trong việc soạn Sách Giáo lư Hội thánh Công giáo (SGLCG)
năm 1992, soạn Sách Toát yếu Giáo lư Hội thánh Công giáo
(TYGLHTCG) năm 2005, và ngài cũng đứng đầu
trong việc soạn thảo Youcat (2011), cùng với một
số giám mục, linh mục, giáo sư, cũng như
hơn 60 bạn trẻ nam nữ, tất cả làm việc
với nhau trong năm năm trời. Nhờ đó
Đức Hồng Y có thể nắm được toàn
bộ giáo lư trong cả ba cuốn giáo lư của Hội
thánh. Tập thể trên đă nhất trí với nhau
soạn một sách giáo lư mà Đức Bênêđictô XVI
gọi là “hơi khác thường”. Ngài giải thích: “hơi khác thường về
nội dung cũng như về cách tŕnh bày nội dung”.
Về nội dung là tŕnh bày những ǵ Hội Thánh Công
giáo hôm nay đang tin, và tŕnh bày một đức tin không
hề mâu thuẫn với lư trí. Về cách tŕnh bày
nội dung là các tác giả tuy khác nhau nhưng cùng
nhất trí thực hiện một sách giáo lư dễ tiếp
thu, dễ hiểu cho mọi người trẻ trên
khắp năm Châu ở thời hiện đại. Lúc
đầu Đức Bênêđictô XVI có lo âu và nghi ngờ
về sự thành công của nó, nhưng cuối cùng ngài cho
rằng: “đối với
ngài đây là một phép lạ”. (xin xem thư giới
thiệu Youcat của Đức Bênêđictô XVI).
Như vậy
đặc điểm độc đáo nổi cộm
nhất của Youcat đă được Đức
Bênêđictô XVI nêu bật ngay từ đầu thư
giới thiệu, đó chính là ở nội dung của
Youcat và cách tŕnh bày nội dung.
II. NỘI DUNG VÀ CÁCH TR̀NH
BÀY NỘI DUNG CỦA YOUCAT ĐƯỢC THỰC
HIỆN CÁCH NÀO?
Nội dung là đức tin
lănh nhận từ các Thánh Tông Đồ, được tŕnh
bày một cách tổng hợp và hữu cơ thành
bốn cột trụ cổ điển trong SGLHTCG: Hội
thánh tin ǵ, Hội thánh cử hành các mầu nhiệm thế
nào, Hội thánh sống theo đời sống
Chúa Kitô thế nào, Hội thánh cầu
nguyện thế nào. C̣n cách tŕnh bày nội dung là
lo liệu sao để giúp mọi người dễ
hiểu trong trí, dễ cảm nghiệm trong ḷng, dễ
thực hành trong đời sống và dễ truyền bá cho
người khác. Nội dung và cách tŕnh bày nội dung
được Youcat thực hiện cách độc đáo
và cụ thể như sau:
Youcat phân phối
nội dung trong 527 câu hỏi (Sách Toát yếu có 598 câu
hỏi). Mỗi câu hỏi là một điểm giáo lư,
được coi như là một vấn đề
và được tŕnh bày thành ba phần: phần
hỏi, phần trả lời, phần giải nghĩa.
Sau phần trả lời có ghi số để tham
chiếu SGLHTCG, sau phần giải nghĩa có ghi số tham
khảo các câu trong Youcat; như thế mỗi câu
đều vừa liên kết với nhau như một tổng
hợp vừa có quan hệ hữu cơ với
nhau trong Youcat. Thêm vào ba phần trên có các chứng từ
để minh họa cho vấn đề, nếu chứng
từ thuộc Kinh thánh th́ có kư hiệu cuốn sách , nếu là định nghĩa
th́ có kư hiệu dấu hỏi ?, nếu là trích tư tưởng hay giáo
huấn của Công đồng, của Giáo phụ,
của các Thánh hay các danh nhân… th́ có kư hiệu hai ngoặc
kép } ~. Nhờ các chứng từ này
mà ư nghĩa của vấn đề gíáo lư
được thêm phong phú, sáng sủa, vừa gắn bó
với Lời Chúa, vừa gắn bó với truyền thống
sống động của Hội Thánh, vừa chứng
tỏ vấn đề giáo lư đă được
hiểu biết, được thực hiện bởi
nhiều người ở mọi thời mọi nơi.
Sách Youcat xếp các chứng từ
ở hai bên lề các câu hỏi thưa, bạn
đọc phải tìm thì mới gặp
chứng từ phù hợp với câu
hỏi thưa. Trong tập này, tôi đã tìm
trước các chứng từ phù
hợp với câu hỏi thưa, rồi xếp ngay
sau mỗi câu hỏi thưa cho tiện. Để đi sâu
vào chi tiết, xin trích hai thí dụ:
a/ Thí dụ thứ nhất về
đức tin:
- Sách Toát
yếu câu 27:
H. Tin vào Thiên Chúa
có ư nghĩa cụ thể ǵ cho con người ?
T. Tin có nghĩa là
gắn bó với chính Thiên Chúa, tin tưởng phó thác
bản thân cho Người và chấp nhận tất cả
những chân lư do Người mặc khải v́ chính Người
là chân lư. Tin có nghĩa là tin kính Thiên Chúa duy nhất trong Ba
Ngôi vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
- Sách Toát
yếu câu 28:
H. Đức tin
có những đặc điểm nào?
T. Đức tin
là hồng ân Thiên Chúa ban không và tất cả
những ai khiêm tốn cầu xin đều có thể
đạt tới. Hành vi đức tin là một hành vi
nhân linh, nghĩa là một hành vi của lư trí con
người, được ḷng muốn thúc đẩy do
tác động của Thiên Chúa, tự do chấp nhận
chân lư Thiên Chúa. Ngoài ra đức tin c̣n có đặc tính
chắc chắn v́ đặt nền tảng trên Lời
Chúa; đức tin hành động nhờ đức ái (Gl
5,6), đức tin luôn tăng triển, đặc biệt
nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Ngay
từ bây giờ đức tin cho chúng ta nếm
trước niềm vui trên trời. Sách Toát yếu
chỉ có thế.
C̣n sách Youcat đă không
lấy lại hai câu này để nói về đức tin,
mà tŕnh bày theo cách độc đáo của Youcat. Một
nữ sinh viên công giáo Đức đang dọn tiến
sĩ ngữ học, là thành viên của nhóm soạn thảo
Youcat, có chia sẻ một chuyện: có hai đứa
bạn hỏi cô: có đức tin nghĩa là ǵ? Cô suy
nghĩ và cảm thấy bất lực không biết
trả lời sao. Cô mở mục lục các từ của
Youcat, t́m chữ Tin. Youcat chỉ cho cô xem câu 21-22.
Youcat câu 22:
22.
Tin nghĩa là ǵ ?
- Tin là đi vào một
tương quan cá vị với Thiên Chúa, và sẵn sàng
đón nhận tất cả những ǵ Thiên Chúa mặc
khải về chính Người. [150-152]
Rồi Youcat giải nghĩa:
– Khi bắt đầu tin con người
thường cảm thấy ḿnh rúng động hoặc âu
lo. Con người cảm thấy thế giới hữu
h́nh và mọi việc thường xảy ra chưa phải
là tất cả. Khi tin là họ cảm thấy xúc động
v́ đụng chạm đến một mầu nhiệm.
Rồi họ lần theo các dấu vết đưa dẫn
họ tới sự hiện hữu của Thiên Chúa và dần
dần thấy ḿnh tin tưởng để nói với
Người, rồi cuối cùng họ tự nguyện
bước vào mối tương quan với Người.
Trong Tin Mừng thánh Gioan ta đọc rằng: “Thiên Chúa, chưa có ai thấy bao
giờ, chỉ có Con duy nhất ở trong ḷng Cha là Chúa Kitô,
chính Người đă tỏ cho chúng ta biêt” (Ga 1, 18).
Đó là lư do tại sao phải tin Chúa Giêsu, Con Thiên
Chúa, nếu ta muốn biết Thiên Chúa muốn truyền ǵ
cho ta. Tin có nghĩa là đồng thuận với Chúa
Giêsu và “đặt cược”
tất cả đời ḿnh cho Người.
Đọc xong Youcat, cô sinh viên thú
thật rằng: “Tôi hết sức vui sướng v́ đă
t́m được lời lẽ để trả lời
cho hai bạn tôi biết tin là ǵ.”
Thêm vào câu hỏi và câu trả lời
số 22 Youcat c̣n có các chứng từ:
«
Tin nghĩa là chịu đựng sự
khó hiểu của Thiên Chúa suốt đời. Karl Rahner (1904-1984, thần học gia
Đức)
«
Tôi không tin nếu tôi không nhận thấy
rằng tin là điều hợp lư. Thánh Tôma Aquinô
« Tin vào
Thiên Chúa là thấy rằng trong các thực tại của thế
giới tất cả chưa được nói đến.
Tin vào Thiên Chúa là thấy rằng cuộc đời có một
ư nghĩa. Ludwig Wittgenstein
(1889-1951, triết gia Áo)
«
Cái mà ta tin là
điều quan trọng, nhưng c̣n quan trọng hơn nữa là ta tin vào ai. Đức
Bênêđictô XVI, 28-05-2005
«
Tôi tin để hiểu. Thánh Anselmô Cantorbery (1033-1109, tiến
sĩ Hội Thánh, thần học gia Trung Cổ)
«
Tôi không có tưởng tượng.
Tôi không thể h́nh dung ra Thiên Chúa Cha. Tất cả điều
tôi có thể thấy là Chúa Giêsu. Chân phước Têrêsa Calcutta (1910-1997,
sáng lập ḍng. Đoạt giải Nobel về ḥa b́nh 1979)
- Youcat
câu 307:
307. Đức
tin là ǵ?
- Đức tin là nhân đức giúp ta nhận Thiên Chúa
có thật, nhận biết sự thật của
Người và tự gắn bó bản thân với
Người [1814 -1816, 1842]
Youcat giải
nghĩa:
– Đức tin là con
đường Thiên Chúa làm ra dẫn ta đến sự thật
là chính Thiên Chúa. Bởi v́ chính Chúa Giêsu là con đường,
là sự thật, là sự sống (Ga 14, 6), đức tin
không chỉ là một thái độ, một tin tưởng
nào đó. Một đàng đức tin chất chứa những
dữ liệu chính xác: Hội Thánh tuyên xưng trong Kinh Tin
Kính, và Hội Thánh có trách nhiệm bảo vệ. Người
nào đón nhận ơn đức tin, nghĩa là muốn
tin, th́ tuyên bố chấp nhận đức tin đă
được gìn giữ trung thành qua các thời đại
và nền văn hóa. Đàng khác, tin cũng là dấn thân vào
một quan hệ tin tưởng với Thiên Chúa, hết
ḷng, hết trí, hết khả năng. Bởi v́ điều
quan trọng là “đức tin
hành động nhờ đức ái” (Gl 5, 6). Không
phải qua nhũng lời nói hay, mà ta thấy
được người nào đó tin ở Thiên Chúa t́nh
yêu, nhưng chỉ bằng những hành động do
t́nh yêu của họ.
Thêm vào câu hỏi, trả lời và giải nghĩa,
Youcat c̣n có một chứng từ:
Hiện
nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả
ba đều tồn tại nhưng cao trọng hơn cả
là đức mến. 1Cr 13,
13
-Youcat câu 21:
21. Đức
tin là ǵ?
- Đức
tin là nhận biết và trông cậy. Đức tin có
bảy đặc điểm:
1/ Đức tin
là ơn ban tuyệt vời của Thiên Chúa, ta nhận
được khi ta sốt sắng cầu xin.
2/ Đức tin
là sức mạnh siêu nhiên tuyệt đối cần
thiết để ta được cứu độ.
3/ Đức tin
là đ̣i có ư muốn tự do và sự hiểu biết rơ
ràng khi ta đón nhận lời mời của Thiên Chúa.
4/ Đức tin
là sự chắc chắn tuyệt đối v́ chính Chúa
Giêsu bảo đảm như thế.
5/
Đức tin không trọn
vẹn, bao lâu đức tin chưa được thể
hiện qua những hành động bác ái.
6/
Đức tin lớn
dần khi ta luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đáp
lại Lời Người trong cầu nguyện.
7/ Đức tin
cho ta nếm cảm trước niềm vui thiên đàng ngay
ở đời này. [153-165,
179-180, 183-184].
Rồi
Youcat giải thích:
–
Đức tin c̣n hơn là hiểu
biết rất nhiều, đức tin là tin tưởng và
trông cậy. Chính đức tin đă làm ông Abraham di cư
sang đất hứa, đă khiến cho các vị tử
đạo trung thành cho đến chết; và ngày nay,
đức tin c̣n nâng đỡ các Kitô hữu bị bách hại.
Đức tin chiếm đoạt toàn bộ con người.
Youcat
c̣n thêm hai chứng từ nũa:
Nếu anh em có ḷng tin lớn bằng
hạt cải th́ dù anh em có bảo cây dâu này: hăy bật rễ
lên, xuống dưới biển kia mà mọc nó cũng sẽ
vâng lời anh em. Lc
17, 6
«
Bản tính của đức tin là
đón nhận một chân lý mà trí tuệ ḿnh không đạt
tới được; đức tin ấy phải nhất
thiết dựa vào chứng từ. Chân phước John Henry Newman (1801-1890)
Tóm
lại sau khi đối chiếu Sách Toát yếu với
Youcat, ta thấy cả hai đều dựa vào sách GLHTCG
để cho biết đức tin là gắn bó, là có tương
quan cá vị với Thiên Chúa, là chấp nhận mọi
chân lư của Thiên Chúa, là nếm trước niềm vui
ở trên trời. Tuy nhiên, Sách Toát yếu chú ư hơn
đến khía cạnh hiểu biết của đức
tin, c̣n Youcat coi đức tin là thái độ của toàn
bộ con người bao gồm cả trí tuệ, tấm
ḷng và hành động. Youcat có điểm độc
đáo khác mà Toát yếu không có, đó là đề cao vai
tṛ cốt yếu của Chúa Kitô trong đức tin, Chúa
Kitô là con đường, là sự thật, là sự
sống… và tin cũng là tin vào Chúa Kitô. C̣n điểm
độc đáo nữa mà Toát yếu không có đó là các
chứng từ về đức tin. Youcat có tới chín
chứng từ, được chọn từ Kinh
thánh và các văn sĩ công giáo, các
chứng từ giúp cho ư nghĩa của đức
tin phong phú và sâu rộng hơn, vừa gắn bó với lời
Chúa, vừa tác động tới đời sống con
người. Ông Abraham, các Thánh Tử Đạo, những
người bị bách hại chứng tỏ đức
tin đă được mọi nguời hiểu biết
trong trí, cảm nghiệm trong ḷng, thể
hiện trong đời sống và c̣n truyền bá cho
người khác nữa, ở mọi thời và mọi
nơi.
b/ Thí dụ thứ 2: về vấn
đề Trời hay Thiên đàng.
- Sách Toát
yếu câu 209.
H. Trời (Thiên
đàng) là ǵ?
T. Trời là t́nh trạng hạnh phúc
tối cao và vĩnh viễn. Những ai chết trong ân
sủng của Thiên Chúa và không cần bất cứ sự
thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được quy
tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các Thiên thần và các
Thánh. Như vậy, các Ngài làm thành Hội Thánh thiên quốc,
nơi các ngài được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt
giáp mặt” (1Cr 13, 12); các ngài sống trong sự hiệp
thông t́nh yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta.
«
Sự sống thật và theo bản
chất cốt tại điều này: Thiên Chúa Cha, nhờ
Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần đổ tràn các hồng ân
Thiên Quốc trên tất cả không trừ ai. Nhờ ḷng
thương xót của Người, cả chúng ta là những
con người, chúng ta cũng đă lănh nhận lời hứa
vĩnh viễn là được sống đời
đời. Thánh Xirilô thành Giêrusalem.
Sách Toát yếu
chỉ có thế.
- Youcat câu 52:
52. Trời là ǵ?
- Trời là nơi ở
của Thiên Chúa, nơi ở của các Thiên thần và các
Thánh, là đích điểm của việc sáng tạo. Khi ta
nói “trời và đất” là nói đến toàn thể
những thực tại được Thiên Chúa dựng
nên. [325-327]
Rồi Youcat giải nghĩa:
–
Trời không phải
là một nơi nhất định nào đó trong vũ trụ.
Trời là một t́nh trạng trong đời sống
mai sau. Trời là nơi Chúa thực thi ư muốn của
Người mà không có ǵ chống đối. Trời là
nơi có cuộc sống mănh liệt nhất, hạnh phúc
nhất, một cuộc sống không thể nào có được
ở trần gian. Khi nhờ Chúa giúp, ta chờ đợi ở
đó điều mắt chưa từng thấy, tai
chưa từng nghe, ḷng chưa hề cảm được,
đó lại là điều mà Thiên Chúa muốn dọn sẵn
cho những ai mến yêu Người (1Cr 2, 9). à 158, 285
Và Youcat thêm 2 chứng từ:
« Chúa Giêsu đă đến để dạy
ta rằng Người muốn cho mọi người
được lên Thiên đàng, c̣n hỏa ngục mà ngày nay
người ta ít nói đến nhưng nó vẫn có đó, và nó chỉ là
đời đời đối với tất cả những
ai khép ḷng ḿnh lại trước t́nh yêu của Người.
Đức
Bênêdictô XVI 8-5-2007
«
Chúng ta thường luyến nhớ đến niềm
vui trên trời, nơi Chúa ngự. Chính mỗi người
đều có khả năng ở với Chúa trên trời
ngay từ bây giờ, và ngay lúc này được hưởng
hạnh phúc với Chúa. Nhưng được hạnh phúc
với Chúa ngay từ bây giờ nghĩa là ǵ: là giúp đỡ
như Chúa giúp đỡ, cho đi như Chúa cho đi, phục
vụ như Chúa phục vụ, cứu độ như
Chúa cứu độ, yêu mến như Chúa yêu mến, ở
với Chúa suốt 24/24 giờ và gặp gỡ Chúa trong bộ
quần áo khủng khiếp nhất. Bởi v́ Chúa đă
nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một
trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi làm cho chính Ta vậy” Mt 25,40. Mẹ Têrêsa
- Youcat câu 158.
158. Trời là ǵ?
- Trời là thời gian vô tận của t́nh yêu không bao
giờ c̣n xa cách giữa Thiên Chúa và linh hồn để yêu
mến và t́m kiếm Người suốt đời.
Được hiệp nhất với tất cả các
Thiên thần và các Thánh, linh hồn được vui
hưởng hạnh phúc luôn luôn được ở
gần Chúa và với Chúa. Trời là thiên đàng
[1023-1024,1053]
Rồi Youcat giải
nghĩa :
–
Một đôi
bạn trẻ nh́n nhau với đôi mắt t́nh tứ, một
em bé đang bú, mắt t́m cái nh́n của mẹ như muốn
giữ lấy măi măi nụ cười… đó là những thí dụ có thể cho ta một ư
tưởng về trời. Việc có thể nh́n Thiên Chúa “mặt
đối mặt” là như một thời gian độc
nhất của t́nh yêu kéo dài đến vô tận à 52
và thêm 2 chứng từ:
Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ
như trong một tấm gương, mai sau sẽ
được giáp mặt. Bây giờ tôi chỉ biết có
ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết,
như Thiên Chúa biết tôi. 1 Cr 13,12
« Người ta có thể bị mất của
cải đời này trái ư muốn của ḿnh, nhưng sẽ
không bao giờ mất của cải đời đời
mà không hoàn toàn do ư muốn của ḿnh. Thánh Augustinô
Tóm lại, qua 2 ví dụ độc giả có thể
thấy rơ nội dung và cách tŕnh bày nội dung của Youcat
được thực hiện cách độc đáo
bằng chia thành nhiều vấn đề, và mỗi
vấn đề gồm câu hỏi, câu trả lời, câu
giải nghĩa, lại c̣n kèm theo các chứng từ
để minh họa, lấy từ Kinh Thánh và Truyền
Thống sống động trong Hội Thánh (Công
đồng, giáo phụ, các Thánh, các văn sĩ…). Thực
ra, cả Sách Toát yếu và Youcat phải theo
những ǵ cốt yếu mà truyền thống cổ
điển đă để lại, Nhưng Sách Toát
yếu theo hướng tŕnh bày cổ điển
của thần học kinh viện, nhắm tới suy
luận của trí tuệ để hiểu biết
hơn ; c̣n Youcat cũng nhằm hiểu biết
nhưng hiểu biết dựa vào kinh nghiệm sống
hằng ngày, và hiểu biết để thực hành trong
đời sống hằng ngày, nghĩa là hiểu biết
trong trí và cảm nghiệm trong ḷng, rồi đem thực
hành trong đời sống và c̣n lo truyền bá cho người
thân cận nữa.
III. TRONG NỘI
DUNG VÀ TRONG CÁCH TRÌNH BÀY NỘI DUNG YOUCAT
CÓ ĐẶC ĐIỂM ĐỘC ĐÁO
NÀO ?
Chúng ta biết cả 2 Sách Toát yếu và Youcat đều
phải theo sát nội dung truyền thống cổ
điển của Hội thánh trong Kinh Tin kính, 7 Bí tích, 10
Điều răn, và kinh lạy Cha. Tuy nhiên trong nội
dung, Youcat chọn lựa những chủ đề,
những câu hỏi, câu trả lời, câu giải nghĩa phù
hợp với nhu cầu thời hiện đại mà
trước đây chưa sách nào nói tới,
chẳng hạn : dùng chất gây nghiện,
làm chết êm dịu, hôn nhân đồng tính,
thụ thai mướn, toàn cầu hóa, nghiên
cứu tế bào gốc, học thuyết xã
hội công giáo ... Còn trong cách tŕnh bày nội dung,
Youcat chọn những chứng từ xưa cũng như
nay phù hợp với chủ đề để minh
họa và giúp áp dụng vào đời sống thường
ngày.
3.1 Những câu hỏi, câu trả
lời và giải nghĩa độc đáo.
Chỉ
riêng phần I về Kinh Tin Kính, đă có khoảng 20 câu
trên 165 câu (Toát yếu không có ).
Câu
41 . Khoa học có làm cho Đấng Tạo hóa thành ra dư
thừa không ?
Câu
42. Có thể vừa chấp nhận tiến hóa vừa tin
vào Đấng Tạo hóa không ?
Câu
43. Thế giới này có phải là sản phẩm của
t́nh cờ không ?
Câu
51. Nếu Thiên Chúa biết mọi sự và làm được
mọi sự, sao không loại bỏ sự dữ ?
Câu
64. Tại sao Thiên Chúa tạo nên con người có nam có
nữ ?
Câu
65. Người có đồng tính luyến ái th́ sao ?
Câu 86. Tại sao Chúa Giêsu đă chờ
đến 30 tuổi mới đi giảng
đạo ?
Câu
101. Tại sao Chúa Giêsu phải cứu chuộc bằng cái
chết mà không dùng cách khác ?
Câu
130. Các Kitô hữu ‘không công giáo’ có là anh chị em với
ta không ?
Câu
136. Hội thánh nh́n thế nào về các tôn giáo khác ?
Câu
140. Tại sao Hội thánh không là một tổ chức
dân chủ ?
Câu
158. Trời là ǵ ?
Câu
161. Hỏa ngục là ǵ ?
Câu
162. Nếu Thiên Chúa là t́nh yêu th́ tại sao có hỏa
ngục ?
3.2 Những
chứng từ độc đáo
Được chọn trong Kinh thánh, trong các tài liệu
của Công đồng, các Giáo phụ, các Thánh, các văn
sĩ công giáo, các danh nhân thế giới đạo
đời, để minh họa cho ư nghĩa chủ
đề, đồng thời soi sáng cho cách thực
hiện giáo lư trong đời sống hôm nay. Đúng
như Thư gửi Do thái đã
viết : « Chúng
ta được ngần ấy nhân chứng
đức tin như đám mây bao quanh » (Dt
12, 1) nhân chứng hay chứng từ bao
giờ cũng thu hút hấp dẫn hơn lý
luận. Sách Toát yếu phần I có 16 chứng
từ trên 217 câu, c̣n Youcat có 266 chứng từ trên 165
câu. Cần lưu ư rằng việc lựa chọn các
chứng từ cho phù hợp với chủ đề không
phải đơn giản, không phải có sẵn, mà
cần rất nhiều công sức để đọc
Kinh thánh, Công đồng, các Thánh… rồi chọn lựa
những chứng từ phù hợp với chủ
đề và theo đúng chủ đích của ḿnh là
để minh họa, khuyến khích thực hành. Mặc dù
các chứng từ chỉ có hạn: Toát yếu chỉ có 19
chứng từ trên 598 câu, Youcat có tới 815 chứng từ
trên 527 câu ; trong đó danh nhân ngoài công giáo chỉ có hai
ông là Gandhi (Ấn độ ) câu 330, và ông Lă Bất Vi (Tàu)
câu 370. Thực ra bên Á đông c̣n nhiều chứng
từ của Khổng Tử, Lăo Tử… ở Việt Nam
nhiều chứng từ của các Thánh Tử đạo).
Thế mà tôi đọc trong mạng có dịch giả Youcat
nói rằng : ‘chỉ
dịch câu hỏi và câu trả lời, không dịch hết
phần giải nghĩa thêm và các lời trích dẫn bên
cạnh, như thế công phu của các người
soạn đi t́m ṭi các chứng từ làm thành một kho
những tư tưởng và kinh nghiệm sống
độc đáo đă trở thành công dă tràng, vừa
bỏ mất tính cách độc đáo của Youcat,
vừa gây thiệt tḥi cho độc giả. Chỉ
cần chú ư đến các chứng từ trong hai ví dụ
trên cũng thấy được.
3.3 Những h́nh
ảnh minh họa.
Ngoài các chứng từ Youcat c̣n dùng rất nhiều h́nh
ảnh, h́nh chụp, các hoạt h́nh… để minh họa
cho chủ đề giáo lư. Trong thời hiện đại
vi tính ngày nay, h́nh ảnh là một ngôn ngữ vừa
hấp dẫn vừa có khả năng diễn tả
gấp nhiều lần ngôn ngữ, Toát yếu cũng có
nhiều h́nh ảnh mầu, nghệ thuật, có giá trị
nhưng quá ít chỉ có tất cả 16. C̣n Youcat (bản
tiếng Pháp) th́ có thể nói trong 300 trang sách, không có
trang nào mà không có h́nh ảnh trừ 20 trang mục
lục: h́nh ảnh hoặc lớn hoặc nhỏ, h́nh
chụp các bức họa, h́nh chụp các cảnh sống,
các nơi sống, có màu hay đen trắng, cả các
hoạt h́nh rất linh động… các h́nh ảnh diễn
tả theo chủ đề các câu trong kinh Tin kính, 7 Bí tích,
10 Điều răn, kinh lạy Cha. Các h́nh ảnh tạo
cơ hội cho độc giả chiêm ngắm,
thưởng thức, qua cái đẹp và nghệ thuật,
các biến cố quan trọng trong mầu nhiệm cứu
độ (Cựu ước lẫn Tân ước).
Đây là đặc điểm độc đáo đáng
kể của Youcat.
ĐỂ KẾT THÚC
Đây là giới thiệu Youcat cho đến
nơi đến chốn, xin độc giả dẹp
bỏ thành kiến vốn có về giáo lư, v́ ngay từ
nhỏ đa số đă phải nhồi nhét giáo lư
để lănh các Bí tích, nó đă gây ấn tượng sâu
để ngày nay hễ nói đến giáo lư, ta chỉ
nghĩ đến chuyện giáo lư cho trẻ con, chuyện
đă xưa rồi, không liên quan đến ḿnh. Sách Youcat
phải giúp ta quét sạch thành kiến đó, để ta
đổi mới tư duy và
nhận định rằng Sách Youcat không phải là
sách cho trẻ con mà cho người trẻ thời hiện
đại ngày nay. Tuy nó
không phải là một thứ bách khoa từ điển về Kitô giáo hoặc một
thứ tổng luận thần học về đức
tin Kitô giáo nhưng Youcat có đặc điểm này: đó
là một sách tŕnh bày đức tin Kitô giáo một cách
tổng hợp, hữu cơ và ngắn gọn, với
những định nghĩa, giải nghĩa, và chứng
từ phù hợp với thời nay. Một sách giúp ta suy
niệm và cầu nguyện, giúp ta hiểu biết
đức tin sâu sắc hơn, giúp ta sống đức
tin đích thực hơn, biết cách trả lời
hoặc truyền bá đức tin, cũng như có
những lời lẽ thích hợp để tŕnh bày
những vấn đề hóc búa lắt léo về
đức tin, về t́nh yêu, về xă hội, về nhân
quyền, về sự sống … nhất là những vần
đề của thời hiện đại mà xưa nay vốn
được coi là cấm kỵ khó nói như về t́nh
dục, hôn nhân đồng tính, thông dâm, măi dâm, khiêu dâm,
thủ dâm … cho người trẻ hôm nay.
Đối với các giáo sĩ, tu sĩ, giáo lư viên, các
bậc cha mẹ thầy cô, Youcat là tài liệu hiện
đại nhất, độc đáo nhất, vừa
ngắn ngọn vừa đầy đủ, vừa
hợp thời, có đủ lời Kinh thánh, tài liệu
Công đồng, tư tưởng các Giáo phụ, các Thánh,
các danh sĩ và các danh nhân, giúp thông truyền giáo lư, nhất
là giúp dựa theo các giải nghĩa hoặc chứng
từ của Youcat mà nảy mầm ra các chứng từ
về người và việc có thể có ở địa
phương ḿnh, chắc chắn sẽ góp phần
đẩy mạnh Tái Phúc Âm hóa ở địa
phương ḿnh.
Tuần Thánh 2013
PHẦN I
KINH TIN KÍNH
(Câu 1 –
165)
Chương 1. Con người hướng
mở về Thiên Chúa.
Chương 2. Thiên Chúa đến gặp gỡ
con người.
Chương
3. Con
người đáp lời Thiên Chúa.
Đoạn II. Kitô hữu tuyên xưng đức
tin.
Chương 1. Tôi tin Thiên Chúa Cha
Chương 2. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con Một
Thiên
Chúa.
Chương 3. Tôi tin kính Đức Chúa thánh
Thần.
Chương 4. Tôi tin Hội Thánh Công giáo.
Chương 5. Tôi tin phép tha tội.
Chương 6. Tôi tin hằng sống vậy
ĐOẠN I: TẠI SAO CHÚNG
TA TIN
1.
Ta sống ở đời này
để làm ǵ ?
-
Ta sống ở đời này để
nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để làm việc lành theo ư Thiên Chúa, và để một
ngày nào đó sẽ đạt tới quê Trời. [1-3, 358]
–
Được làm người có
nghĩa là đến từ Thiên Chúa và đi về với
Thiên Chúa. Nguồn gốc của con người đến
từ cao xa hơn là từ cha mẹ họ, nghĩa là
đến từ Thiên Chúa, nơi có chứa hạnh phúc của
cả trời đất, nơi ta được chờ
đón để hưởng hạnh phúc đời đời
vô hạn định. Ta đang sống ở trần gian
này. Đôi khi, ta thấy gần gũi với Đấng Tạo
hóa, nhưng thường là chẳng thấy ǵ. Để dẫn
ta vào đúng hướng tốt, Thiên Chúa đă sai con của
Người là Chúa Giêsu để giải thoát ta khỏi tội,
cứu ta khỏi mọi sự dữ và dẫn ta vào sự
sống thật không sai lầm. Người “là Con Đường, là Sự
Thật, là Sự Sống”. (Ga 14,6) à 285
Thiên Chúa muốn cho mọi
người được ơn cứu rỗi và nhận
biết sự thật. 1Tm 2, 4
«
Nói về chuyện của loài
người, ta thường bảo rằng phải hiểu
biết chúng để yêu thích chúng. Nói về chuyện thần
thiêng, ta bảo rằng phải yêu mến chúng để hiểu
biết chúng. Blaise Pascal,
(1623-1662, nhà toán học và triết học Pháp)
2.
Tại sao Thiên Chúa dựng nên ta ?
-
Thiên Chúa dựng nên ta v́ Người yêu thương ta
một cách tự ư và vô vị lợi. [1-3]
–
Khi yêu, trái tim ta đầy tràn chan
chứa. Nó muốn chia sẻ niềm vui cho những người
khác. Ta có được như vậy là do Đấng Tạo
hóa. Mặc dầu Thiên Chúa là một mầu nhiệm, ta vẫn
có thể từ kinh nghiệm loài người của ta mà gợi
nghĩ ra Người, và có thể nói: Người tạo
dựng nên ta do t́nh yêu Người “quá đầy”. Người
muốn chia sẻ niềm vui của Người cho ta là những
thụ tạo của t́nh yêu Người.
Thiên Chúa là t́nh yêu. 1Ga
4,16
«
Giới hạn của
t́nh yêu là yêu không giới hạn. Thánh Phanxicô Salêxiô
(1567-1622, giám mục, linh hướng, lập ḍng và tiến
sĩ Hội Thánh)
«
T́nh yêu là t́m
được niềm vui trong sự tốt lành; sự tốt
lành là lư do duy nhất để yêu. Yêu là muốn làm điều
tốt lành cho người ta. Thánh Tôma Aquinô (1225-1274, linh hướng
thời Trung cổ, tiến sĩ Hội thánh, và nhà thần
học lớn)
Chương
1. Con người hướng mở về Thiên Chúa
3.
Tại sao chúng ta t́m kiếm Thiên
Chúa ?
-
V́ Thiên Chúa đă đặt trong ḷng ta ước mong t́m
Người và gặp được Người. Thánh
Augustinô nói: "Thiên Chúa đă
dựng nên chúng con cho Thiên Chúa, và ḷng chúng con không nghỉ yên
cho tới khi được nghỉ yên trong Thiên Chúa."
Sự ước mong t́m Thiên Chúa đó ta gọi là tôn giáo. [27-30]
–
Con người đi t́m Thiên Chúa là
chuyện tự nhiên. Mọi khát vọng sự thật và hạnh
phúc rốt cuộc chỉ là đi t́m đến Đấng
chứa đựng nó một cách tuyệt đối, đến
thỏa măn nó một cách tuyệt đối, và Đấng
có trách nhiệm về nó một cách tuyệt đối. Một
người chỉ hoàn toàn là chính ḿnh khi họ đă t́m
được Thiên Chúa. “Ai t́m
sự thật là t́m Thiên Chúa, dù họ có ư thức hay không”
Thánh Edith Stein. à 5, 281-285
Tôn
giáo. Nói đến “tôn giáo” ta thường hiểu
rằng đó là chuyện quan hệ với thần linh. Một
người có tôn giáo nhận biết rằng trong sức mạnh
đă tạo dựng họ và tạo dựng thế giới
có một cái ǵ là thần linh, một sức mạnh mà họ
phải lệ thuộc vào và họ phải hướng tới.
Trong lối sống của họ, họ sẽ t́m cách làm
đẹp ḷng thần linh và tỏ ḷng tôn kính thần linh.
«
Nguồn vui của Kitô hữu là biết
chắc rằng họ được Thiên Chúa yêu
thương, yêu thương thân mật bởi Đấng
Tạo hóa… yêu thương bằng một t́nh yêu đam mê
và trung tín, một t́nh yêu lớn hơn là những bất
trung và tội lỗi của ta, một t́nh yêu luôn tha thứ.
Đức Bênêđictô
XVI, 01- 06- 2006
4.
Ta có thể biết được
Thiên Chúa hiện hữu nhờ lư trí không ?
- Có,
nhờ lư trí, ta có thể nhận biết Thiên Chúa cách
chắc chắn. (vd. Con cái bởi cha mẹ, cha mẹ
bởi ông bà... ông bà đầu tiên phải có Ai sinh ra, làm ra
?). [31-36, 44-47]
–
Thế giới không thể nào tự
ḿnh mà có một nguồn gốc hay mục đích. Trong tất
cả mọi hiện hữu, vẫn c̣n những ǵ mà
người ta không thấy được. Trật tự,
sự tốt đẹp và sự phát triển của thế
giới hướng cái nh́n đến một cái ǵ đó
vượt quá chúng ta. Chúng hướng ta tới Thiên Chúa. Mọi
con người đều mở ra cho sự thật, sự
tốt, sự đẹp. Họ nghe tiếng lương
tâm trong ḷng, tiếng này thúc đẩy họ đến sự
lành và ngăn ngừa họ khỏi sự dữ. Ai có khôn
ngoan để theo dấu vết đó là t́m được
Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con
người để họ t́m cách hết ḿnh ḍ dẫm
sao cho có thể t́m thấy Người; tuy rằng Thiên Chúa
không xa mỗi người chúng ta. V́ chính ở nơi Thiên
Chúa mà ta sống, cử động và hiện hữu. Cv
17, 27- 28
«
Sức mạnh chính của con
người là lư trí. Mục đích tối cao của lư trí
là nhận biết Thiên Chúa. Thánh
Albertô Cả (1200-1280, ḍng Đôminicô, giảng dạy nhiều
môn, tiến sĩ Hội thánh và nhà thần học lớn)
5.
Tại sao có
người lại từ chối sự hiện hữu
của Thiên Chúa, đang khi người ta có thể nhận
biết Người bằng lư trí ?
-
V́ nhận biết Thiên Chúa vô h́nh là một thách đố
lớn đối với tâm trí con người, khiến
cho không ít người đă tháo lui. Đàng khác, một
số người không muốn biết Thiên Chúa, v́ họ
không muốn thay đổi cuộc sống. Bất cứ
ai nói rằng đặt vấn đề Thiên Chúa là vô
nghĩa lư, đó là kiểu nói vội vă cho qua chuyện,
họ không muốn bàn tới. (Vd. người vô thần
chính cống không tin nhận Thiên Chúa) [37-38] à 357
«
Có những người đă
đích thân đi đến chỗ thấu triệt một
cách dễ dàng cái nguyên tắc cho rằng, trong lănh vực thần
học, tất cả những ǵ họ không muốn nó là sự
thật đều là sai lạc và ít là đáng hồ nghi. Đức Piô XII, Humani Generis
6.
Ta có thể thực sự hiểu
biết và có thể nói đúng về Thiên Chúa không ?
-
Với trí khôn hữu hạn, con người không thể
hiểu thấu sự cao cả vô cùng của Thiên Chúa.
Nhưng ta vẫn có thể nói đúng về Thiên Chúa. [39-43,
48]
–
Để có thể nói đúng về
Thiên Chúa, ta cần ư thức rằng ngôn ngữ của ta
không thể thích đáng với sự cao cả của Thiên
Chúa. V́ thế cần phải thanh tẩy và cải tiến
không ngừng ngôn ngữ của ta về Thiên Chúa.
«
Tất cả những ǵ không thể
hiểu được ít nhằm để người ta
không hiểu được, cho bằng nhằm để
người ta hiểu nhiều hơn. Blaise Pascal
Chương
2. Thiên Chúa đến gặp gỡ
con người
7.
Thiên Chúa có phải tỏ ḿnh ra
để ta có thể biết Người là ai không ?
-
Trí khôn ta có thể biết
Thiên Chúa hiện hữu, nhưng không thể biết
thực sự Thiên Chúa là ai. Tuy nhiên Thiên Chúa thật sự
muốn cho ta nhận biết Người, nên Người
đă tự tỏ ḿnh ra cho ta. [50-53, 68-69]
–
Thiên Chúa không bị buộc phải
tự mặc khải cho ta. Người mặc khải chỉ
v́ yêu thương. Cũng như trong t́nh yêu loài người,
ta chỉ có thể biết được sự ǵ của
người ḿnh yêu khi họ mở ḷng ra cho ta. Đối
với Thiên Chúa ta cũng chỉ đạt tới chỗ
hiểu biết một chút ǵ đó về các tư tưởng
sâu kín nhất của Người, bởi v́ người là
Đấng vĩnh cửu và cao siêu, Người đă chỉ
v́ yêu mà đă tỏ lộ cho ta…Từ khi tạo dựng,
qua các tổ phụ và tiên tri cho đến mặc khải
sau cùng qua Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Thiên
Chúa đă không ngừng nói với loài người. Thiên Chúa
đă mở ḷng cho ta và cho phép ta chiêm ngắm bản tính sâu
sắc nhất của Người, nhờ Đức Giêsu
Kitô.
«
Dù giữa Đấng Tạo hóa và
thụ tạo có một sự giống nhau rất lớn
ta vẫn phải lưu ư rằng c̣n có một sự khác biệt
nhau lớn hơn nữa. Công
đồng Latran IV, 1215
« Theo sự
khôn ngoan và tốt lành của Thiên Chúa, Người đă vui
ḷng tự mặc khải bản thân Người và cho ta biết
mầu nhiệm của ư định Người mà loài
người, nhờ Đức Kitô Ngôi Lời nhập thể,
có thể nhờ Chúa Thánh Thần đạt tới Chúa Cha
và được tham dự vào bản tính Thiên Chúa. Công đồng Vatican
II, Dei Verbum
8.
Thiên Chúa
tỏ ḿnh ra trong Cựu ước thế nào ?
-
Thiên Chúa tỏ ḿnh ra trong Cựu ước như là
Đấng dựng nên thế giới này v́ T́nh yêu, và
Người trung tín với loài người, cả
sau khi họ sa ngă phạm tội xa cách Người.
[54-64, 70-72]
–
Thiên Chúa tự mặc khải trong
lịch sử: Người đă kư giao ước với
ông Nôê để cứu độ mọi loài sinh vật. Rồi
kêu gọi ông Abraham để ông trở nên Cha của nhiều dân tộc (Kn 17,5) và Người
qua ông mà chúc phúc cho muôn dân trên
trái đất (Kn 12,3). Dân
Mặc khải là việc Thiên
Chúa biểu lộ bằng cách tự cởi mở, tự
bày tỏ và nói cho thế giới biết về sáng kiến
riêng của Người.
9.
Thiên Chúa tỏ ra điều ǵ
về chính Người khi gởi Con của Người
đến với chúng ta ?
-
Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta t́nh yêu
thương xót thẳm sâu của Người. [65-66, 73]
–
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa
vô h́nh trở nên hữu h́nh. Người trở nên người
như ta. Điều đó chứng tỏ t́nh yêu của
Chúa đi tới chỗ Người đă nhận lấy
trên ḿnh tất cả những ǵ đè nặng lên ta: Người
đi theo ta trên khắp các nẻo đường; Người
có mặt trong nỗi cô đơn, nỗi đau khổ và
nỗi âu lo của ta trước cái chết; Người
hiện diện ở những nơi mà ta không thể
đi xa hơn được để mở cửa sự
sống cho ta (như người cha đón đứa con
hoang đàng trong bước đường cùng của nó).
à 314
Nhập thể là hành vi Thiên
Chúa nhận lấy thân phận con người nơi Chúa
Giêsu Kitô. Nhập thể là nền tảng của đức
tin Kitô giáo và của niềm trông cậy nhân loại
được cứu độ.
«
Hạnh phúc mà bạn kiếm t́m, hạnh
phúc mà bạn có quyền hưởng có một tên, một
khuôn mặt: đó là Chúa Giêsu Kitô ở Nadaret. Đức Bênêđictô, 18-8-2005
«
Thiên Chúa đă nhận lấy vẻ
bề ngoài là loài người nơi Chúa Giêsu Kitô và trở
nên bạn hữu cũng như anh em với ta. Đức Bênêđictô XVI, 06- 09- 2008
10.
Qua Chúa Giêsu Kitô, mọi sự đă
được mặc khải trọn vẹn hay vẫn
c̣n tiếp tục sau khi Người về trời ?
- Thiên Chúa đă đích thân xuống
trần gian nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô là
Lời mặc khải sau cùng của Thiên Chúa. Nhờ
nghe Người nói, mọi người trong mọi
thời có thể nhận biết Thiên Chúa là ai, và biết
họ cần phải làm ǵ để được
cứu rỗi. [66-67]
–
Cùng với Tin Mừng của Chúa
Giêsu Kitô, Mặc khải của Thiên Chúa đă dứt khoát
và trọn vẹn. Để mặc khải đó soi sáng
ta. Chúa Thánh Thần dẫn dắt ta dần dần đi
sâu vào sự thật. Trong
đời sống của một số người, ánh
sáng của Chúa chiếu lên rất mạnh đến nỗi
họ thấy “trời mở
ra” (Kh 7, 56). Do đó mà có những nơi hành hương
lớn như: Đức Mẹ Guadalupe ở Mêxicô, hoặc
Đức Mẹ Lộ Đức bên Pháp. Những “mặc
khải riêng tư” của những người đó không
thể thay đổi Tin Mừng của Chúa Kitô, ta không buộc
phải tin, nhưng giúp ta hiểu Tin Mừng tốt
hơn. Hội thánh giúp ta đánh giá sự thật của
các mặc khải đó.
Thuở xưa, nhiều lần
nhiều cách Thiên Chúa đă phán dạy cha ông chúng ta qua các
ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đă
phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đă nhờ
Người mà dựng nên vũ trụ, đă đặt
Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật
muôn loài. Dt 1,1-2
«
Ngoài Chúa Giêsu Kitô, ta không biết ǵ về
đời sống ta, về cái chết của ta, cũng
chẳng biết ǵ về Thiên Chúa và về cả chính ta nữa.
Blaise Pascal
11.
Tại sao chúng ta phải loan
truyền đức tin ?
-
Chúng ta phải loan truyền
đức tin, v́ Chúa Giêsu đă truyền dạy: "Hăy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ" (Mt 28,19). [91]
–
Không một Kitô hữu thực thụ
nào lại bỏ mặc việc truyền bá đức tin
cho một ḿnh các nhà chuyên môn (thầy giáo, linh mục, nhà
truyền giáo). Ta là Kitô hữu để cho những người
khác, nghĩa là mỗi Kitô hữu thực thụ đều
muốn cho Thiên Chúa cũng đến với những
người khác nữa. Họ tự nhủ rằng: Chúa cần
đến tôi. Tôi được rửa tội, thêm sức
và trở nên người có trách nhiệm để các
người chung quanh tôi hiểu biết Thiên Chúa và tiến tới nhận biết
được sự thật (1 Tm 2,4). Mẹ Têrêsa
đă dùng một so sánh rất hay “Bạn thường thấy
những dây điện giăng trên đường lộ.
Khi không có ḍng điện chạy qua dây th́ đèn điện
không sáng. Chính bạn là dây điện. Thiên Chúa là ḍng điện.
Ta có khả năng để ḍng điện chạy qua ta
và ḍng điện ấy thắp sáng cho thế giới - à Giêsu - hoặc ta
từ chối không cho ḍng điện chạy qua, như thế
là ta phải chịu trách nhiệm về sự tối
tăm của trần gian.” à 123
Điều tôi đă lănh nhận
từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em. 1Cr
11,23
Truyền giáo: Truyền giáo là
lẽ sống của Hội thánh. Đó là lệnh Chúa Kitô
ban cho mọi Kitô hữu loan báo Tin Mừng bằng lời
nói và việc làm để mọi người đều
có thể tự do quyết định theo Chúa Kitô.
«
Thật là cần thiết, một
cách khẩn cấp phải có một thế hệ tông
đồ mới nổi lên, vừa bén rễ sâu trong lời
Chúa, vừa có hoàn cảnh mang lại câu trả lời cho
những câu hỏi của thời nay và vừa sẵn sàng
loan truyền Tin Mừng đi khắp nơi. Đức Bênêđictô XVI, 22-02-2006
12.
Làm sao ta biết được
đâu là đức tin chân chính ?
-
Chúng ta t́m thấy đức
tin chân chính trong Kinh Thánh và trong Truyền Thống sống
động của Hội Thánh (Thánh Truyền). [76, 80-82,
85-87, 97,100]
–
Kinh Thánh Tân Ước phát sinh từ
đức tin của Hội Thánh. Kinh Thánh và Thánh Truyền
liên kết với nhau chặt chẽ. Việc loan truyền
đức tin không dựa trước hết vào các văn
bản đâu. Ở thời Hội Thánh khởi đầu,
người ta nói rằng: “Trước khi Kinh Thánh
được viết trên các cuộn da th́ đă được
viết trong trái tim của Hội Thánh”. Các môn đệ và
tông đồ đă có kinh nghiệm về một đời
sống mới, dựa theo cách các ông sống cộng đồng
với Đức Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu sống lại, cộng
đồng các ngài đă tồn tại một cách khác,
đó là cởi mở đón nhận mọi người.
Các Kitô hữu đầu tiên “chuyên
cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp
thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu
nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Họ đă hiệp nhất
với nhau bằng cách để dành chỗ cho những
người khác. Cho đến hôm nay, đức tin vẫn
hoạt động như vậy. Các Kitô hữu mời các
người khác sống hiệp thông với Thiên Chúa. Trong Hội
Thánh Công Giáo, đời sống hiệp thông này luôn
được duy tŕ nguyên vẹn không đổi khác từ
thời các tông đồ.
« Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết với
nhau và thông truyền chặt chẽ với nhau. V́ cả hai
đều vọt ra từ một nguồn như nhau là
Thiên Chúa, làm thành một toàn thể và cùng hướng về
một mục đích. Công đồng Vatican
II, Dei Verbum
13.
Hội Thánh có thể sai lầm trong lănh vực
đức tin không ?
- Toàn
thể các tín hữu không thể sai lầm về
đức tin, v́ Chúa Giêsu đă hứa với các môn
đệ Người rằng: "Người sẽ ban Thần Chân lư đến
với họ, để giữ họ trong chân lư"
(Ga 14,17). [80-82, 85-87, 92, 100]
–
Cũng như các môn đệ
đă tin Chúa Giêsu với cả tấm ḷng, một Kitô hữu
cũng có thể tin cậy hoàn toàn vào Hội thánh khi đi
t́m con đường dẫn đến sự sống. V́
Chúa Giêsu Kitô đă đích thân ban lệnh cho các tông đồ
giảng dạy, Hội thánh cũng có một Huấn quyền
và Hội thánh không thể làm thinh. Thực ra, các cá nhân là chi
thể Hội thánh có thể sai lầm và c̣n phạm cả
những lỗi nặng, nhưng xét chung Hội thánh không
bao giờ có thể rớt ra ngoài chân lư của Chúa. Qua các
thế kỷ, Hội thánh mang một chân lư sống động
lớn hơn cả chính Hội thánh. Đó là kho tàng đức tin mà Hội
thánh phải giữ ǵn. Khi chân lư đó bị công khai nghi ngờ
hoặc bóp méo, Hội thánh được mời gọi phải
làm cho sáng lên “cái mà mọi
nơi, mọi thời và mọi người vẫn tin.”
Thánh Vincent Lérins (450)
Tông đồ (được
sai đi): Trong Tân ước, tiếng này được
dùng để chỉ mười hai người mà Chúa Giêsu
đă chọn làm những cộng tác viên thân cận và chứng
nhân của Người. Chính thánh Phaolô cũng đă tự
giới thiệu ḿnh là tông đồ được Chúa
Kitô kêu gọi.
Huấn quyền: Đây là sứ
vụ giáo huấn Chúa Kitô trao cho các tông đồ và những
người kế vị các Ngài, tất cả được
Chúa Thánh Thần trợ giúp để hoàn thành.
14.
Những ǵ Kinh Thánh viết có xác
thực không ?
-
“Các sách Kinh Thánh dạy sự
thật (chân lư) cách chắc chắc, trung tín, và không sai
lầm v́ đă được Chúa Thánh Thần linh hứng
và có Thiên Chúa là tác giả.” (Công đồng Vatican II,
Hiến chế Mặc Khải 11). [103-107]
–
Kinh thánh không phải đă có sẵn
từ trời rơi xuống và cũng không phải do Thiên
Chúa đọc cho các người máy (rôbot) chép lại. Trái lại
Thiên Chúa “đă chọn lựa những người và dùng họ
trong khả năng và phương tiện của họ
để khi chính Người hành động trong họ và
qua họ, họ viết ra như những tác giả
đích thực tất cả những ǵ Chúa muốn và chỉ
viết những điều đó thôi” (Vatican II, Hiến chế
Mặc khải 11). Muốn nhận ra bản văn nào là
thuộc Kinh thánh, cũng phải
để ư xem các bản văn đó có được Hội
thánh chấp nhận không. Cần phải có sự đồng
thuận trong các cộng đồng Kitô giáo: “Quả thật,
chính Thiên Chúa nói với ta qua bản văn - bản văn được
Chúa Thánh Thần linh hứng.” Trong số rất nhiều bản
văn của Hội Thánh sơ khởi, những bản
văn thực sự được Chúa Thánh Thần linh hứng
đều được quyết định từ thế
kỷ IV trong cái mà ta quen gọi là qui điển các sách Kinh
Thánh.
Linh hứng: Là ảnh hưởng
của Thiên Chúa trên các nhà viết Kinh Thánh, giúp ta có thể
coi chính Thiên Chúa như là tác giả của Kinh Thánh.
Quy điển: Là danh sách chính thức
do Hội thánh quy định sách nào là sách Kinh thánh Cựu và
Tân ước.
Kinh Thánh: Người Do
Thái và Kitô hữu dùng từ Kinh Thánh để chỉ bộ
Sách Thánh, được soạn thảo trong ṿng hơn một
ngàn năm, làm nên một tài liệu trung tâm của đức
tin. Kinh Thánh của Kitô giáo gồm nhiều tập hơn
Kinh Thánh của Do Thái, v́ Kinh Thánh Kitô giáo c̣n bao gồm bốn
sách Tin Mừng, các thư Thánh Phaolô, Sách Khải huyền và
các tập viết khác của Hội Thánh sơ khởi.
« Kinh Thánh là thư t́nh mà Thiên Chúa gởi cho
ta. Soren Kierkegaard (1813-1855, triết gia
Đan Mạch)
15.
Kinh Thánh có
thể là chân lư sao được, v́ trong đó có những
điều không chính xác ?
- Kinh
Thánh không có ư chuyển đạt cho ta những xác
định về lịch sử, hoặc những thông tin
về khoa học. Đàng khác, các người Thiên Chúa dùng
để viết Kinh Thánh là những người thời
đó. Họ chia sẻ những tư tưởng về
văn hóa của thời đó, và có thể phạm
những sai lầm của thời đó. Nhưng tất
cả những điều ǵ con người cần
biết về Thiên Chúa và về con đường cứu
độ đều được t́m thấy trong Kinh
Thánh cách chắc chắn, không thể sai lầm. [106-107, 109]
16.
Làm thế nào để đọc
Kinh Thánh cho đúng ?
-
Muốn đọc Kinh Thánh cho
đúng, cần đọc với tinh thần cầu
nguyện, nghĩa là cần Chúa Thánh Thần giúp đỡ,
v́ nhờ Chúa Thánh Thần mà Kinh Thánh được
viết ra. Kinh Thánh chính là Lời của Thiên Chúa, và
chứa đựng mặc khải của Thiên Chúa. [109-119,
137]
–
Kinh Thánh như một bức
thư dài Thiên Chúa gửi cho mỗi người chúng ta. Nên
ta phải đón nhận Kinh Thánh với ḷng yêu mến và
tôn trọng lớn lao: quan trọng trước hết là
đọc thực sự lá thư của Thiên Chúa, nghĩa
là không được lẩy ra các chi tiết mà bỏ qua
toàn bộ bản văn. Rồi ta phải giải nghĩa
sứ điệp đi từ điều là trung tâm và là mầu
nhiệm, đó là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà toàn bộ Kinh
Thánh kể cả Cựu ước nói đến. Đức
tin mà ta phải có để đọc Kinh Thánh là đức
tin sống động của Hội thánh là nơi đức
tin được xuất phát. à 491
«
Suy gẫm thường ngày Lời
Chúa và để cho Chúa Thánh Thần làm thầy của bạn,
bạn sẽ thấy tư tưởng của Chúa không phải
tư tưởng của loài người, bạn sẽ
đạt tới chiêm ngắm Thiên Chúa thật, và nh́n mọi
biến cố bằng con mắt của Chúa, bạn sẽ
được nếm một niềm vui dồi dào phát xuất
từ sự thật.
Đức Bênêđictô XVI, 22-02-2006
Các sách
Kinh Thánh:
Cựu
Ước 46 sách
Tân
Ước 27 sách
17.
Kinh Thánh Cựu
ước có ư nghĩa ǵ đối với các Kitô hữu ?
-
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ ḿnh là Đấng
Sáng Tạo và ǵn giữ thế giới, là Đấng lănh
đạo và Đấng huấn luyện của loài
người. Các sách Cựu Ước cũng là Lời Chúa
và là Kinh Thánh. Không có Cựu ước, ta không thể
hiểu về Chúa Kitô trong Tân Ước. [121-123, 128-130, 140]
–
Để dạy đức tin cho
ta, một lịch sử lớn bắt đầu từ Cựu
ước rồi tới khúc ngoặt quyết định
trong Tân ước và đi đến cùng đích với tận
thế và việc Chúa Kitô trở lại. Cựu ước
c̣n hơn là một lời chỉ mở đầu cho Tân
ước. Những điều răn và các lời tiên tri
cho Dân của Cựu ước và những lời hứa
cho cả nhân loại chứa đựng trong Cựu ước
không bao giờ bị hủy bỏ. Trong các sách Cựu
ước có một kho tàng các kinh nguyện và các bản
văn khôn ngoan không có ǵ thay thế được: đặc
biệt các Thánh vịnh là trung tâm của kinh nguyện hằng
ngày trong Hội thánh.
Cựu ước là phần đầu
của Kinh Thánh và là Sách Thánh của Do Thái. Cựu ước
của Hội thánh Công giáo gồm 46 sách: các sách lịch sử,
các sách tiên tri và văn chương khôn ngoan cùng với các
Thánh vịnh.
Tân ước: Phần thứ
hai của Kinh Thánh, bao gồm những bản văn riêng của
Kitô giáo, nghĩa là 4 Tin Mừng, Công vụ các Tông đồ,
mười bốn thư của thánh Phaolô, bảy thư
Công giáo và sách Khải huyền. (27 bản văn)
«
Kinh Thánh không được viết
để ta phê b́nh nhưng để Kinh thánh phê b́nh ta. Soren
Kierkegaard
«
Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của
Isaac, Thiên Chúa của Giacob không phải của những triết
gia và nhà thông thái… Chỉ t́m được Thiên Chúa nhờ
những đường lối mà Tin Mừng chỉ dạy.
Blaise Pascal, sau một mặc
khải của thần linh
18.
Kinh Thánh Tân
ước có ư nghĩa ǵ đối với các Kitô hữu ?
- Trong Tân
ước, sự mặc khải của Thiên Chúa đă
được trọn vẹn. Bốn
sách Phúc Âm theo thánh Matthêu, Marcô, Luca, và Gioan là trung tâm
của Kinh Thánh và là kho tàng quư giá nhất của Hội
Thánh. Trong đó Chúa Kitô tỏ ḿnh ra Người là Ai và
Người đến gặp gỡ chúng ta. Trong sách Công
vụ Tông đồ, ta học biết Hội Thánh thuở
ban đầu và hoạt động của Chúa Thánh
Thần trong Hội Thánh. Trong các thư các Tông đồ
viết, tất cả các hoàn cảnh của cuộc
sống con người được đặt trong ánh
sáng Chúa Kitô. Trong sách Khải huyền, ta thấy
trước cuộc tận thế. [124-127, 128-130, 140]
–
Chúa Giêsu là toàn bộ những ǵ
Thiên Chúa muốn nói với ta. Tất cả Cựu ước
sửa soạn cho việc Chúa Kitô nhập thể. Tất cả
các lời hứa của Thiên Chúa được hoàn tất
nơi Chúa Giêsu. Là Kitô hữu là phải luôn hiệp nhất
ngày càng chặt chẽ với Chúa Kitô. Muốn thế phải
đọc các Tin Mừng và sống theo. Bà Madeleine Delbrel nói
rằng: “Nhờ Lời của Người, Thiên Chúa nói với
ta. Người là ai và Người muốn ǵ; Người
nói một lần thay cho tất cả, Người nói cho ta
mỗi ngày...khi ta cầm Tin Mừng trong tay, ta phải nghỉ
rằng trong đó có chứa Ngôi Lời, muốn làm người
nơi ta, muốn chiếm đoạt ta để trái tim
Người ghép vào trái tim ta và tinh thần của Người
mắc nối vào tinh thần ta, để chúng ta lại bắt
đầu cuộc sống của Người trong một
nơi khác, một thời khác, một xă hội loài người
khác.”
«
Không biết Kinh Thánh
là không biết Chúa Kitô. Thánh Jérome (347- 419, giáo phụ, tiến
sĩ, nhà chú giải và dịch giả Kinh Thánh)
«
Chỉ khi ta gặp được
Thiên Chúa hằng sống trong Chúa Kitô, ta mới hiểu
được sự sống là ǵ. Không có ǵ đẹp
hơn là được nối kết lại, được
ngạc nhiên sửng sốt bởi Tin Mừng, bởi Chúa
Kitô. Đức
Bênêđictô XVI, 24-04-2005
19.
Kinh Thánh giữ vai tṛ nào trong
Hội Thánh ?
-
Hội Thánh múc lấy sự
sống và sức mạnh của ḿnh từ trong Kinh Thánh.
[103-104, 131-133, 141]
–
Ngoài sự hiện diện của
Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, Hội thánh không có sự tôn
sùng nào khác quan trọng hơn là tôn sùng sự hiện diện
của Chúa trong Kinh Thánh. Trong thánh lễ việc đọc
Tin Mừng được mọi người đứng
nghe v́ trong các lời lẽ loài người mà ta nghe, có chính
Thiên Chúa nói cho ta à 128
«
Kinh Thánh không thuộc về quá khứ.
Chúa Giêsu không nói cho thời quá khứ mà Người nói cho
hiện tại, người nói hôm nay với ta, Người
ban tặng ta ánh sáng, Người chỉ cho ta con đường
đến sự sống; Người hiến cho ta một
cộng đoàn, Người chuẩn bị cho ta như vậy
và mở đường b́nh an cho ta. Đức Bênêđictô XVI, 29-03-2000
«
Đọc Kinh Thánh
là hỏi ư kiến của Chúa Kitô. Thánh
Phanxicô Assidi (1182-1226, sáng lập ḍng, nhà thần bí)
Chương
3. Con người đáp lời Thiên Chúa
20.
Chúng ta có thể trả lời Thiên
Chúa thế nào khi Người nói với chúng ta ?
- Chúng ta trả lời Thiên Chúa khi
chúng ta tin Người. [142-149]
–
Người muốn
tin cần có một tấm ḷng biết nghe theo lương
tri (1V 3, 9). Thiên Chúa t́m tiếp xúc với ta bằng nhiều
cách. Mỗi lần gặp gỡ ai, mỗi lần thán phục
trước quang cảnh thiên nhiên, mỗi việc t́nh cờ
hiển nhiên, mỗi thách đố, mỗi đau khổ
đều có ẩn giấu một sứ điệp mà
Thiên Chúa muốn gửi ta. Một cách rơ ràng hơn, Người
muốn nói với ta qua Lời Người hoặc qua tiếng
lương tâm của ta. Người nói với ta như nói
với những người bạn. Như vậy, ta cần
trả lời Người, hoàn toàn trông cậy vào Người,
học hỏi để hiểu biết Người
hơn và đón nhận ư muốn Người không có giới
hạn.
21.
Đức tin
là ǵ ?
- Đức tin là nhận
biết và trông cậy. Đức tin có 7 đặc tính sau:
1/ Đức tin là ơn ban tuyệt vời của Thiên
Chúa, ta nhận được khi ta sốt sắng cầu
xin.
2/ Đức tin là sức mạnh siêu nhiên, tuyệt
đối cần thiết để ta được
cứu độ.
3/ Đức tin đ̣i phải có ư muốn tự do và
sự hiểu biết rơ ràng, khi ta đáp lại lời
mời của Thiên Chúa.
4/ Đức tin là sự chắc chắn tuyệt
đối, v́ chính Chúa Giêsu bảo đảm như
thế.
5/ Đức tin chỉ trọn vẹn, khi đức tin
được thể hiện qua những việc bác ái.
6/ Đức tin lớn dần khi ta luôn biết lắng
nghe Lời Chúa và đối thoại sống động
với Người trong cầu nguyện.
7/ Đức tin cho ta nếm cảm trước niềm
vui Thiên đàng ngay ở đời này. [153-165, 179-180,
183-184]
–
Đức tin
c̣n hơn là hiểu biết rất nhiều, đức tin
là một cậy trông. Chính đức tin đă làm cho Abraham
di cư sang Đất Hứa, đă khiến cho các vị
tử đạo trung thành cho đến chết; và ngày nay,
đức tin c̣n nâng đỡ các Kitô hữu bị bách hại.
Đức tin chiếm đoạt toàn bộ con người.
à 307
Nếu
anh em có ḷng tin lớn bằng hạt cải th́ dù anh em có bảo
cây dâu này: hăy bật rễ lên, xuống dưới biển
kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em. Lc 17,16
«
Đức tin tự bản tính là
chấp nhận một chân lư mà trí khôn không thể đạt
tới; đức tin dựa vào bằng chứng một
cách đơn giản và cần thiết.Chân phước John Henry Newman (1801 –
1890, trở lại Công giáo, sau làm Hồng y của Hội
Thánh Công giáo, triết gia Anh và thần học gia)
22.
Tin nghĩa là ǵ ?
-
Tin là đi vào một
tương quan cá vị với Thiên Chúa, và sẵn sàng
đón nhận tất cả những ǵ Thiên Chúa mặc
khải về chính Ngài. [150-152]
–
Khi bắt
đầu tin con người thường cảm thấy
ḿnh rung động hoặc âu lo. Con người cảm thấy
thế giới hữu h́nh và mọi việc thường xảy
ra chưa phải là tất cả. Khi tin là họ cảm thấy
xúc động v́ đụng chạm đến một mầu
nhiệm. Rồi họ lần theo các dấu vết
đưa dẫn họ tới sự hiện hữu của
Thiên Chúa và dần dần thấy ḿnh tin tưởng để
nói với Người, rồi cuối cùng họ tự
nguyện bước vào mối tương quan với
Người. Trong Tin Mừng thánh Gioan ta đọc rằng:
Thiên Chúa, chưa có ai thấy bao giờ; chỉ có Con duy nhất
ở trong ḷng Cha là Chúa Ki tô, chính Người mới dẫn
dắt cho họ hiểu biết Thiên Chúa. V́ thế ta phải
tin Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, nếu ta muốn biết
Thiên Chúa muốn nói ǵ với ta. Tin có nghĩa là đồng
thuận với Đức Giêsu và đặt cược
toàn bộ đời ḿnh cho Người.
« Tin nghĩa là chịu đựng sự khó
hiểu của Thiên Chúa suốt đời. Karl Rahner (1904-1984, thần
học gia Đức)
«
Tôi không tin nếu
tôi không nhận thấy rằng tin là điều hợp lư.
Thánh Tôma Aquinô
« Tin vào
Thiên Chúa là thấy rằng trong các thực tại của thế
giới tất cả chưa được nói đến.
Tin vào Thiên Chúa là thấy rằng cuộc đời có một
ư nghĩa. Ludwig Wittgenstein (1889-1951, triết gia Áo)
«
Cái mà ta tin là
điều quan trọng, nhưng c̣n quan trọng hơn nữa
là ta tin vào ai. Đức
Bênêđictô XVI, 28-05-2005
«
Tôi tin để hiểu. Thánh Anselmô Cantorbery (1033-1109, tiến sĩ Hội Thánh, thần
học gia Trung Cổ)
«
Tôi không có tưởng tượng.
Tôi không thể h́nh dung ra Thiên Chúa Cha. Tất cả điều
tôi có thể thấy là Chúa Giêsu. Chân phước Têrêsa Calcutta
(1910-1997,sáng lập ḍng. Đoạt giải Nobel về ḥa
b́nh 1979)
23.
Có sự xung khắc giữa
đức tin với khoa học không ?
-
Chẳng có sự xung khắc
nào giữa đức tin với khoa học mà không giải
quyết được, v́ không thể có 2 loại chân lư. [159]
–
Thiên Chúa đă
dự liệu cho có cả đức tin và khoa học để
giúp đỡ nhau. Đó là lí do tại sao đức tin Kitô
giáo khích lệ và cổ vũ các khoa học, kể cả
các khoa học tự nhiên. Nhờ đức tin, ta hiểu
biết các thực tại vượt quá khả năng của
trí tuệ ta, nhưng chúng lại có thật mặc dầu
không thể dùng lư trí đạt được. Đức
tin nhắc nhớ cho các khoa học rằng các khoa học
không được thay thế Thiên Chúa mà phải phục vụ
cho thế giới vạn vật và tôn trọng phẩm giá
của con người.
« Không ai có thể hiểu được các
thực tại thần linh hay nhân loại nếu không nghiêm
chỉnh học toán học trước. Thánh Augustinô (354-430, tiến
sĩ Hội Thánh, văn sĩ và thần học gia thời
Hội Thánh đầu tiên)
« Chúng tôi không thấy có xung khắc giữa
Thiên Chúa và khoa học. Cả hai bên không loại trừ nhau
như ngày nay có người tin như vậy hoặc nghi ngờ
như vậy, cả hai bổ túc cho nhau và chồng chéo lên
nhau. Max
Planck (1858-1947, nhà vật lư học, giải Nobel 1918, sáng lập
lư thuyết các quanta)
24.
Đức tin
của tôi có liên quan ǵ đến Hội Thánh ?
- Không
ai có thể tin một ḿnh, cũng như không ai tự
sống một ḿnh. Chúng ta nhận đức tin từ
Hội Thánh và sống đức tin trong t́nh hiệp thông
với những ai cùng chung niềm tin vào Thiên Chúa. [166-169,
181]
–
Đức tin
là một điều rất riêng của con người,
nhưng không phải v́ thế mà nó là chuyện riêng tư của
họ. Người muốn tin phải có thể nói “tôi”
cũng như nói “chúng tôi”, bởi v́ một đức tin
mà ta không thể chia sẻ hoặc
thông truyền th́ quả là vô lư. Cá nhân người tin tự
ư dính kết với “chúng tôi tin” của Hội Thánh. Chính là
từ Hội Thánh mà họ nhận được đức
tin. Qua các thế kỷ, Hội Thánh đă truyền bá đức
tin, đă bảo vệ khỏi mọi xuyên tạc và đă
để cho ánh sáng đức tin luôn không ngừng soi chiếu. Do đó, đức tin là tham gia vào
một xác tín tập thể. Đức tin của những
người khác nâng đỡ tôi, cũng như lửa
đức tin của tôi đốt lên hoặc làm cho mạnh
lên lửa của những người khác. Chữ “tôi” và
“chúng tôi” của đức tin được nhấn mạnh
bởi việc Hội Thánh dùng hai bản tuyên xưng đức
tin trong khi cử hành thánh lễ: kinh tin kính các thánh Tông đồ
bắt đầu bằng “Tôi tin” và kinh tin kính Công đồng
Nixê-Constantinople bắt đầu bằng “Chúng tôi tin” (h́nh
thức xưa nhất).
Ở
đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy,
th́ có Thầy ở đó giữa họ. Mt 18,20
Credo: Tiếng này dùng
để chỉ các kinh tuyên xưng đức tin của Hội
Thánh, trong đó các yếu tố chính của đức tin
được sắp xếp có trật tự.
ĐOẠN II: KITÔ HỮU TUYÊN
XƯNG ĐỨC TIN
25.
Tại sao đức tin đ̣i có
định nghĩa và cần công thức hóa thành những
tín biểu ?
-
Khi diễn tả Đức
tin, ta không nói những lời trống rỗng, nhưng là
nói một thực tại. Trải qua bao thế kỷ,
nội dung đức tin được Hội Thánh công
thức hóa trong kinh Tin kính. Qua kinh này, ta có thể chiêm
ngắm, suy gẫm, học hỏi, chia sẻ, cử hành và
sống thực tại đức tin. [170-174]
–
Không có công thức
cố định, nội dung của đức tin sẽ
rời rạc. V́ thế Hội Thánh rất chú trọng
đến một vài câu mà bản văn chính xác chỉ có
được trải qua nhiều khó khăn, cốt để
bảo vệ sứ điệp của Chúa Kitô khỏi những
hiểu lầm và sai lạc. Các công thức đức tin
đặc biệt quan trọng khi được dịch
sang các ngôn ngữ khác nhau mà vẫn không bị thay đổi
bản chất. Bởi v́ đức tin chung là nền tảng
cho sự hiệp nhất của Hội Thánh.
«
Hội Thánh cẩn
thận giữ ǵn [đức tin và sứ điệp của
các tông đồ], dường như Hội Thánh chỉ ở
trong một nhà duy nhất; cũng vậy Hội Thánh tin vào
các chân lư đó dường như Hội Thánh chỉ có một
linh hồn và một trái tim duy nhất; Hội Thánh nhất
trí công bố các chân lư, giảng dạy và thông truyền
chúng dường như Hội Thánh chỉ có một miệng
lưỡi. Thánh
Irênê ở
26.
Kinh Tin kính là ǵ ?
- Kinh
Tin kính là những công thức vắn tắt của
đức tin, để các tín hữu có thể cùng nhau
tuyên xưng chung một niềm tin. [185-188, 192-197]
–
Thư của
Thánh Phaolô đă chứa đựng nhiều công thức vắn
tắt. Kinh Tin Kính của các tông đồ mà Hội Thánh
ban đầu soạn ra, có giá trị đặc biệt v́
được coi là Kinh tóm tắt đức tin của các
tông đồ. C̣n Kinh Tin Kính của Công đồng Nixêa
cũng rất đáng tôn trọng v́ được xuất
phát từ các Công đồng của Hội Thánh (Công đồng
Nixêa 325, Công đồng Công-tan-tinốp 381). Cho đến
ngày nay, kinh này là nền chung cho các Kitô hữu Đông
cũng như Tây phương.
«
Ước mong
Kinh Tin Kính như là tấm gương để bạn
soi. Bạn hăy nh́n bạn trong đó: để xem bạn có
tin tất cả những ǵ bạn tuyên bố là bạn tin
không. Bạn hăy vui mừng mỗi ngày về đức tin
của bạn. Thánh
Augustinô
« Không ai sống một ḿnh, không ai tin một
ḿnh. Thiên Chúa nói với
ta. Người làm thế để tập họp ta lại.
Người thiết lập một cộng đồng là
dân Người, là Hội thánh Người. Sau khi Chúa Giêsu về
trời, Hội Thánh là dấu chỉ sự hiện diện
của Chúa trong trần gian. Basile de Césarée (thế kỷ
V, giám mục)
27.
Kinh Tin kính có
từ khi nào ?
-
Từ thời Chúa Giêsu, khi Người truyền
dạy các môn đệ Rửa tội cho những ai tin. Họ
phải công khai tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha,
Con và Thánh Thần. (à Ba Ngôi).
–
Nền móng của
tất cả việc tuyên xưng đức tin sau này là
tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Chúa và Người đă trao
cho những ai tin một sứ vụ: hăy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chua Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28,19). Tất cả
mọi người tuyên xưng đức tin của Hội
Thánh đều là khai triển đức tin vào Thiên Chúa Ba
Ngôi, bắt đầu luôn luôn là tuyên xưng Chúa Cha, Đấng
tạo thành trời đất và duy tŕ cho nó sống. Rồi
tiếp theo là Chúa Con, Đấng đă đem sự giải
thoát cho thế giới và cho mỗi người chúng ta. Cuối
cùng là Chúa Thánh Thần, Đấng là sự hiện diện
của Thiên Chúa trong Hội Thánh và trong thế giới.
28.
Kinh Tin kính Các
thánh tông đồ dạy ǵ ?
- Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng
dựng nên trời đất.(1)
Tôi tin kính Đức Chúa
Giêsu Kitô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi,(2)
bởi phép
Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh
bởi Bà Maria Đồng Trinh,(3)
chịu
nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh
trên cây Thánh giá, chết và táng xác,(4)
xuống
ngục Tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết
mà sống lại,(5)
lên
trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô
cùng, (6)
ngày sau bởi trời lại
xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.(7)
Tôi tin kính Đức Chúa
Thánh Thần.(8)
Tôi tin có Hội Thánh
hằng có ở khắp thế này. Các Thánh thông công.(9)
Tôi tin phép tha tội.(10)
Tôi tin xác loài người
ngày sau sống lại.(11)
Tôi tin hằng sống vậy.(12) Amen.
29.
Kinh Tin kính Công đồng Nixêa
(Nixêa-Côngtantinốp) dạy ǵ ?
- Tôi tin kính
một Thiên Chúa là Cha toàn năng,
Đấng tạo thành
trời đất, muôn vật hữu h́nh và vô h́nh.
Tôi tin kính
một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa,
Sinh bởi
Đức Chúa Cha từ trước muôn đời:
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh
Sáng bởi Ánh Sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa
thật.
Được sinh ra mà không phải
được tạo thành, đồng bản thể
với Đức Chúa Cha ;
nhờ Người mà muôn vật
được tạo thành.
V́ loài người chúng ta và
để cứu độ chúng ta,
Người đă từ trời
xuống thế;
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người
đă nhập thể trong ḷng
Trinh Nữ Maria,
và đă làm người.
Người chịu đóng đinh vào
thập giá v́ chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô,
Người
chịu khổ h́nh và mai táng.
Ngày thứ
ba, Người sống lại như lời Thánh Kinh,
Người
lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha,
và
Người sẽ lại đến trong vinh quang,
để
phán xét kẻ sống và kẻ chết,
Nước
Người sẽ không bao giờ cùng.
Tôi tin kính
Đức Chúa Thánh Thần,
là Thiên Chúa
và là Đấng ban sự sống;
Người
bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra.
Người được phụng thờ
và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con;
Người
đă dùng các tiên tri mà phán dạy.
Tôi tin Hội
Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
Tôi tuyên
xưng có một Phép Rửa để tha tội.
Tôi trông
đợi kẻ chết sống lại và sự sống
đời sau. Amen.
Chương
1. Tôi tin Thiên Chúa Cha
30. Tại
sao chúng ta tin chỉ có Một Thiên Chúa ?
-
Chúng ta tin chỉ có Một
Thiên Chúa, v́ theo chứng cớ Kinh Thánh, chỉ có một
Thiên Chúa, và theo luật lư luận (logic) chỉ có thể có
Một Thiên Chúa. [200-202, 228]
–
Giả như có hai Chúa th́ một
trong hai sẽ là giới hạn của nhau, không ai là không giới
hạn, không ai là hoàn hảo; do đó không ai trong hai là Thiên
Chúa (à Yahvê). Dân
Chúa Giêsu trả lời, "Điều
răn đứng đầu là, nghe đây, hỡi
Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa
duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết ḷng, hết linh hồn,
hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Mc
12,29-30
Độc thần: Giáo thuyết về
Thiên Chúa là duy nhất, tuyệt đối và có ngôi vị,
Người là nền móng cuối cùng của muôn vật.
Các tôn giáo độc thần là Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi
giáo.
31.
Tại sao Thiên Chúa tự cho ḿnh
một tên gọi ?
-
Thiên Chúa tự cho ḿnh một
tên gọi để ta được dễ dàng hơn khi
kêu cầu đến Người. [203-213, 230-231]
–
Thiên Chúa không muốn để không
ai biết được ḿnh. Người không muốn tôn
kính như một “Đấng Tối cao” mà người ta
chỉ cảm thấy hay đoán ra. Thiên Chúa muốn
được nhận biết và kêu cầu như một
Đấng hiện hữu thật và hoạt động.
Trong bụi gai đang cháy Thiên Chúa cho ông Môsê biết tên của
Người YHWH (Xh 3,14). Thiên Chúa tự làm cho dân có thể
đến với Người, tuy nhiên Người vẫn
là Thiên Chúa ẩn giấu, là mầu nhiệm đang có mặt.
Ở
Ông Môsê nói với
chúa: Tôi sẽ t́m đến dân Do Thái và nói với họ:
“Thiên Chúa của cha ông các người sai tôi đến với
các người”. Nhưng nếu họ hỏi: “Người
tên là ǵ ?” “Tôi sẽ nói với họ thế nào?”
Thiên Chúa bảo Môsê: “Ta là Đấng hiện hữu”. Rồi
nói thêm: Ngươi sẽ nói cho dân
YHWH/Yahvê: Là tên quan trọng
nhất Cựu ước dùng để gọi tên Thiên Chúa
(Xh 3,14). Có thể dịch là “Ta là”. Đối với dân Do
Thái cũng như Kitô hữu, tên ấy có ư chỉ Thiên Chúa
duy nhất của trái đất, Đấng sáng tạo,
Đấng duy tŕ cho có thể hiện hữu, Đấng
là đối tác của giao ước, Đấng giải
thoát khỏi nô lệ Ai Cập, Đấng xét xử và cứu
độ.
32.
Khi nói Thiên Chúa là Đấng Chân
thật có nghĩa là ǵ ?
-
Nghĩa là Thiên Chúa là sự Sáng, trong Thiên Chúa không có tối
tăm (1Ga 1, 5). Lời
của Chúa là sự thật (Cn 8,7). Luật của Người là sự thật (Tv
119, 142). Chính Chúa Giêsu bảo đảm về sự
thật của Thiên Chúa trước ṭa Philatô "Ta sinh ra, Ta đến thế gian
để làm chứng cho sự thật.“ (Ga 18, 37).
[214-217]
–
Không
đặt Thiên Chúa vào một tiến tŕnh thử nghiệm
v́ khoa học không thể lấy Thiên Chúa như một
đồ vật để khảo sát. Tuy nhiên chính Thiên
Chúa cũng chịu đặt trong một tiến tŕnh thử
nghiệm riêng biệt. Ta biết rằng Thiên Chúa là sự
thật, v́ Chúa Giêsu là Đấng tuyệt đối
đáng tin cậy. Người
là con đường, là sự thật, là sự sống
(Ga 14, 6). Tất cả những ai tin
cậy vào người có thể khám phá ra Người và có
kinh nghiệm về Người. Nếu Thiên Chúa không là “sự
thật”, đức tin và lư trí không thể nào đối
thoại được với Người. Tuy nhiên hai bên
có thể thỏa thuận được v́ Thiên Chúa là sự
thật và sự thật là Thiên Chúa.
«
Chúa Giêsu Kitô là
sự thật làm Người, lôi kéo thế giới đến
với Người. Ánh sáng từ Chúa Giêsu phát ra chính là sự
huy hoàng của sự thật. Mọi thứ sự thật
khác chỉ là một mảnh của sự thật là Chúa
Giêsu và phải phản chiếu về Người. Đức Bênêđictô XVI, 18-02-2006
33.
Khi nói Thiên Chúa là T́nh yêu có nghĩa là
ǵ ?
-
Nghĩa
là Thiên Chúa dựng nên mọi sự, bao bọc mọi
sự với ḷng nhân từ vô biên của Người.
Người không chỉ tuyên bố Người là T́nh yêu mà
c̣n làm chứng cho T́nh yêu: "Không
ai có T́nh yêu lớn hơn người đă chết cho
bạn ḿnh" (Ga 15,13). [218-221]
–
Không một tôn giáo nào nói như Kitô
giáo đă nói: Thiên Chúa là T́nh Yêu
(Ga 4, 8.16). Đức Tin quả quyết rất mạnh mẽ
như thế đến nỗi kinh nghiệm về đau
khổ và về sự dữ trên thế giới đă khiến
người ta phải hồ nghi rằng thực sự
Thiên Chúa có đúng là T́nh Yêu không. Ngay trong Cựu ước
Thiên Chúa đă dùng miệng tiên tri Isaia nói với dân Chúa rằng:
V́ ngươi có giá trước
mắt Ta, có giá trị và Ta yêu mến ngươi, Ta lấy
các dân thay mạng ngươi, Ta thế đất đai
thay cho ngươi. Đừng sợ, v́ có Ta ở với
ngươi (Is 43, 4-5). Người c̣n nói rằng: Người mẹ nào lại quên
con đẻ của ḿnh, cạn ḷng thương với con
dạ nó đă mang? Cho dù chúng quên được nữa th́
phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi. Này ta đă
khắc ngươi trên bàn tay ta (Is 49,14-15). Khi Chúa Giêsu hiến
ḿnh cho các bạn ḿnh trên thập giá, Người chứng
minh rằng những lời Người nói về t́nh yêu
Thiên Chúa không phải không có ư nghĩa ǵ.
«
Mẹ Têrêsa có kinh nghiệm rằng
t́nh yêu đích thực là phải khổ. Nó luôn luôn phải
làm khổ và cũng luôn phải đau khổ v́ yêu một
người nào đó; đau khổ v́ phải bỏ nhau,
người ta c̣n muốn chết cho người đó nữa.
Khi người ta kết hôn, họ phải từ bỏ mọi
sự để yêu nhau. Người mẹ khi sinh con phải
đau khổ nhiều. Chữ “t́nh yêu” đă bị người
ta hiểu sai quá nhiều và bị sử dụng sai quá nhiều.
Mẹ Têrêsa
34.
Bạn sẽ làm ǵ khi bạn đă
nhận biết Thiên Chúa ?
- Khi đă
nhận biết Thiên Chúa, bạn phải đặt Người
lên chỗ nhất trong cuộc đời bạn.
Được như thế, đời sống mới
của bạn sẽ bắt đầu. Bạn phải làm
cho người ta biết Kitô hữu c̣n yêu thương
cả kẻ thù nghịch của ḿnh. Nhận biết Thiên
Chúa mà chỉ gật đầu một chút th́ không
đủ. Kitô hữu c̣n phải chấp nhận sống
theo lối sống của Người. [222-227, 229]
–
Nhận biết Thiên Chúa là nhận
biết sự có mặt của Đấng đă tạo ra
chúng ta, đă muốn ta có, đă nh́n ta với t́nh yêu mến
từng giây phút, chúc phúc cho đời ta và ǵn giữ đời
ta, Đấng nắm trong tay trái đất và tất cả
những ǵ ta yêu thích, dẫn ta đến chỗ hoàn thiện,
chờ đợi ta nhẫn nại, muốn ta được
măn nguyện, ước mong ta luôn bên Người.
«
Thiên Chúa thật là mẹ ta cũng
như thật là cha của ta vậy. Chân phước Juliana de Norwich (1342–1413
nhà thần bí Anh)
« Lạy
Chúa là Thiên Chúa của con, hăy loại bỏ khỏi con những
ǵ làm con xa cách Chúa. Lạy Chúa là Chúa con, xin ban cho con tất
cả những ǵ lôi kéo con tới Chúa. Lạy Chúa là Chúa con, xin giữ lấy con cho con và hăy ban
cho con hoàn toàn cho Chúa. Thánh Nicôlas de Flice (1417-1487, nhà thần
bí, ẩn tu Thụy sĩ)
« Từ khi tôi biết là có Thiên Chúa, tôi không
thể làm ǵ khác hơn là chỉ sống cho Chúa. Chân Phước Charles
de Foucault (1858-1916, Kitô hữu ẩn tu trong sa mạc Sahara)
35.
Chúng ta tin vào 1
Thiên Chúa hay 3 Thiên Chúa ?
- Chúng
ta tin vào Một Thiên Chúa, trong Ba Ngôi. “Thiên Chúa
không đơn độc, nhưng hiệp thông trọn
vẹn với nhau” Đức Bênêđictô XVI, 22/5/2005. [232-236, 249-256, 261, 265-266]
–
Kitô hữu không cầu nguyện với
Ba Chúa khác nhau nhưng chỉ một Chúa duy nhất thôi,
Người là Ba Ngôi và chỉ là một Chúa thôi. Ta biết
được Thiên Chúa là Ba Ngôi nhờ Chúa Giêsu Kitô, Người
là Con và nói về Cha Người ở trên trời (Tôi với
Cha chỉ là một, Ga 10,30). Người cầu nguyện
Cha và ban cho ta Thánh Thần là T́nh Yêu giữa Cha và Con. V́ thế
chúng ta được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần. (Mt 28,19)
Ba ngôi: Chỉ có một
Thiên Chúa duy nhất nhưng Người lại là ba ngôi. Khi
muốn chú ư đến việc chỉ có một Chúa, ta dùng
Thiên Chúa ba ngôi; khi muốn nói đến ba ngôi vị khác
nhau, ta dùng Thiên Chúa là ba ngôi vị chứ không phải Thiên
Chúa có ba ngôi. Ta thấy khó có thể diễn tả mầu
nhiệm này.
«
Khi nói đến t́nh yêu là nói đến
Thiên Chúa ba ngôi, một ngôi yêu, một ngôi được yêu
và một ngôi là nguồn mạch của t́nh yêu. Thánh Augustinô
36.
Chúng ta có thể nhờ suy đoán
mà kết luận rằng Thiên Chúa là Ba ngôi không ?
-
Không. Thiên Chúa Ba ngôi là một
mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết
của trí khôn ta. Ta chỉ biết được nhờ
Chúa Kitô dạy cho. [237]
–
Chỉ dùng trí khôn mà
thôi con người không thể kết luận là có Thiên Chúa
Ba Ngôi được. Tuy nhiên mầu nhiệm này không tuột
khỏi lư trí khi con người đón nhận Mặc Khải
của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Nếu Thiên Chúa là cô
đơn và cô độc th́ Thiên Chúa không thể yêu
thương từ thuở đời đời được.
Nhờ Chúa Giêsu soi sáng, ta có thể thấy những dấu
vết của Thiên Chúa Ba Ngôi ngay trong Cựu ước (chẳng
hạn St 1,2; 18,2; 2S 23,2) và ngay cả trong vạn vật.
37.
Tại sao lại gọi Thiên Chúa là
"Cha "?
-
Ta tôn vinh Thiên Chúa là Cha,
trước hết v́ Người là Đấng Sáng
Tạo, và hằng yêu thương săn sóc các thụ
tạo của Người. Chúa Giêsu Con Thiên Chúa đă
dạy ta điều đó, hơn nữa, c̣n coi Cha
Người như là Cha chúng ta, và dạy ta thưa với
Người "Lạy Cha chúng con." [238-240]
–
Nhiều tôn giáo có trước Kitô
giáo đă gọi Thiên Chúa là “Cha”. Ở
«
Việc nhớ đến
người cha soi sáng căn tính sâu xa nhất của con
người: ta bởi đâu mà ra, ta là ai và phẩm giá cao
quư của ta. Chắc chắn ta bởi cha mẹ mà có và ta
là con của các ngài, nhưng ta cũng bởi Chúa mà có, Chúa
đă tạo dựng ta theo h́nh ảnh của Người
và cũng đă kêu gọi ta là con của Chúa. V́ thế, nguồn
gốc của mọi con người không do bất ngờ
hoặc t́nh cờ, mà do dự định của t́nh yêu
Thiên Chúa. Đó là một điều mà Chúa Giêsu Kitô Đấng
là Thiên Chúa và là người hoàn hảo đă mặc khải
cho ta. Người biết Người bởi ai mà có và bởi
ai mà tất cả chúng ta có: bởi t́nh yêu của Cha Người
và Cha của chúng ta. Đức Bênêđictô XVI, 09-07-2006
38.
Chúa Thánh Thần là Ai ?
-
Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ
Ba trong Ba Ngôi. Người là Thiên Chúa và chia sẻ cùng
một uy quyền như Ngôi Cha và Ngôi Con. [243-248, 263-264]
–
Khi ta khám phá ra thực tại về
Thiên Chúa trong ta, là ta nhờ ảnh hưởng của Chúa
Thánh Thần. Thiên Chúa đă sai
Thần khí của con ḿnh đến trong ḷng ta (Gl 4, 6)
để nghe lời ta đầy đủ. Trong Chúa Thánh Thần, một Kitô hữu được
một niềm vui sâu xa, một sự b́nh an bên trong và tự
do. Thần khí mà anh em đă lănh
nhận được đâu phải là tinh thần nô lệ,
khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng
là Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta
được kêu lên “Abba! Cha ơi!” (Rm 8, 15). Trong Chúa
Thánh Thần mà ta lănh nhận khi được rửa tội
và thêm sức, ta có thể nói với Thiên Chúa: “Cha ơi”.
à 113-120, 203-207, 310-311.
« Xin Chúa Thánh Thần Đấng sáng tạo
đến thăm chúng con. Xin soi sáng tâm hồn con cái của
Người. Xin đổ tràn đầy ḷng chúng con ân sủng
và ánh sáng. Người là Đấng tạo dựng mọi
sự bằng t́nh yêu. Thánh Raban Mawr, Ca vịnh Veni Greator, thế
kỷ IX
39.
Chúa Giêsu có
phải là Thiên Chúa không ? Người có thuộc về Ba
Ngôi không ?
- Đức Giêsu Nazaret là Ngôi
Con, Ngôi thứ Hai trong Ba Ngôi mà chúng ta kể tới
khi làm dấu Thánh giá: "Nhân
Danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). [243-260]
–
Hoặc Chúa Giêsu là kẻ lừa bịp
khi Người tự giới thiệu là Chủ ngày Sabbat
và cho phép người ta gọi Người là Chúa; hoặc
Người là Thiên Chúa thật. Giả sử Chúa Giêsu không
phải là Thiên Chúa, th́ Người đă mắc tội phạm
thánh khi Người tha thứ tội lỗi. Tội này là
tội đáng phải chết, trước mắt những
người đương thời. Nhờ các phép lạ
và các dấu hiệu, đặc biệt là Người
đă sống lại, mà các môn đệ khám phá ra ai thật
sự là Chúa Giê su và họ tôn thờ Người như
Chúa. Đó là Đức tin của Hội Thánh.
Anh em gọi Thầy là Thầy,
là Chúa, điều đó phải lắm v́ quả thật
Thầy là Thầy, là Chúa. Ga 13,13
V́ dưới gầm trời
này không có một danh nào khác đă được ban cho nhân
loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà
được cứu độ. Cv 4,12
40.
Thiên Chúa có thể làm bất cứ
việc ǵ không? Người có Toàn năng không ?
-
Đối với Thiên Chúa,
không có ǵ Người không làm được (Lc 1,37). Người
là Đấng toàn năng. [268-278]
–
Ta tin là Thiên Chúa Toàn năng nên mới
kêu cầu Người khi cần thiết. Người
đă từ không mà tạo dựng vũ trụ. Người
là chủ lịch sử, điều khiển mọi loài.
Nhưng cách Người tự do sử dụng quyền
toàn năng của Người là một mầu nhiệm.
Người ta thường đặt câu hỏi: “Vậy
Thiên Chúa ở đâu”? Người dùng tiên tri Isaia để
trả lời: Tư tưởng
của Ta không phải tư tưởng các ngươi, và
đường lối của Ta không phải đường
lối các ngươi (Is 55,8). Có khi Người chỉ
tỏ quyền toàn năng khi nào con người đă hết
hy vọng. Người bất lực vào thứ Sáu Tuần
Thánh là để Người sống lại vinh hiển. à 51, 478, 506-507
Tôi biết Chúa của chúng ta
Người thật lớn lao, vượt trên mọi thần.
Hễ muốn ǵ Người làm nấy, trên trời dưới
đất, trong biển và tất cả các vực thẳm.
Tv 135, 5-6
Abba, Cha ơi, Cha có thể làm
được mọi sự. Mc 24,36
Quả thế, những ǵ có
trong vạn vật, Người đều yêu mến,
Người không nhờm tởm sự ǵ Người
đă làm ra, v́ Người nắn nên ǵ, Người không
ghét bỏ. St 11, 24
41.
Khoa học có làm cho
Đấng Tạo thành ra dư thừa không ?
-
Không. Nói rằng "Thiên Chúa tạo dựng vũ
trụ" không phải là một câu nói dựa vào một
thứ khoa học đă lỗi thời. Đó là câu nói theo
thần học, nghĩa là câu nói xác định địa
vị của vũ trụ trước Thiên Chúa và xác
định vũ trụ có nguồn gốc do Thiên Chúa.
[282-289]
–
Tường thuật về cuộc sáng tạo không phải
để giải nghĩa theo khoa học về khởi
đầu của thế giới. “Thiên Chúa đă sáng tạo
thế giới” đó là một quả quyết thần học
trong đó nói đến vấn đề tương quan
giữa thế giới và Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn có thế
giới, người theo dơi thế giới và muốn
đưa thế giới đến chỗ hoàn thành.
Được sáng tạo đó là một đặc tính gắn
liền với mọi vật và là một chân lư sơ đẳng
về mọi vật.
42.
Có thể vừa chấp nhận
thuyết tiến hóa, vừa tin vào Đấng Tạo thành
không ?
-
Được. Dù nó khác nhau
trong nhận thức. Đức tin mở rộng cho khoa
học đưa ra những t́m kiếm và những giả
thuyết. [282-289]
–
Thần học không có thẩm quyền
về khoa học, cũng như khoa học không có thẩm
quyền về thần học. Khoa học không thể dứt
khoát từ chối về chủ đích có trong quá tŕnh tiến
hóa của vạn vật. Ngược lại, đức
tin không thể xác định về phương pháp mà quá
tŕnh tiến hóa của thiên nhiên được thực hiện
cụ thể. Một Kitô hữu có thể tán thành lư thuyết
khoa học về tiến hóa xét như là lư thuyết giải
nghĩa hữu ích, nhưng trong giới hạn lư thuyết
đó không rơi vào sai lầm của chủ nghĩa tiến
hóa cho rằng con người là sản phẩm ngẫu
nhiên do quá tŕnh sinh học tạo ra. Lư thuyết tiến hóa
chỉ đưa ra trước “một cái ǵ đó”
đang tiến hóa, nhưng không nói chút nào về cái ǵ đó
“do đâu mà có”. Không thể dùng cách khéo léo của khoa học
để trả lời những vấn đề liên quan
đến ư nghĩa về nguồn gốc của vũ trụ,
của con người. Cũng như người theo thuyết
“duy tiến hóa lư tưởng”, người theo lư thuyết
duy sáng tạo cũng vượt ra khỏi giới hạn
có thể được chấp nhận. Người theo
thuyết duy sáng tạo hiểu các con số và các niên hiệu
mà Kinh thánh nói đến theo nghĩa đen một cách ngây
ngô (chẳng hạn tuổi của trái đất hoặc
việc sáng tạo trong sáu ngày).
Thuyết duy sáng tạo: Thuyết này cho
rằng Thiên Chúa đă can thiệp vào một lúc rơ rệt
để sáng tạo thế giới một cách trực tiếp
và chỉ cần một lần, theo nghĩa đen của
bài tường thuật về sáng tạo của sách Sáng thế.
Tiến hóa là sự tăng
trưởng của các cơ nâng tiến đến h́nh thức
nhất định của chúng trong thời gian hàng triệu
năm. Theo quan điểm của Kitô giáo, ta có thể coi tiến
hóa như sự sáng tạo liên tục của Thiên Chúa có mặt
trong tiến tŕnh của thiên nhiên.
«
Không nhà bác học nào có được
dù chỉ là một lư lẽ để có thể phản biện
lại các quan niệm về một Đấng sáng tạo
như thế. Hoimar von
Ditfurth (1921-1989, chuyên viên Đức về khoa học).
43.
Thế giới này có phải là
sản phẩm của “ngẫu nhiên” không ?
- Không. Chính
Thiên Chúa chứ không phải ngẫu nhiên, là nguồn
gốc của thế giới. Dù trong nguồn gốc, dù
trong trật tự nội tại, dù trong cùng đích,
thế giới không phải là kết quả của
những lực tác động “không có định
hướng”.
[295-301, 317-318, 320]
–
Các Kitô hữu tin rằng có thể
đọc được ở cuộc sáng tạo như
đọc ở sách viết tay của Thiên Chúa. Với các
nhà khoa học tŕnh bày toàn bộ vũ trụ như phát sinh
do ngẫu nhiên chứ không có ư nghĩa, không có mục
đích ǵ, Đức Gioan Phaolô II đă trả lời vào
năm 1985 rằng: “Nói là do t́nh cờ đă phát sinh ra một
vũ trụ có tổ chức bao gồm nhiều yếu tố
rất phức tạp và có một chủ đích tuyệt
vời trong sinh hoạt của nó, nói như thế có
nghĩa là từ chối đi t́m một giải nghĩa về
vũ trụ như vũ trụ xuất hiện trước
chúng ta. Thực sự nói như vậy không khác ǵ là chấp
nhận rằng có hiệu quả mà không có nguyên nhân. Nó chứng
tỏ trí tuệ loài người đă đầu hàng khi từ
chối suy tư để t́m ra giải đáp cho các vấn
đề của ḿnh.” à 49
«
Sự chính xác phi thường của
tiến tŕnh “big bang” có thật là kết quả của ngẫu
nhiên không ? Ư tưởng thật vô lư ! Walter Thirring (1927-, nhà vật lư học
Áo).
«
Chúng ta không phải là sản phẩm
của t́nh cờ ngẫu nhiên và không được định
hướng đến tiến hóa. Mỗi người
chúng ta là kết quả của tư tưởng thần
linh. Mỗi người được muốn, được
yêu, mỗi người đều có ích. Đức Bênêđictô XVI, 28-04-2005
44.
Ai sáng tạo thế giới ?
-
Một ḿnh Thiên Chúa, Đấng không lệ thuộc
thời gian và không gian, đă sáng tạo thế giới
từ "không", và đă cho mọi sự
được hiện hữu. Mọi vật hiện
hữu đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, chúng chỉ
tiếp tục được hiện hữu v́ Thiên Chúa muốn
chúng như vậy. [290-292, 316]
–
Việc sáng tạo thế giới
có thể gọi là “công tŕnh chung” của Ba Ngôi. Chúa Cha là
Đấng Sáng Tạo, Đấng Toàn Năng. Chúa con cho thế
giới có một ư nghĩa, Người là trái tim của thế
giới. Mọi sự
được dựng nên bởi Người và cho Người
(Cl 1, 16). Chỉ học biết Chúa Kitô ta mới hiểu
tại sao thế giới là tốt lành. Ta hiểu rằng
thế giới tiến tới một mục đích: là sự
thật, sự tốt, sự đẹp của Chúa. Chúa Thánh Thần đảm bảo
cho tất cả được gắn bó với nhau;
Người là Thần khí làm
cho sống (Ga 6, 63).
Chính Chúa dựng nên vũ trụ;
và do ư Người muốn mọi loài liền có và
được dựng nên. Kn 4,11
« Nhờ
quan sát và suy nghĩ về sự sắp đặt hoàn hảo
của vũ trụ do khôn ngoan của Chúa tổ chức,
có ai mà không ca ngợi Đấng toàn năng làm chủ công
tŕnh đó. Nhà khoa học Nicolas Copernic (1473-1543)
«
Các cây cối
và các v́ sao dạy cho bạn điều mà không thầy dạy
nào có thể dạy cho bạn. Thánh Bernard de Clairveaux (1090-1153, sáng lập viên thứ
hai của ḍng Cisterciens)
45.
Luật tự nhiên và hệ
thống tự nhiên của mọi vật cũng do bởi
Thiên Chúa sao ?
-
Đúng. Luật tự nhiên và
hệ thống tự nhiên của mọi vật cũng do
Thiên Chúa sáng tạo. [339-346, 354]
–
Con người không phải là hoàn
toàn muốn làm sao cũng được. Con người
được dựng nên theo trật tự và theo các luật
tự nhiên mà Chúa đă ghi khắc trong tạo vật. Một
Kitô hữu không chỉ làm “cái ǵ ḿnh muốn” mà thôi. Họ
biết rằng họ sẽ làm hại chính ḿnh và mọi
người chung quanh khi họ không tuân giữ các luật tự
nhiên, khi họ sử dụng mọi sự trái với những
ǵ đă dự liệu trước và khi họ muốn tự
coi ḿnh khôn ngoan hơn Thiên Chúa đă tạo dựng tất
cả. Muốn tự ḿnh cho rằng mọi sự khởi
đi từ số không, đó là vượt quá sức lực
của con người.
46.
Tại sao sách Sáng thế mô tả
sự sáng tạo như là "công tŕnh 6 ngày"?
- Đây là cách nói nhằm đề
cao ngày nghỉ cuối tuần sau 6 ngày làm việc (St 1-2,3).
Nó c̣n diễn tả rằng sự sáng tạo thật là
tốt lành, đẹp đẽ, và được sắp
xếp thật khôn ngoan.
[337-342]
–
Từ cách nói tượng
trưng là Chúa tạo dựng trong 6 ngày, ta có thể rút ra những
yếu tố căn bản sau đây:
1/
Mọi
vật đang hiện hữu là do Đấng Tạo Hóa
ban cho hiện hữu.
2/
Mỗi thụ
tạo có cái tốt lành của nó.
3/
Cả
những ǵ đă trở nên xấu cũng đều có một
cái nhân tốt lành.
4/
Tất
cả mọi thụ tạo đều tùy thuộc vào nhau,
và hiện hữu cho nhau.
5/
Trật
tự và ḥa hợp nơi vạn vật là phản ánh sự
tốt đẹp của Chúa.
6/
Có
một cấp bậc nơi vạn vật: con người
vượt trên con vật, con vật vượt trên cây cối,
cây cối vượt trên các vật vô sinh.
7/
Tạo vật
đang tiến bước tới ngày đại lễ,
khi Chúa Kitô sẽ đến chinh phục vũ trụ, và
Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự. à 362
Sáng thế là sách đầu
tiên của Kinh thánh diễn tả việc sáng tạo thế
giới và sáng tạo loài người.
«
Đừng tưởng rằng
Thiên Chúa muốn cấm ta yêu thế giới. Không, ta phải
yêu thế giới v́ tất cả những ǵ trong thế
giới đều đáng ta yêu mến. Thánh Catarina Sienna (1347-1380, nhà thần bí
và tiến sĩ Hội Thánh
47.
Tại sao Thiên Chúa lại nghỉ
việc vào ngày thứ Bảy ?
-
Thiên Chúa nghỉ việc vào
ngày thứ Bảy để ta chú ư rằng việc sáng
tạo đă hoàn thành, nó vượt xa mọi cố
gắng của loài người. [349]
–
Dù con người là đối tác
trưởng thành hơn của Đấng Sáng Tạo (St
2,15) con người không thể nào cứu văn thế giới
nhờ sự khéo léo của sức lực riêng ḿnh. Mục
tiêu của tạo vật là tiến tới một trời mới đất mới (Is 65,17)
nhờ công cuộc cứu chuộc đă ban cho chúng ta. Việc
nghỉ ngày Chúa nhật cho ta được nếm trước
cuộc nghỉ ngơi trên trời, nó vượt thắng
thời kỳ phải lao động là thời kỳ chuẩn
bị cho cuộc nghỉ đó.
à 362
48.
Thiên Chúa có ư định ǵ khi sáng
tạo thế giới ?
-
Thiên Chúa dựng nên thế giới v́ vinh danh Người (Công
đồng
–
Lư do của sáng tạo không phải
là ǵ khác ngoài t́nh yêu. Từ việc sáng tạo này phản
chiếu lên vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Ca tụng
Thiên Chúa không cốt tại vỗ tay hoan hô Chúa. Dù sao con
người không phải là khán giả xem công tŕnh sáng tạo.
Ca tụng Thiên Chúa đối với họ là hiệp cùng với
tất cả vạn vật để chấp nhận sự
có mặt của ḿnh với ḷng biết ơn. à 489
«
Đấng đă làm nên bạn
cũng biết rằng Người làm nên bạn để
làm ǵ. Thánh Augustinô
«
Vinh quang của Thiên Chúa là con người
được sống, mà con người được sống
là để có thể nh́n thấy Thiên Chúa. Thánh Irênê thành
Thiên Chúa quan pḥng
49.
Thiên Chúa có
điều khiển thế giới và đời sống
tôi không ?
-
Có, nhưng cách mầu nhiệm; Thiên Chúa điều
khiển mọi sự trong trời đất cho
đến khi chúng hoàn thành theo đường lối
của Người mà chỉ ḿnh Người biết. Không
lúc nào, Người để cho các tạo vật
Người đă dựng nên lại vượt ra khỏi
bàn tay Người. [302-305]
–
Thiên Chúa tác
động lên các biến cố lớn của lịch sử
cũng như trên các biến cố nhỏ của cuộc
đời riêng ta, mà không hạn chế tự do của ta
hoặc coi ta như những con rối bù nh́n trong kế hoạch
đời đời của Người. “Chính ở nơi Người mà ta sống, cử
động và hiện hữu” (Cv 17, 28). Thiên Chúa có mặt
nơi tất cả mọi thăng trầm của đời
ta, dầu trong biến cố đau khổ hay trong những
số phận có vẻ điên rồ. Thiên Chúa cũng muốn
viết thẳng trên những đường cong của
đời ta. Có cái Người lấy mất và có cái
Người ban cho ta, có cái Người dùng để
tăng sức cho ta, có cái Người thử thách ta, tất
cả đều là hậu quả của việc Chúa Quan
Pḥng và là những dấu hiệu của ư Chúa muốn. à 43.
Đối với anh em, ngay
tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả
rồi. Mt 10,30
«
Niềm trông cậy vào việc Chúa
Quan Pḥng là niềm tin vững chắc và sống động
mà Thiên Chúa có thể giúp ta và Người sẽ làm cho ta.
Người có thể giúp ta, đó là chuyện hiển nhiên
v́ Người là toàn năng. Người giúp ta chắc chắn
đạt hiệu quả v́ Người đă hứa trong
nhiều đoạn Kinh thánh và Người là Đấng
giữ đúng mọi lời hứa. Mẹ Têrêsa
50.
Con người đóng vai tṛ nào
trong chương tŕnh quan pḥng của Thiên Chúa ?
-
Thiên Chúa mời gọi con
người cộng tác vào sự hoàn thành việc sáng
tạo. Con người có thể từ chối ư
định tốt lành này của Thiên Chúa. Nhưng thật
tốt đẹp biết bao khi ta trở thành khí cụ
của t́nh yêu Thiên Chúa. [307-308]
–
Con người có thể từ chối
ư muốn của Chúa. Nhưng nếu họ trở thành dụng
cụ của t́nh yêu Chúa th́ tốt hơn cho họ. Mẹ
Têrêsa nói rằng: “Tôi chỉ là cái bút ch́ nhỏ trong tay Chúa.
Mong ước Chúa luôn luôn có thể viết hoặc vẽ
những ǵ Người muốn, và ở những chỗ
Người muốn. Khi những ǵ Người viết hoặc
vẽ là tốt đẹp, ta không coi đó là do công của
cái bút ch́ hay do vật liệu được dùng, nhưng
là do chính Đấng đă sử dụng nó”. Dù Chúa có hoạt
động với ta hoặc nhờ ta, không bao giờ ta
được lẫn lộn tư tưởng riêng của
ta, chương tŕnh và hành động riêng của ta, với
hoạt động của Chúa. Chúa không cần việc làm
của ta, đến nỗi nếu ta không làm th́ Chúa phải
chịu thất bại.
«
Có cái không đi vào chương tŕnh
của tôi cũng vẫn có chỗ trong chương tŕnh của
Thiên Chúa. Và tôi càng ư thức về điều đó, tôi thấy
xác tín mạnh mẽ về đức tin càng lớn
hơn: theo quan điểm của Thiên Chúa, không có ǵ là t́nh cờ
cả. Thánh nữ Edith
Stein (1891–1942, Kitô hữu Do Thái, triết gia và nữ tu ḍng
kín, nạn nhân trại tập trung).
51.
Nếu Thiên Chúa biết mọi
sự và có thể làm được mọi sự, tại
sao Người không ngăn cản được sự
dữ ?
- Thiên Chúa
vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt lành
từ những sự dữ. Chẳng một đau
khổ nào ta có thể giải mă được. Nhưng nó
vẫn luôn đặt nền tảng trên sự khôn ngoan vô
cùng của Thiên Chúa (Thánh Tôma Aquinô). [309-314, 324]
–
Sự dữ trong thế
gian là một mầu nhiệm vừa đen tối vừa
khổ đau. Đấng chịu đóng đinh thập
giá đă xin với Cha Người: Lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mt 27,36). Nhiều chuyện
trong lănh vực này vẫn c̣n khó hiểu. Nhưng ta biết
được một điều chắc chắn: Thiên
Chúa luôn tốt lành một trăm phần trăm. Không khi
nào Người có thể là tác giả của những cái xấu.
Chúa đă dựng nên một thế giới tốt,
nhưng chưa được hoàn thành. Thế giới
đi tới chỗ hoàn thành phải trải qua những
xáo trộn dữ dội và những quá tŕnh đau khổ.
Ta cần phân biệt cho tốt hơn cái mà Hội Thánh gọi
là sự dữ thể lư, chẳng
hạn khuyết tật bẩm sinh, hoặc thiên tai lũ lụt,
với cái goi là sự dữ
luân lư phát xuất do con người sử dụng tự
do sai lầm trong thế gian. “Hỏa ngục trần gian” –
trẻ em làm lính, mưu sát – tự sát, trại tập trung
– hầu hết đều là do con người. Vấn
đề quyết định không phải là: “Làm sao có thể
tin được là Thiên Chúa tốt lành đang khi có biết
bao sự dữ như vậy?”, nhưng là: “Làm sao con
người có trái tim và lư trí lại có thể đành chịu
sống trong thế giới như vậy, nếu không có
Thiên Chúa?”. Cái chết và sự sống lại của Chúa
Giêsu chứng tỏ cho ta rằng sự dữ không có tiếng
nói đầu tiên và nó sẽ không có tiếng nói cuối cùng
(nghĩa là nó không phải tuyệt đối mà c̣n có cái
khác nữa). Bởi v́ Thiên Chúa làm cho từ sự dữ xấu
xa nhất nảy sinh ra sự tốt lành tuyệt đối.
Kitô hữu tin rằng đến ngày phán xét chung Thiên Chúa sẽ
chấm dứt mọi bất công. Trong đời sống
mai sau, sự dữ không c̣n nữa và đau khổ sẽ
chấm dứt. à 40, 286-287
Tôi nghĩ rằng những
đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được
với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng
ta. Rm 8,18
Thiên Chúa thấy mọi sự
Người sáng tạo: mọi sự đều rất tốt
đẹp. St 1,31
«
Không đau khổ nào mà không mang một
ư nghĩa. Đau khổ luôn luôn có nền móng nơi sự
khôn ngoan của Chúa. Thánh
Tôma Aquinô
«
Thiên Chúa th́ thầm
trong những lúc ta vui, Người th́ thầm trong
lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn và mạnh
trong những đau khổ của ta. Những đau khổ
đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một
thế giới mê ngủ. Clive Staples Lewis (1898–1963, văn sĩ
Anh, tác giả cuốn Kư sự Namia)
Thiên Chúa tạo
dựng Trời đất và những vật vô h́nh
52.
Trời là ǵ ?
-
Trời là nơi Thiên Chúa
ngự, là chỗ ở của các Thiên thần và các thánh, là
đích điểm của việc sáng tạo. Thuật
ngữ "trời đất" nói đến toàn
thể những thực tại được Thiên Chúa
dựng nên.
–
Trời không phải là một
nơi nhất định nào đó trong vũ trụ. Trời
là một t́nh trạng trong cuộc sống mai sau. Trời
là nơi Chúa thực thi ư muốn của Người mà
không có ǵ chống đối. Trời là nơi có cuộc sống
mănh liệt nhất, hạnh phúc nhất, một cuộc sống
không thể có được ở trần gian. Khi nhờ
on Chúa giúp ta được về trời, ta chờ đợi
ở đó điều mắt
chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, ḷng chưa
hề cảm biết, tất cả những ǵ Chúa đă dọn
sẵn cho những ai mến yêu Người (1Cr 2,9). à 158, 285
(Chú thích của
người dịch: Cựu ước chỉ nói về
vườn địa đàng (St 2,15); Tin Mừng chỉ
nói về trời với nghĩa nơi có Thiên Chúa và các
Thánh, và một lần nói về “người trộm lành
được ở trên Thiên Đường” (Lc 23,42).
Thiên Đường ở đây có nghĩa “Nước của
Người, Nước Trời, hay Trời”).
«
Tất cả những ǵ không
vĩnh cửu đều không có giá trị ǵ trong nơi
vĩnh cửu cả. C.S.
Lewis
«
Chúng ta luôn nhớ đến niềm
vui trên trời, nơi Thiên Chúa ngự. Chúng ta có khả
năng ngay từ bây giờ ở với Chúa trên trời,
và ngay lúc này được hưởng hạnh phúc với
Chúa. Tuy nhiên hưởng hạnh phúc với Chúa ngay lúc này có
nghĩa là: giúp đỡ như Người giúp đỡ,
cho đi như Người cho đi, phục vụ như
Người phục vụ, cứu vớt như Người
cứu vớt, yêu thương như Người yêu
thương, ở với Người suốt 24/24 tiếng
đồng hồ và gặp gỡ Người dưới
tấm áo kinh khủng nhất. V́ Người đă nói với
ta: Điều mà bạn đă làm cho người bé nhỏ
nhất của Ta, đó là đă làm cho chính ta vậy. Mẹ Têrêsa
«
Chúa Giêsu đă đến để
cho ta biết rằng Người muốn mọi người
được ở thiên đường, và hỏa ngục
mà ngày nay người ta ít nói đến là có thật, và hỏa
ngục là vô tận cho những ai đóng của ḷng ḿnh với
t́nh yêu của Người. Đức
Bênêđictô XVI, 8-5-2007
53.
Hỏa ngục là ǵ ?
-
"Hỏa ngục", theo
đức tin của chúng ta, là t́nh trạng con
người phải dứt khoát chia cách với Thiên Chúa. Khi
ai thấy rơ t́nh yêu nhờ đối mặt với Thiên
Chúa, nhưng họ lại từ chối, không muốn
được ở trong T́nh yêu ấy, đó là họ
đă chọn hỏa ngục. [1033-1036]
–
Chúa Giêsu biết hỏa ngục và
nói về nó như những
nơi tối tăm bên ngoài (Mt 8,12). Theo quan niệm thời
nay người ta nói đến một hỏa ngục lạnh
hơn là nóng. Dựa vào sự rùng ḿnh v́ rét lạnh người
ta gợi đến một t́nh trạng hoàn toàn tê cóng đờ
đẫn và hoàn toàn tuyệt vọng không c̣n mong được
ai giúp đỡ, làm giảm nhẹ, đem niềm vui và an ủi
trong suốt đời. à 161-162
«
Cuối cùng sẽ chỉ c̣n hai nhóm
người đứng trước mặt Thiên Chúa, những
người thưa với Chúa rằng: “Vâng ư Cha”; và những
người mà Chúa bảo rằng: “Ư con được vâng
theo”. Tất cả những ai ở hỏa ngục là do họ
tự ư chọn lựa chỉ theo ư ḿnh. C.S. Lewis
54.
Thiên thần là
ai vậy ?
- Thiên
thần là các thụ tạo linh thiêng thuần túy của
Thiên Chúa, các ngài có trí khôn và ḷng muốn như ta, nhưng
không có xác như ta, các ngài không thể chết, và
thường không ai thấy được. Các Thiên
thần hằng sống trước mặt Thiên Chúa, thông
truyền cho loài người ư muốn và sự che chở
của Thiên Chúa. [328-333, 350-351]
–
Đức Hồng y Ratzinger viết
rằng “Thiên thần là như tư tưởng riêng của
Thiên Chúa đối với tôi”. Các Thiên thần đồng
thời hoàn toàn hướng về Đấng Sáng tạo của
các ngài. Các ngài cháy lửa yêu mến và phụng sự Chúa
ngày đêm. Lời ca hát ngợi khen của các ngài không bao giờ
ngừng. Trong Kinh Thánh, các Thiên thần đă sa ngă được
gọi là thần dữ hay ma quỷ.
V́ ngươi Người ra lệnh
cho các Thiên thần để ǵn giữ ngươi trên mọi
lối ngươi đi, các ngài sẽ nâng ngươi lên kẻo
chân ngươi vấp nhầm phải đá. Tv
91, 11-12
«
Mỗi tín hữu có một Thiên thần
ở bên cạnh để che chở và dẫn dắt trên
đường dẫn tới sự sống đời
đời. Thánh Basiliô cả
(330-379, tiến sĩ Hội thánh)
55.
Ta có thể giao tiếp với các
thiên thần không ?
- Có. Chúng ta có thể kêu xin các Thiên
thần giúp đỡ và xin các ngài chuyển cầu cho ta
trước mặt Thiên Chúa. [334-336,
352]
–
Chúa c̣n ban cho mỗi người một
thiên thần bản mệnh hay hộ thủ nữa. Cầu
nguyện các thiên thần bản mệnh cho ḿnh và cho người
khác là việc tốt lành và hợp lư. Các thiên thần
cũng có thể tự làm cho ta nhận ra sự có mặt
của ngài trong đời ta là một Kitô hữu bằng
cách theo giúp đỡ ta, hoặc báo tin cho ta. Các thứ tà thần
bí hiểm th́ không liên can ǵ tới đức tin cả.
Thiên Chúa dựng nên con người
56.
Con người có một chỗ
đặc biệt trong việc sáng tạo của Thiên Chúa
không ?
- Có. Con người là chóp
đỉnh của việc sáng tạo, v́ Thiên Chúa đă tạo dựng nên con người theo
h́nh ảnh Thiên Chúa (St 1,27).
[343-344, 353]
–
Việc tạo dựng
con người khác biệt rơ ràng với việc tạo dựng
các sinh vật khác. Con người là một ngôi vị,
nghĩa là có ư muốn và trí khôn có thể quyết định
yêu hay không yêu.
Khi tôi trông lên trời, ngón tay
Người đă làm ra, trăng sao vằng vặc Người
đă định chỗ. Th́ phàm nhân là ǵ để Người
nhớ đến, hay con người là ǵ để Người
phải bận tâm. So với Thần linh Người không
để thua mấy tí, vinh dự huy hoàng là triều thiên
Người ban tặng. Tv 8, 4-6
«
Mọi tạo vật trên trái đất
đều cảm giác như ta. Mọi vật đều
khát khao hạnh phúc như ta. Mọi vật cũng yêu,
đau khổ và chết như ta, tất cả đều
là công tŕnh của Đấng sáng tạo toàn năng,
cũng giống như ta, tất cả là chị em của
ta. Thánh Phanxicô Atxidi
57.
Con người phải đối
xử với loài vật và các vật khác thế nào ?
- Con
người cần tôn vinh Thiên Chúa nơi các thụ tạo
của Người, và cư xử với chúng cách ân
cần và có trách nhiệm. Con người, con vật, và cây
cỏ, có cùng một Đấng Tạo hóa, Người
đă dựng nên mọi loài bởi T́nh yêu Người. V́
vậy, yêu thương các loài vật là t́nh cảm rất
thâm sâu của con người. [344-354]
–
Con người được phép
dùng cây cỏ và loài vật để nuôi sống ḿnh. Tuy
nhiên không được phép hành hạ và ngược
đăi chúng. Khai thác trái đất một cách mù quáng là đối
nghịch với phẩm giá của thụ tạo.
58.
Con người được
dựng nên theo "h́nh ảnh Thiên Chúa" nghĩa là ǵ ?
-
Nghĩa là, con
người không như các loài vô hồn, đất
đá, cây cỏ, con vật. Con người có phần linh
thiêng. Nhờ đặc tính linh thiêng, con người
được gần gũi với Thiên Chúa hơn các
thụ tạo hữu h́nh khác, và chỉ riêng con
người có thể nhận biết Đấng Tạo
dựng nên họ và có thể yêu mến Người.
[355-357, 380]
–
Con người không phải một
sự vật, mà là một người. Cũng như ta nói
Thiên Chúa là một ngôi vị th́ Ta cũng nói con người
là ngôi vị. Một người có thể suy tư vượt
ra khỏi phạm vi sát kề ḿnh, và đo kích thước
bao la của mọi vật hiện hữu. Họ cũng
có thể lùi lại để đánh giá nghiêm chỉnh và
tác động trên chính họ. Họ có thể coi người
khác như những ngôi vị, khám phá phẩm giá của họ
và yêu thương họ. Trong các thụ tạo hữu h́nh,
chỉ một ḿnh con người là có thể nhận biết và yêu mến
Đấng tạo dựng nên ḿnh (Vatican II, Gaudium et Spes
12,3). V́ thế, con người được dựng nên
để sống t́nh nghĩa với Thiên Chúa (Ga 15,15).
Anh em thân mến, chúng ta hăy yêu
thương nhau, v́ t́nh yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương th́ đă được Thiên Chúa sinh
ra và họ biết Thiên Chúa. 1Ga 4,7
«
Hăy nh́n nhận rằng bạn là
h́nh ảnh của Thiên Chúa và hăy xấu hổ v́ đă bao bọc
nó bằng một h́nh ảnh xa lạ. Thánh Bernard de Clairvaux
59.
Tại sao Thiên Chúa dựng nên con
người ?
- Thiên Chúa
dựng nên tất cả là v́ con người, con
người là “tạo vật duy nhất ở trần gian
được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ” (Gaudium et
Spes 24,3), Người dựng nên họ để họ
được hạnh phúc nếu họ nhận biết,
yêu mến, phục vụ Thiên Chúa, sống trong niềm
biết ơn Đấng dựng nên ḿnh. [358]
–
Ḷng biết ơn là ghi nhớ về
t́nh yêu của Thiên Chúa. Người biết ơn th́ tự
nguyện quay về với người ban ơn và đi
vào trong hiệp thông mới và sâu sắc hơn với
người ban ơn. Thiên Chúa muốn ta ghi nhớ t́nh yêu của
Người, và ngay bây giờ ta sống đời ta trong
hiệp thông với Thiên Chúa, măi măi.
«
Bạn hăy canh chừng tất cả
những niềm vui nào không đồng thời là ḷng biết
ơn. Theodor Haecker
(1879–1945, văn sĩ Đức)
«
Nếu lời kinh duy nhất của
đời bạn cốt tại thưa rằng: “Con xin cám
ơn Chúa” chắc như thế là đủ rồi. Maître Eckhart (1260–1328, ḍng
Đaminh, nhà thần bí)
«
Việc cám ơn được
nâng đỡ bởi đức tin có thể đi sâu vào cả
những ǵ là nặng nhọc đau buồn và chừng nào
được như vậy th́ mọi sự có thể biến
đổi. Romano Guardini
(1885–1968, công giáo Đức, gốc Ư, triết gia về tôn
giáo)
60.
Tại sao Chúa Giêsu lại là mẫu
gương tuyệt vời nhất thế giới ?
- V́
Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất không những đă
tỏ cho chúng ta biết bản tính thật của Thiên
Chúa, mà c̣n tỏ ra lư tưởng đích thật của con
người. [358-359, 381]
–
Chúa Giêsu c̣n hơn là một con
người lư tưởng rất nhiều. Ngay cả những
người khác thường th́ bề ngoài cũng là tội
nhân. Do đó, không ai có thể là gương mẫu tuyệt
đối cho con người. C̣n Chúa Giêsu không có tội lỗi.
Thân phận loài người là ǵ và cái làm cho con người
vô cùng đáng yêu theo đúng nghĩa của nó, ta chỉ thấy
nơi Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Người
đă gặp mọi thử thách trừ tội lỗi (Dt
4,15), Chúa Giêsu con Thiên Chúa, là một người chính hiệu
và có thật. Nơi Người, ta khám phá được
Thiên Chúa đă muốn con người thế nào.
Chúa Giêsu là h́nh ảnh của
Thiên Chúa vô h́nh, Con đầu ḷng của mọi tạo vật
v́ nhờ Người mà mọi vật được tạo
thành… tất cả đều được tạo dựng
bởi Người và cho Người. Cl
1,15-16
“Ecce
Homo”, Đây là người (Ga 19,5). Philatô dùng những lời
đó để giới thiệu Chúa Giêsu đă bị tra tấn
hành hạ và đội mũ gai, cho dân chúng.
«
Chúa đă trở
nên người như ta để có thể làm cho ta giống
như Người. Thánh
Atanasiô cả (295-393, giáo phụ)
61.
Do đâu mọi người b́nh
đẳng với nhau ?
- Mọi người
đều b́nh đẳng với nhau, v́ họ có cùng
một nguồn gốc, trong T́nh yêu sáng tạo của Thiên
Chúa. Mọi người đều có cùng một Đấng
Cứu chuộc là Chúa Giêsu Kitô. Mọi người
đều có thể t́m kiếm và được
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Chúa. [360-361]
–
Mọi người đều là
anh chị em với nhau. Kitô hữu không được chỉ
liên đới với các Kitô hữu khác nhưng với tất
cả mọi người để chiến đấu mạnh
mẽ chống các thứ chia rẽ v́ kỳ thị chủng
tộc, kỳ thị giới tính, kỳ thị kinh tế
trong gia đ́nh nhân loại. à 280, 517
Hăy mở miệng bênh vực
người câm, v́ quyền lợi của mọi kẻ bị
bỏ rơi. Cn 31,8
62.
Linh hồn là
ǵ vậy ?
- Linh hồn là cái làm cho ta thành
một con người. Nó là nguyên lư linh thiêng của sự
sống, và là cái sâu thẳm nhất trong con
người. Linh hồn làm cho thể xác vật
chất trở nên thân xác sống động của con
người. Nhờ linh hồn, con người có thể
xác nhận cái "Tôi" của ḿnh, và đứng
trước Thiên Chúa như một cá thể không ai thay
thế được. [362-365, 382]
–
Con người
là một hữu thể có xác và hồn. Hồn con người
có phận vụ khác hơn phận vụ xác và không thể
cắt nghĩa được dựa theo cấu tạo
sinh lư của họ. Trí khôn nói cho ta rằng: “phải có một
nguyên lư linh thiêng nối kết với xác, mà không v́ thế
cũng giống y như xác. Ta gọi là «hồn». Mặc dù
không thể dùng khoa học để chứng minh là có linh hồn,
tuy nhiên nếu không đếm xỉa tới cái yếu tố
linh thiêng làm chủ vật chất này, ta không thể hiểu
được rằng con người là một hữu thể
linh thiêng. à 153-154,163
« Hăy làm điều ǵ tốt cho xác bạn,
để hồn bạn được vui vẻ ở
trong xác. Thánh Têrêsa Avila (1515-1582, nhà thần bí Tây Ban Nha, tiến
sĩ Hội thánh)
«
Con người trở nên thực sự là con người
khi hồn và xác hiệp nhất sâu xa với nhau… Nếu con
người chỉ muốn là tinh thần và muốn từ
bỏ thể xác v́ là di sản của sinh vật, th́ cả
tinh thần lẫn thể xác đều mất hết phẩm
giá. Đàng khác, nếu họ muốn từ bỏ tinh thần
và coi vật chất, coi thân xác như thực tại duy nhất
của ḿnh thôi, th́ họ cũng mất giá trị cao cả
của ḿnh. Đức Bênêđictô XVI, Deus Caritas est
«
Con người không phải con vật
cũng không phải thiên thần, và con người muốn
làm thiên thần th́ rủi thay con người sẽ là con vật
(trèo cao té đau). Blaise Pascal
63.
Do đâu con người có linh
hồn ?
- Linh hồn người ta do
Thiên Chúa trực tiếp dựng nên, chứ không phải là
"sản phẩm" bởi cha mẹ. [366-368, 382]
– Hồn của con người
không thể là sản phẩm do tiến tŕnh biến hóa của
vật chất, cũng không phải là kết quả của
cha mẹ sinh ra. Mỗi con người sinh ra là một ngôi
vị độc nhất và linh thiêng, Hội Thánh giải
nghĩa mầu nhiệm này như sau: Thiên Chúa ban cho ta một
linh hồn không thể chết được, dù khi ta chết
ta phải ĺa khỏi xác để chờ khi sống lại
xác được nhập lại với ta. Nói “Tôi có linh hồn”
có nghĩa là: “Thiên Chúa không tạo dựng tôi như một
sự vật, nhưng như một ngôi vị và mời gọi
tôi có quan hệ không ngừng với Người”.
«
Nhờ có nguồn
gốc từ trái đất, con người được
liên kết với mọi sinh vật, nhưng chỉ nhờ
có linh hồn do Thiên Chúa “thổi vào” họ mới là người.
Điều đó ban cho họ một phẩm giá độc
nhất, nhưng đồng thời cũng trao một
trách nhiệm độc nhất. Hồng y Christoph Schönborn (1945, Tổng giám mục Áo)
64.
Tại sao Thiên Chúa
dựng nên con người có nam có nữ ?
- Thiên Chúa là T́nh yêu và là
khuôn mẫu lư tưởng của đời sống
hiệp thông, Người đă dựng nên con người
có nam có nữ, để cả hai cùng là h́nh ảnh của
bản tính Người. [369-373,
383]
–
Thiên Chúa dựng nên con người
có nam có nữ để mỗi người ước ao
hoàn thành chính ḿnh và đạt tới sung măn trong việc gặp
gỡ với một người khác giới với ḿnh. Người nam và người nữ b́nh đẳng tuyệt
đối với nhau trong phẩm giá, nhưng Đấng
Sáng Tạo đă có ư dựng nên có nam có nữ để mỗi
bên biểu lộ ra những phương diện khác nhau của
sự hoàn hảo của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là
nam, không phải là nữ nhưng Người đă tỏ
ḿnh ra với những phương diện là Cha (Lc 6,36) và những
phương diện là Mẹ (Is 66,13) của Người.
Trong t́nh yêu của người nam và người nữ, nhất
là trong hôn nhân đă làm cho cả hai nên một thân xác (Kn 2,24), ta có thể tưởng
tượng ra đôi chút về hạnh phúc của sự
hiệp nhất với Thiên Chúa, trong đó mỗi người
trong chúng ta sẽ thấy trạng thái đầy đủ
trọn vẹn cuối cùng của ḿnh. Cũng như t́nh
yêu Thiên Chúa luôn trung thành th́ t́nh yêu con người luôn phải
chung thủy, theo h́nh ảnh t́nh yêu của Chúa, t́nh yêu đó
cũng sáng tạo, v́ từ hôn nhân sẽ phát sinh những con
người mới.
à 260, 400-401, 416-417
Thiên
Chúa tạo dựng con người theo h́nh ảnh Người,
theo h́nh ảnh Thiên Chúa, Người tạo dựng họ
có nam và nữ. St 1,27
Thiên Chúa phán: “Nếu người
chỉ có một ḿnh th́ không tốt, Ta sẽ làm cho nó có
người trợ giúp xứng đôi với nó”. St
2,18
«
Ta cũng đọc
thấy rằng con người không thể ở “một
ḿnh” (St 2,18) nó chỉ có thể sống như “một của
hai”, nghĩa là có quan hệ với một ngôi vị nữa.
Đây là quan hệ hỗ tương, đàn ông đối
với đàn bà, và đàn bà đối với đàn ông. Là
một ngôi vị giống h́nh ảnh Thiên Chúa cũng
đ̣i hỏi phải sống có quan hệ, sống tương quan với
một “cái tôi khác”. Đây là báo trước về mặc
khải sau này đó là Một Chúa Ba Ngôi, là sự hiệp nhất
sống động trong hiệp thông giữa Chúa Cha Chúa con
và Chúa Thánh Thần. Chân phước Gioan Phaolô II (1920-2005,
Giáo hoàng sáng lập ngày giới trẻ thế giới, Tông
thư Mulieris Dignitalem)
65.
Người có khuynh hướng
đồng tính luyến ái th́ sao ?
-
Hội Thánh tin rằng, trong trật tự tạo dựng,
Thiên Chúa đặt để cho người nam và
người nữ cần đến nhau, bổ túc cho nhau,
liên kết với nhau để sinh sản con cái. V́
vậy, Hội Thánh không thể chuẩn nhận những
thực hành đồng tính luyến ái. Tuy nhiên các Kitô hữu
phải tôn trọng và yêu thương mọi người,
không xét đến khuynh hướng tính dục của
họ, v́ tất cả mọi người đều
được Thiên Chúa tôn trọng và yêu thương. [2358-2359]
–
Không một
người nào trên trần gian không phải là kết quả
của mối quan hệ giữa một người mẹ
với một người cha. Thật là kinh nghiệm
đau khổ cho một số
người có khuynh hướng đồng tính luyến
ái, họ không cảm thấy được lôi cuốn bởi
người khác giới, và phải từ chối việc
thụ thai theo thể lư bằng quan hệ t́nh dục phù hợp
với bản tính con người và trật tự do Thiên
Chúa tạo dựng. Nhưng những đường lối
của Chúa th́ không biết trước được: một
sự thiếu sót, một mất mát hay một vết
thương được chấp nhận và đảm
nhận có thể trở thành một bàn đạp để
gieo ḿnh vào tay Chúa, Đấng luôn làm cho mọi sự tốt
hơn và Người c̣n tự mặc khải như Đấng
cứu độ lớn hơn là Đấng tạo hóa. à 415
66.
Trong kế hoạch, Thiên Chúa có
định cho con người phải đau khổ và
phải chết không ?
- Thiên Chúa không muốn cho con
người phải đau khổ và phải chết. Từ
khởi thủy Thiên Chúa đă muốn cho con người
sống nơi địa đàng, được sống
măi măi, b́nh an giữa Thiên Chúa, mọi người, và
vạn vật chung quanh. B́nh an giữa nam và nữ. [374-379,
384, 400]
–
Đôi khi ta cảm
thấy làm thế nào cuộc đời được
như thế và làm thế nào ta được như thế.
Nhưng thực ra, ta sống trong xung đột với
chính ta, ta bị thống trị bởi sợ hăi và các
đam mê ta không kiểm soát nổi, và ta đă mất sự
ḥa hợp nguyên thủy với thế giới và cuối
cùng với Thiên Chúa. Trong Kinh thánh, kinh nghiệm về sự
“tha hóa” này được diễn tả trong câu truyện
“sa ngă”. Bởi v́ tội lỗi đă lọt vào địa
đàng nơi Adam và Eva đang sinh sống ḥa hợp với
nhau và với Thiên Chúa, nên họ phải ra khỏi địa
đàng. Phải vất vả lao động, phải khổ,
phải chết và bị cám dỗ bởi tội lỗi,
đó là dấu chỉ họ đă mất địa
đàng.
« Người ta mất địa đàng,
nhưng đă được Thiên đàng, v́ vậy
được nhiều hơn mất. Thánh Gioan Kim Khẩu
«
Lạy Chúa,
quay đi khỏi Chúa sẽ ngă, quay lại với Chúa sẽ
đứng vững, ở lại trong Chúa sẽ chắc chắn
được an toàn. Thánh
Augustinô
Con người sa ngă
67.
Tội là ǵ ?
- Tội là hoàn toàn từ
bỏ Thiên Chúa, từ chối không đón nhận T́nh yêu
Thiên Chúa, khinh thường không giữ giới răn
của Thiên Chúa.
–
Tội c̣n
hơn là một thái độ lầm lỡ, và cũng không
phải chỉ là một yếu đuối tâm lư. Thực
ra mọi từ bỏ hoặc phá hủy điều ǵ là tốt,
xét cho cùng đều là bỏ tốt để chọn xấu,
loại bỏ Thiên Chúa vậy. Trong kích thước sâu xa và
kinh khủng nhất, tội là xa ĺa Thiên Chúa, xa ĺa nguồn
sống. V́ thế, chết là hậu quả tất nhiên do
tội lỗi. Chỉ nhờ Chúa Giêsu ta mới hiểu
được kích thước không thể đo được
của tội, v́ muốn liên đới với loài người
đă phạm tội bỏ Chúa, Chúa Giêsu đă chịu
đau khổ v́ các hậu quả của tội nơi
chính thân xác Người. Người đă phải gánh lấy
sức mạnh gây chết của tội, để nó không
làm hại ta. Đó là tất cả ư nghĩa của “cứu
chuộc”.
à 224-237, 315-318, 348-468
Ở đâu tội lỗi
đă lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp
bội. Rm 5,20
«
Điều xấu
hơn không phải là phạm tội ác mà là đă không làm những
điều tốt mà ḿnh có thể làm. Chính tội bỏ
xót không làm chẳng qua là tội không yêu mến, và thường
không ai xưng thú tội đó. Léon Bloy (1846-1917, văn sĩ Pháp)
68.
Tội Tổ tông truyền là ǵ ?
Tội Tổ tông Ađam Evà có liên hệ ǵ với chúng ta ?
-
Theo nghĩa hẹp, tội là một lỗi liên can
đến trách nhiệm cá nhân mỗi người. Khi nói
“Tội Tổ tông truyền” không có ư nói đến tội
của cá nhân nhưng muốn đề cập đến
t́nh trạng thê thảm mà mỗi người khi vừa
được sinh ra th́ đă vướng mắc rồi,
dù họ chưa hề tự ư phạm một tội nào,
nhưng do tổ tông truyền lại. Việc truyền
lại này vẫn c̣n là một mầu nhiệm không thể
hiểu trọn vẹn. [388-389, 402-404]
Con rắn đối đáp lại
với bà “ngày nào bà ăn trái đó mắt bà sẽ mở
ra và bà sẽ nên như những Thiên Chúa.” St 3, 4-5
«
Trong sa ngă của Adam và Eva ta phải
hiểu rằng mọi người chúng ta đều mang
trong ḿnh cái giọt nọc độc của lối suy
nghĩ được minh họa bằng các h́nh ảnh
trong sách Sáng thế….Con người không tin ở Thiên Chúa. Bị
lời lẽ của ma quỷ cám dỗ, họ nuôi nghi ngờ…Thiên
Chúa là người cạnh tranh muốn hạn chế tự
do của ta và ta sẽ chỉ là con người đầy
đủ khi loại bỏ Chúa ra. Con người không muốn
đón nhận sự hiện hữu của ḿnh và đời
sống sung măn của ḿnh từ Thiên Chúa…Hành động
như vậy họ tin vào sự dối trá hơn là sự
thật, và như thế họ nhận ch́m đời sống
ḿnh vào hư không và vào cái chết. Đức Bênêđictô XVI, 8-12-2005
« Một
thái độ luân lư trong thế giới chỉ có thể có
và đáng khuyến khích khi mà người ta đảm nhận
những bẩn thỉu của cuộc đời, đảm
nhận trách nhiệm tập thể trong cái chết và tội
lỗi. Tóm lại, là đảm nhận toán bộ tội
tổ tông truyền và dứt khoát từ bỏ việc chỉ
thấy lỗi nơi những người khác. Herman Hesse (1877-1962,
văn sĩ Đức)
69.
V́ mắc
tội Tổ tông, chúng ta có bị bó buộc phải
phạm tội không ?
- Không. Con
người dù bị tổn thương nặng bởi
tội Tổ tông, và có khuynh hướng nghiêng chiều
về tội lỗi, nhưng với ơn Chúa giúp, con
người có thể làm điều tốt. [405]
–
Không khi nào bị bó buộc phải
phạm tội. Nhưng thực ra, ta không ngừng phạm
tội được là v́ ta yếu đuối, không hiểu
biết, nên dễ sa chước cám dỗ. Bị bó buộc
phải phạm tội th́ không có tội, v́ chỉ có tội
khi ta tự ư phạm.
70.
Thiên Chúa kéo chúng ta ra khỏi ṿng xoáy
của sự dữ thế nào ?
-
Thiên Chúa không đành nh́n con người dần dần
hủy hoại ḿnh và những ǵ chung quanh ḿnh, do hiệu
ứng dây chuyền của tội lỗi. Người
gửi đến cho ta Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu
rỗi và Đấng Chuộc tội, Người cứu
chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi. [410-412,
420-421]
–
“Không ai có thể
giúp tôi.” Câu này xuất phát từ kinh nghiệm loài người
nhưng không đúng nữa. Bất cứ nơi đâu mà
con người v́ tội lỗi của ḿnh đă phiêu
lưu vào, Thiên Chúa Cha đă sai Con của Người đến.
Hậu quả của tội lỗi là cái chết (Rm 6,23).
Nhưng hậu quả của tội lỗi cũng là sự
liên đới kỳ diệu của Thiên Chúa với ta,
Người sai Chúa Giêsu đến với ta như người
bạn và Đấng cứu độ. V́ thế, có thể
nói tội tổ tông là “tội
hồng phúc”: “Ôi tội hồng
phúc, tội đă đem lại Đấng cứu độ
như thế.” (Phụng vụ đêm Phục sinh)
«
Một trong những lư do khiến
tôi trở thành Kitô giáo: đó là một tôn giáo không do con
người sáng chế ra. C.S
Lewis
«
Khi bàn tay Chúa Giêsu bị
đóng đinh vào thập giá, Người đă đóng
đinh cả tội lỗi ta vào thập giá nữa. Bernard de Clairvaux
Chương
2. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa
71.
Tại sao những sách viết
về Chúa Giêsu lại gọi là Phúc âm hoặc Tin Mừng ?
-
Không có Phúc âm, ta không biết
được rằng Thiên Chúa, v́ yêu thương ta vô cùng
dù ta tội lỗi, nên đă sai Con một xuống
trần, để dẫn ta trở về sống trong t́nh
hiệp thông vĩnh cửu với Người. [422-429]
–
Những sách viết về Chúa Giêsu
đă sống, đă chết và đă sống lại là những
tin vui nhất trên thế giới. Ta quen gọi là Tin Mừng
hay Phúc Âm. Các sách đó chứng tỏ rằng Chúa Giêsu
Nadarét, người Do Thái sinh ở Belem là Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16,16) đă làm
người. Người được Chúa Cha sai đi
để mọi người
được cứu độ và được hiểu
biết sự thật (1Tm 2,4).
Ngôi Lời đă trở nên
người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tội
đă nh́n thấy vinh quang của Người, vinh quang mà
Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy tràn ân sủng
và sự thật. Ga 1,14
« Nếu đời sống và cái chết của
Socrate là của một người khôn ngoan, th́ đời
sống và cái chết của Chúa Giêsu là đời sống
và cái chết của một Thiên Chúa. Jean Jacques Rousseau (1712-1778,
văn sĩ Pháp)
72.
Tên Giêsu
nghĩa là ǵ ?
-
Giêsu, theo tiếng Do thái nghĩa là Chúa cứu chuộc. [430-435, 452]
–
Trong Sách Công vụ
tông đồ, Thánh Phêrô nói: “V́ dưới gầm trời
này không có một danh nào khác đă được ban cho nhân
loại để chúng ta phải nhờ vào danh nào đó mà
được cứu độ” (Cv 4,12). Đó là trung tâm của
sứ điệp mà các vị truyền giáo loan báo Tin mừng
cho thế giới.
Trong
các hang toại đạo ở Rôma, có một dấu hiệu
cổ của Kitô giáo được mă hóa để chỉ
Chúa Kitô: chữ ICHTHYS (con
cá) nếu đọc theo vần Hy lạp th́ thành: I: Jesus, CH : Christos, TH: Theou
(Thiên Chúa), Y: Yios (Con), S: Soter (cứu thế).
73.
Tại sao
gọi Đức Giêsu là Kitô ?
- Thuật ngữ “Đức
Giêsu là Kitô”, nhằm nói lên tâm điểm của đức
tin Kitô giáo. Đức Giêsu, con bác thợ mộc thành Nazaret,
là Đấng Mêsia, Đấng Cứu thế
được mong đợi từ lâu. [436-440, 453]
–
Chữ Kitô là tiếng Hy Lạp, chữ
Mêssia là tiếng Do Thái đều có nghĩa là “được
xức dầu”. Ở Do Thái, vua, các tư tế, và các tiên
tri đều được xức dầu. Theo các Tông
đồ, Chúa Giêsu đă
được Chúa Thánh Thần xức dầu (Cv 10, 38).
Khi theo Chúa Kitô, ta được
gọi là Kitô hữu để
diễn tả ơn gọi cao quư của ta.
74.
Khi nói Đức
Giêsu là "Con một Thiên Chúa" có nghĩa là ǵ ?
-
Khi Đức Giêsu tự giới
thiệu ḿnh là "Con một
của Thiên Chúa" (Ga 3,16), khi thánh Phêrô và các tông
đồ cũng gọi Người như vậy, th́
điều này có nghĩa là chỉ một ḿnh Đức
Giêsu đích thực là Con trên hết mọi người
con. [441-445, 454]
–
Trong nhiều
đoạn Tân ước (Ga 1,14.18; 1Ga 4,9; Dt 11,7…) Chúa Giêsu
được gọi là “Con”. Khi chịu phép rửa và biến
h́nh, tiếng nói từ trời xác nhận Chúa Giêsu là “Con yêu
dấu”. Chúa Giêsu mở màn cho các môn đệ biết
Người có quan hệ độc nhất với Cha
Người trên trời: “Mọi
sự Cha Tôi đă giao phó cho Tôi, và không ai biết rơ Người
Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết rơ Chúa Con trừ
Người Cha và kẻ mà Người Con muốn mặc
khải cho” (Mt 11,27). Khi sống lại, th́ thật rơ
ràng Chúa Giêsu Kitô thực sự là Con Thiên Chúa.
« Chỉ nói về Chúa Kitô nếu
có người đ̣i hỏi bạn. Nhưng bạn hăy sống
thế nào khiến cho người ta đ̣i hỏi bạn
nói về Người. Paul Claudel (1868–1955, thi
sĩ và nhà viết kịch Pháp).
«
Người ta không chỉ trích Chúa Kitô. Người ta chỉ
trích các Kitô hữu v́ họ không giống như Chúa Kitô. Francois Mauriac (1914-1996, tiểu
thuyết gia Pháp).
75.
Tại sao Kitô hữu gọi
Đức Giêsu là Chúa ?
- V́ chính Đức Giêsu nói: Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa
th́ thật đúng, v́ Ta là như vậy (Ga 13,13). [446-451,
455]
–
Đối với
các Kitô hữu thời đầu tiên, nói Đức Giêsu là
Chúa đó là chuyện hiển nhiên v́ biết rằng danh hiệu
này trong Cựu ước dùng để chỉ Thiên Chúa. Bằng
nhiều dấu hiệu Chúa Giêsu đă tỏ cho họ biết
Chúa có một sức mạnh thần linh trên thiên nhiên, trên
ma quỉ, tội lỗi và sự chết. Nguồn gốc
thần linh của sứ vụ Chúa Giêsu được bày
tỏ khi Người sống lại từ cơi chết.
Thánh Tôma tuyên bố: “Lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Nếu Chúa Giêsu
“là Chúa”, th́ Kitô hữu không được qú gối trước
một sức mạnh nào khác!
« Ở đâu Thiên Chúa không chiếm
chỗ nhất… .ở đó nhân phẩm con người bị
đe dọa. Như vậy rất cần hướng dẫn
con người thời nay khám phá lại bộ mặt
đích thực của Thiên Chúa, được mặc khải
cho ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Đức Bênêđictô
XVI, 28-8-2005
76.
Tại sao Thiên
Chúa lại nhập thể nơi Đức Giêsu ?
- Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa
(năm 325) đă dạy: "V́ loài người chúng tôi, và
để cứu rỗi chúng tôi, Người đă từ
trời xuống thế ". [456-460]
–
Thiên Chúa đă
giao ḥa thế giới với Người và giải thoát
con người khỏi tội trong Chúa Giêsu Kitô. “Thiên Chúa đă yêu thế gian đến
nỗi đă ban Con Một của Người” (Ga 3,16).
Thiên Chúa đă nhận lấy xác phàm phải chết của
ta nơi Chúa Giêsu (nhập thể), đă chia sẻ thân phận
trần thế, những đau khổ và cái chết của
ta và trở nên một người như ta trong hết mọi
sự, trừ tội.
«
Thiên Chúa quá cao
cả đến nỗi Người có thể trở nên
bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở
nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một
đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể
yêu mến Người. Đức
Bênêđictô XVI, 24-12-2005
77.
Khi nói Chúa Giêsu Kitô "vừa là
Thiên Chúa thật lại vừa là người thật"
nghĩa là ǵ ?
- Nghĩa là nơi
Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở nên một con người như
chúng ta và cũng là anh em của chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu
vẫn đồng thời là Thiên Chúa và là Chúa chúng ta. Công đồng Calcêđôn (năm 451) dạy rằng:
Thiên tính và Nhân tính đă nên một trong Chúa Giêsu Kitô “không chia
ĺa hoặc lẫn lộn”. [464-467, 469]
–
Hội thánh đă vất vả lâu
năm để diễn tả cho đúng mối quan hệ
giữa thiên tính và nhân tính nơi Chúa Giêsu Kitô. Thiên tính và nhân
tính không cạnh tranh với nhau dường như có lúc
Chúa Giêsu là người có lúc là Thiên Chúa. Ta cũng không thể
nói là thiên tính và nhân tính ḥa trộn với nhau trong Chúa Giêsu,
cũng không thể nói rằng Thiên Chúa chỉ giả vờ
mặc lấy thân xác con người nơi Chúa Giêsu (thuyết
docétisme): Thiên Chúa làm người thật sự. Không phải
là nơi Chúa Giêsu có hai ngôi vị liên hợp với nhau (thuyết
Nestorianisme). Sau hết quả quyết rằng nhân tính hoàn
toàn biến mất trong thiên tính cũng là lạc giáo (thuyết
monophysisme). Chống lại các thứ lạc giáo kể
trên, Hội thánh duy tŕ chắc chắn đức tin nơi
Chúa Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người
nơi một ngôi vị duy nhất. Công thức nổi tiếng
của Công đồng Chalcedoine là “không chia rẽ không lẫn
lộn”, công thức này không cố gắng để giải
nghĩa điều vượt trên hiểu biết của
con người, mà chỉ muốn nhấn
mạnh đến hai điểm then chốt của
đức tin. Công thức cho biết “cái hướng ta phải
theo để t́m hiểu mầu nhiệm của ngôi vị
Chúa Giêsu.
«
Chúa Giêsu vẫn là như từ
trước Người là, và Chúa đảm nhận vào
Ḿnh cái trước đây Người không là. Phụng vụ Rôma ngày 1 tháng giêng
« Sự
thực là mầu nhiệm con người chỉ sáng tỏ
thật sự trong mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể. Công đồng Vatican
II, Gaudium et Spes
«
Hiểu biết về Thiên Chúa mà không hiểu biết về
khốn khổ của ḿnh làm cho kiêu ngạo. Hiểu biết
về khốn khổ của ḿnh mà không hiểu biết
Thiên Chúa làm cho thất vọng. Hiểu biết về Chúa
Giêsu Kitô làm cho ta ở giữa, bởi v́ ta thấy ở
đó có cả Thiên Chúa cả khốn khổ của ta nữa.
Blaise Pascal
78.
Tại sao chúng ta chỉ hiểu
được Chúa Giêsu như là một mầu nhiệm ?
- V́ Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa
vừa là người thật, nên ta không thể hiểu
Chúa Giêsu nếu ta loại bỏ thực tại vô h́nh
của Thần tính Người. [525-530, 536]
Mầu nhiệm. Mầu nhiệm là một thực tại(
hoặc là một mặt của thực tại) mà sự
hiểu biết do lư trí không thể đạt tới
được.
«
Khía cạnh hữu
h́nh của Chúa Giêsu chuyển dẫn ta đến khía cạnh
vô h́nh của Người. Có những yếu tố rất
quan trọng trong cuộc đời Người mà ta chỉ
hiểu được như là các Mầu nhiệm, chẳng
hạn thân phận làm Con Thiên Chúa, việc nhập thể,
cuộc khổ nạn và sự sống lại của
Người. Jeremy Taylor
(1613-1667, văn sĩ tôn giáo Anh)
79.
Chúa Giêsu có linh hồn, tâm trí và thân
xác như chúng ta không ?
- Có. V́ Chúa Giêsu là người
thật, nên Người "làm việc với đôi tay
con người, nghĩ tưởng với tâm trí con
người, hành động với ư muốn con
người, và yêu thương với trái tim con
người" (CĐ Vatican II, Hiến chế Mục
vụ 22, 2). [470-476]
–
V́ Chúa có đầy
đủ bản tính con người, nên Người có một
linh hồn và Người tự phát triển cách thiêng liêng.
Chính trong linh hồn này chứa đựng căn tính con
người và Người có ư thức về chính ḿnh. Chúa
Giêsu có ư thức được hiệp nhất với Chúa
Cha trên trời trong Chúa Thánh Thần. Người để
Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh
của đời Người.
« C̣n Chúa Giêsu là một hiển nhiên (quá rơ ràng
không c̣n ǵ có thể nghi ngờ). Hans Urs Von Balthasar
(1905-1988, thần học gia công giáo Thụy Sĩ)
80.
Tại sao
Đức Maria Đồng trinh ?
- V́ Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu
Kitô có một người Mẹ thực sự là loài
người, c̣n về Cha th́ chỉ ḿnh Thiên Chúa là Cha
Người. Như thế Ngài muốn khai mở một
sự khởi đầu mới nơi Chúa Giêsu, khởi
đầu này được mọi người nhận
biết là do chính Thiên Chúa là Cha, chứ không do bất cứ
một quyền lực trần thế nào khác. [484-504, 508-510]
–
Việc Đức Maria đồng
trinh không phải là một ư niệm thần thoại lỗi
thời, nhưng là điều căn bản cho cuộc
đời Chúa Giêsu. Người được sinh ra bởi
một phụ nữ nhưng Người không có Cha là loài
người. Chúa Giêsu là một khởi đầu mới
trong trần gian, do Thiên Chúa tạo nên. Trong Tin Mừng Thánh
Luca, Đức Maria hỏi Sứ Thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không biết
đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Sứ Thần
đáp: “Thánh Thần sẽ ngự
xuống trên bà” (Lc 1,34-35). Dù từ những thế kỷ
đầu tiên Hội Thánh đă gặp nhiều chế nhạo
về việc Đức Maria đồng trinh, Hội Thánh
vẫn luôn tin rằng Đức Maria đồng trinh thực
sự chứ không phải tượng trưng. à 117
«
Điều mà đức tin Công giáo
tin về Đức Maria đặt nền móng trên điều
Hội Thánh tin về Chúa Kitô. Sách Giáo lư Hội Thánh Công Giáo 487
«
Bởi v́ một người Cha
như Chúa Giêsu phải có, th́ không thể nào có được
nơi các người cha loài người được. Wilhelm Willms, Ave Eva (1930-2002, linh mục
văn sĩ)
«
Nếu ai không tuyên xưng rằng:
Đức Emmanuel là Thiên Chúa thật và Đức Maria là
trinh nữ Mẹ Thiên Chúa…th́ bị mắc vạ tuyệt
thông. Công đồng
Ephêsô 431
81.
Ngoài Chúa Giêsu ra, Đức Maria c̣n
có những người con khác nữa không ?
-
Không. Chúa Giêsu là người con trai duy nhất của
Đức Maria xét theo nghĩa huyết tộc. [500-510]
–
Hội thánh sơ khởi đă quả
quyết là Đức Mẹ đồng trinh trọn đời,
điều này loại trừ việc có những anh chị
em ruột thịt của Chúa Giêsu. Trong tiếng Araméen là tiếng
mẹ đẻ của Chúa Giêsu, chỉ có một từ
để chỉ anh em và chị em ruột cũng như
anh em và chị em họ. Nên trong các Tin Mừng, khi nói đến
“anh chị em” Chúa Giêsu (Mc 3,31-35 chẳng hạn) là nói đến
anh chị em họ của Người.
82.
Gọi Đức
Maria là Mẹ Thiên Chúa có chướng tai không ?
-
Không. Ai gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa cũng là
tuyên xưng Con của Mẹ là Thiên Chúa. [495, 509]
–
Trong Kitô giáo sơ khởi, khi tranh
luân để định nghĩa Chúa Giêsu là ai, danh hiệu
“Mẹ Thiên Chúa” (Theotokos) được dùng để giải
thích Kinh thánh cho đúng: Đức Maria c̣n mang trong ḷng một
người con là Con thật của Thiên Chúa. Cuộc tranh
luận không nhắm tới Đức Maria trước hết,
nhưng nhắm về Chúa Giêsu: Người có thể vừa
là người vừa là Thiên Chúa không? à 117
«
Ở đâu đức
tin về Mẹ Thiên Chúa lu mờ th́ đức tin về
Con Thiên Chúa và về Thiên Chúa cũng bị lu mờ. Ludwig Feuerbach (1804–1872, triết gia Đức,
vô thần, trong sách Tinh hoa Kitô giáo)
83.
Gọi Đức Maria "Vô
nhiễm Nguyên tội" nghĩa là ǵ ?
-
Hội Thánh Công giáo tin rằng "Thánh Nữ Đồng
trinh Maria, từ lúc bắt đầu đậu thai,
bởi ơn huệ và ḷng quư mến đặc biệt
của Thiên Chúa toàn năng, và bởi công nghiệp của
Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu chuộc, Đức Mẹ
được ǵn giữ khỏi lây nhiễm mọi
vết nhơ của tội Tổ Tông, v́ thế chúng ta
xưng tụng Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội
(Tín điều 1854; à Tín điều).
[487-492, 508]
–
Trong lịch sử Hội Thánh, Kitô
hữu rất mau đă tuyên xưng Đức Maria Vô nhiễm
nguyên tội. Kiểu nói này ngày nay bị hiểu lầm. Nó
có nghĩa là ngay từ lúc đầu, Thiên Chúa đă ǵn giữ
Đức trinh nữ Maria khỏi mắc tội tổ
tông truyền. Kiểu nói đó không áp dụng cho việc thụ
thai Chúa Giêsu trong ḷng Đức Maria. Kiểu nói đó không
phải là làm mất giá trị của tính dục Kitô giáo,
coi như một người nam và một người nữ
“phạm tội với nhau” để sinh con.
à 68-69
« Năm
1858, khi hiện ra với cô Bernadette Soubirous ở Lộ
đức Đức Maria giới thiệu ḿnh là “Đấng
vô nhiễm nguyên tội”. Câu này đă có hậu quả quan
trọng trong lịch sử. Reinold Schneider (1903–1958,
văn sĩ Đức)
84.
Có phải
Đức Maria chỉ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa
không ?
-
Đức Maria c̣n hơn là một dụng cụ thụ
động trong tay Thiên Chúa v́ Mẹ đă chủ
động chấp nhận qua lời "Xin vâng",
để việc Chúa nhập thể được hoàn
thành.
[493-494, 508-511]
–
Đức Maria trả lời cho sứ
thần đă báo tin Mẹ sẽ sinh ra Con Thiên Chúa tối
cao rằng: “Xin Chúa cứ làm
cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Việc cứu
chuộc của Chúa Giêsu Kitô đă bắt đầu bởi
lời mời gọi của Thiên Chúa, bởi lời chấp
nhận tự do của một người, và Đức
Mẹ thụ thai trước khi lễ cưới với
Thánh Giuse. Cũng theo những con đường không b́nh
thường, Đức Maria đă trở nên “cửa cứu
rỗi” chúng ta. à 479
85.
Tại sao Đức Maria cũng là
Mẹ chúng ta nữa ?
- Đức Maria là Mẹ chúng
ta, v́ Chúa Giêsu từ trên thập giá đă trao ban Mẹ
Người làm Mẹ chúng ta. [963-966, 973]
–
“Thưa
Bà, đây là con của Bà…Đây là Mẹ của anh” (Ga
19, 26.29). Hội thánh luôn coi những lời mà từ trên thập
giá Chúa Giêsu nói với Đức Maria và môn đệ Người
yêu mến, là việc trao phó toàn thể Hội Thánh cho Đức
Maria. V́ thế Đức Maria cũng là Mẹ chúng ta. Chúng
ta có thể kêu cầu Mẹ và xin Mẹ chuyển cầu
cho chúng ta trước mặt Chúa. à 147 - 149
«
Đối với tất cả
nhân loại, đức Maria là Mẹ rất nhân từ, là
nơi ẩn náu của mọi tội nhân. Thánh Anphongsô Liguori (1696-1787, sáng lập
ḍng Chúa Cứu Thế, nhà thần bí và tiến sĩ Hội
thánh).
«
Hội thánh càng sống theo h́nh ảnh Đức Maria
càng trở thành Mẹ, càng giúp người ta có thể sinh
lại trong ḷng ḿnh để làm con Chúa, để
được ḥa giải với Chúa. Roger Schutz (1915-2005, sáng lập
và bề trên cộng đồng đại kết Taizé)
«
Trong gia
đ́nh, con cái học biết yêu thương bằng cách
yêu thương không vụ lợi; chúng học biết tôn
kính mọi người khác bằng cách tôn trọng họ;
chúng học biết Thiên Chúa bằng cách chúng nhận thấy
được ngay từ lúc đầu t́nh cha và t́nh mẹ
chăm sóc chúng. Hội
nghị về đức tin, 31-5-2004
86.
Tại sao Chúa
Giêsu đă chờ đến 30 tuổi mới đi
giảng đạo công khai ?
- V́ Chúa Giêsu đă muốn chia
sẻ đời sống b́nh thường với chúng ta và
như thế, Người thánh hóa những công việc
thông thường hàng ngày của chúng ta. [531-534, 564]
–
Chúa Giêsu đă
là một em bé được cha mẹ yêu thương và
nuôi nấng. Người ngày
càng khôn lớn và được Thiên Chúa cũng như mọi
người thương mến (Lc 2,52). Người là
dân trong một làng Do Thái, tham dự các nghi lễ tôn giáo.
Người học một nghề chân tay để chứng
minh khả năng của Người. Thiên Chúa đă muốn
Chúa Giêsu sống và lớn lên trong gia đ́nh nhân loại, v́
gia đ́nh là nơi có Thiên Chúa ngự, gia đ́nh là một cộng
đoàn gương mẫu trong đó ta gặp được
sự trợ giúp và nâng đỡ.
87.
Tại sao Chúa
Giêsu để ông Gioan Tiền hô làm phép rửa cho ḿnh, dù
Người chẳng có tội ǵ ?
- Chúa Giêsu
chịu phép rửa là chịu ǵm trong lịch sử tội
lỗi của cả nhân loại. Nhờ đó
Người dạy ta rằng để cứu độ
chúng ta khỏi tội lỗi, một ngày kia Người
sẽ bị ǵm trong cái chết, để được
sống lại nhờ quyền năng của Cha Người.
[535-537, 565]
–
Những tội
nhân, lính tráng, gái hư hỏng, người thu thuế
đến với tiên tri Gioan Tẩy giả, v́ họ
đi t́m một phép rửa sám
hối để được tha tội (Lc 3,3). Thực
ra Chúa Giêsu không cần phải chịu phép rửa v́ Người
vô tội, nhưng Người muốn chịu phép rửa
để chỉ cho ta thấy hai việc: Chúa Giêsu nhận
lấy tội lỗi của ta nơi ḿnh, và việc
Người chịu phép rửa báo trước cuộc khổ
nạn và sống lại của Người. Đang khi
Người tỏ dấu hiệu sẵn sàng chết cho ta
th́ trời mở ra: Con là Con
yêu dấu của Ta (Lc 3,22).
« Giữa những người công chính và tội
nhân có một sự hiệp thông, bởi v́ cuối cùng chẳng
có ai là công chính. Gertrud Von Le Fort (1876–1971, văn sĩ
Đức)
88.
Tại sao Chúa
Giêsu lại chịu cám dỗ ? Người có thể
chịu cám dỗ thực sao ?
- V́ Chúa Giêsu thực sự là
một con người, nên Người phải chịu cám
dỗ. Như Thánh Phaolô viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta là Đấng
biết cảm thương những nỗi yếu hèn
của ta, v́ Người đă chịu thử thách về
mọi phương diện cũng như ta, nhưng không
phạm tội (Dt 4,15). [538-540, 566]
«
Kitô hữu hàng ngày phải đương đầu với
cuộc chiến đấu mà Chúa Giêsu đă phải chịu
đựng ở sa mạc Giuđêa suốt bốn
mươi ngày do chính Satan gây ra. Đây là cuộc chiến
đấu thiêng liêng chống lại tội lỗi, mà cuối
cùng là chống lại Satan. Đó là một cuộc chiến
đấu buộc toàn diện con người phải tham
gia và đ̣i hỏi luôn phải tỉnh thức và kiên tŕ. Đức
Bênêđíctô XVI, 01-3-2006
89.
Chúa Giêsu hứa "Nước
Thiên Chúa" cho những ai ?
- “Thiên
Chúa muốn mọi người được cứu
rỗi và nhận biết chân lư” (1Tm 2,4). Nước
Thiên Chúa sẽ khởi đầu nơi những ai
để cho T́nh yêu Chúa biến đổi ḿnh. Họ
trước hết là những người nghèo khó và
thấp hèn như Chúa Giêsu thường nói (xem Tám mối
phúc). [541-546,
567]
–
Cả những người xa Hội
thánh cũng thấy quyến rũ khi Chúa Giêsu hướng
về những người nam và nữ bị gạt ra lề
xă hội với một t́nh yêu ưu tiên. Trong bài giảng
trên núi, những nạn nhân của bách hại và bạo lực,
tất cả những ai t́m Chúa với ḷng trong trắng, tất
cả những ai t́m đến ḷng thương xót, sự
công chính và sự b́nh an của Chúa, đều ưu tiên vào
Nước Thiên Chúa. Ngay cả người tội lỗi
cũng được nghe những lời mời gọi
đặc biệt: không phải
là những người khỏe mạnh cần đến
thầy thuốc, nhưng là những người bệnh tật;
tôi đến kêu gọi không phải người công chính,
nhưng những người tội lỗi (Mc 2,17).
Chúa Giêsu nói về Cha Người:
“Thần khí Chúa ngự trên tôi, v́ Chúa đă xức dầu tấn
phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đă sai tôi đi công bố cho kẻ bị
giam cầm biết họ được tha, cho người
mù biết họ được sáng mắt, trả lại
tự do cho người bị áp bức công bố một
năm hồng ân của Chúa.” Lc 4,18-14
90.
Chúa Giêsu có thực đă làm các phép
lạ hay đó chỉ là những huyền thoại
đạo đức ?
-
Chúa Giêsu thực sự đă làm những phép lạ. Các thánh
sử Tân Ước đă thuật lại những sự
kiện có thực này. [547-550]
–
Những nguồn tài liệu cổ
đă nói đến nhiều phép lạ xác nhận việc
giảng dạy của Chúa Giêsu: “Nhưng nếu tôi dựa vào Thánh Thần của Thiên
Chúa mà trừ quỉ, th́ quả là triều đại Thiên
Chúa đă đến giữa các ông” (Mt 12,28). Các phép lạ
đă được thực hiện công khai và người
ta c̣n biết cả tên những người được
hưởng phép lạ: chẳng hạn anh mù Bartimê (Mc
10,46-52), hoặc bà mẹ vợ thánh Phêrô (Mc 8,14-15). Ngoài ra
c̣n có những phép lạ đă gây sốc và tức giận
cho giới Do Thái (chữa lành người bất toại
vào ngày sabbat hoặc chữa người cùi). Dầu vậy,
các phép lạ không bị Do Thái giáo thời Chúa Giêsu tranh căi.
«
Một phép lạ không được
thực hiện trái ngược với thiên nhiên nhưng
trái ngược với hiểu biết của ta về
thiên nhiên. Thánh Augustinô
91.
Tại sao Chúa Giêsu làm các phép lạ
?
-
Người làm các phép lạ như những dấu chỉ
Nước Thiên Chúa đă bắt đầu, để
biểu lộ t́nh yêu của Người cho con
người và xác quyết sứ mạng của
Người. [547-550]
–
Khi làm phép lạ Chúa Giêsu không cần
phải dàn cảnh như thầy phù thủy. Người
biểu lộ sức mạnh của t́nh yêu cứu độ
của Thiên Chúa. Nhờ các phép lạ Người chứng
tỏ Người là Mêsia và Nước Thiên Chúa bắt
đầu với Người. Người làm cho thấy
được một thế giới mới: giải thoát
khỏi đói khát (Ga 6,5-15), bất công (Lc 19,8), bệnh tật
và cái chết (Mt 11,5). Khi trừ quỷ là Người
đă bắt đầu cuộc chiến thắng của
Người trên "thủ lănh của thế gian" (Ga
12,31 nghĩa là Satan. Tuy nhiên Chúa Giêsu đă không loại bỏ
hết những ǵ là xấu là ác trong thế gian. Điều
Người muốn cho biết trước hết là cần
phải giải thoát con người khỏi nô lệ tội
lỗi. Ngay cả khi làm các phép lạ, điều mà Người
hết sức quan tâm chính là đức tin. à 241 - 242
Họ hết
sức kinh ngạc và nói: ông ấy làm việc ǵ cũng tốt
đẹp cả, ông làm cho kẻ điếc nghe được
và kẻ câm nói được. Mc 7,37
«
Không nơi nào trên trần gian đă
có một phép lạ lớn như trong chuồng ḅ nhỏ ở
Betlem: ở đây Thiên Chúa và con người trở thành một.
Thomas a Kempis (1380-1471, nhà
thần bí Đức, tác giả sách Gương Chúa Giêsu).
92.
Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ
để làm ǵ ?
-
Chúa Giêsu có nhiều môn đệ cả nam lẫn nữ.
Trong nhóm đó, Người chọn 12 ông làm Tông đồ
(Lc 6,12-16). Chúa dạy dỗ họ kĩ càng và trao cho
họ nhiệm vụ: “Người
sai họ đi rao giảng Nước Chúa, và chữa
bệnh cho dân” (Lc 9,2). Trong
bữa Tiệc ly, Người chỉ dùng bữa với 12
ông, và truyền dạy họ: "Các con hăy làm việc này
mà nhớ đến Thầy" (Lc 22, 19). [551-553, 567]
–
Các tông đồ là những chứng
nhân về việc Chúa sống lại và là những bảo
đảm cho sự thật về Người. Các ngài tiếp
tục công việc sau khi Chúa chết và đă chọn nhiều
người để kế vị các ngài: đó là các giám
mục. Ngày nay những đấng kế vị các tông
đồ c̣n thi hành đầy đủ quyền năng
được Chúa Giêsu trao phó: các ngài điều khiển,
giảng dạy và cử hành. Sự kết hợp chặt
chẽ giữa các tông đồ đă trở nên nền
móng cho sự hiệp nhất trong Hội Thánh (→ sự nối tiếp của các
tông đồ). Thánh Phêrô nổi bật giữa nhóm Mười
Hai, được Chúa Giêsu trao cho quyền năng đặc
biệt: "Con là Đá và trên
Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy"
(Mt 16,18). Từ hoàn cảnh đặc biệt của Thánh
Phêrô giữa nhóm các tông đồ mà phát xuất nhiệm vụ
của Giáo Hoàng. à 137
Như
Chúa Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Ga 20,21
93.
Tại sao Chúa Giêsu biến h́nh trên
núi ?
-
Ngay khi Chúa Giêsu c̣n ở trần gian, Chúa Cha đă muốn
bày tỏ vinh quang thiên tính của Con ḿnh. Và Chúa Giêsu cũng
muốn biến h́nh để giúp các môn đệ sau này
hiểu được ư nghĩa về cái chết và
sự sống lại của Người. [554-553, 567]
–
Ba sách Tin Mừng thuật lại việc
Chúa Giêsu đă tỏa sáng thế nào trước mắt các
môn đệ (Người đă biến h́nh). Lời của
Cha trên trời ban cho Chúa Giêsu danh hiệu "Con yêu dấu"
và bảo phải nghe lời Người. Thánh Phêrô muốn
"dựng ba lều" để kéo dài thời gian
đó. Nhưng Chúa Giêsu đang trên đường dẫn tới
cuộc tử nạn. Việc được thấy vinh
quang của Chúa có mục đích giúp các môn đệ vững
tin hơn.
«
Nếu có người nào được
ơn mặc khải mạnh mẽ của Chúa, họ sẽ
thấy như họ được sống giống
như các môn đệ Chúa đă sống trong cuộc Chúa biến
h́nh: trong một chốc lát được nếm trước
hạnh phúc ở Thiên đường. B́nh thường
đó là những mặc khải ngắn ngủi đôi khi
Chúa ban cho trước để chuẩn bị họ cho
những thử thách khắc nghiệt hơn. Đức Bênêđictô XVI, 12-3-2006
94.
Chúa Giêsu có biết Người
sẽ chết khi vào thành Giêrusalem không ?
-
Có. Chúa Giêsu đă ba lần báo trước về sự
đau khổ và sự chết mà Người biết rơ và
tự nguyện đi đến nơi chịu
thương khó (Lc 9,51). [557-560, 569-570]
Chúa Giêsu bắt
đầu nói với các môn đệ về những điều
sắp xảy đến cho ḿnh: Này chúng ta lên Giêrusalem và Con
Người sẽ bị nộp cho các thượng tế
và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và
sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo
báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ
đánh đ̣n và giết chết Người. Ba ngày sau
Người sẽ sống lại. Mc
10, 32-34
95.
Tại sao Chúa Giêsu chọn ngày
lễ Vượt qua của người Do thái để
chịu chết và sống lại ?
-
Chúa Giêsu đă chọn lễ Vượt qua của
người Do thái như một biểu tượng
cho công việc mà người sắp hoàn thành trong cái
chết và sống lại của Người. Như
xưa người Do thái được giải thoát
khỏi kiếp nô lệ người Ai cập, nay Chúa Giêsu
cũng giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội
lỗi và sự chết. [571-573]
–
Lễ Vượt qua là lễ mừng
dân
Khi giờ đă đến,
Chúa Giêsu vào bàn, và các tông đồ cùng vào với Người.
Người nói với các ông: Thầy những khát khao mong mỏi
ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi
chịu khổ h́nh. Bởi v́, Thầy nói cho anh em hay, Thầy
sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa
cho đến khi lễ này được nên trọn. Lc
22,14-16
96.
Tại sao con người ḥa b́nh
như Chúa Giêsu lại bị xử chết trên thập giá ?
-
Chúa Giêsu đă buộc những người đương
thời của ḿnh phải có một quyết định
dứt khoát đối với các hoạt động
của Người, như : tha tội, không giữ ngày
Sabat hoặc nh́n nhận uy quyền thần linh của
Người, hoặc coi Người là kẻ lường
gạt, tên phạm thượng, người phạm
luật, cần phải lên án chết trên thập giá cho
Người. [574-576]
–
Về nhiều mặt, hành động
của Chúa Giêsu quả là một thách đố lớn
đối với Do Thái giáo truyền thống ở thời
Người. Người đă tha tội, điều mà chỉ
một ḿnh Thiên Chúa mới làm được; Người
đă làm cho luật ngày Sabbat không c̣n là tuyệt đối,
Người đă chuốc lấy sự nghi ngờ mắc
tội phạm thượng và chuốc lấy cả tố
cáo là một tiên tri giả. Từng bấy nhiêu vi phạm
khiến Lề Luật dự kiến cho Người bị
tử h́nh.
97.
Người Do thái có trách nhiệm
về cái chết của Chúa Giêsu không ?
-
Không ai có thể kết tội cho dân tộc Do thái về
cái chết của Chúa Giêsu. Trái lại Hội Thánh Công giáo
tuyên bố chắc chắn rằng: mọi tội nhân
đều là ṭng phạm trong cái chết của Chúa
Giêsu. [597-598]
–
Tiên tri Simêon đă biết trước
là Chúa Giêsu làm "duyên cớ
cho nhiều người
«
Không phải ma quỷ đă đóng
đinh Chúa Giêsu mà là chính bạn cùng với ma quỷ đă
đóng đinh Người và c̣n đóng đinh Người
bằng cách ham thích thói xấu và tội lỗi. Thánh Phanxicô Atxidi
98.
Thiên Chúa có muốn
cho Con của Người phải chết không ?
-
Cái chết dữ dằn của Chúa Giêsu không do những
sắp đặt, những toan tính ác độc của con
người. Chúa Giêsu đă “tự
nguyện phó ḿnh theo chương tŕnh Thiên Chúa định
trước” (Cv 2,23). Để chúng ta, là những con cái
của tội lỗi và sự chết, được
cứu sống, Cha trên trời của Đấng vô
tội đă "làm cho Con
của Ngài thành tội nhân, v́ chúng ta" (2 Cr 5, 21).
Sự hi sinh lớn lao mà Chúa Cha mong đợi nơi Chúa
Con đă được Chúa Con đáp lại bằng
sự từ bỏ ḿnh cho đến chết: “Lạy Cha xin cứu con khỏi
giờ này, nhưng chính v́ giờ này mà con đă đến”
(Ga 12, 27). Thế là từ cả hai phía, Cha và Con đă
xuất hiện một t́nh yêu đến tột cùng là
chết trên thập giá. [599-609, 620]
–
Để cứu ta khỏi chết,
Thiên Chúa đă thực hiện một sứ mệnh nguy hiểm:
Người đă đem vào thế giới sự chết
của ta "một thứ thuốc bất tử"
(Thánh Inhaxiô Antiôkia). Chúa Cha và Chúa Con là hai đồng minh
không thể tách rời trong sứ mệnh đó. Đầy
ḷng ước ao nồng nhiệt và v́ yêu thương loài
người, các Ngài đă nhận cho ḿnh cái ǵ là cực
độ cực điểm. Thiên Chúa đă đề nghị
một trao đổi để cứu độ ta măi măi:
Người muốn ban sự sống đời đời
của Người để ta có thể nếm được
niềm vui của Người. Chúa Giêsu đă muốn chịu
đựng cuộc hấp hối của ta, sự tuyệt
vọng của ta, cảm xúc bị bỏ rơi của ta,
cái chết của ta, để được hiệp
thông hoàn toàn với ta mà Người vẫn hoàn toàn hiệp
thông với Cha Người. Để yêu thương ta
đến cùng và hơn thế nữa. Cái chết của
Chúa Kitô là ư muốn của Chúa Cha, nhưng nó không phải tiếng
nói cuối cùng. Bởi v́ Chúa Kitô chết cho ta, nếu ta hiệp
thông với Người, ta có thể đổi sự chết
của ta lấy sự sống của Người.
Chúa Giêsu biết giờ của
Người đă đến, giờ phải bỏ thế
gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu
thương những kẻ thuộc về ḿnh c̣n ở thế
gian và Người yêu thương họ đến cùng. Ga
13,1
«
Thánh giá là thang để ta về trời,
bỏ thánh giá đi, ta không c̣n thang nào khác. Thánh nữ Rosa Lima (1586–1617, thánh nữ
đầu tiên của Pérou)
99.
Khi Chúa Giêsu ăn Bữa Tiệc Ly
với các tông đồ, đă xảy ra những chuyện
ǵ ?
-
Chúa Giêsu đă bày tỏ t́nh yêu của Người trong 3
việc: rửa chân cho các tông đồ; lập Bí tích Thánh
Thể ; lập chức Linh mục của Giao ước
mới. [610-611]
–
Chúa Giêsu đă bày tỏ t́nh yêu
Người đến cùng bằng cách: Người đă
rửa chân cho các môn đệ, để tỏ ra rằng
Người ở giữa ta như một người phục
vụ (Lc 22,27). Người đă chịu trước
đau khổ để cứu độ bằng cách đọc
những lời trên lễ vật dâng lên là bánh rượu:
Đây là Ḿnh Thầy hiến tế
v́ anh em (Lc 22,19), như vậy Người thiết lập
Bí tích Thánh Thể. Khi Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ:
Hăy làm như Thầy vừa làm
để nhớ đến Thầy (1Cr 11,24). Người
đă thiết lập họ thành các Linh mục của Giao
ước mới. à 208 – 223
«
Hiểu theo một nghĩa, có thể
nói chính xác rằng Bữa Tiệc ly là hành vi thiết lập
Hội Thánh, v́ Chúa Giêsu tự hiến chính ḿnh và thiết lập
một cộng đồng mới, một cộng đồng
hiệp nhất trong hiệp thông với chính Người. Đức Bênêđictô XVI, 15-3-2006
100.
Vào đêm trước khi chết,
trên núi Cây dầu, có phải
Chúa Giêsu đă thực sự cảm thấy kinh hoàng
trước cái chết không ?
-
V́ là người như ta, Chúa Giêsu thực sự cảm
thấy kinh hoàng trước cái chết khi ở trong
vườn Giệtsêmani (vườn cây dầu). [612]
–
Với sức lực của loài
người, cũng giống sức lực trong mỗi
người chúng ta, Chúa Giêsu đă phải chiến đấu
trong nội tâm để hoàn toàn tuân theo ư Chúa Cha muốn
Người hiến sự sống cho thế gian được
sống. Ở vào lúc khó khăn nhất, bị mọi
người dù là bạn hữu nữa cũng bỏ
rơi, Chúa Giêsu đă quyết định xin vâng. “Lạy Cha, nếu chén này không thể
rời khỏi Con; nhất định Con phải uống
th́ xin cho ư Cha được thể hiện” (Mt 26,42). à 476
«
Thiên Chúa không đến để
làm cho hết đau khổ. Người cũng không đến
để giải nghĩa về đau khổ, Người
đến để lấp đầy đau khổ bằng
sự có mặt của Người. Paul Claudel (1868–1955, thi sĩ và văn
sĩ Pháp).
101.
Tại sao Chúa Giêsu phải cứu
chuộc chúng ta bằng cái chết trên thánh giá, mà không dùng
cách khác ?
- Dù vô tội, Chúa Giêsu cũng chọn
cái chết dữ dằn để từ bỏ ḿnh và
tận hiến hoàn toàn trên thánh giá. Người đă
chọn thập giá để gánh tội thế gian và
chịu những đau khổ của nhân loại. Như thế, v́
T́nh yêu trọn hảo của Người, Người
đă đem nhân loại trở về cùng Thiên Chúa. Không ai
c̣n có thể nói: Thiên Chúa không biết tôi phải đau
khổ. [613-617, 622-623]
Khổ
nạn từ dùng để chỉ
những đau khổ của Chúa Kitô.
«
Thiên Chúa đă giang
tay trên thập giá để ôm lấy hết giới hạn
của thế giới. Thánh Cyrille ở Giêrusalem (313–387, giáo phụ
của Hội thánh)
«
Ta là Kitô hữu, ta không ch́m đắm
vào trong băo tố của thế gian chỉ v́ một lư do
duy nhất là ta được đùm bọc bởi cây thập
giá. Thánh Augustinô
102.
Tại sao chúng ta
cũng phải chấp nhận đau khổ trong cuộc
sống, phải "vác thập giá ḿnh mà theo Chúa Giêsu" ?
-
Kitô hữu không được t́m đau khổ, nhưng
khi phải đối diện với đau khổ mà không
tránh được, họ nên vui ḷng kết hợp đau
khổ của họ với đau khổ của Chúa Giêsu,
như "Người đă
chịu đau khổ v́ ta và để nêu gương cho ta
bước theo Người" (1 Pr 2,21). [618]
–
Chúa Giêsu đă nói: nếu ai muốn theo Tôi, hăy từ bỏ ḿnh vác thập
giá ḿnh mà theo Tôi (Mc 8,34). Kitô hữu phải tranh đấu
để chống lại đau khổ trong thế giới.
Dầu vậy, đau khổ sẽ tiếp tục tồn
tại. Trong đức tin, ta có thể đón nhận
đau khổ riêng của ta và chia sẻ với đau khổ
của những người khác nữa. Bằng cách đó
đau khổ loài người được hội nhập
vào t́nh yêu cứu chuộc của Chúa Kitô và nhờ đó trở
nên thành phần hấp dẫn của sức mạnh thần
linh lôi kéo thế giới tới hạnh phúc.
«
Nếu bạn vác thập giá ḿnh
cách vui vẻ, thập giá sẽ vác bạn. Thomas a Kempis
« Ta phải
vác thập giá chứ không kéo lê, và phải đón nhận thập
giá như kho tàng chứ không phải như một gánh nặng.
Chỉ nhờ thập giá mà ta có thể nên giống như
Chúa Kitô. Francis Fénelon (1651–1715, giám mục Pháp)
« Thực hiện cứu chuộc
bằng đau khổ, Chúa Kitô đă đồng thời
nâng đau khổ của loài người lên để cho
nó có giá trị cứu chuộc. Tất cả mọi
người đều có thể đem đau khổ của
ḿnh tham dự vào đau khổ cứu rỗi của Chúa
Kitô. Đức
Gioan Phaolô II, Salvifici Doloris
«
Khi ta nh́n ngắm
thánh giá, ta hiểu được sự cao cả của
t́nh yêu Chúa. Khi ta nh́n ngắm máng cỏ, ta hiểu được
sự âu yếm của t́nh yêu Chúa, đối với bạn,
đối với tôi, đối với gia đ́nh bạn
và đối với tất cả mọi gia đ́nh. Mẹ Têrêsa
103.
Chúa Giêsu có chết thật không ? hay
Người chỉ "làm bộ chết" để
c̣n sống lại ?
- Chúa Giêsu thực sự đă
chết trên Thánh giá. Xác Người đă được
chôn táng. Tất cả các tài liệu gốc viết về
Người đều chứng minh điều này. [627]
–
Theo Gioan 19,33, quân
lính nhận thấy rơ ràng Chúa Giêsu đă chết. Một
lưỡi đ̣ng đâm thủng cạnh sườn Chúa
và họ thấy nước cùng máu chảy ra. Cần phải
nói thêm là người ta đă đánh dập ống chân của
hai người khác bị đóng đinh, đây là biện
pháp để làm cho họ chết mau hơn – nhưng
điều này không cần thiết đối với Chúa
Giêsu v́ Người đă chết.
«
Tấm khăn liệm xác Chúa,
được giữ tại Turin là một tấm khăn
vải lanh ở thế kỷ I. Năm 1898 tấm khăn
được chụp h́nh lần đầu bởi một
người ở Turin. Nh́n âm bản của phim, người
ta thấy in trên vải sợi lanh một h́nh ảnh bí nhiệm
của một người bị tử h́nh thời cổ.
104.
Bạn có thể là Kitô hữu mà
không tin Chúa Giêsu đă sống lại không ?
-
Không. Thánh Phaolô viết: "Nếu
Chúa Kitô đă không sống lại th́ lời chúng tôi rao
giảng sẽ vô ích, và đức tin của bạn
cũng vô ích" (1Cr 15,14). [631, 638, 651]
105.
Làm thế nào mà các môn đệ Chúa
Giêsu đă đi đến chỗ tin Người sống
lại ?
-
Đầu tiên, các ông mất hết hi vọng, nhưng
dần dần, các ông đă đi đến chỗ tin Chúa
sống lại, v́ sau khi Người chết, họ đă
thấy Người trong nhiều dịp khác nhau, các ông
đă nói chuyện với Người, đă có kinh
nghiệm rơ ràng là Người đang sống. [640-644, 656]
–
Những biến cố Phục Sinh
diễn ra ở Giêrusalem khoảng năm 30 không phải là
chuyện bày đặt ra. Bị sốc v́ cái chết của
Chúa và v́ sự nghiệp chung thất bại, các môn đệ
đă trốn mất. Chúng tôi
hy vọng rằng Người là Đấng sẽ giải
thoát
«
Biến cố Chúa Giêsu chết và sống
lại trở thành tâm điểm của Kitô giáo. Đó là
điểm tựa cho đức tin của ta, là đ̣n bảy
mạnh mẽ cho tin tưởng vững chắc của
ta, là luồng gió mạnh quét sạch mọi sợ hăi, và
lưỡng lự, mọi hồ nghi và tính toán của loài
người. Đức
Bênêđictô XVI, 19-10-2006
«
Ai hiểu biết lễ Vượt
Qua th́ không thể thất vọng nữa. Dietrich Bonhoeffer (1906–1945, thần học
gia Tin lành và chống Hitler bị xử tử trong trại
tập trung Flossenbürg)
106.
Có những bằng chứng về
việc Chúa Giêsu đă sống lại không ?
- Không có
bằng chứng theo khoa học về việc Chúa Giêsu
sống lại. Nhưng có những chứng cớ rất
mạnh của cá nhân cũng như tập thể của
nhiều người đương thời tại
Giêrusalem. (1Cr 15,3-6; Lc 24,2-3; Ga 20,8).
[639-644, 656-657]
–
Bằng chứng cổ xưa nhất
ghi chép Chúa Giêsu sống lại là thư của Thánh Phaolô gửi
giáo đoàn Côrintô, viết khoảng 20 năm sau cái chết
của Chúa Giêsu: “Trước hết
tôi đă truyền lại cho anh em điều mà chính tôi
đă lănh nhận, đó là Đức Kitô đă chết v́ tội
lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người
đă được mai táng, và ngày thứ ba đă chỗi
dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Sau đó Người
đă hiện ra với năm trăm anh em một lượt,
trong số ấy phần đông hiện nay c̣n sống
nhưng một số đă an nghỉ (1Cr 15,3-6). Ở
đây thánh Phaolô nói về một truyền thống sống
động ngài gặp trong cộng đồng Kitô giáo
sơ khởi, khi chính ngài vừa mới trở thành Kitô hữu,
hai ba năm sau cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu –
theo sau cuộc gặp gỡ ngao ngán với Chúa đă phục
sinh. Các môn đệ đă cho rằng ngôi mộ trống là
chỉ dẫn đầu tiên về thực tại Chúa sống
lại (Lc 24,5-6). Đây là việc các phụ nữ đă
khám phá thấy – theo luật thời đó th́ bằng chứng
của họ không được chấp nhận. Dù
người ta nói rằng tông đồ Gioan đến mộ,
đă thấy và đă tin (Ga
20,8), việc xác tín rằng Chúa Giêsu sống lại chỉ
phát triển nhờ một loạt các lần hiện ra. Chỉ
sau khi Chúa về trời, mới không c̣n những gặp gỡ
với Đấng đă sống lại. Nhưng cho đến
ngày nay, vẫn tiếp tục có những gặp gỡ với
Chúa Giêsu, Người vẫn sống.
«
T́nh yêu Thiên Chúa
đi tới chỗ sáng như chớp. Như một tia chớp
Chúa Thánh Thần đi qua đêm của mỗi người.
Đấng Phục Sinh bắt lấy bạn, đảm
nhận mọi sự, mang trên Người tất cả những
ǵ bạn không mang nổi. Chỉ như thế mà sau này,
đôi khi rất lâu sau này điều đó mới rơ ràng:
Chúa Kitô đă đi qua và đă phân phát những ǵ quá đầy
của Người. Frère
Roger Schutz
107.
Sau khi sống lại Chúa Giêsu có mang
cùng một thân xác như trước khi Người qua
đời không ?
- Chúa Giêsu đă cho các môn đệ
đụng chạm đến xác Người,
Người ăn uống với họ, cho họ thấy
vết đâm nơi cạnh sườn Người. Nhưng thân xác
Người không c̣n hoàn toàn thuộc về trần gian, mà
thuộc về Thiên đàng nơi Chúa Cha đang ngự
trị. [645-646]
–
Đức Kitô sống lại c̣n
mang theo các vết thương khi chịu đóng đinh thập
giá, nhưng không c̣n ở trong không gian hay thời gian nữa.
Người có thể vào trong một pḥng đă đóng kín cửa,
và có thể hiện ra với các môn đệ ở nhiều
nơi khác nhau với vẻ bề ngoài mà các ông không thể
nhận ra ngay lập tức được. Chúa sống lại
không phải là lại sống như đời sống
thường trước kia, nhưng đă đổi sang
một đời sống khác: Chúa Kitô một khi đă sống
lại từ cơi chết th́ không c̣n chết nữa, sự
chết không c̣n quyền ǵ đối với Người nữa (Rm 6,9).
Chúa Giêsu hiện ra với bà
Maria Magdala mà bà đă không nhận ra ngay được liền.
Chúa Giêsu nói: “Maria”. Bà quay lại và nói với Chúa: “Rabbouni” có
nghĩa là “Lạy Thầy”. Ga
20,16
108.
Thế giới
đă có biến đổi ǵ nhờ việc Chúa Giêsu
sống lại ?
- V́ cái chết từ nay không c̣n là
"chấm dứt" mọi sự nữa, nên niềm vui và hi
vọng đă đến với thế giới. Cái
chết không c̣n cai trị trên
Chúa Giêsu (Rm 6,9). Chết cũng không c̣n quyền trên chúng
ta, là những người thuộc về Chúa Giêsu
nữa. [655-658]
«
Người nào đă nhận
được sứ điệp Phục Sinh không thể
nào c̣n bước đi với bộ mặt bi thảm và sống
cuộc sống không có niềm vui của một người
không có hy vọng. Friedrich
Schiller (1759–1805, văn sĩ và kịch gia Đức)
109.
Khi nói Chúa Giêsu lên trời nghĩa là
ǵ ?
-
Nghĩa là Chúa Giêsu, một người trong chúng ta đă
về lại nhà với Thiên Chúa Cha và ở lại đó
muôn đời. Nhờ Chúa Giêsu mà Thiên Chúa ở gần loài
người chúng ta trong cách thức loài người. Và trong
Phúc Âm Gioan, Chúa Giêsu đă nói: "Khi được giương cao lên khỏi mặt
đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta"
(Ga 12, 32). [659-667]
–
Trong Tân ước, việc Chúa về
trời chấm dứt giai đoạn bốn mươi
ngày được đánh dấu bằng việc Đấng
đă sống lại ở gần gũi với các môn
đệ. Cuối giai đoạn này Chúa Giêsu đi vào trong
oai nghi của Thiên Chúa với toàn bộ nhân tính của ḿnh.
Kinh Thánh thuật lại bằng những h́nh ảnh tượng
trưng có “mây”, có “trời”. Như Đức Bênêđictô
XVI nói: “Con người có được chỗ trong Thiên
Chúa”. Chúa Giêsu Kitô bây giờ ở với Chúa Cha, từ
đó một ngày kia Người đến “phán xét kẻ sống
và kẻ chết”. Chúa Giêsu về trời có nghĩa là Chúa
Giêsu không c̣n là hữu h́nh ở dưới đất, nhưng
lại vẫn luôn có mặt dưới đất.
Hỡi những
người Galilê, sao c̣n đứng nh́n lên trời? Đức
Giêsu, Đấng vừa ĺa bỏ các ông và được
rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y
như các ông đă thấy Người lên trời. Cv 1,11
110.
Tại sao Chúa Giêsu Kitô là Chúa của
cả vũ trụ ?
-
Chúa Giêsu Kitô là Chúa của cả vũ trụ và Chúa của
lịch sử, v́ nhờ Người mà muôn vật
được tạo thành. Tất cả mọi
người được Chúa cứu chuộc, và
đều được Người dẫn dắt.
[668-674, 680]
–
“Chúa ở
bên trên ta” và Chúa là Đấng duy nhất mà ta quỳ gối
thờ lạy; Người ở
bên ta, và Chúa là đầu Hội Thánh của Người,
trong Hội Thánh đó Nước Thiên Chúa đang bắt
đầu ngay từ bây giờ, và Người ở trước mặt ta,
làm chủ của lịch sử; làm cho lực lượng
của tối tăm cuối cùng chịu thất bại và
số phận của thế giới được hoàn
thành theo chương tŕnh của Thiên Chúa; Người đến
để gặp gỡ ta trong oai nghi, vào ngày mà ta không biết,
để đem trái đất vào cuộc đổi mới
và tới chỗ hoàn thành. Ta có thể khám phá Chúa gần
gũi ta trước hết là trong Lời Chúa, khi lănh nhận
các Bí tích, trong việc chăm sóc người nghèo và trong lúc
hai hoặc ba người tập
họp với nhau nhân danh Người (Mt 18,20) à 157,
163
V́ trong Người muôn vật
được tạo thành trên trời cũng như dưới
đất hữu h́nh và vô h́nh. Dẫu là hàng dũng lực
thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới;
tất cả đều do Thiên Chúa tạo dụng nhờ
Người và cho Người. Cl 1,16
111.
Đến ngày tận thế
sẽ ra như thế nào ?
-
Ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ lại đến, và
mọi người sẽ thấy Chúa. [675-677]
–
Những đảo lộn kinh hoàng
mà Kinh Thánh loan báo (Mt 24,4-31) sự tàn ác tỏ lộ ra không
c̣n phải che giấu, những thử thách và những cuộc
bách hại làm cho đức tin lại bị thử thách,
đó chỉ là mặt tối của một thực tại
mới. Thực tại này là sự toàn thắng dứt
khoát và hữu h́nh của Thiên Chúa trên sự dữ. Sự
uy nghi, chân lư và công lư của Thiên Chúa sẽ biểu lộ
chói lọi rực rỡ. Khi Chúa Kitô đến sẽ có một trời mới và một
đất mới. Người lau sạch mọi nước
mắt khỏi mắt họ, không c̣n chết nữa, không
c̣n khóc lóc, kêu ca, đau khổ nữa, v́ vũ trụ
cũ đă qua đi (Kh 21,1-4). à 164
Người ta sợ đến
hồn phiêu phách lạc chờ những ǵ sắp giáng xuống
địa cầu, v́ các quyền lực trên trời sẽ
bị lay chuyển… Khi những biến cố ấy bắt
đầu xảy ra, anh em hăy đứng thẳng và ngẩng
đầu lên, v́ anh em sắp được cứu chuộc.
Lc 21,26-28
Giáng lâm có nghĩa là việc
Chúa Kitô đến để phán xét chung.
112.
Nói rằng Chúa Giêsu đến
để xét xử chúng ta và xét xử toàn thế giới,
nghĩa là thế nào ?
-
Nghĩa là chính Chúa Giêsu không thể giúp cho ai
được, nếu chính họ không muốn biết
đến bác ái yêu thương. Như thế, họ
tự xét xử chính ḿnh. [678-679, 681-682]
–
Bởi v́ Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống
(Ga 14,6). Người sẽ mặc khải cho biết đối
với Thiên Chúa điều ǵ là quan trọng, điều ǵ
là không. Sự thật đầy đủ về mỗi
người sẽ được Chúa đánh giá tùy theo
thước đo những việc làm, những tư
tưởng, những biến cố trong cuộc đời
riêng tư của họ. à 157,
163
«
Thiên Chúa không loại bỏ một
linh hồn nào, bởi v́ chính là linh hồn tự loại bỏ
ḿnh: mỗi người là thẩm phán của ḿnh. Jacob Böhme
(1575–1624, nhà thần bí Đức)
Chương
3. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần
113.
"Tôi tin kính Đức Chúa Thánh
Thần" nghĩa là ǵ ?
-
“Tin kính Đức Chúa Thánh Thần” có nghĩa là thờ
phượng Người là Thiên Chúa như thờ Chúa Cha và
Chúa Con, v́ Ngài là một trong Ba ngôi, đồng bản tính
với Chúa Cha và Chúa Con. Và cũng có nghĩa là tin rằng
Chúa Thánh Thần đến trong ḷng ta, để đưa
dẫn ta là con cái Thiên Chúa nhận biết Thiên Chúa là Cha trên
trời. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy,
chúng ta có thể thay đổi bộ mặt thế
giới. [683-686]
–
Trước khi chết Chúa Giêsu
đă hứa với các môn đệ sẽ sai Đấng Bảo trợ khác
(Ga 14,16) khi Người không c̣n ở với các ông. Khi Chúa Thánh Thần được
đổ tràn xuống trên các môn đệ của Hội thánh
sơ khởi, họ hiểu Chúa Giêsu nói ám chỉ ai. Ḷng họ
đầy cảm giác an toàn sâu xa và vui sướng, và họ
lănh nhận các Đặc sủng, có nghĩa là họ có thể
nói tiên tri, chữa lành và làm các phép lạ. Ngày nay, trong Hội
thánh vẫn có những người được những
đặc sủng và làm được các việc như vậy.
à 35 – 38, 310 – 311
Đặc
sủng được gọi là ân sủng của Chúa Thánh
Thần được tả lại trong thư thứ nhất
gửi Côrintô 12,6; chẳng hạn ngoài ơn có thể chữa
lành là các ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn nói tiếng
lạ và ơn chú giải, ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết,
ơn đức tin. Thuộc thành phần các ơn kể
trên là bảy ơn Chúa Thánh Thần (xem câu 310). Đó là các
ơn đặc biệt để hướng dẫn hoặc
quản trị một cộng đồng, ơn yêu
thương người thân cận và loan truyền đức
tin.
114.
Chúa Thánh Thần có
vai tṛ nào trong đời sống Chúa Kitô ?
- Tất
cả công việc của Chúa Giêsu chỉ có thể hiểu
được là do Chúa Thánh Thần tác động. Sự
hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng ta
gọi là Thánh Thần được biểu lộ cách
hoàn toàn trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu.
[689-691, 702-731]
–
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu thành
thai trong ḷng Đức Maria (Mt 1,18),xác nhận Người
là Con yêu dấu khi Chúa chịu phép Rửa (Lc 4,16-19), dẫn
Chúa vào hoang địa (Mc 1,12) tác động cho đến
lúc Chúa tắt thở (Ga 19,30). Trên thập giá Chúa Giêsu trút
linh hồn. Sau khi sống lại Chúa ban Chúa Thánh Thần cho
các môn đệ (Ga 20,22). Thánh Thần Chúa Giêsu được
truyền sang cho Hội Thánh như vậy: Như Chúa Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai anh
em (Ga 20,21).
115.
Chúa Thánh Thần được
biết đến qua tên gọi và dưới những h́nh
dạng nào ?
-
Chúa Thánh Thần đă ngự xuống trên Chúa Giêsu với
h́nh chim câu. Các Kitô hữu ban đầu biết đến
Chúa Thánh Thần như là dầu chữa bệnh, nước
ban sự sống, cơn gió mạnh, những
lưỡi lửa. Chính Chúa
Giêsu nói về Chúa Thánh Thần như Đấng Cố
vấn, Đấng An ủi, Thầy dạy, Thần Chân
lư. Trong các Bí tích của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần
được ban xuống qua việc đặt tay và
xức dầu. [691-693]
–
Ḥa b́nh mà Thiên Chúa kư kết với
loài người được diễn nghĩa bằng việc
chim bồ câu hiện đến
với ông Nôê. Thời cổ ngoại giáo cũng coi chim bồ
câu là tượng trưng t́nh yêu. Nên các Kitô hữu đầu
tiên đều hiểu ngay rằng Chúa Thánh Thần là t́nh
yêu Thiên Chúa hóa thành ngôi vị, đă xuống trên Chúa Giêsu
như chim bồ câu khi Chúa chịu phép rửa ở sông
Jorđanô. Ngày nay chim bồ câu là dấu chỉ ḥa b́nh,
được thế giới công nhận, và là một
trong những tượng trưng lớn về sự ḥa giải
giữa Thiên Chúa và nhân loại (St 8,10-11).
«
Ai cầu nguyện “Xin Chúa Thánh Thần
đến” cũng phải sẵn sàng cầu nguyện “Xin
đến và thúc bách con bởi con cần được
thúc bách. Wilheim Stahlin
(1883–1975, thần học gia Tin lành Đức)
«
Thánh Thần thúc đẩy ta đến
với người khác, đốt lên trong ta lửa bác ái,
làm cho ta nên người được sai đi loan truyền
t́nh yêu Chúa. Đức
Bênêđictô XVI, về Chúa Thánh Thần, 20-7-2007
116.
Chúa Thánh Thần
đă "nói qua các tiên tri" nghĩa là ǵ ?
-
Trong Kinh Thánh Cựu ước, Thiên Chúa đă ban Thánh
Thần cho một số người nam và nữ
để họ nhân Danh Chúa, nói ra lời Chúa dạy, và
sửa soạn ḷng dân Chúa đón Đức Mêssia
(Đấng Cứu thế). [683-688, 702-720]
–
Trong Cựu Ước,
Thiên Chúa chọn những người nam và nữ để
họ an ủi, hướng dẫn và khuyên bảo dân chúng.
Thánh Thần Thiên Chúa cũng nói qua miệng tiên tri Isaia,
Jêrêmia, và Êdêkien và các tiên tri khác. Thánh Gioan Tẩy giả, tiên
tri cuối cùng không những báo trước Chúa Giêsu đến,
mà c̣n gặp gỡ và loan báo rằng Người là Đấng
giải thoát ta khỏi quyền lực tội lỗi.
Thuở xưa
nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đă phán dạy cha
ông chúng ta qua các tiên tri, nhưng vào thời sau hết này,
Thiên Chúa đă phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Dt 1,1-2
«
Thiên Chúa đă
đích thân làm người nơi Chúa Giêsu Kitô và ban cho ta có
thể nh́n thấy được nội tâm của chính
Thiên Chúa. Và ta thấy một việc không ngờ: Thiên Chúa mầu
nhiệm không cô đơn vô hạn. Người là một biến cố t́nh
yêu. Người có Chúa Con nói năng với Người là
Cha. Và cả hai chỉ là một trong Chúa Thánh Thần là một
bầu khí hiến dâng và yêu thương làm cho tất cả
ba chỉ là Một Thiên Chúa độc nhất. Đức Bênêđictô
XVI, vọng lễ Hiện Xuống 2006
117.
Chúa Thánh Thần đă hành
động trong, với, và qua Đức Mẹ Maria
thế nào ?
-
Đức Mẹ Maria đă hoàn toàn đáp ứng và cởi
mở tâm hồn cho Thiên Chúa (Lc 1, 38). Do đó, qua tác
động của Chúa Thánh Thần, Người đă
trở nên Mẹ Thiên Chúa, và v́ là Mẹ Chúa Kitô,
Người cũng trở nên Mẹ các Kitô hữu, và là
Mẹ của loài người nữa. [721-726]
–
Đức Maria đă để cho
Chúa Thánh Thần thực hiện một phép lạ tuyệt
vời: Thiên Chúa làm người. Đức Maria thưa vâng
với Chúa: “Tôi là nữ tỳ
của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói” (Lc 1,38). Được Chúa Thánh Thần nâng đỡ,
Đức Maria đă đi theo Chúa Giêsu trong những vui buồn
của Chúa cho đến chân thập giá. Chính ở đó
Chúa Giêsu đă ban Đức Maria làm Mẹ chúng ta (Ga 19, 25-27)
à 80-85, 479
Thánh Thần Chúa sẽ đến
trên Bà, và quyền phép Đấng Tối cao sẽ phủ
bóng trên Bà. Lc 1,35
118.
Ngày lễ Chúa Thánh
Thần hiện xuống đă xảy ra chuyện ǵ ?
-
50 ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu đă gởi Chúa Thánh
Thần từ trời xuống trên các tông đồ.
Từ đây là bắt đầu thời của Hội
Thánh. [731-733]
–
Chúa Thánh Thần biến đổi
các tông đồ đang co cụm v́ sợ hăi trở thành
chứng nhân can đảm cho Chúa Kitô. Chỉ ít lâu sau, hằng
ngàn người xin chịu phép Rửa tội. Hội Thánh
lớn mạnh từ đó. Phép lạ nói nhiều thứ
tiếng chứng tỏ rằng ngay từ đầu Hội
Thánh được thiết lập cho mọi người,
Hội Thánh là phổ quát, là công giáo, là truyền giáo. Hội
Thánh nói với mọi người vượt qua hàng rào chủng
tộc và ngôn ngữ và mọi người có thể hiểu
được. Cho đến ngày nay, Chúa Thánh Thần
như là rượu ngon quí giá của Hội Thánh.
Ai nấy đều được
tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu
nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần
ban cho… ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ
của ḿnh. Cv 2,4-6
Ngũ
tuần. Lúc khởi đầu đây chỉ là lễ mà
người Do Thái mừng việc kư kết Giao ước
với Giavê ở núi Sinai. V́ có các biến cố xảy ra ở
Giêrusalem vào lễ Ngũ Tuần, nên lễ này trở nên cho
Kitô hữu lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
119.
Chúa Thánh Thần hoạt
động trong Hội Thánh như thế nào ?
- Chúa Thánh Thần xây dựng Hội
Thánh. Người thúc đẩy Hội Thánh và nhắc
nhớ Hội Thánh về sứ mạng của Hội
Thánh. Người kêu gọi nhiều người
phục vụ Hội Thánh, và ban cho họ nhiều ơn
cần thiết. Người hướng dẫn chúng ta
đi sâu vào sự thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi.
[733-741, 747]
–
Cả những lúc
trong suốt dọc lịch sử, Hội thánh nhiều khi
tỏ ra “không biết rơ ḿnh phải làm ǵ”, nhưng Chúa Thánh
Thần vẫn hoạt động dù biết bao lỗi lầm
và thiếu sót của con người. Hơn hai ngàn năm Hội
thánh vẫn đứng vững và vô số các thánh ở mọi
thời, thuộc mọi nền văn hóa, chỉ ngần ấy
thôi cũng là những bằng chứng cho biết Chúa Thánh
Thần vẫn luôn hiện diện. Chính Người duy tŕ
toàn thể Hội thánh trong sự thật, và dẫn dắt
Hội thánh hiểu biết Thiên Chúa sâu sắc hơn. Chính
Chúa Thánh Thần hoạt động trong các Bí tích và làm cho
Kinh thánh trở nên sống động với ta. Ngày nay
Người vẫn ban cho những ai mở rộng ḷng với
Người những ân huệ của Người (à Đặc sủng).
à 203-206
Thánh Thần Chân lư sẽ dẫn
chúng con đến sự thật hoàn toàn. Ga
16,12-13
Thầy c̣n nhiều
điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh
em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật
đến Người sẽ dẫn anh em đến sự
thật toàn vẹn.
Ga 16,12-13
120.
Chúa Thánh Thần hoạt
động thế nào trong đời tôi ?
-
Chúa Thánh Thần mở ḷng tôi đón nhận Thiên
Chúa. Người dạy tôi cầu nguyện, và giúp tôi
thực hành bác ái với tha nhân. [738-741]
–
Theo thánh Augustinô, Chúa Thánh Thần là
vị khách thầm lặng của hồn tôi. Muốn cảm
nghiệm được Người có mặt, cần phải
thinh lặng. Vị khách này thường tỏ ḿnh ra một
cách rất êm đềm trong ta và với ta, qua tiếng
lương tâm hoặc qua tiếng thúc giục bên trong hay
bên ngoài. Là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” có
nghĩa là luôn có mặt sẵn sàng cả hồn xác để
tiếp đón vị khách là Thiên
Chúa trong ta. Xác ta là như nhà ở của Chúa. Ta càng mở
rộng ḷng cho Chúa Thánh Thần, Người càng trở nên
Thầy dạy ta sống và càng mau mắn ban các đặc
sủng để xây dựng Hội Thánh. Nhờ đó thay
cho các công việc của xác thịt, các hoa quả của
Thần Khí sẽ tăng trưởng.
à 290-291,
293-297, 310-311
Các hoa quả của
Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, b́nh an, nhẫn nhục, nhân
hậu, từ tâm, trung tín, hiền ḥa, tiết độ. Ga 5,22
Những việc do tính xác thịt
gây ra th́ ai cũng rơ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đăng,
thờ quấy, phù phép, hận thù, bất ḥa, ghen
tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,
ganh tỵ, say sưa, rượu chè, và những điều
khác giống như vậy. Ga
5,19-21
Chương
4. "Tôi tin Hội Thánh Công giáo"
121.
Hội Thánh nghĩa là ǵ ?
- Từ “Hội Thánh”, theo
tiếng Hy lạp “ekklesia”, có
nghĩa là “cuộc tập họp
của tất cả những người được
triệu tập”. Những người đă lănh nhận bí
tích Rửa tội và tin vào Thiên Chúa đều
được Thiên Chúa triệu tập, để cùng nhau
chúng ta là Hội Thánh. Thánh Phao-lô đă nói, Chúa Kitô là
Đầu của Hội Thánh, c̣n chúng ta là thân thể
của Người. [748-757]
–
Khi ta lănh nhận các Bí tích và nghe lời
Chúa, Chúa Kitô ở trong ta và ta ở trong Chúa, đó là Hội
thánh. Kinh thánh không ngừng gợi lên cuộc sống cộng
đồng thân mật giữa các người được
rửa tội với Chúa Giêsu bằng rất nhiều h́nh ảnh:
khi th́ Hội thánh là mẹ, khi th́ là gia đ́nh của Chúa, Hội
thánh cũng được so sánh như những khách dự
tiệc cuới… Nhưng không được hiểu Hội
thánh như một thể chế thuần túy, “một Hội
thánh chức năng” để ta có thể ĺa bỏ. Ta có
thể bực ḿnh v́ những lỗi lầm và những vết
nhơ, nhưng không được bao giờ ĺa bỏ Hội
thánh. Bởi v́ Chúa yêu thương Hội thánh không thể
nào bỏ được và không bao giờ xa cách Hội
thánh mặc dầu có nhiều tội lỗi. Hội thánh
là sự có mặt của Chúa giữa loài người.
Đó là lư do ta phải yêu mến Hội thánh.
Chúa Kitô là Đầu của
Thân Thể, nghĩa là Đầu của Hội Thánh. Cl
1,18
Hội
Thánh có nghĩa là “triệu tập”. Cl
1,18
«
Hội Thánh là một bà già đầy
những nhăn nheo. Nhưng Hội Thánh là mẹ tôi. Và
người ta không bao giờ đánh mẹ. Thần học gia Karl Rahner, Sj, khi nghe
những chỉ trích không thích hợp về Hội Thánh.
«
Khả năng hiểu biết của
ta có hạn: v́ thế sứ mệnh của Thánh Thần là
dẫn dưa Hội Thánh một cách luôn mới mẻ, từ
thế hệ này qua thế hệ sau, vào tầm mức cao trọng
của mầu nhiệm Chúa Kitô. Đức Bênêđictô XVI, 7-5-2005
122.
Tại sao Thiên Chúa muốn có Hội
Thánh ?
- Bởi v́
Thiên Chúa không muốn cứu rỗi chúng ta cách riêng rẽ
nhưng là tập thể. Người muốn tập
họp toàn thể nhân loại vào một dân duy nhất,
đó là Hội Thánh.
[758-781, 802-804]
–
Không ai có thể lên
trời mà không cần người khác, Người chỉ
nghĩ đến ḿnh, chỉ lo cứu rỗi riêng ḿnh sẽ
sống không cần người khác. Điều này không thể
có được cả ở trên trời cũng như
dưới đất. Chính Thiên Chúa cũng cần người
khác. Thiên Chúa không sống cô độc, tự coi là đủ
cho ḿnh. Chính Thiên Chúa là Ba Ngôi, là một cộng đồng,
nên theo gương mẫu của Thiên Chúa, con người
cũng được mời gọi để sống
tương quan, trao đổi, tham gia và yêu thương lẫn
nhau. Chúng ta đều có trách nhiệm đối với
nhau.
Thiên Chúa nói với
Cain: Abel em ngươi ở đâu? Cain trả lời: Con
không biết. Con có phải là người coi giữ em con
đâu? St 4,9
« Ta phải
trở nên thánh chung với nhau. Ta phải đến với
Thiên Chúa chung với nhau, tŕnh diện trước Thiên Chúa
chung với nhau. Ta không được gặp Thiên Chúa tốt
lành người này sau người kia. Thiên Chúa có thể nói
tốt lành sao được nếu ta lại ra đi
người này không có người kia ? Charles Péguy (1873–1914, thi
sĩ Pháp)
123. Nhiệm vụ của Hội Thánh là ǵ ?
-
Nhiệm vụ của Hội Thánh như Chúa Giêsu đă
bắt đầu là mang hạt giống Nước Thiên
Chúa gieo trồng và làm sao cho hạt giống ấy
được lớn lên phát triển trong mọi dân
tộc. [763-769, 774-776, 780]
–
Ở đâu Chúa Giêsu đi qua th́ trời
chạm tới đất: Nước Thiên Chúa tràn vào, một
nước ḥa b́nh và công chính. Hội Thánh phục vụ cho
Nước Thiên Chúa. Hội Thánh không có cùng đích là chính
ḿnh, mà phải theo đuổi những ǵ Chúa Giêsu đă bắt
đầu. Hội Thánh phải làm việc của ḿnh. Hội
Thánh nối dài các dấu hiệu thánh của Chúa Giêsu (các bí
tích). Hội Thánh thông truyền những Lời của Chúa
Giêsu. V́ thế Hội Thánh với các yếu đuối của
ḿnh là một mảnh trời ở trên trần gian.
Như Chúa Cha
đă sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Ga 20,21
Vậy anh em hăy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ
tuân giữ mọi điều Thầy đă truyền dạy
cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế. Mt 28,19-20
124.
Tại sao Hội Thánh c̣n hơn
là một tổ chức ?
-
Hội Thánh c̣n hơn là một tổ chức bởi v́
Hội Thánh là một mầu nhiệm, vừa nhân loại
hữu h́nh, vừa thần linh vô h́nh. [770-773, 779]
–
T́nh yêu chân thật không làm ta mù quáng,
nhưng sáng suốt. Cái nh́n của ta về Hội Thánh
cũng như vậy. Nh́n bên ngoài Hội thánh chỉ là một
xă hội trong lịch sử, có những hậu quả
trong lịch sử như những lầm lạc, cả những
tội ác nữa, một Hội thánh gồm các tội nhân.
Nhưng mà nh́n sâu xa hơn, Chúa Kitô lại tín nhiệm chúng
ta là những kẻ tội lỗi đến nỗi không
bao giờ Chúa bỏ rơi Hội thánh, mặc dầu hàng
ngày chúng ta có thể phản bội Chúa. Sự hiệp nhất
không thể tách rời giữa thần linh và nhân loại,
giữa tội lỗi và ân sủng, đó chính là bí nhiệm
của Hội thánh. Theo con mắt đức tin, chính ở
chỗ đó mà Hội thánh bất diệt. à 132
«
Hội Thánh không thể xử sự
như một xí nghiệp, thay đổi “cung” khi “cầu”
xuống thấp. Hồng y
Karl Lehmann (1936, Giám mục Mayence)
125.
Dân Thiên Chúa có những đặc
tính nào ?
-
Dân Thiên Chúa có Chúa Cha là Đấng sáng lập, Chúa Giêsu Kitô
là Đấng lănh đạo và Chúa Thánh Thần là nguồn
sức mạnh. Bí tích Rửa Tội là cửa dẫn vào
Dân Chúa. Phẩm chất của Dân này là sự tự do
của con cái Thiên Chúa. Luật của Dân Chúa là t́nh yêu. Khi
Dân Chúa trung thành với Người và ưu tiên t́m kiếm
Nước Thiên Chúa, họ thay đổi được
thế giới. [781-786]
–
Trong các dân tộc trên trái đất,
có một dân mà không có dân nào khác giống họ. Dân ấy
không thần phục ai trừ một ḿnh Thiên Chúa. Dân ấy
như muối làm cho có vị ngon; như men thấm nhuần
vào tất cả; như ánh sáng xóa tan bóng tối. Ai thuộc
về Dân Chúa phải biết rằng họ có thể phải
công khai chống lại với những người từ
chối là không có Chúa và khinh rẻ điều răn của
Chúa. Nhưng trong tự do của con cái Chúa, họ không sợ
ǵ hết, dù là chết đi nữa.
Anh em hăy làm mọi
việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế
anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được
điều ǵ, và sẽ trở
nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa
một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ
đó, anh em phải chiếu sáng như những v́ sao trên
ṿm trời. Pl 2,14-15
«
Họ không thể làm ǵ hơn là giết
tôi. Robert d’Arenberg
(1898–1972, thành viên của nhóm mưu sát chống Hitler,
20-7-1944)
126.
Nói Hội Thánh là
"Thân thể của Chúa Kitô" nghĩa là ǵ ?
- Nghĩa là khi chúng ta
hiệp nhất với Chúa Kitô nhờ các Bí tích rửa
tội và Thánh Thể, chúng ta được liên kết
với Người không thể chia ĺa. Sự liên kết
này mạnh mẽ bền chặt như thể đầu
nối liền với các chi thể trong một thân thể
vậy. [787-795] à 146, 175, 200, 208, 217
127.
Nói Hội Thánh là "Hiền thê
Chúa Kitô" nghĩa là ǵ ?
-
Chúa Giêsu Kitô yêu Hội Thánh như chàng rể yêu cô dâu.
Người liên kết với Hội Thánh bằng một
giao ước vĩnh cửu, hiến ḿnh cho Hội Thánh và
không ngừng chăm sóc Hội Thánh như chính Thân Thể
ḿnh (x. Ep 5,29). [796]
–
Ai có kinh nghiệm về yêu
đương th́ hiểu yêu là ǵ. Chúa Giêsu biết và tự
coi ḿnh như chàng rể yêu cô dâu bằng t́nh yêu cháy bỏng
và ước muốn cử hành lễ hội t́nh yêu với
Hội thánh là hiền thê của Người. Hiền thê của
Người là chúng ta → Hội Thánh. Ngay trong Cựu Ước t́nh yêu của
Thiên Chúa đối với dân Người đă được
so sánh như t́nh yêu nam nữ. Nếu Chúa Giêsu ước muốn
t́nh yêu của chúng ta th́ nhiều khi Người lại phải
sống trong một t́nh yêu khốn khổ, v́ có những
người không muốn điếm xỉa ǵ tới t́nh
yêu của Người và không muốn đáp lại nữa.
«
Yêu mến Chúa Kitô và yêu mến Hội
Thánh chỉ là một. Frère
Roger Schutz
«
Bạn nghĩ rằng những yếu
đuối của Hội Thánh khiến Chúa Kitô từ bỏ
Hội Thánh sao? Từ bỏ Hội Thánh sẽ là như từ
bỏ chính thân thể ḿnh vậy. Dom Helder Camara (1909–1999, người
128.
Nói Hội Thánh là "Đền
thờ của Chúa Thánh Thần" nghĩa là ǵ ?
-
Trong ḷng thế giới, Hội Thánh là nơi Chúa Thánh
Thần hiện diện. [797-801, 809]
–
Dân
à 113-120,
203-205, 310-311
V́ chính chúng ta là Đền thờ
của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người
phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại
lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ và
họ sẽ là dân riêng của Ta. 2Cr 6,16
«
Có nhiều người
không nghĩ về việc Thiên Chúa sẽ dùng đến
ḿnh nếu ḿnh sẵn sàng để cho Người sử
dụng. Thánh Inhaxiô Loyola
(1491–1556, sáng lập ḍng Tên)
Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh
thiện,
công giáo và tông truyền.
129.
Tại sao Hội Thánh có đặc
tính là Duy nhất ?
-
Cũng như chỉ có một Chúa Kitô, th́ chỉ có thể
có một Thân Thể Chúa Kitô, có một Hiền Thê Chúa Kitô,
và do đó, chỉ có một Hội Thánh Chúa Kitô. Chúa Kitô là
Đầu, Hội Thánh là Thân Thể. Tất cả
hiệp thành “Chúa Kitô toàn thể” (Thánh Augustinô). Giống như thân ḿnh có
nhiều chi thể, nhưng chỉ là một. Cũng
thế, Hội Thánh là duy nhất trong nhiều Hội Thánh
địa phương khác nhau. Nhưng tất cả
hợp thành Chúa Kitô toàn thể. [811-816, 866, 870]
–
Chúa Giêsu đă thiết lập Hội
Thánh Người trên các Tông đồ. Ngày nay cũng vậy,
Hội Thánh cho đến bây giờ vẫn dựa trên nên
móng này. Dưới sự hướng dẫn của sứ
vụ Thánh Phêrô “làm chủ theo t́nh yêu” (Thánh Inhaxiô Antiôkia),
đức tin của các Tông đồ được truyền
lại trong Hội Thánh từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Cả các Bí tích mà Chúa Giêsu đă trao phó cho tập
đoàn các tông đồ, các bí tích đó tiếp tục tác
động với sức mạnh có từ ban đầu.
Chỉ có một
Thân Thể, một Thần Khí, cũng như anh em đă
được kêu gọi để chia sẻ cùng một
niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm
tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của
mọi người, Đấng ngự trên mọi người
và trong mọi người. Ep 4,4-6
«
Với Hội Thánh này [giáo đoàn ở
Rôma] do có nguồn gốc tuyệt hảo hơn, nên toàn Hội
Thánh nhất thiết phải ḥa hợp với nhau nghĩa
là các tín hữu khắp nơi trong thế giới, v́
nơi Hội Thánh đó có duy tŕ truyền thống của
các Tông đồ để lại. Thánh Irênê ở
130.
Các Kitô hữu "không Công giáo"
có là anh chị em với chúng ta không ?
-
Tất cả những ai đă được Rửa
tội đều thuộc về Hội Thánh của Chúa
Giêsu Kitô. V́ thế, những người đă
được rửa tội, dù không hiệp thông trọn
vẹn với Hội Thánh Công giáo, họ cũng
được gọi cách chính đáng là Kitô hữu, và
do đó họ là anh chị em với chúng ta. [817-819]
–
Những đổ vỡ trong Hội
Thánh duy nhất của Chúa Kitô đều xuất phát từ
những bóp méo giáo huấn của Chúa Kitô, từ những lầm
lỗi của con người và từ những thiếu
sót trong ư muốn ḥa giải, nhất là nơi các vị hữu
trách trong Hội Thánh. Ki tô hữu ngày nay không chịu trách
nhiệm về những chia rẽ trong lịch sử Hội
Thánh. Tuy nhiên v́ muốn cả nhân loại được cứu
rỗi, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong các
Hội thánh và các cộng đồng đă ly khai khỏi Hội
Thánh công giáo. Tất cả những ân sủng sẵn có,
như Kinh Thánh, các bí tích, đức tin, cậy, mến, và
các đặc sủng khác đều do Chúa Kitô mà đến.
Ở đâu có Thánh Thần Chúa Kitô, ở đó có một
năng lực nội tại thúc đẩy phải “khôi phục
lại sự hiệp nhất”, bởi v́ ai thuộc về
Thánh Thần đều khao khát tập họp lại với
nhau.
Các Hội Thánh và
các cộng đồng Hội Thánh. Nhiều cộng
đồng Kitô hữu khắp thế giới lấy tên là
Hội Thánh. Đối với người Công giáo, chỉ
là Hội Thánh khi trong cộng đồng đó các bí tích của
Chúa Giêsu Kitô được duy tŕ nguyên vẹn. Điều
này đúng với các cộng đồng Chính thống và các
Hội Thánh Đông phương trước hết. Trong những
cộng đồng Hội Thánh phát xuất từ cuộc
cải cách của Tin lành, các bí tích không được duy
tŕ nguyên vẹn.
131.
Chúng ta phải làm ǵ cho việc
hợp nhất Kitô hữu ?
-
Trong lời nói và trong việc làm, chúng ta phải theo
ước muốn của Chúa Kitô được thể
hiện rơ qua lời cầu xin của Người: “Xin cho
chúng nên một” (Ga 17, 21). [820-822]
–
Dù trẻ hay già, sự hiệp nhất
của các Kitô hữu là công việc thuộc phận sự
của tất cả các Kitô hữu. Sự hiệp nhất
là một trong những ước muốn nóng hổi nhất
của Chúa Giêsu. Người đă cầu nguyện Chúa Cha:
Ước chi tất cả nên một… để thế giới
tin rằng Cha đă sai Con (Ga 17,21).Sự chia rẽ giống
như những vết thương trong thân thể Chúa Kitô,
dẫn đưa đến chỗ thù nghịch nhau, làm suy
yếu đức tin và suy yếu ḷng tin cậy của Ki
tô hữu. Muốn loại bỏ gương xấu chia rẽ
này mỗi người phải sám hối, phải t́m hiểu
sâu hơn đức tin của cộng đồng ḿnh và những
khác biệt của cộng đồng khác. Và trên hết Ki
tô hữu phải chung nhau cầu nguyện và cùng cộng
tác với nhau để phục vụ nhân loại. C̣n các vị
hữu trách của Hội thánh th́ không được ngừng
nghỉ các cuộc đối thoại thần học.
Nói thế xong
Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói rằng: Lạy
Cha giờ đă đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để
Con Cha tôn vinh Cha… để tất cả nên một, như
lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ
cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ
tin rằng Cha đă sai Con. (Ga
17,1.21)
Đại kết là những cố
gắng tập họp tất cả các Hội Thánh Kitô giáo
nên một.
132.
Tại sao Hội Thánh có đặc
tính là Thánh Thiện ?
-
Hội Thánh là Thánh, không phải là tất cả các thành
phần của Hội Thánh đều thánh, nhưng v́ Thiên
Chúa chí thánh là nguồn gốc của Hội Thánh, và
Người hành động trong Hội Thánh. Mọi
phần tử của Hội Thánh được thánh hóa
nhờ phép Rửa tội. [823-829]
–
Mỗi khi ta để cho Thiên Chúa
Ba Ngôi hành động trong ta, t́nh yêu ta lớn lên, ta
được thánh hóa và chữa lành. Các thánh là những “người
yêu”, không phải v́ họ biết yêu hơn những người
khác, nhưng v́ Thiên Chúa đă cảm hóa các ngài. Các ngài truyền
lại cho mọi người t́nh yêu các ngài đă nhận từ Thiên Chúa;
nhưng theo cách riêng của ḿnh mà thường là độc
đáo. V́ được tiến tới gần Thiên Chúa,
chính các ngài cũng thánh hóa Hội Thánh bởi v́ các ngài “sống
trên trời” để nâng đỡ ta trên đường
thánh thiện.
Thánh thiện . Đây là đặc
tính cổ xưa nhất của Thiên Chúa, có nghĩa là thần
thiêng, trong trắng, xa cách trần tục, xa cách chuyện thường
ngày. Thiên Chúa là Đấng “khác tất cả”, là Đấng
thánh của
133.
Tại sao Hội Thánh có đặc
tính là công giáo ?
- Thuật
ngữ “Công giáo” (tiếng Hi lạp là Katholon) có nghĩa là mở
ra cho tất cả. Hội Thánh là Công giáo, v́ Chúa Kitô kêu
gọi Hội Thánh tuyên xưng toàn bộ đức
tin, ǵn giữ đầy đủ các Bí tích
để ban phát, và loan báo Tin mừng cho mọi người.
Chúa Ki-tô sai Hội Thánh đi đến với mọi
dân tộc ở mọi thời đại và thuộc
mọi nền văn hóa.
[830-831, 849-856]
134.
Ai thuộc về Hội Thánh Công
giáo ?
- Người
hoàn toàn thuộc về Hội Thánh Công giáo là người:
hợp nhất với Đức Giáo Hoàng và các Đức
Giám Mục; hợp nhất với Chúa Ki-tô qua việc tuyên
xưng đức tin Công giáo và lănh nhận các Bí tích. [836-838]
–
Thiên Chúa đă muốn chỉ có Một
Hội Thánh cho mọi người. Rủi thay Kitô hữu
chúng ta lại không trung thành tôn trọng ước mong
đó của Chúa Kitô. Dẫu vậy, ta vẫn c̣n liên kết
sâu xa với nhau bởi đức tin và phép rửa tội
chung.
Thiên Chúa đă đặt tất
cả dưới chân Chúa Kitô và đặt Người làm
đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Đức
Kitô, là sự viên măn của Người, Đấng làm cho
tất cả được viên măn. Ep
1,22-23
135.
Hội Thánh Công giáo có quan hệ nào
với dân Do Thái ?
-
Dân Do Thái là dân tộc được Thiên Chúa tuyển
chọn mà các ân huệ cũng như lời mời gọi
của Thiên Chúa không thể bị hủy bỏ, Giao
Ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái không thể qua
đi. Do đó, người Do Thái là “anh cả” của Kitô
hữu, v́ Thiên Chúa đă yêu thương họ
trước, và ngỏ lời với họ trước.
Chúa Giêsu, xét theo loài người, là người Do Thái,
như thế Người gần gũi với chúng ta. Và
Hội Thánh tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa hằng
sống, như thế Người phân biệt với chúng
ta. Nhưng cả hai bên cùng chờ đợi lần
đến cuối cùng của Đấng Mêssia,
điều này làm cho ta với họ giống nhau. [839-840]
–
Đức tin của ta được
ghép vào đức tin của Do thái. Kinh thánh của Do thái mà
ta gọi là Cựu Ước là phần thứ nhất của
Kinh thánh của chúng ta. H́nh ảnh Do thái và Kitô giáo về con
người mà luân lư được nặn đúc bởi
mười điều răn là nền móng cho các thứ
dân chủ của Tây phương. Thật đáng tiếc
là trong nhiều thế kỉ Kitô hữu đă không muốn
nhận là bà con gần với Do thái giáo, và với những
biện bạch giả tạo, họ đă để ḷng
thù ghét đôi khi dữ dội với Do thái giáo. V́ thế
Đức Gioan Phaolô II đă công khai xin lỗi vào dịp
Năm Thánh 2000. Công đồng Vatican II nói rơ ràng là dân tộc
Do thái không phải chịu trách nhiệm tập thể về
cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. à 96-97, 335
Anh em đừng tưởng Thầy
đến để băi bỏ lề luật Mô-sê hoặc
lời các ngôn sứ: Thầy đến không phải là
để băi bỏ nhưng là để kiện toàn. Mt
5,17
«
Đạo Do Thái đối với
ta không phải cái ǵ ở ngoài, nhưng một cách nào đó
thuộc về trung tâm của tôn giáo ta. Ta có với Do thái
giáo những quan hệ mà ta không có chút nào với các tôn giáo
khác. Các bạn Do thái là anh cả của chúng ta một cách
nào đó. Đức Gioan
Phaolô II thăm Hội đường Do Thái ở Rôma, 1986
136.
Hội Thánh nh́n thế nào về
những tôn giáo khác ?
- Hội Thánh tôn trọng
tất cả những ǵ là tốt lành và chân thật
trong các tôn giáo khác. Hội
Thánh thừa nhận mọi giá trị và bênh vực
cho quyền tự do tôn giáo được coi như
quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, Hội Thánh biết rằng
Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy
nhất của cả nhân loại. Chỉ ḿnh Người
"là con đường, là
sự thật, và là sự sống" (Ga 14,6). [841-845, 846-848]
–
Người đang
kiếm t́m Thiên Chúa là bạn gần gũi với Kitô hữu;
Các người Hồi giáo c̣n đặc biệt hơn v́
là thành phần trong nhóm bà con họ hàng, giống như Do
thái giáo và Kitô giáo, là một tôn giáo thờ một thần.
Những người Hồi giáo thờ Thiên Chúa tạo hóa
và coi ông Abraham là tổ phụ của họ trong đức
tin. Theo sách Coran, Chúa Giêsu là một tiên tri lớn và đức
Maria Mẹ Người là mẹ của tiên tri. Hội thánh
dạy rằng mọi người, không do lỗi của họ,
mà đă không biết Chúa Kitô và Hội thánh, nhưng thành thực
t́m Chúa và sống theo tiếng
lương tâm, đều được cứu rỗi
đời đời.Trái lại, ai đă biết Chúa Giêsu
Kitô là con đường, là sự thật và là sự sống
mà không đi theo Người, người đó sẽ không
t́m được ơn cứu độ bởi các con
đường nào khác. Câu nói “Ở ngoài Hội thánh không có
ơn cứu độ” có nghĩa như vậy.
Tự
do tôn giáo là quyền của mọi người
được theo lương tâm ḿnh đă chọn hoặc
thực hành tôn giáo của ḿnh, Thừa nhận tự do tôn
giáo không có nghĩa là thừa nhận mọi tôn giáo đều
giống như nhau cũng như đều chân thật
như nhau.
137.
Tại sao Hội Thánh có đặc
tính là tông truyền ?
-
Hội Thánh là tông truyền v́ Hội Thánh được
xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ. Hội Thánh
nắm vững Truyền thống do các ngài truyền
lại, và Hội Thánh được cai quản bởi các
đấng kế vị các Tông Đồ. [857-860, 869, 877]
–
Chúa Giêsu đă kêu gọi các Tông
đồ để làm cộng tác viên thân cận nhất của
Người; các ông trở thành những chứng nhân thấy
tận mắt của Người. Sau khi Người sống
lại, Người đă hiện ra rất nhiều lần
với các ông. Người đă ban Chúa Thánh Thần và sai
các ông đi như những người loan tin có đầy
đủ quyền năng đến toàn thế giới.
Trong Hội thánh thời trẻ trung các ông là những
người bảo đảm cho sự hiệp nhất.
Các ông dùng việc đặt tay để truyền lại
sứ mệnh và quyền bính cho những người kế
vị là các giám mục. Điều mà các giám mục ngày nay
thực hiện theo như các tông đồ đă làm,
được gọi là sự nối tiếp các Tông
đồ.
Tông đồ có ư chỉ
người được sai đi, người loan tin.
Tên của 12 Tông đồ là: Simon cũng gọi là Phêrô
người đứng đầu, Anrê anh của ông, Giuse
con ông Dêbêđê và Gioan em của ông; Philiphê và Batôlômêô, ông Tôma
và ông Mathêu người thu thuế, ông Giacôbê con ông Anphê và ông
Tađêô; ông Simon thuộc nhóm quá khích và ông Giuđa Itcariốt,
chính là kẻ nộp Người (Mt 10,2-4).
Sự nối tiếp
các tông đồ. Đi từ các tông đồ có các giám mục
nối tiếp không ngừng trong sứ vụ giám mục.
Chúa Giêsu đă trao ban đầy đủ quyền năng
cho các tông đồ. Việc này được tiếp tục
từ giám mục này sang giám mục khác bằng việc
đặt tay và cầu nguyện cho đến khi Chúa trở
lại.
«
Hội thánh không bao
giờ bằng ḷng với nhóm những người mà Hội
thánh đă thành công đạt được vào một thời
điểm, và nói rằng các nhóm khác rồi sẽ cũng như
thế : Hồi giáo, Ấn giáo và cứ như thế. Hội
thánh không thể nào rút lại cách dễ dàng vào trong giới
hạn lănh vực riêng của ḿnh. Hội thánh có trách nhiệm
quan tâm cách phổ quát, Hội thánh phải lo lắng cho mọi
người và về mọi sự. Đức Bênêđictô XVI, 7-5-2006
138.
Hội Thánh tổ chức thế nào
để có 4 đặc tính: duy nhất, thánh thiện, công
giáo, tông truyền ?
-
Trong Hội Thánh có sự phân biệt giữa các giáo dân và
giáo sĩ. Nhưng tất cả đều là con cái Thiên
Chúa như nhau và có cùng một phẩm giá. Tuy giáo sĩ và giáo dân có khác nhau, nhưng nhiệm
vụ của họ có giá trị như nhau. Nhiệm
vụ của giáo dân là hướng dẫn cả thế
giới tiến về Nước Thiên Chúa. Cộng tác
với họ là các thừa tác viên lănh chức thánh, họ
có nhiệm vụ cai quản, giáo huấn và thánh hóa
Hội Thánh. Trong hai bậc sống kể trên, c̣n có
những Kitô hữu được thánh hiến cách
đặc biệt cho Thiên Chúa qua việc khấn giữ
các lời khuyên Phúc Âm: độc thân, nghèo khó, vâng phục,
như trong các ḍng tu. [871-876, 934, 935]
–
Mọi Kitô hữu có bổn phận
làm chứng cho Tin Mừng bằng đời sống riêng của
ḿnh. Nhưng mỗi người bước đi với
Chúa theo cách của ḿnh. Có người Chúa trao sứ vụ
làm giáo dân để xây dựng Nước Thiên Chúa giữa
thế giới bằng đời sống gia đ́nh và nghề
nghiệp của ḿnh : Người ban cho họ qua bí tích rửa
tội và thêm sức tất cả các ơn huệ của
Chúa Thánh Thần mà họ cần đến. Có những
người đă được thêm sức, Người
trao cho nhiệm vụ làm chủ chăn: họ phải
điều khiển dân Chúa, giảng dạy và thánh hóa dân
Chúa. Không ai được mạnh dạn tự gán cho ḿnh
nhiệm vụ đó: Chính Chúa sẽ ban cho họ nhờ bí
tích truyền chức thánh, để thông truyền cho họ
sức mạnh thần linh giúp họ hành động nhân
danh Chúa Kitô và cử hành các Bí tích.
Giáo dân là t́nh trạng
chung của Kitô hữu trong Hội thánh là thành phần của
Dân Chúa do bí tích rửa tội, nhưng không chịu chức
thánh.
Giáo sĩ là t́nh trạng
trong Hội thánh của những người đă
được chịu chức thánh.
139.
Ơn gọi của giáo dân là ǵ ?
-
Xuất phát từ bí tích Rửa Tội, người giáo dân
có ơn gọi sống dấn thân trong đời sống
xă hội để làm cho Nước Thiên Chúa lớn
mạnh nơi trần thế. [877-913, 940-943]
–
Giáo dân không phải Kitô hữu hạng
hai, v́ cùng được tham dự chức tư tế của
Chúa Kitô (chức tư tế chung của người đă
được rửa tội). Họ lo giúp những
người chung quanh ḿnh (trường học, gia đ́nh,
nghề nghiệp) học biết Tin Mừng và yêu mến
Chúa Kitô. Họ làm cho xă hội, kinh tế, chính trị,
được thấm nhuần đức tin. Họ tham
gia đời sống Hội thánh bằng thi hành chức vụ
“cầm nến” và đọc sách, bằng sinh hoạt nhóm,
tham gia các ủy ban và tổ chức của Hội thánh,
như Hội đồng giáo xứ, Hội đồng mục
vụ… Đặc biệt người trẻ phải
nghiêm chỉnh suy nghĩ đến địa vị mà
Thiên Chúa muốn họ phải đảm nhiệm trong Hội
thánh.
«
Tôi được định mệnh
cho làm một người hoặc sự ǵ mà không ai khác
được gọi để làm, tôi có một chỗ
trong chương tŕnh của Thiên Chúa và trên trái đất của
Người mà không ai khác có được. Chân phước John Henry Newman
140.
Tại sao Hội Thánh của Chúa
Kitô không là một tổ chức dân chủ ?
-
Dân chủ được điều hành dựa trên nguyên
tắc: "Mọi quyền lực từ người dân
mà đến". Trái lại trong Hội Thánh quyền bính xuất phát từ Chúa
Kitô. Do đó Hội Thánh
có một cơ cấu phẩm trật hoạt động
theo văn hóa tập đoàn. [874-879]
–
Yếu tố phẩm trật trong
Hội thánh có nghĩa là Chúa Giêsu là Đầu, Người
hoạt động trong Hội thánh, khi các thừa tác viên
có chức thánh cử hành các bí tích nhân danh Người và
giáo huấn với quyền năng Người ban cho. C̣n yếu
tố tập đoàn trong Hội thánh có nghĩa là Chúa Kitô
đă trao phó toàn bộ đức tin cho cộng đồng
các tông đồ và những Đấng kế vị các
tông đồ quản trị, dưới quyền chủ
tŕ của Đấng thi hành chức vụ Người
đă trao cho Thánh Phêrô. Theo phương thức tập
đoàn này, các công đồng chiếm địa vị hiển
nhiên không bàn căi trong Hội thánh. Tuy nhiên, các ơn rất
đa dạng của Thánh Thần và tính phổ quát của
Hội thánh vẫn có thể sinh hoa kết quả trong những
hội đồng của Hội thánh, hoặc hội nghị
và các hội họp khác.
Phẩm trật là cơ cấu h́nh kim tự tháp mà Chúa Kitô ban cho Hội Thánh, từ
Chúa Kitô phát xuất ra mọi quyền năng và uy thế.
141.
Nhiệm vụ của Đức
Giáo hoàng là ǵ ?
-
V́ là đấng kế vị thánh Phêrô và đứng
đầu Giám mục đoàn, nên nhiệm vụ của Đức
Giáo hoàng là bảo đảm cho sự hợp nhất
của Hội thánh. Ngài có quyền tối cao trong các
vấn đề mục vụ của Hội thánh, và
đối với tất cả những quyết
định liên quan đến tín lư và kỉ luật. [880-882,
936, 937]
–
Chúa Giêsu ban cho thánh Phêrô quyền tối
cao trên các Tông đồ, làm cho ngài cũng có quyền bên trên
Hội thánh sơ khởi – Hội thánh địa
phương này do Phêrô cai quản, là nơi mà ngài chịu tử
đạo, và nơi mà sau khi ngài chết Hội thánh trẻ
phải tham khảo: tất cả các công đoàn phải
đồng thuận với Rôma. Đó là tiêu chuẩn
đúng của một đức tin tông truyền, nguyên vẹn
và đích thực. Đến ngày nay, tất cả giám mục
ở Rôma đều là chủ chăn tối cao của Hội
thánh như thánh Phêrô, có Chúa Kitô là đầu. Chỉ khi thi
hành nhiệm vụ này mà Đức Giáo hoàng là “đại
diện Chúa Kitô trên trần gian”. Dựa vào uy quyền tối
cao trong nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn và giáo lư,
ngài phải lo thông truyền cách chính xác đức tin. Nếu
cần ngài phải rút lại những giáo huấn hoặc
cất chức các thừa tác viên nào có lỗi nặng phạm
đến đức tin và luân lư. Sức mạnh và sự
tỏa sáng của Hội thánh công giáo tùy thuộc rất lớn
vào sự hiệp nhất trong những vấn đề
đức tin và luân lư, sự hiệp nhất được
đảm bảo nhờ huấn quyền mà Đức
Giáo hoàng là thủ lĩnh. (huấn quyền là quyền giáo
huấn trong Hội thánh)
Đức Giáo hoàng là người kế
vị tông đồ Phêrô, làm giám mục ở Rôma. V́ thánh
Phêrô đă là người đầu tiên trong các tông đồ,
mà Đức Giáo hoàng là người kế vị thánh Phêrô,
nên có quyền chủ tọa tập đoàn các giám mục.
V́ là thay mặt Chúa Kitô, Đức Giáo hoàng là chủ
chăn tối cao của Hội thánh.
Rôma. Cộng đồng
Hội thánh ở Rôma ngay từ thời đầu đă
được coi là Hội thánh “rất lớn, rất cổ,
được mọi người biết đến,
được hai vị tông đồ rất vinh hiển
là thánh Phêrô và Phaolô vừa thiết lập vừa cư ngụ
ở Rôma ….. Rôma có nguồn gốc tuyệt hảo hơn,
nên tất cả Hội thánh nghĩa là các tín hữu khắp
nơi phải nhất thiết đồng thuận với
Hội thánh Rôma, bởi v́ nơi Hội thánh này có ǵn giữ
truyền thống từ đời các tông đồ” Thánh
Irênê ở Lyon (135-202). Việc hai vị tông đồ c̣n chịu
tử đạo ở Rôma càng tăng thêm tầm quan trọng
của cộng đồng Rôma.
142.
Các Giám mục có thể hành
động và dạy dỗ những điều
ngược với Giáo hoàng, c̣n Giáo hoàng có thể làm như
vậy với các Giám mục không ?
-
Các Giám mục chỉ có thể hành động và dạy dỗ
trong sự hiệp nhất với Đức Giáo hoàng,
chứ không trái ngược. Về phần Đức Giáo hoàng,
trong một số trường hợp cụ thể, có
thể đưa ra những quyết định không có
sự đồng ư của các Giám mục. [880-890]
–
Tuy nhiên Đức
Giáo hoàng bị ràng buộc trong các quyết định về
đức tin của Hội thánh “Những ǵ mà ở mọi thời, mọi nơi, và
luôn được mọi người tin” (thánh Vincent
Lérins) đều là cảm thức chung của Hội thánh
bởi v́ trong phạm vi đức tin, sự xác tín của
các Kitô hữu đều được thúc đẩy bởi
Chúa Thánh Thần.
Giám mục – người kế
vị các tông đồ. Ngài điều khiển một
giáo phận (Hội thánh địa phương). V́ là thành
viên của Giám mục đoàn và ở dưới quyền
trách nhiệm của Đức Giáo hoàng, ngài mang trách nhiệm
với tất cả Hội thánh.
Linh mục cộng
tác viên của Giám mục để loan báo Tin Mừng và cử
hành các bí tích. Linh mục thi hành nhiệm vụ trong Hội
thánh trong hiệp nhất với các linh mục khác, dưới
sự điều khiển của Giám mục.
143.
Đức Giáo hoàng có ơn vô
ngộ (không thể sai lầm) thực không ?
-
Có. Nhưng ngài chỉ bất khả ngộ khi ngài tuyên
bố một điểm giáo thuyết về đức
tin và luân lư một cách long trọng từ ngai ṭa (ex cathedra).
Ơn bất khả ngộ của Đức Giáo hoàng c̣n
được thể hiện trong những quyết
định của Giám mục đoàn hợp nhất
với Đức Giáo hoàng, nhất là khi các ngài họp Công
Đồng Chung, công bố một điểm giáo lư có liên
quan đến đức tin hoặc luân lư bằng một
hành động dứt khoát. [888-892]
–
Ơn bất khả
ngộ của Đức Giáo hoàng không tùy thuộc vào luân lư
toàn vẹn hoặc trí tuệ của ngài. Thực ra Hội
thánh th́ không sai lầm: Chúa Giêsu đă hứa ban Thánh Thần
Đấng ǵn giữ và hướng dẫn Hội thánh
để Hội thánh càng ngày càng thấu hiểu sự thật.
Khi một chân lư đức tin hiển nhiên bỗng dưng
bị chối bỏ hoặc giải nghĩa không đúng,
Hội thánh phải dùng phương sách cuối cùng là nhờ
một tiếng nói quả quyết một cách dứt khoát
đâu là đúng đâu là sai. Tiếng nói này là của Đức
Giáo hoàng. V́ là đấng kế vị thánh Phêrô, và đứng
đầu các Giám mục, chỉ ḿnh ngài có quyền xác quyết
về chân lư bị tranh căi là có phù hợp với truyền
thống đức tin của Hội thánh, để chân lư
đó được tŕnh bày cho các tín hữu được
“tin tưởng một cách chắc chắn” trong mọi
lúc. Người ta gọi là “Đức Giáo hoàng công bố
tín điều”. Nội dung một tín điều không bao giờ
được tŕnh bày điều ǵ “mới lạ”. Rất
ít khi có công bố tín điều: tín điều được
công bố sau cùng là vào năm 1950, do Đức Giáo hoàng Piô
XII về việc Đức Mẹ lên trời cả hồn
và xác.
Chúa Thánh Thần sẽ dẫn
các con tới sự thật hoàn toàn. Ga 16,13
C̣n Thầy, Thầy bảo cho
anh biết anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng
đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và
quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.
Thầy sẽ trao cho anh ch́a khóa Nước Trời, dưới
đất anh cầm buộc điều ǵ, trên trời
cũng sẽ cầm buộc như vậy, dưới
đất anh tháo cởi điều ǵ, trên trời cũng
sẽ tháo cởi như vậy. Mt 16,18-19
Cộng
đồng chung là cuộc họp của toàn thể
các Giám mục công giáo trong Hội thánh toàn cầu. Không nên lẫn
lộn với “phong trào đại kết” là về việc
hiệp nhất các Kitô hữu.
Ex cathedra có ư chỉ việc
tuyên bố giáo lư không thể sai lầm của Đức
Giáo hoàng.
Tín điều một điều
buộc phải tin, chứa trong Kinh thánh và Thánh truyền,
được công bố ex cathedra như là mặc khải
của Chúa.
«
Cầu nguyên cho tôi, để tôi học
biết yêu mến luôn luôn đoàn chiên của Chúa là Hội
thánh ngày càng tốt hơn, yêu mỗi người và yêu tất
cả anh em. Cầu nguyện cho tôi để tôi không trốn
chạy trước sói rừng. Xin hăy cầu nguyện cho
nhau để Chúa mang vác chúng ta và để nhờ
Người chúng ta mang vác cho nhau. Đức Bênêđictô XVI, 24-7-2005
144.
Nhiệm vụ của Giám mục
là ǵ ?
-
Các Giám mục có trách nhiệm tại Hội thánh
địa phương đă trao phó cho các ngài (địa
phận), và cùng chia sẻ trách nhiệm chung với toàn
Hội thánh Công giáo. Giám mục thi hành quyền bính
của ḿnh trong sự hiệp thông với các Giám mục
khác, và cho lợi ích của toàn Hội thánh, dưới
sự lănh đạo của Đức Giáo hoàng. [886-887,
893-896, 938-939]
–
Các Giám muc trước hết phải
là các tông đồ, các chứng nhân trung tín mà Chúa Giêsu đă
đích thân chọn để ở với Người và
được Người sai đi. Như vậy các ngài
đem Chúa Kitô cho mọi người và đem mọi
người đến với Chúa Kitô. Các Ngài thực hiện
bằng giảng dạy, cử hành các bí tích và quản trị
Hội thánh. V́ là đấng kế vị các Tông đồ,
Đức Giám mục thi hành phận sự dựa theo quyền
tông truyền riêng của ngài; ngài không phải người
được ủy quyền hay phụ tá của Đức
Giáo hoàng. Dẫu vậy, ngài hành động trong hiệp
thông với Đức Giáo hoàng và dưới quyền của
Đức Giáo hoàng.
Người lập
nhóm Mười Hai để các ông ở với Người
và để Người sai các ông đi rao giảng với
quyền trừ quỷ. Mc
3,14-15
Ai nghe anh em là nghe Thầy và ai
khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai
khước từ Thầy là khước từ Đấng
đă sai Thầy. Lc 10,16
145.
Tại sao Chúa Giêsu muốn có
những Kitô hữu cam kết sống trọn đời
trong bậc tu tŕ qua các lời khấn độc thân, nghèo
khó, vâng phục ?
- Thiên
Chúa là T́nh yêu. Người cũng muốn chúng ta yêu
Người, bằng cách dâng hiến trọn vẹn
đời sống và t́nh yêu cho Thiên Chúa như Chúa Giêsu,
nghĩa là sống: độc thân, nghèo khó, vâng phục.
Những ai chọn lối sống này phải có trí óc, trái
tim và đôi tay tự do để phục vụ Thiên Chúa và
tha nhân. [914-933, 944-945]
–
Có những bạn nam và nữ
đă để Chúa Kitô hoàn toàn chinh phục ḿnh, đến
nỗi họ bỏ mọi sự v́ Chúa, và Nước Trời (Mt 19,12) – bỏ cả
những quà tặng rất tốt đẹp như tài sản,
như quyền tự chủ, và t́nh yêu hôn nhân. Cuộc sống
theo các Lời khuyên Phúc Âm trong khó nghèo, trinh khiết và vâng phục
chứng tỏ cho mọi Kitô hữu rằng thế giới
không phải là tất cả. Chỉ có sự “mặt đối
mặt” với Chúa là hôn phu mới làm con người hạnh
phúc thật sự.
Chúa Giêsu
đưa mắt nh́n người thanh niên và đem ḷng
yêu mến. Người bảo anh ta, "Anh chỉ thiếu
có một điều, hăy đi bán những ǵ anh có mà cho
người nghèo, anh sẽ được một kho
tàng trên trời. Rồi hăy đến theo tôi." Mc 10, 21
Lời khuyên Phúc
Âm: Sống
khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục là những lời
khuyên mà Tin Mừng nêu lên để theo Chúa Kitô.
«
Theo Chúa Kitô luôn đ̣i hỏi phải
can đảm lội ngược ḍng. Đức Bênêđictô 17-5-2008
146.
Khi nói "Các thánh thông công"
nghĩa là ǵ ?
-
Tất cả mọi
người, dù nam hay nữ, đặt trọn vẹn
niềm hy vọng vào Chúa Kitô, và thuộc về
Người qua bí tích Rửa Tội, dù họ c̣n sống hay
đă qua đời, đều được tham dự
vào “các thánh thông công”. Bởi v́, chúng ta chỉ là một thân
thể trong Chúa Kitô, chúng ta sống trong sự hiệp
thông bao trùm cả trời và đất. [946-962]
–
Các thánh thông công nghĩa là mọi
thành phần trong Hội thánh đều được cùng
chia sẻ những thực tại thánh như đức
tin, các bí tích, các đặc sủng và ơn thiêng, kể cả
những của cải vật chất (Cv 4, 32). Một ư
nghĩa nữa đó là “sự hiệp thông giữa các
người thánh: một số đang lữ hành trên trần
gian; một số khác đă từ giă cơi đời này nhưng
c̣n đang được thanh luyện và hưởng sự
trợ giúp của những người khác; ư nghĩa sau
cùng là một số đang hưởng vinh quang trên trời
và đang chuyển cầu cho tất cả. Hội thánh c̣n
lớn hơn và sống động hơn ta nghĩ tưởng.
Thuộc về Hội thánh có những người đang sống
hoặc đă chết – những người này hoặc
đang chịu thanh luyện hoặc đă hưởng vinh
quang với Chúa – những người mà ta biết hoặc
ta không biết, những thánh lớn và những người
b́nh thường. Vượt qua sự chết ta vẫn có
thể giúp ích cho nhau. Ta có thể kêu cầu vị thánh mà ta
mang tên ngài, hoặc vị thánh nào ta yêu thích hơn, nhưng
cũng có thể người thân cận nào đă qua đời
mà ta tin rằng các ngài đă được về với
Chúa. Và ngược lại, ta có thể cứu giúp những
người đă qua đời c̣n đang phải chịu
thanh luyện bằng cách cầu nguyện cho họ. Như
vậy những ǵ chúng ta làm hoặc phải chịu đựng
v́ và trong Chúa Kitô đều đem lại lợi ích cho tất
cả. Nhưng thông công c̣n có nghĩa khác là mỗi tội lỗi
đều gây tổn thương cho tất cả cộng
đồng, tiếc thay. à 126
Nếu một bộ phận
nào đau, th́ mọi bộ phận cùng đau. Nếu một
bộ phận nào được vẻ vang, th́ mọi bộ
phận cũng vui chung. 1Cr 12,26
«
Đừng khóc, tôi
sẽ giúp ích cho anh em hơn sau khi tôi chết, tôi sẽ giúp
đỡ anh em hiệu quả hơn là khi tôi c̣n sống. Thánh Đaminh
147.
Tại sao Đức Maria lại
có một chỗ cao vượt trong mầu nhiệm
"Các Thánh thông công" ?
- Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa. Mẹ đă kết hợp mật thiết với Chúa
Giêsu khi c̣n ở dưới thế và khi lên trời, sự
liên kết mật thiết này vẫn không ngừng. Mẹ
là Nữ Vương Thiên Đàng, và trong t́nh mẫu tử,
Mẹ chắc chắn rất gần gũi với chúng ta.
Mẹ đă được đón tiếp về Trời
cả hồn lẫn xác. [972]
–
Bởi v́ Đức
Maria đă dấn thân cả xác hồn trong một cuộc
phiêu lưu liều lĩnh và nguy hiểm, dù là có tính cách thần
linh, Mẹ đă được đón nhận về trời
cả xác lẫn hồn. Ai sống và tin giống như Đức
Maria th́ được về trời.
« Chúng ta có một Mẹ ở
trên trời. Được sống trong Chúa và với Chúa,
Mẹ gần gũi mỗi chúng ta, hiểu biết nỗi
ḷng chúng ta, nghe lời cầu nguyện, giúp đỡ chúng
ta như Mẹ nhân lành, và như lời Chúa Giêsu nói, Mẹ
được trao ban là Mẹ thật của chúng ta mà
chúng ta có thể nói với Mẹ mọi lúc. Đức
Bênêđictô XVI 15-8-2005
« Thiên Chúa không ban cho loài người một
người tớ gái nhưng là một người mẹ.
B.Adolf
Kolfring (1813-1865, linh mục Đức tông đồ giới
thợ và thủ công)
148.
Đức Mẹ có thực sự
cứu giúp chúng ta không ?
-
Có. Từ thời sơ khai, Hội thánh đă có kinh
nghiệm về sự trợ giúp của Đức
Mẹ. Và trong suốt dọc lịch sử của Hội
thánh, hàng triệu tín hữu đă làm chứng về sự
cứu giúp của Mẹ Maria. [967-970]
–
V́ là Mẹ Chúa
Giêsu, Đức Maria cũng là Mẹ chúng ta. Một người
mẹ tốt lành luôn bảo vệ con ḿnh. Đức Maria,
Mẹ chúng ta c̣n hơn thế nữa. Ngay ở trần
gian, Mẹ đă can thiệp với Chúa Giêsu trong tiệc
cưới Cana để đôi tân hôn khỏi mất mặt.
Mẹ đă ở với các môn đệ Chúa trong Nhà Tiệc
ly, dịp lễ Ngũ tuần, để cùng chung cầu
nguyện với họ. V́ t́nh yêu của Mẹ bao la, ta có
thể tin chắc Mẹ sẽ giúp ta trong hai lúc quan trọng
nhất của cuộc đời ta; đó là “khi nay và trong
giờ lâm tử”. à 85
Khi thấy thiếu rượu, Mẹ Chúa Giêsu nói với
Người, "Họ hết rượu rồi".
Chúa Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can ǵ đến
bà và con? Giờ của con chưa đến. Mẹ
Người nói với gia nhân, "Người bảo ǵ,
các anh cứ làm theo". Ga 2,3-5
149.
Ta có được thờ kính
Đức Maria không ?
-
Không. Chúng ta chỉ thờ một ḿnh Thiên Chúa. Nhưng chúng
ta có thể tôn kính Đức Maria cách đặc biệt,
v́ Người là Mẹ Đấng Cứu Thế. [971]
–
Thờ kính có nghĩa là nh́n nhận
cách khiêm tốn vô điều kiện quyền tối cao
tuyệt đối của Thiên Chúa trên mọi thụ tạo.
Đức Maria là một thụ
tạo như ta. Người là Mẹ ta theo đức tin.
Và ta phải thảo kính cha mẹ, đó là Kinh thánh dạy.
Và Đức Maria đă nói về ḿnh rằng: Vâng từ nay mọi thế hệ
sẽ khen tôi có phước (Lc 1,48). Trong Hội thánh, việc
tôn kính này được diễn ra một cách độc
đáo trong các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ,
trong các lễ phụng vụ kính Mẹ Thiên Chúa và trong các
kinh nguyện tôn kính Đức Mẹ, như kinh Mân Côi,
được xem là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng.
à 353, 485
Chương
5. Tôi tin phép tha tội
150.
Hội Thánh Công giáo có thực
sự tha tội được không ?
- Có. Bởi v́ không chỉ
một ḿnh Chúa Giêsu có quyền tha tội, mà Người c̣n
trao cho Hội thánh nhiệm vụ và quyền giải thoát
con người khỏi tội lỗi của họ. Chúa
Giêsu đă cho linh mục tham gia vào quyền tha tội
của Người, nên linh mục có thể tha tội.
[981-983, 986-987]
–
Qua tác vụ của linh mục,
Thiên Chúa ban cho loài người ơn tha thứ và xóa bỏ
mọi tội dường như tội lỗi không có bao
giờ. Một linh mục chỉ có thể thực hiện
được việc đó v́ Chúa Giêsu đă cho tham dự
vào quyền thần linh riêng tư của Chúa để tha
tội.
à 252, 239
Anh em tha tội cho ai, th́
người ấy được tha; anh em cầm giữ
ai, th́ người ấy bị cầm giữ. Ga
20, 23
«
Linh mục đă nhận được
nơi Thiên Chúa một quyền năng đầy đủ
mà Thiên Chúa đă không ban cho các thiên thần hay các tổng
lănh thiên thần. Thiên Chúa ở trên trời cao xác nhận
điều linh mục làm ở dưới thế. Thánh Gioan Chrysostom
151.
Hội Thánh tha thứ tội
lỗi như thế nào ?
-
Bí tích đầu tiên và chính yếu
để tha tội là bí tích Rửa Tội. Sau khi lănh
bí tích Rửa tội, đối
với các tội nặng đă phạm, điều
cần thiết để được tha thứ là
phải chạy đến với bí tích Ḥa Giải (bí tích
Thống Hối, Giải Tội). Đối với các
tội nhẹ th́ chỉ khuyên xưng tội thôi. Việc
đền tội phải tương xứng với tính
chất trầm trọng của tội đă phạm. Có
thể đền tội bằng cách đọc Kinh Thánh,
cầu nguyện, ăn chay, và làm các việc lành khác. [976-980,
984-987] à 226-239
«
Tôi sẽ phải bối
rối nếu không có phép giải tội trong kín đáo. Martin Luther (1483–1546, nhà cải
cách Tin lành Đức)
Tôi tin xác loài người ngày sau
sống lại
152.
Tại sao chúng ta tin người
chết sẽ sống lại ?
- Chúng
ta tin kẻ chết sẽ sống lại v́ Chúa Giêsu đă
phục sinh từ trong kẻ chết, Người sống
luôn măi, và Người làm cho chúng ta tham dự vào sự
sống vĩnh cửu của Người. 988-991]
–
Khi có ai qua đời,
xác họ được chôn hoặc thiêu. Nhưng ta tin rằng
họ có một đời sống sau khi chết. Chúa Giêsu
phục sinh đă tỏ ḿnh ra như Chúa của sự sống.
Lời của Người đáng tin cậy: Tôi là sự sống
lại. Ai tin Tôi dù có chết vẫn
sẽ sống (Ga 11,25b). à 103-108
Sao trong anh em có người lại
nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ
chết không sống lại th́ Đức Kitô đă không chỗi
dậy. Mà nếu Đức Kitô đă không chỗi dậy
th́ lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả
đức tin của anh em cũng trống rỗng. Nếu
chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô v́ đời
này mà thôi, th́ chúng ta là những kẻ đáng thương
hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế
! Đức Kitô đă chỗi dậy từ cơi chết, mở
đường cho những ai đă an giấc ngàn thu. 1 Cr
15,12-14.19-20
153.
Tại sao ta tin "xác sẽ
sống lại" ?
-
Thánh Kinh khi nói về “thân xác” là muốn nhắm đến
con người trong t́nh trạng mỏng gịn và phải
chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng không coi “thân xác” con
người là thấp hèn kém giá trị. Trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đă
mặc lấy xác phàm, để cứu chuộc loài
người. Thiên Chúa cũng không chỉ cứu linh hồn
con người, nhưng Người cứu toàn bộ con
người có hồn và xác. [988-991, 997-1001, 1015]
– Thiên Chúa đă dựng nên
con người có xác và hồn. Đến Tận thế
Người sẽ không để cho “xác” nghĩa là toàn thể
thụ tạo vật chất rớt xuống như một
đồ chơi cũ kỹ. Đến “ngày sau hết”
Người sẽ làm cho ta chỗi dậy như những
vật có xác thịt – nghĩa là ta sẽ được biến
đổi, nhưng ta sẽ vẫn cảm thấy ḿnh ở
trong yếu tố của ḿnh. Đối với Chúa Giêsu
cũng vậy, việc ở trong điều kiện có xác
không phải chỉ trong một giai đoạn. Khi Đấng
Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, các môn đệ
trông thấy các vết thương ở xác Người.
Và
Ngôi Lời đă trở nên người phàm (có xác) và cư
ngụ giữa chúng ta. Ga 1,14
154. Khi ta chết, xảy ra điều ǵ ?
- Khi ta chết, hồn ĺa
xác, xác thối rữa, hồn đến gặp Thiên Chúa,
và chờ hợp nhất lại với xác vào ngày tận
thế. [992-1004, 1016-1018]
– Xác ta sẽ sống lại thế nào,
đó là một mầu nhiệm. Một h́nh ảnh có thể
giúp ta hiểu: khi ta xem thấy củ của cây hoa tulip, ta
không biết nó sẽ phát triển thành hoa rực rỡ thế
nào trong đất. Đối với ta cũng thế, ta
cũng không biết ǵ về vẻ bề ngoài tương
lai của thân xác mới của ta. Thánh Phaolô quả quyết
chắc chắn rằng : người
ta được gieo trong hèn hạ mà chỗi dậy th́
vinh quang (1 Cr 15,43a)
Nhưng có người sẽ nói, kẻ chết
chỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở
về? Đồ ngốc! Ngươi gieo cái ǵ, cái ấy
phải chết rồi mới được sống. Cái
ngươi gieo không phải là h́nh thể sẽ mọc lên,
nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn
như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa
cho nó một h́nh thể như ư ngài muốn: giống nào
h́nh thể ấy. 1Cr 15,35
« Ngay thân xác cũng có một chỗ nơi
Thiên Chúa. Đức Bênêđictô
XVI, 15-8-2005
« Tôi muốn thấy Thiên Chúa và
để thấy Thiên Chúa, tôi
phải chết. Thánh
Têrêsa Avila
155. Nếu ta trông cậy vào Chúa Kitô,
Người sẽ giúp ta thế nào vào lúc ta chết ?
- Chúa Kitô sẽ tới gặp
ta và đưa ta vào cuộc sống đời đời.
Thánh Têrêsa Hài đồng nói: "Không phải cái chết
sẽ đến đón tôi mà là chính Thiên Chúa". [1005-1014,
1016, 1019]
–
Khi chiêm ngắm những đau khổ và
cái chết của Chúa Giêsu, đoạn nói về cái chết
của Chúa có thể dễ hiểu hơn. Trong hành vi tin cậy
và yêu mến Chúa Cha, ta có thể “xin vâng” như Chúa Giêsu
đă làm trong vườn cây dầu. Loại thái độ
này được gọi là “hiến dâng linh thiêng”. Người
đang chết kết hợp với cuộc hiến dâng của
Chúa Kitô trên thập giá. Chết như vậy trong niềm
tin cậy nơi Chúa và trong b́nh an với mọi người,
th́ không có tội nặng, đó là lên đường đi
tới cộng đồng của Chúa Kitô phục sinh. Cái
chết của ta làm ta rớt xuống, nhưng ta rớt
trong tay Chúa. Người chết không hành tŕnh tới hư
vô, nhưng trở về nhà trong t́nh yêu của Đấng
đă tạo dựng họ.
Chúng
ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết
cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc
về Chúa. Rm 14,8
« Tôi không chết, tôi đi vào sự sống.
Thánh
Têrêsa Hài đồng (1873-1897, nhà thần bí và tiến sĩ
Hội thánh)
Chương 6. "Tôi tin hằng sống
vậy"
156. Sự sống vĩnh hằng là ǵ ?
- Sự
Sống vĩnh hằng đă khởi đầu khi ta lănh
Bí tích Rửa tội. Nó
tiếp tục sau khi chết và nó sẽ vô cùng tận. [1020]
–
Những
người yêu nhau có kinh nghiệm rằng: họ muốn
cho chuyện t́nh của họ không ngừng lại bao giờ.
Thiên Chúa là t́nh yêu, thư thứ
nhất của thánh Gioan nói thế (1Ga 4,16). Thư thứ
nhất gửi Côrintô nói đức ái không bao giờ mất được (1Cr 13,8).
Thiên Chúa th́ vĩnh hằng v́ Người là t́nh yêu và t́nh yêu
th́ vĩnh hằng bởi v́ t́nh yêu là thần thiêng. Khi ta sống
trong t́nh yêu, là ta đi vào hiện tại vĩnh viễn của
Thiên Chúa.
Anh
em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng
quên, đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm,
ngàn năm cũng tựa một ngày. 2 Pr 3,8
« Thời gian để t́m
Chúa, đó là sống. Thời gian để t́m được
Chúa, đó là chết. Thời gian để có được
Chúa là đời đời. Thánh Phanxicô Salêdiô
157. Chúng ta có phải chịu xét xử sau khi
chết không ?
- Có. Sau khi chết, mỗi người tức khắc
sẽ chịu cuộc xét xử. Cuộc xét xử này
được gọi là cuộc xét xử riêng. C̣n
đến ngày sau hết, sẽ xảy ra một cuộc
xét xử được gọi là cuộc xét xử chung, khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang của
Người.
– Khi chết, mỗi
người đi tới giờ của sự thật. Lúc
đó không ǵ có thể bị gạt đi và che giấu nữa.
Ta phải đối mặt với cuộc xét xử của
Chúa, Đấng công nhận sự công chính của ta, v́
Thiên Chúa gần gũi ta, ta chỉ có thể hoặc là công
chính như Chúa muốn khi Người tạo dựng ta. Hoặc
có thể ta cần phải qua một tiến tŕnh thanh luyện
chăng, hoặc có thể ta được đón ngay vào
ṿng tay của Chúa chăng ? Nhưng cũng có thể ta
đầy tội ác, hận thù, từ chối tất cả;
ta sẽ từ chối vĩnh viễn bộ mặt của
T́nh yêu, bộ mặt của Thiên Chúa.
Xét
xử. Việc xét xử riêng hay cá
nhân sẽ xảy ra lúc mỗi người chết. Việc
xét xử chung tất cả cũng gọi là xét xử
sau cùng sẽ xảy ra khi tận thế lúc Chúa trở lại.
« Khi đời đă về chiều, ta sẽ
chịu xét xử về t́nh yêu của ta. Thánh Gioan Thánh giá
(1542-1591, nhà thần bí Tây ban nha, tiến sĩ Hội Thánh
và thi sĩ)
158.
Trời là ǵ ?
-
Trời là thời gian vô tận của t́nh yêu không bao
giờ c̣n xa cách nữa giữa Thiên Chúa và ĺnh hồn đă
yêu mến và t́m kiếm Người suốt đời.
Được hiệp nhất với tất cả các
thiên thần và tất cả các thánh, linh hồn được
vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần Chúa và
với Chúa. Trời là Thiên đường (xem câu 52, 109).
[1023-1026, 1053]
–
Đôi bạn trẻ nh́n nhau với
đôi mắt t́nh tứ, một em bé đang bú mẹ t́m
đến cái nh́n của mẹ nó, như muốn giữ
ǵn mỗi nụ cười đó măi măi….đó là những thí
dụ có thể cho ta một ư niệm nhỏ về trời
hay thiên đường. Được nh́n thấy Thiên Chúa
mặt đối mặt là như thời gian độc
nhất của t́nh yêu kéo dài đến vô tận. à 52
Bây giờ chúng ta thấy lờ
mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ
được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ
có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết
hết, như Thiên Chúa biết tôi. 1 Cr 13,12
«
Một người
có thể mất hết của cải đời này trái với
ư muốn của ḿnh, nhưng không bao giờ họ mất
của cải đời đời nếu không hoàn toàn do
ư muốn của ḿnh.
Thánh Augustinô
159.
Luyện ngục là ǵ ?
-
Luyên ngục thường
được coi là một nơi, nhưng đúng ra là
một t́nh trạng của những người chết
trong ơn nghĩa Chúa, đă được cứu
độ, nhưng c̣n cần thanh luyện trước khi
họ có thể được xem thấy Thiên Chúa mặt
đối mặt. Đó chính là luyện ngục. [1030-1031]
–
Khi thánh Phêrô chối Chúa Giêsu, Người
quay lại và nh́n ông: “Và Phêrô đi ra khóc lóc một cách cay
đắng”, việc thánh Phêrô bày tỏ một t́nh cảm
ăn năn như thế có thể có ở luyện ngục.
Một luyện ngục như thế chắc sẽ chờ
đợi đa số chúng ta lúc chúng ta chết: Chúa nh́n ta
với cái nh́n yêu thương, và ta cảm thấy một
t́nh cảm hổ thẹn cháy bỏng và một hối hận
đớn đau đối với việc ta đă làm
điều ác hoặc đă có những hành động chỉ
“ thiếu” có t́nh yêu thôi. Chỉ sau khi chịu đau khổ
để thanh luyện như vậy ta mới có thể gặp
được cái nh́n yêu thương trong niềm vui
vĩnh hằng mà không ǵ làm xáo trộn được.
Những công việc của mỗi
người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật
thế, Ngày của Thiên Chúa sẽ cho thấy công việc
đó, v́ Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa
này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi
người. 1Cr 3,13
V́ thế ông Giuđa Macabê
đă làm việc đền tội cho người đă chết,
để họ được tha thứ tội lỗi. 2 Mcb
12,45
160.
Ta có thể giúp được các
linh hồn ở Luyện ngục không ?
- Có, v́ tất cả những ai
đă được rửa tội trong Chúa Kitô đều
được tham dự vào việc “các thánh thông công” và
họ liên đới với nhau. Những người c̣n
sống có thể giúp đỡ các linh hồn nơi
luyện ngục. [1032]
–
Bởi v́ khi chết rồi con
người không thể làm ǵ cho chính ḿnh nữa, thời
gian thử luyện đă qua rồi. Nhưng khi ta c̣n sống,
ta có thể làm được việc ǵ đó giúp họ,
v́ t́nh yêu của ta vẫn hoạt động vươn tới
cả đời sau, chẳng hạn ăn chay, cầu nguyện,
làm các việc lành, nhất là dâng thánh lễ để xin
ơn cho họ. à 146
«
Bạn đừng ngại ngùng cứu
giúp những người đă ra đi và dâng lời cầu
nguyện cho họ. Thánh
Gioan kim khẩu
161.
Hỏa ngục là ǵ ?
-
Hỏa ngục là t́nh trạng xa ĺa
đời đời với Thiên Chúa, thiếu vắng t́nh
yêu cách tuyệt đối. [1033-1037]
–
Ai chết trong t́nh trạng đă phạm
tội nặng do biết rơ và cố t́nh mà không ăn
năn hối cải, ai từ bỏ đến muôn đời
t́nh yêu hay thương xót và tha thứ của Thiên Chúa,
người đó tự loại bỏ ḿnh ra khỏi sự
hiệp thông với Thiên Chúa và các Thánh. Có thể có ai lúc chết
được nh́n ngắm t́nh yêu tuyệt đối ở
trước mặt mà cứ nhất định bỏ
không? Ta không biết. Nhưng v́ ta có tự do, nên có thể
có. Chúa Giêsu luôn ngăn ngừa chúng ta đừng có dứt
khoát chia ly với Chúa bằng cách không quan tâm ǵ đến
những khốn khổ của anh chị em chúng ta. Chúa
nói với mọi người ở bên trái rằng: “Quân bị
nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào
lửa đời đời… v́ xưa Ta đói các
ngươi đă không cho ăn… Ta bảo thật mỗi lần
các ngươi không làm như thế cho một trong những
người bé mọn nhất đây, là các ngươi
đă không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 41.45). à 53
Nếu tay anh làm cớ cho anh
sa ngă, th́ chặt nó đi; thà cụt một tay mà được
vào cơi sống, c̣n hơn là có đủ hai tay mà phải sa
hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Mc
9,43
Kẻ
không yêu thương th́ ở lại trong sự chết.
Phàm ai ghét anh em ḿnh th́ là kẻ sát nhân. Và anh em biết không kẻ
sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại
trong ḿnh nó. Ga
3,14-15
«
Tôi tự hỏi: “Hỏa ngục là ǵ?”. Tôi quả quyết rằng: là không thể yêu thương được. Fedor Dostoievski, 1821–1881, văn sĩ Nga)
162.
Nếu Thiên Chúa là T́nh yêu th́ sao
lại có Hỏa ngục ?
- Không
phải Thiên Chúa kết án con
người vào hỏa ngục mà chính con người là
kẻ tự kết án ḿnh khi gạt bỏ t́nh yêu
thương xót của Thiên Chúa. Họ tự tước
mất cuộc sống vĩnh cửu khi chính họ tự
ư loại ḿnh ra khỏi sự thông hiệp với Thiên Chúa.
[1036-1037]
–
Thiên Chúa ước ao sống hiệp
thông ngay cả với tội nhân cuối cùng. Người
muốn mọi người ăn năn trở lại và
được cứu rỗi. Nhưng Thiên Chúa đă dựng
nên con người được tự do, và Người
tôn trọng quyết định của họ. Chính Thiên
Chúa không thể ép buộc ai yêu mến. Thiên Chúa không kết
án con người. Thiên Chúa là t́nh yêu phải chịu đầu
hàng “những ai chọn hỏa ngục hơn là Thiên
đàng”. à 51, 53
Thiên Chúa không chậm
trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho
là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người
kiên nhẫn đối với anh em, v́ Người không muốn
cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người
đi tới chỗ ăn năn hối cải. 2 Pr 3,9
Thiên Chúa muốn cho mọi người
được cứu độ và nhận biết chân lư. 1 Tm
2,4
«
Thiên Chúa nhân lành vô
cùng sẽ không bao giờ loại bỏ những ai không muốn
loại bỏ Người. Thánh Phanxicô Salêdiô
163.
Sự xét xử cuối cùng (phán xét
chung) là ǵ ?
- Phán xét cuối cùng sẽ
diễn ra vào lúc tận thế, lúc Chúa Kitô đến
lần thứ hai. "Mọi
kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Người và
bước ra. Những kẻ đă làm việc lành, sẽ
sống lại để hưởng Sự Sống
đời đời. Những kẻ đă làm ác,
sẽ sống lại để chịu phán xét" (Ga
5, 29). [1038-1041, 1058-1059]
–
Khi Chúa Kitô trở
lại trong vinh quang, Người sẽ tỏa sáng trên ta;
chân lư sẽ xuất hiện sáng trưng: Tư tưởng,
hành động, mối quan hệ giữa ta với Thiên
Chúa, với người khác, sẽ được phơi
bày ra ánh sáng. Lúc đó ta sẽ biết rơ ư nghĩa cuối
cùng của cuộc sáng tạo trời đất muôn vật,
và hiểu rơ những phương thế tuyệt vời
Thiên Chúa đă dùng để cứu ta. Sau hết lúc đó
ta sẽ trả lời được câu hỏi hằng
được lập đi lập lại rằng: quả
thực Thiên Chúa là toàn năng thế mà sao sự dữ lại
có sức mạnh quá lẽ như vậy ? Phán xét chung
thực sự là phán xét cuối cùng đối với ta.
Chính lúc này sẽ định đoạt cho ta hoặc sẽ
sống lại để sống vĩnh hằng hoặc
phải ĺa xa Chúa muôn đời. Đối với những
ai đă chọn sự sống, Thiên Chúa sẽ lại dẫn
đưa họ như Đấng tạo hóa: trong “một
thân xác mới” (2 Cr 5,1), họ sẽ sống muôn đời
trong vinh quang của Chúa và ca tụng Người với cả
xác hồn. à 110-112, 157
Khi
con người đến trong vinh quang của Người,
có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người
sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân
thiên hạ sẽ được tập họp trước
mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ
với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê…
Thế là họ ra đi để chịu cực h́nh muôn
kiếp, c̣n những người công chính ra đi để
hưởng sự sống muôn đời. Mt 25,31-32,46
164. Thế giới sẽ tận cùng thế
nào ?
- Khi tận thế, Thiên Chúa sẽ tạo dựng một
trời mới đất mới. Sự dữ sẽ không
c̣n quyền lực hay quyến rũ nữa. Những ai
được cứu rỗi sẽ chiêm ngưỡng Thiên
Chúa mặt đối mặt như bạn hữu của
Người. Niềm ước mong ḥa b́nh và công lư của
họ sẽ được thỏa măn. Hạnh phúc
của họ là được chiêm ngắm Chúa. Thiên Chúa Ba
Ngôi sẽ ở giữa họ, sẽ lau khô mọi
giọt lệ trên mắt họ: sự chết sẽ không
c̣n nữa, và cũng không c̣n tang chế, khóc lóc, và đau
khổ nữa. [1042-1050, 1060] à 110-112
Thiên Chúa sẽ lau sạch
nước mắt họ. Sẽ không c̣n sự chết,
cũng chẳng c̣n tang tóc, kêu than và đau khổ nữa,
v́ những điều cũ đă biến mất. Đấng
ngự trên ngai phán: Này đây Ta đổi mới mọi sự.
Rồi Người phán: Ngươi hăy viết: Đây là những
lời đáng tin cậy và chân thật. Kh
21.4-5
165. Tại sao chúng ta đọc "Amen"
vào cuối kinh Tin kính ?
- Chúng
ta kết thúc kinh Tin Kính bằng từ Amen. Từ này theo
tiếng Do Thái có nghĩa là “thưa vâng”, bởi v́ Thiên Chúa
mời gọi chúng ta trở thành nhân chứng đức
tin. Ai nói Amen là vui sướng và tự do tán thành công
việc tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa,
Amen cũng là tin tưởng chắc chắn, trông cậy
và trung thành. [1061-1065]
–
Theo tiếng Hibá, từ Amen có ư
nghĩa vừa là “tin” vừa là “tin chắc, tin cậy và
trung thành”. “Ai nói Amen là kư tên xác nhận” (Thánh Augustinô). Ta chỉ
có thể công bố Amen không chút nghi ngại chỉ v́ Chúa
Giêsu đă chứng tỏ cho ta biết bằng cái chết
và sự sống lại của Người rằng:
Người là đấng trung thành, và đáng tin cậy.
Người là “Amen” của loài người đối với
tất cả những lời Thiên Chúa hứa, Người
cũng là “Amen” dứt khoát của Thiên Chúa với mọi
người chúng ta. à 527
Quả thật, mọi lời
hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người.
V́ thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen”
để tôn vinh Thiên Chúa. 2 Cr 1,20
Amen được dùng trong Cựu
Ước với ư nghĩa chính là “mong được
như vậy”, để làm cho mong ước hoạt
động của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn, hoặc
để liên kết với lời ca tụng Thiên Chúa.
Trong Tân Ước, Amen được dùng để
tăng cường cho kết luận của lời cầu
nguyện. Thường Chúa Giêsu dùng Amen cách đặc biệt
để dẫn vào một lời nói quan trọng. Amen ở
đây làm nổi uy thế của lời nói.