PHẦN II. PHỤNG VỤ -
BÍ TÍCH
DẪN NHẬP VÀO PHẦN II:
PHỤNG VỤ - BÍ TÍCH
Những gì
chung cho cả cuốn Youcat đã được trình bày đầy đủ trong bài Dẫn nhập chung.
Riêng Phần II về Phụng vụ và Bí tích, chính Youcat có ít dòng dẫn nhập sau đây:
“Trong
việc cử hành các mầu nhiệm Kitô giáo (các bí tích), Chúa Giêsu Kitô đến gặp gỡ
mọi người trong đền thờ của Hội thánh. Cho đến tận thế, Người luôn có mặt trong
Hội thánh của Người. Cuộc gặp gỡ sâu xa nhất mà ta có thể có được với Người
trên trần gian đó là Phụng vụ, việc thờ phượng linh thiêng. Vì thế, Luật của
thánh Bênêđictô dạy rằng: “Không gì có thể thắng thế trên việc thờ phượng linh
thiêng” (Thánh Bênêđíctô ở Nursia, 480-547, sáng lập Đan viện Tây phương).
Còn trong
nội dung Phần II, Youcat cũng chọn lựa những chủ đề, những câu hỏi, câu trả
lời, câu giải nghĩa và các chứng từ độc đáo phù hợp với nhu cầu thời hiện đại
hôm nay mà trước đây chưa sách giáo lý nào giải nghĩa và cho biết tại sao như
thế. Trong Phần II, có khoảng 16 câu trên 112 câu, có nét độc đáo đó:
v
Câu 174. Tại sao tin vào Chúa Giêsu không đủ,
Thiên Chúa còn cho chúng ta các bí tích ?
v
Câu 181. Tại sao có quá nhiều dấu hiệu và các
biểu tượng trong Phụng vụ ?
v
Câu 183. Tại sao trong Phụng vụ còn có âm nhạc.
Loại nhạc nào thích hợp với Phụng vụ ?
v
Câu 184. Phụng vụ tác động đến thời gian như
thế nào ?
v
Câu 193. Có một liên kết hữu cơ giữa các bí
tích không ?
v
Câu 219. Người Công giáo thường phải tham dự
bao nhiêu thánh lễ ?
v
Câu 222. Có thể cho người không phải là Công
giáo rước lễ được không ?
v
Câu 235. Tôi có được xưng tội nếu không có tội
nặng không ?
v
Câu 257. Nếu chỉ có nam giới được lãnh bí tích
Truyền chức thánh thì nữ giới có bị kỳ thị không ?
v
Câu 258. Tại sao Hội thánh Công giáo đòi các
linh mục và giám mục sống độc thân ?
v
Câu 260. Tại sao Thiên Chúa tạo dựng có người
nam và người nữ cho nhau ?
v
Câu 270. Hội thánh có lập trường thế nào với
người ly dị rồi tái hôn ?
v Câu 271. Khi nói gia đình là Hội thánh thu nhỏ nghĩa là
gì?
v
Câu 275. Có được tôn kính các thánh tích không
?
v
Câu 276. Đi “hành hương” có mục đích gì ?
v Câu 277.
Chặng đường thánh giá là gì ?
Còn giải nghĩa các chủ đề cũng có nhiều độc
đáo. Thí dụ:
Câu
184. Phụng vụ tác động đến thời gian như thế nào ?
Trả lời: Trong phụng vụ, thời gian
trở thành thời giờ dâng cho Chúa.
Giải nghĩa: Có lúc ta coi thường
thời gian, chỉ kiếm thời giờ để tiêu khiển. Còn trong phụng vụ, thời gian có một
giá trị thực sự vì mỗi giây đều tràn đầy ý nghĩa. Khi cử hành phụng vụ giờ
kinh, ta thấy Chúa thánh hóa thời gian và làm cho mỗi giây trở thành một cầu nhỏ
dẫn ta vào cõi vĩnh hằng.
Chứng từ
- Kinh
Thánh: Anh em hãy tận dụng thời gian hiện tại. Ep
5,16
- Đức Bênêđictô XVI:
Sự vĩnh hằng của Thiên Chúa không phải chỉ là vắng mặt thời gian hay không có
thời gian, nhưng là sức mạnh làm cho thời gian phát triển thành hiện-hữu-với-thời-gian
và hiện-hữu-trong-thời-gian. Tinh thần phụng vụ
Câu
219. Người Công giáo thường phải tham dự bao
nhiêu Thánh lễ ?
Trả lời: Hội thánh buộc mọi
người Công giáo tham dự thánh lễ các Chúa nhật và các lễ buộc. Bất cứ ai thực
sự tìm làm bạn với Chúa Giêsu, sẽ đáp lời mời của Chúa đến dự Tiệc thánh này
càng nhiều càng tốt.
Giải thích: Nói rằng người Công
Giáo đích thực buộc phải dự các lễ Chúa nhật và lễ buộc thì cũng rất chính
đáng như nói rằng hai tình nhân thì buộc phải ôm hôn nhau. Không ai có thể
có mối liên hệ sống động với Chúa Giêsu mà lại không đến với nơi Người đã hẹn
gặp. Vì thế từ xưa đến nay Thánh lễ luôn luôn là “trái tim của Chúa Nhật”, là
điểm hẹn quan trọng nhất của tuần lễ.
Câu
257. Nếu chỉ có nam giới được lãnh bí tích Truyền Chức Thánh thì nữ giới có bị
kỳ thị không ?
Trả lời: Luật nói rằng: chỉ người
nam giới được lãnh chức thánh, sẽ không làm hạ phẩm giá nữ giới. Đối với Thiên
Chúa, nam hay nữ đều có phẩm giá như nhau, nhưng mỗi phái có những bổn phận và
đoàn sủng khác nhau. Hội thánh quen chọn người nam, chính vì Chúa Giêsu đã chỉ
chọn người nam khi lập chức linh mục trong bữa Tiệc ly. Năm 1994, Đức Gioan
Phaolô II tuyên bố rằng: "Hội thánh không có quyền truyền chức linh mục
cho nữ giới, và mọi tín hữu của Hội thánh phải dứt khoát tuân giữ quyết định đó
".
Giải thích: Thời xưa không có ai đề
cao phụ nữ bằng Chúa Giêsu (điều mà thời đó được coi là khiêu khích), Người đã
đồng ý làm bạn với họ và bảo vệ họ. Nhiều phụ nữ đi theo Chúa Giêsu và Người
đánh giá đức tin họ rất cao. Người đầu tiên làm chứng nhân cho việc Chúa Giêsu
sống lại là phụ nữ, bà Maria Madalena. Vì thế người ta nói rằng bà là “một phụ
nữ tông đồ giữa các tông đồ”. Dầu vậy việc truyền chức linh mục cũng như trách
nhiệm mục vụ luôn luôn được truyền lại cho người nam. Các linh mục người nam phải
thay mặt Chúa Giêsu để tập họp Hội thánh. Chức linh mục là một chức vụ đặc biệt
đòi hỏi người nam phải thi hành vai trò làm cha của người nam. Không có sự ưu
thế nào của nam trên nữ. Các phụ nữ có vai trò trong Hội thánh, như ta thấy qua
Đức Maria một vai trò trung tâm không thua kém người nam, nhưng là vai trò của
nữ giới. Bà Eva trở thành mẹ của mọi người đang sống (St 3,20). Xét theo là mẹ
của mọi người đang sống, các phụ nữ có những tư chất và khả năng đặc biệt. Nếu
không có cách thế riêng biệt mà chỉ phụ nữ mới có như dạy dỗ, loan báo Tin Mừng,
sống bác ái, sống đạo đức và mục vụ, thì Hội thánh “bị cắt cụt một nửa”. Khi những
người nam trong Hội thánh dùng chức vụ linh mục như công cụ của quyền lực, hoặc
khi các người nữ không lo tận dụng những đặc sủng của mình, thì cả hai đã xúc
phạm đến tình yêu và đến Thánh Thần của Chúa Giêsu.
Youcat
đã dùng cách chọn vấn đề, giải nghĩa vấn đề vừa cập nhật với thế giới và với
con người thời nay, lại vừa chọn những chứng từ, những so sánh, những lý lẽ từ
trong cuộc sống để giúp ta có tài liệu độc đáo để truyền giảng Tin Mừng của
Chúa Giêsu cho người thời nay. Còn gì tốt hơn ?
Linh mục
Antôn Nguyễn Mạnh Đồng
(166-278)
Chương
1. Thiên Chúa và Phụng vụ.
Chương 2. Chúng
ta cử hành các mầu nhiệm của Chúa
Kitô thế nào ?
Đoạn II. Bảy bí tích của Hội thánh.
Chương
1. Các bí tích khai tâm
(Rửa tội, Thêm sức,
Thánh thể).
Chương
2. Các bí tích chữa lành
(Sám hối giao hòa và Xức dầu bệnh nhân).
Chương 3. Các bí tích phục vụ cho sự
hiệp thông và
sứ vụ (Truyền chức thánh và Hôn phối).
Chương
4. Các cử hành phụng vụ khác.
ĐOẠN I: THIÊN CHÚA HOẠT
ĐỘNG TRONG TA BẰNG CÁC DẤU HIỆU THÁNH
166.
Tại sao Hội thánh thường hay cử hành phụng
vụ ?
- Người dân
–
Con người chúng ta phải thở để sống thế nào thì
Hội thánh cũng thở và sống khi cử hành phụng vụ như vậy. Chính Thiên Chúa ngày
này qua ngày khác, thổi vào Hội thánh sư sống mới và hiến tặng Hội thánh Lời
Chúa và các bí tích. Một hình ảnh khác đề minh họa: mỗi dịp thờ phượng Chúa là
một cuộc hẹn của tình yêu mà Chúa ghi trong nhật ký của ta. Ai đã cảm nghiệm được
tình yêu Chúa thì sẽ tự nguyện đến đúng hẹn. Ai đôi khi không cảm nghiệm gì cả
nhưng cũng đến đúng hẹn, thì họ chứng tỏ họ vẫn trung thành với Chúa.
167.
Phụng vụ là gì ?
- Phụng vụ là việc thờ phượng chính thức của Hội thánh. [1077
– 1112]
–
Một cử hành phụng vụ không phải một biến cố gồm
những ý tưởng tốt và những thánh ca hay. Không phụng vụ nào tự tạo ra mình cũng
như tự mình sáng kiến ra. Phụng vụ chứng tỏ về một đời sống đức tin đã lớn dần
trong nhiều thế kỷ. Một việc đạo đức là một biến cố thánh, đáng được tôn trọng.
Phụng vụ trở nên hấp dẫn khi ta cảm nghiệm được chính Thiên Chúa đang có mặt
trong các dấu hiệu thánh và trong các kinh nguyện quý báu và thường là rất cổ
kính.
Phụng vụ là việc thờ phượng chính thức được hoàn
thành do dân và cho dân. Theo truyền thống Kitô Giáo, phụng vụ có nghĩa là dân
Chúa tham gia vào “việc” của Chúa. Việc quan trọng nhất trong các cử hành phụng
vụ là Phụng vụ Thánh Thể. Các cử hành phụng vụ khác đều tùy thuộc vào Phụng vụ
Thánh Thể, chẳng hạn như cử hành các bí tích, các việc tôn thờ, các buổi chầu
chúc lành, các cuộc rước kiệu, và phụng vụ các giờ kinh.
«
Phụng vụ không bao giờ được rút gọn vào một cuộc
họp nhóm để cử hành riêng cho mình… Nhờ được tham dự vào việc Chúa Kitô trở về
cùng Chúa Cha… chúng ta cũng được thông công cùng các thánh. Đúng thế, chúng ta một cách nào đó được tham
gia phụng vụ trên trời. Đức Hồng Y
Ratzinger trong cuốn “Thiên Chúa và thế giới”
168. Tại sao
phụng vụ lại chiếm địa vị ưu tiên trong đời sống Hội Thánh và trong đời sống
mỗi người chúng ta ?
- Vì phụng vụ là chóp đỉnh mà các hoạt động của Hội thánh
hướng về đó, đồng thời Phụng vụ cũng là nguồn suối trào ra các sức mạnh (Hiến
chế Phụng vụ số 10). [1074]
–
Xưa Chúa Giêsu sống ở trần gian, đám đông dân
chúng kéo đến với Người vì họ muốn được chữa khỏi bệnh do sự có mặt của Người.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu, vì Chúa sống trong Hội thánh Người.
Người bảo đảm Người có mặt khi chúng ta phục
vụ người nghèo (Mt 25,42) và có mặt trong bí tích Thánh Thể. Đó là hai nơi
mà chúng ta trực tiếp chạy đến trong vòng tay của Người. Nếu chúng ta để cho
Người gặp gỡ chúng ta, Người sẽ dạy dỗ, nuôi sống, biến đổi, chữa lành cho
chúng ta, và chúng ta nên một với Người trong Thánh lễ.
Một sức thiêng phát xuất
từ Người và chữa lành tất cả. Lc
6,19
Tôi,
tôi đến để họ được sống và sống dồi dào. Ga 10,10
169.
Khi chúng ta cử hành phụng vụ, điều gì đã xảy
ra cho chúng ta ?
- Chúng ta được lôi kéo đến tình yêu Chúa, được chữa lành, được
biến đổi. [1076]
–
Tất cả các cử hành phụng vụ
của Hội thánh và tất cả các bí tích của Hội thánh chỉ có một mục đích là trao
ban sự sống và trao ban một cách dồi dào. Khi chúng ta cử hành phụng vụ, chúng
ta gặp được Đấng đã đích thân nói rằng: “Ta
là Con Đường, là Sự thật và là Sự Sống (Ga 14,6). Ai đến tham dự một cử
hành phụng vụ và cảm thấy mình bị bỏ rơi, Chúa sẽ bảo vệ gìn giữ họ. Ai đến
tham dự mà cảm thấy mình bị lạc lõng, sẽ tìm thấy Chúa đang chờ họ.
Thế rồi anh ta đứng
lên, đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh
lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Lc
15,20
Và tôi sẽ tiến tới bàn
thờ Thiên Chúa, đến với Chúa là niềm vui của tôi. Tôi sẽ vui sướng, tôi sẽ cảm
tạ Chúa bằng đàn hát, cảm tạ Chúa của tôi. Tv 43,4
170.
Nguồn gốc cốt lõi nhất của phụng vụ là gì ?
- Đó là chính Thiên Chúa. Trong Người diễn ra một lễ hội tình
yêu đời đời trên Thiên đàng, có niềm vui của Cha - Con - Thánh Thần. Vì Thiên
Chúa là Tình yêu, nên Người muốn chúng ta dự phần vào cuộc lễ vui vẻ của Người
và ban cho chúng ta chúc lành của Người. [1077-1109]
–
Trên đời này, các cử hành phụng vụ phải là những
cuộc lễ tràn ngập vẻ đẹp và sức sống: lễ của Cha đã tạo dựng chúng ta –
trong đó vai trò quan trọng của các quà tặng của trái đất: bánh, rượu, dầu và
ánh sáng, khói hương, thánh nhạc và các thứ màu sắc. Lễ của Con đã cứu
chuộc chúng ta – chúng ta vui mừng vì chúng ta được giải thoát, chúng ta lấy lại
hơi thở khi nghe Lời Chúa, chúng ta trở nên mạnh sức khi ăn các lễ vật Thánh Thể.
Lễ của Thánh Thần đang sống trong ta – từ đó ta được tràn đầy an ủi, hiểu
biết, can đảm, sức mạnh, và được chúc lành từ các cộng đồng Kitô hữu. → 179
Chúc lành nghĩa là nói ra điều tốt lành, điều tốt
lành này xuất phát từ Thiên Chúa. Đó là một hành vi của Chúa ban sự sống và gìn
giữ sự sống. Thiên Chúa là Cha và là Đấng Sáng tạo mọi loài nói cho chúng ta rằng:
bạn ở đây là tốt lành, bạn hiện hữu là tốt lành.
171.
Điểm chính yếu của mọi phụng vụ là gì ?
- là cử hành Thánh Thể, nhưng tất cả mọi phụng vụ cũng là lễ
Phục sinh thu nhỏ. Chúa Giêsu cử hành với chúng ta lễ Vượt Qua của Người từ sự
chết đến cuộc sống và Người mở cuộc Vượt Qua đó cho chúng ta. [1085]
–
Biến cố phụng vụ quan trọng hơn cả chưa bao giờ
có ở trần gian, đó là lễ Vượt qua mà Chúa Giêsu đã cử hành với các môn đệ hôm
trước ngày chịu chết, trong “Bữa Tiệc Ly”. Các môn đệ tưởng rằng Chúa Giêsu đã
muốn cử hành việc giải phóng
Đêm ấy Ta sẽ rảo qua khắp
đất Ai cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai cập, từ loài người cho đến
loài vật, và sẽ trị tội chư thần Ai cập: vì Ta là Đức Chúa. Còn vết máu trên
nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt
qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai cập.
Xh 12,13
172.
Có mấy bí tích, tên là gì ?
- Hội thánh Công giáo có 7 bí tích: Rửa tội, Thêm sức, Mình
Thánh Chúa (Thánh Thể), Giải tội, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh, Hôn
phối. [1210]
Bí tích
là dấu hiệu hữu hình của một thực tại vô hình trong đó Kitô hữu có thể cảm nghiệm
được Thiên Chúa có mặt ở đó để chữa chạy, tha thứ, nuôi dưỡng, làm cho mạnh sức,
và giúp Kitô hữu sẵn sàng để yêu thương. Tất cả các công việc trên đều do ân sủng
Thiên Chúa tác động.
«
Cái gì ta thấy nơi Đấng Cứu Thế, ta cũng thấy
trong các bí tích. Lêô Cả
(400–461, giáo hoàng và giáo phụ)
173.
Tại sao chúng ta phải cần đến các Bí tích ?
- Chúng ta cần đến các Bí tích để đời sống “eo hẹp ngắn ngủi”
của chúng ta, nhờ Chúa Giêsu, trở nên giống Chúa Giêsu, nên con cái Thiên Chúa,
trong tự do và vinh quang. [1129]
–
Nhờ bí tích Rửa tội con người dễ bị thương tích
do ma quỷ trở thành người con được Thiên Chúa bảo vệ. Nhờ bí tích
Thêm sức, con người đang dò dẫm bước đi, được bước đi vững chắc. Nhờ bí tích
Hòa giải, người có tội được làm hòa. Nhờ bí tích Thánh Thể, những người đói
khát trở nên bánh cho những người khác. Nhờ bí tích Hôn phối cũng như bí tích
Truyền chức thánh, những người độc thân trở thành người phục vụ cho tình yêu.
Nhờ bí tích Xức dầu bệnh nhân, những người đang thất vọng lấy lại được tin tưởng.
Trong tất cả các bí tích, chính Chúa Kitô đích thân là Bí tích. Hễ từ bỏ đời sống
chỉ nghĩ đến mình, chúng ta được lớn lên trong Chúa để sống đời sống đích thật
không bao giờ chấm dứt.
174.
Tại sao tin vào Chúa Giêsu không đủ, Thiên Chúa
còn cho chúng ta các bí tích nữa ?
- Chúng ta cần đến cùng
Chúa không phải chỉ bằng trí tuệ mà còn
bằng cả các giác quan. Vì thế mà Chúa ban mình cho chúng ta qua những dấu hiệu
ta thấy được, nhất là qua bánh và rượu, dầu, các lời nói, việc xức dầu và đặt
tay.
[1084 – 1146 – 1152]
–
Có những người đã trông thấy
Chúa Giêsu, đã nghe Người nói, đã động chạm đến Người và cảm nghiệm thấy sự cứu
độ và chữa lành ngay ở thân xác và tâm hồn họ. Cũng vậy, những dấu hiệu hữu
hình của các bí tích mang chữ ký của Thiên Chúa gửi đến cho con người trong
toàn diện con người của họ chứ không phải chỉ trong trí tuệ mà thôi.
Thật vậy, Đức Kitô đã lấy
thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng ta được sống
và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh
của mình mà kêu gọi chúng ta. Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã
ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó,
anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn
do dục vọng gây ra trong trần gian. 2Pr 1,3-4
Cầm tay người mù, Người
dẫn ra khỏi làng. Sau khi bôi nước miếng vào mắt và trán anh, Người hỏi anh:
“Anh có thấy gì không?” Mc 8,23
175.
Tại sao các Bí tích lại thuộc về quyền Hội
thánh ? Tại sao người ta không thể lãnh như người ta muốn ?
- Các bí tích là quà tặng của Chúa Kitô ban cho Hội thánh. Hội
thánh có nhiệm vụ phân phát và cũng có nhiệm vụ trông coi giữ gìn, để tránh xảy
ra những lạm dụng, xúc phạm. [1117 – 1119 – 1131]
–
Chúa Giêsu đã trao các lời nói và các dấu hiệu
bí tích cho đích thân những con người, ở đây là các Tông đồ, để các ông truyền
lại. Người không trao cho một nhóm người vô danh. Ngày nay, có thể nói là Người
không để di sản của Người được dùng tự do như vào Internet nhưng Người đã chỉ định
ở một nơi rõ rệt. Các bí tích có đó là cho Hội thánh và bởi Hội thánh. Các bí
tích có đó cho Hội thánh bởi vì Hội thánh là Thân thể Chúa Kitô, Hội thánh được
thiết lập, nuôi dưỡng và hướng dẫn tới chỗ hoàn thiện nhờ các bí tích. Các bí
tích có đó bởi Hội thánh, vì các bí tích là những sức mạnh của Thân thể Chúa
Kitô, chẳng hạn bí tích Hòa giải trong đó Chúa Kitô, được đại diện bởi linh mục
để tha tội cho ta.
Thật vậy ai ăn và uống
mà không phân biệt được Thân thể Chúa là ăn và uống án phạt mình. 1Cr 11,29
Vậy chớ gì thiên hạ coi
chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của
Thiên Chúa. 1 Cr 4,1
Ơn riêng Thiên Chúa đã
ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là
những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. 1 Pr
4,10
Tôi đã truyền lại cho
anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận. 1 Cr 15,3
Nhưng Thiên Chúa, Đấng
cứu độ chúng ta đã biểu lộ lòng nhân hậu và yêu thương của Người đối với nhân
loại không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng
vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần,
để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Tt 3, 4-5
176.
Bí tích nào chỉ được lãnh một lần trong đời ?
- Đó là 3 bí tích Rửa tội, Thêm sức, Truyền chức thánh. Những
bí tích này in dấu không thể xóa nhòa vào linh hồn người lãnh. Rửa
tội và Thêm sức làm ta nên con Chúa và nên giống Chúa Kitô một lần là đủ.
Truyền chức thánh để lại dấu ấn không thể xóa nhòa nơi người nhận lãnh. [1121]
–
Cũng như ta đã là con cái của cha mẹ thì là mãi
mãi chứ không phải chỉ đôi khi hoặc một chút thôi, cũng thế khi được Rửa tội và
Thêm sức, ta là người con của Chúa mãi mãi giống như Chúa Kitô và là chi thể của
Hội thánh Người. Trường hợp bí tích Truyền chức thánh cũng vậy, đó không phải
là công việc ta làm cho đến khi nghỉ hưu, mà đó là một ân sủng ta lãnh nhận
không thể hủy bỏ được. Vì Thiên Chúa là Đấng trung tín, nên hiệu quả các bí
tích mà Kitô hữu đã lãnh nhận như để đáp lại ơn Chúa mời gọi, như là ơn gọi, và
như ơn gìn giữ của Chúa. Vì thế, chỉ được lãnh các bí tích này một lần mà thôi
177.
Tại sao khi nhận lãnh bí tích, cần có lòng tin
trước ?
- Vì bí tích không phải là ảo thuật. Bí tích chỉ sinh hiệu
quả khi người ta hiểu biết và lãnh nhận với đức tin. Các bí tích không chỉ đòi
có đức tin mà nó còn gia tăng và diễn tả đức tin nữa. [1122 – 1126]
–
Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ bằng việc rao giảng Tin Mừng, làm phép Rửa cho họ,
nghĩa là trước hết khơi dậy đức tin cho họ rồi sau mới rửa tội. Như thế chúng
ta nhận 2 điều từ Hội thánh: đức tin và bí tích. Ngày nay, người ta không trở
thành Kitô hữu bằng cách chỉ nhận một lễ nghi hoặc chỉ ghi tên vào sổ, nhưng là
bằng đón nhận đức tin chân thật. Chúng ta nhận được đức tin chân chính này từ Hội
thánh. Hội thánh lo bảo đảm đức tin đó. Bởi vì đức tin của Hội thánh được diễn
tả trong phụng vụ, nên không một nghi lễ bí tích nào được thay đổi hoặc làm
khác đi theo sở thích của một người hay của một cộng đoàn nào.
«
Cũng như một cây nến được thắp sáng nhờ lửa của
cây nến khác, thì đức tin cũng được thắp sáng nhờ đức tin. Romano Guardini
178.
Nếu bí tích được người không xứng đáng cử hành,
bí tích có mất đi hiệu quả không?
- Không. Các bí tích có
hiệu quả khi hành động được hoàn tất, nghĩa là hiệu quả của bí tích không tùy
vào bản thân người làm, vì chính Chúa Kitô hoạt động trong các bí tích. Tuy
nhiên các bí tích chỉ có hiệu quả khi người làm có ý muốn làm như Hội thánh
làm. [1127 – 1128 – 1131]
–
Những ai cử hành các Bí tích phải sống đời sống
gương mẫu. Các bí tích có tác động không phải do sự thánh thiện của người cử
hành nhưng do chính Chúa Kitô hoạt động trong họ. Tuy nhiên, Người vẫn tôn trọng
tự do cả ta khi ta lãnh nhận bí tích. Vì thế các bí tích chỉ tác động một cách
tích cực nếu ta cộng tác với Chúa Kitô.
Chương 2.
Chúng ta cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô thế nào ?
179.
Ai cử hành phụng vụ ?
- Trong các phụng
vụ cử hành ở đời này, chính Chúa Kitô là Đấng cử hành phụng vụ, bao gồm các
thiên thần và con người (còn sống, đã chết), quá khứ, hiện tại, tương lai, cả
trời và đất. Đây quả là một phụng vụ có tầm cỡ vũ trụ. Linh mục và các tín hữu
tham dự theo cách khác nhau.
[1136 – 1139]
–
Khi cử hành, chúng ta phải sửa soạn tâm hồn cho
biến cố lớn lao đang được thực hiện: ngay ở đây và bây giờ Chúa Kitô đang có mặt,
và cùng với Người cả thiên đàng. Trên đó mọi người tràn đầy niềm vui khôn tả và
niềm yêu thương ân cần đối với chúng ta. Cuốn sách cuối cùng của Kinh Thánh là
Khải Huyền diễn tả bằng những hình ảnh mầu nhiệm về phụng vụ thiên quốc đó mà
chúng ta ở trên trần gian đang kết hiệp với. à 170
«
Phụng vụ là việc đi vào phụng
vụ đang diễn ra thường trực trên trời… không phải như là con người khi nghĩ đến
một chuyện gì rồi hát lên; tiếng hát đến tai con người từ các thiên thần. Hồng Y Ratzinger, Bài ca mới cho
Thiên Chúa
«
Vì thế, cùng với các thiên thần và các thánh,
chúng con tung hô vinh quang Chúa và chung một tiếng hát rằng: Thánh, Thánh,
Thánh, Chúa là Thiên Chúa vũ trụ. Trời đất đầy vinh quang Chúa… Kinh tiền tụng
180.
Tại sao phụng vụ được coi như là công trình của
Thiên Chúa ?
- Công trình của Thiên Chúa
trước hết là công trình mà Thiên Chúa thực hiện cho chúng ta, sau đó mới là
công trình chúng ta dâng lên Thiên Chúa. Chúa ban mình cho ta dưới hình thức
các dấu hiệu thánh, để chúng ta cũng làm như Chúa đã làm, là hiến trọn mình cho
Người. [1145-1192]
–
Chúa Giêsu có mặt trong Lời Người và trong Bí
tích. Thiên Chúa có mặt! Đó là điểm quan trọng trước hết và trên hết trong toàn
bộ cuộc cử hành Thánh Thể. Sau đó mới đến chúng ta. Chúa Giêsu hiến mình cho ta
để ta dâng cho Người hiến tế thiêng liêng của đời ta. Trong bí tích Thánh Thể,
Chúa Kitô hiến mình cho ta để ta hiến mình ta cho Người. Ta đưa cho Người như
thể là một tấm séc để trống về cuộc đời ta. Như thế ta tham dự vào hy tế của
Chúa Kitô, Đấng cứu độ và biến đổi ta. Đời sống ta ở trên trần được phóng chiếu
lên Nước Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể sống đời sống Người trong cuộc sống của
ta.
Kẻ trộm chỉ đến để ăn
trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào. Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho
đoàn chiên. Ga 10,10-11
Ai muốn làm đầu anh em
thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục
vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người. Mc
10,44-45
181.
Tại sao có quá nhiều dấu hiệu và biểu tượng
trong phụng vụ ?
- Thiên Chúa biết chúng ta không những là con người có tinh
thần mà còn có thể xác nữa; vì thế chúng ta cần dấu hiệu và biểu tượng để thấu
hiểu và diễn tả các thực tại thiêng liêng hay thâm sâu trong lòng. [1145 –
1152]
–
Chúng ta luôn dùng những dấu hiệu để diễn tả những
tâm tình thâm sâu giúp chúng ta hiểu nhau: những bông hồng, những hình vẽ … Thiên
Chúa đã làm người cũng dùng những dấu hiệu của loài người để sinh sống và hành
động giữa chúng ta: bánh và rượu, nước rửa tội, dầu của Thánh Thần. Còn chúng
ta đáp lại các dấu hiệu thánh của Thiên Chúa bằng các dấu hiệu như cung kính,
quì gối, đứng để nghe Lời Chúa, cúi mình, chắp tay. Trong lễ cưới chúng ta
trang trí nơi Chúa hiện diện bằng những gì đẹp nhất: hoa, đèn, nhạc. Tuy nhiên
cũng cần giải thích ý nghĩa của các dấu hiệu đó.
«
Các biểu tượng diễn tả bằng ngôn ngữ hữu hình những
gì là vô hình. Gertrud Von Le Fort
«
Tôi dám chắc rằng ngôn ngữ biểu tượng phải là
ngôn ngữ xa lạ duy nhất mà mỗi người chúng ta phải học cho biết. Eric Fromm (1900 – 1980, nhà tâm lý)
182.
Tại sao các dấu hiệu thánh của phụng vụ cũng
cần có những lời nói nữa ?
- Cử hành phụng vụ có
nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa, để cho Người hành động, để nghe Người nói và đáp
lời Người. Giống như các cuộc đối thoại luôn cần diễn tả bằng lời nói và
cử chỉ. [1153 – 1155]
–
Chúa Giêsu đã nói với loài người bằng các dấu
hiệu và lời nói. Hội thánh cũng làm như thế khi linh mục dâng lễ vật và nói: “Đây là Mình Thầy … Đây là Máu Thầy”. Lời
này của Chúa Giêsu làm cho các dấu hiệu trở thành bí tích: dấu hiệu thực hiện
cái mà nó có ý chỉ.
Các thiên thần cùng
nhau ca lên: “Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy
vinh quang Chúa” Is 6,3
183.
Tại sao trong phụng vụ còn có âm nhạc. Loại
nhạc nào thích hợp với phụng vụ ?
- Khi lời không đủ ca ngợi Thiên Chúa, cần âm nhạc trợ giúp
chúng ta. [1156 – 1158, 1191]
–
Khi ta hướng về Thiên Chúa, ta thường không biết
nói gì, hoặc không biết diễn tả làm sao. Lúc đó âm nhạc có thể giúp ta. Trong
khi vui sướng hớn hở, lời nói thường biến thành ca hát – do đó mà có ca hát của
các thiên thần. Trong cử hành đạo đức, âm nhạc phải làm cho lời cầu nguyện tốt
đẹp hơn, đi vào chiều sâu hơn, đánh động trái tim người tham dự, hướng họ lên tới
Chúa, và sửa soạn một lễ nhạc cho Chúa.
Hãy cùng nhau đối đáp
những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả
tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Ep 5,19
«
Ca hát là cầu nguyện
hai lần. Thánh Augustinô
184.
Phụng vụ tác động đến thời gian như thế nào ?
Trong phụng vụ, thời gian trở thành thời giờ
dâng cho Chúa.
–
Có lúc ta coi thường
thời gian, chỉ kiếm thời giờ để tiêu khiển. Còn trong phụng vụ, thời gian có một
giá trị thực sự vì mỗi giây đều tràn đầy ý nghĩa. Khi cử hành phụng vụ giờ
kinh, ta thấy Chúa thánh hóa thời gian và làm cho mỗi giây trở thành một cầu nhỏ
dẫn ta vào cõi vĩnh hằng.
Anh em hãy tận dụng thời
gian hiện tại. Ep 5,16
«
Sự vĩnh hằng của Thiên Chúa không phải chỉ là vắng
mặt thời gian hay không có thời gian, nhưng là sức mạnh làm cho thời gian phát
triển thành hiện-hữu-với-thời-gian và hiện-hữu-trong-thời-gian. Đức Hồng Y Ratzinger, Tinh thần phụng vụ
185.
Tại sao phụng vụ lặp lại hàng năm ?
- Như việc người ta mừng ngày sinh hay ngày cưới hàng năm, phụng vụ
cũng cử hành những biến cố rất quan trọng của lịch sử cứu độ được lặp lại hàng
năm. Nhưng có một khác biệt quan trọng là mỗi thời đại như thời đại ta bây giờ
đều là thời gian của Chúa. Những tưởng nhớ đến sứ điệp và cuộc đời Chúa Giêsu
đều là những gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống trong thời sự của chúng ta.
[1163 – 1165, 1194 – 1194]
– Triết gia người Đan Mạch Kierkegaard
có nói: “Hoặc ta coi mình như sống đồng thời với Chúa Giêsu, hoặc ta có thể để
tất cả chìm vào dĩ vãng”. Sống Năm Phụng vụ theo đức tin làm cho ta trở nên người
đồng thời với Chúa Giêsu. Không phải vì ta có thể dùng tư tưởng để đi vào thời
của Người, đi vào đời sống của Người; nhưng bởi vì nếu ta dành chỗ cho Người,
thì chính Người đi vào thời của ta và đi vào đời sống ta, nhờ sự có mặt của Người
để chữa lành và tha thứ, nhờ sức mạnh phi thường của sự sống lại của Người.
186. Năm Phụng vụ của Hội Thánh là gì ?
- Năm Phụng vụ hay Năm của Hội thánh cử hành mừng kính mầu nhiệm đời
sống Chúa Kitô, từ việc Nhập thể tới việc trở lại lần thứ hai trong vinh quang,
trong thời gian một năm. Năm Phụng vụ bắt đầu từ mùa Vọng, thời gian chờ đợi
Chúa Cứu Thế, cao điểm thứ nhất là Lễ Giáng sinh. Sau đó, hướng về cao điểm thứ
hai quan trọng hơn là lễ Phục sinh, cử hành cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa.
Mùa Phục sinh kéo dài và kết thúc với lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trong năm
Phụng vụ còn cử hành các lễ kính Đức Mẹ, kính các thánh, qua đó Hội thánh ca
ngợi Thiên Chúa đã đem loài người tới ơn cứu độ. Năm Phụng vụ kết thúc vào Chúa
nhật lễ Chúa Giêsu làm Vua.
[1168 – 1173, 1194 – 1195]
« Năm Phụng vụ nhắc nhở và trình bày luôn đổi mới không ngừng
về đời sống Chúa Kitô, đó là một công trình vĩ đại của nhân loại. Thiên Chúa
coi năm ấy như của mình và ban nó cho ta hết năm này qua năm khác, hiến tặng ta
trong một ánh sáng luôn mới mẻ như là mới đến với ta lần đầu. Jochen Klepper (1903 – 1942,
văn sĩ Đức).
187. Ngày Chúa nhật quan trọng thế nào ?
- Chúa nhật là tâm điểm của thời giờ Kitô giáo, vì trong ngày Chúa
nhật, chúng ta cử hành sự Sống lại của Chúa Kitô và mỗi Chúa nhật là một lễ
Phục sinh thu gọn.
[1163–1167, 1193]
–
Nếu không tôn trọng
Chúa nhật như ngày của Chúa, hay nếu loại bỏ Chúa nhật đi thì tuần lễ chỉ gồm
toàn những ngày phải đi làm. Con người được tạo dựng để sống vui, sẽ trở nên
như thân trâu ngựa và như một người điên rồ chỉ biết tiêu thụ. Chúng ta phải học
cách sống trên trái đất này như sống ngày lễ, nếu không chúng ta sẽ chẳng biết
làm gì ở trên trời. Vì ở trên trời là Chúa nhật đời đời. → 104 – 107
188.
Phụng vụ Các Giờ kinh (PVCGK) là gì ?
- PVCGK là việc cầu
nguyện chính thức và công cộng của Hội thánh. Những bài Kinh Thánh đưa người cầu nguyện giờ kinh vào
trung tâm của mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu Kitô. Trên khắp thế giới, cứ mỗi
giờ trong ngày, Phụng vụ giờ kinh khẩn cầu Chúa Ba Ngôi ban ơn biến đổi cho
người cầu nguyện, và biến đổi toàn thế giới nữa. Phụng vụ giờ kinh không chỉ
dành cho các linh mục và tu sĩ. Nhiều Kitô hữu có đức tin mạnh mẽ đã dấn thân
kết hiệp với ngàn vạn người cùng cầu khẩn Thiên Chúa từ khắp nơi trên thế giới. [1174 – 1178, 1196]
–
Đối với Hội thánh,
bẩy giờ kinh như là một kho kinh nguyện cởi trói cho miệng lưỡi ta, cho dù niềm
vui, nỗi lo hay nỗi sợ làm câm miệng chúng ta. Khi đọc Phụng vụ giờ kinh ta cảm
thấy ngạc nhiên của ta không ngừng đổi mới: một câu, một đoạn như tình cờ phù hợp
đúng với tình trạng của chúng ta. Thiên Chúa nghe khi ta gọi Người. Người trả lời
chúng ta trong bản văn, đôi khi trả lời một cách cụ thể lạ thường. Nhưng Người
cũng để cho có những lúc im lặng và khô khan như là để chờ đợi chúng ta trung
thành. à 473, 492
Bảy lần trong ngày, tôi
ca tụng Chúa vì những phán quyết công minh của Người. Tv
119,164
(Trước đây Hội thánh có 7 giờ, nay bỏ giờ thứ nhất còn sáu
giờ kinh phụng vụ chính thức là: Kinh sáng - Kinh giờ 3 (9 giờ)- Kinh giờ
6 (12 giờ) - Kinh giờ 9 (15giờ) - Kinh chiều -Kinh tối)
189.
Phụng vụ có cần đến những nơi chốn để cử hành
phụng vụ không ?
- Qua chiến thắng nhờ Phục sinh, Chúa Kitô đã có mặt ở khắp mọi nơi
trên thế giới. Việc thờ phượng Thiên Chúa "trong tinh thần và sự thật" (Ga 4,24), không còn bị ràng buộc
vào một nơi thờ riêng biệt nào, vì Chúa Kitô chính là đền thờ thật của Thiên
Chúa. Tuy nhiên trong thế giới Công giáo đã có rất nhiều thánh đường và các nơi
thánh, vì con người cần những nơi riêng biệt đó để gặp nhau và những nơi thánh
nhắc nhớ họ về thực tại mới này (là thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và sự
thật). Mỗi nhà thờ của Thiên Chúa đều là biểu tượng Nhà Cha chúng ta ở trên
Trời, mà chúng ta đang hành hương tiến về nơi đó.
[1179 – 1181, 1197 – 1198]
–
Thực ra ta có thể cầu
nguyện khắp nơi – trong rừng, ngoài biển, trên giường. Nhưng chúng ta không phải
là tinh thần thuần túy. Vì là con người, chúng ta có xác, cần phải nhìn nhau
nghe nhau, cảm thấy sự có mặt của nhau, chúng ta cần một nơi cụ thể để gặp
nhau, để là “Thân thể Chúa Kitô”. Chúng ta phải quỳ gối để thờ phượng Chúa;
chúng ta phải ăn bánh đã được truyền phép; chúng ta phải lên đường với thân xác
của mình khi Người mời gọi. Và, bên lề đường một cây thánh giá sẽ nhắc nhở ta:
thế giới thuộc về ai và chúng ta lên đường đến với ai.
190. Nhà thờ của Kitô hữu có ý nghĩa gì ?
- Nhà thờ của Kitô hữu là biểu tượng của một cộng đoàn, ở một địa phương và
đó cũng là biểu tượng của Nhà trên trời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.
Trong nhà thờ, chúng ta tụ họp nhau để cầu nguyện chung hay riêng, và cử hành
các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.
[1179 – 1186, 1197 – 1199]
–
“Ở đây người ta cảm
thấy như ở thiên đường” – “Ở đây người ta im lặng, người ta kính trọng”. Nhiều
nhà thờ đánh động chúng ta thực sự bởi bầu khí cầu nguyện sâu sắc của chúng. Vẻ
đẹp của nhà thờ làm ta nghĩ đến sự đẹp, sự cao cả và tình yêu của Thiên Chúa. Nhà
thờ không phải chỉ là những đền đài bằng đá, những sứ giả đức tin. Nhà thờ cũng
là nhà của Chúa, nơi Chúa có mặt thực sự trong bí tích Thánh Thể.
«
Nhà thờ là nơi của Chúa mà ta đến để tìm và gặp Chúa. Nhà thờ làm cho tính
cách nơi ở của thế giới được tôn lên cao. Cũng như danh tiếng của thành phố và
làng xã của chúng ta được tôn lên cao nhờ các nhà thờ - thành phố Cologne sẽ
như thế nào nếu không có Vương cung thánh đường ? Như vậy tính cách là nơi ở của
thế giới chúng ta cũng được tôn lên cao nhờ sự có mặt của Thiên Chúa. Hồng Y Joachim Meisner (1933-, Tổng
Giám mục
«
Thiên Chúa đã đặt nhà thờ
như bến đậu tại các bờ biển, để bạn ẩn vào đó, tránh những náo động và âu lo thế
gian, vào đó bạn gặp được an toàn và thinh lặng. Thánh Gioan Chrysostom
191.
Trong Nhà thờ nơi nào chiếm ưu tiên ?
- Nơi chiếm ưu
tiên là bàn thờ với tượng Chúa chịu nạn, nhà Tạm, ghế chủ tế, giảng đài, giếng
Rửa tội, tòa Giải tội.
[1182 – 1188]
–
Bàn thờ là tâm điểm của nhà thờ.
Trên bàn thờ hiến tế của thập giá và sống lại của Chúa Giêsu Kitô được hiện tại
hóa trong khi cử hành Thánh Thể. Bàn thờ cũng là bàn mà dân Chúa được mời đến. Nhà
tạm là một thứ kho thánh thiêng, được đặt trong nhà thờ ở một nơi xứng đáng
và dễ thấy nhất, Nhà tạm chứa đựng bánh Thánh Thể trong đó chính Chúa hiện diện
thật sự. Đèn chầu có ý chỉ rằng Nhà tạm “có Người ở”. Nếu đèn chầu không
sáng, đó là Nhà tạm trống không. Ghế chủ tọa của Giám mục hay Linh mục
có ý chỉ là Chúa Kitô thực sự chủ tọa trong cộng đoàn. Giảng đài để công
bố Lời Chúa phải làm cho nổi bật giá trị và phẩm cách của các bài đọc Kinh
Thánh như là Lời của Thiên Chúa hằng sống. Giếng Rửa tội để cử hành bí
tích Rửa tội, và bình nước thánh mời gọi ta luôn tỉnh thức giữ lời cam kết khi
được rửa tội. Tòa Giải tội hoặc nơi nào thích hợp với bí tích Giao hòa
giúp ta thú nhận tội lỗi và lãnh nhận ơn tha thứ.
192.
Hội Thánh có thể thay đổi
và canh tân phụng vụ không ?
- Trong phụng vụ, có những phần có thể đổi và những phần
không thể đổi. Phần không thể đổi là phần có nguồn gốc thần linh, ví dụ: những
Lời của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc ly. Phần có thể đổi là phần Hội thánh thêm
vào, phần này cần đổi theo thời gian. Như vậy, mầu nhiệm Chúa Kitô phải được
công bố, cử hành, và đem ra sống ở mọi nơi mọi lúc. Phụng vụ phải phù hợp với
tinh thần và văn hóa của mỗi dân tộc. [1200 – 1204]
–
Chúa Giêsu đã tiếp xúc với con người toàn diện
bao gồm tinh thần, trí tuệ, trái tim và ý chí. Và hôm nay Chúa vẫn còn muốn như
thế trong phụng vụ. Vì thế Phụng vụ được trình bày dưới nhiều nét khác nhau ở
Phi châu và ở Âu châu …, trong nhà nguyện nhỏ hoặc dịp đại hội giới trẻ thế giới.
Phụng vụ ở các xứ đạo có bộ mặt khác với ở các tu viện. Nhưng luôn luôn mọi người
mọi nơi phải nhận ra được ở trong phụng vụ của mình phụng vụ của Hội thánh phổ
quát
«
Khi suy nghĩ về phụng vụ,
mà ta chỉ nghĩ đến việc làm sao cho đẹp, hấp dẫn, lý thú, thì phụng vụ đã mất bản
chất rồi. Hoặc phụng vụ là công việc của Thiên Chúa có Chúa như chủ thể thực sự,
hoặc phụng vụ chẳng là gì cả. Đức Bênêđictô XVI, 9-9-2007
193.
Có một liên kết hữu cơ giữa các bí tích không ?
- Các bí tích đều là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng chính là nguồn
gốc các bí tích. Người ta phân biệt: có những bí tích khai tâm dẫn đưa vào
đức tin, đó là bí tích Rửa tội, Thêm sức, Thánh thể; có những bí tích chữa
lành, đó là bí tích Giải tội, Xức dầu bệnh nhân; có những bí tích phục vụ cho
sự hiệp thông và sứ vụ, đó là bí tích Hôn phối và Truyền chức thánh. [1210 –
1211]
–
Bí tích Rửa tội liên kết ta với Chúa Kitô. Bí
tích Thêm sức ban cho ta Thánh Thần của Người. Bí tích Thánh thể hiệp nhất ta với
Người. Bí tích Giao hòa giúp ta làm hòa với Chúa Kitô. Bí tích Xức dầu bệnh
nhân Chúa Kitô dùng để chữa lành, ban sức mạnh, an ủi. Nhờ bí tích Hôn phối
Chúa Kitô ban tình yêu Người cho tình yêu ta, và ban sự trung tín của Người cho
ta. Nhờ bí tích Truyền chức thánh, các linh mục nhận lấy trách nhiệm hướng dẫn
các Kitô hữu, nhận lấy quyền tha tội và cử hành Thánh lễ.
Khai tâm có nghĩa là dẫn vào,
là cho một người gia nhập vào một cộng đoàn nhờ Thánh Thần của Chúa Kitô.
Chương 1.
Các bí tích khai tâm
1. Bí
tích Rửa tội
194.
Bí tích Rửa tội là gì ?
- Bí tích Rửa tội
là nền móng cho tất cả đời sống Kitô hữu, vì bí tích đó là cửa dẫn vào Hội thánh.
Nhờ bí tích Rửa tội, ta được giải thoát khỏi tội lỗi, được trở thành chi thể
của Chúa Kitô, và được hiệp thông với Thiên Chúa.
[1213 – 1216, 1276 – 1278]
–
Bí tích Rửa tội là bí tích làm nền móng, ta phải
lãnh nhận trước các bí tích khác. Bí tích này kết hợp ta với Chúa Kitô, dìm ta
vào cái chết cứu độ trên thập giá và nhờ đó giải thoát ta khỏi quyền lực tội lỗi,
làm cho ta được tái sinh trong Đức Kitô để sống vĩnh hằng. Vì bí tích Rửa tội
là một giao ước với Thiên Chúa, nên người được rửa tội cần phải tỏ ý chấp nhận
và nói “đồng ý”. à 197
Cho nên, phàm ai ở
trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 2 Cr
5,17
Chỉ có một Chúa, một đức
tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người. Ep 4,5-6
Vậy anh em hãy đi và
làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Mt 28,19-20
Đêm sắp tàn, ngày gần đến.
Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng
để chiến đấu. Chúng ta hãy sống cho đứng đắn như người đang sống giữa ban
ngày, không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen
tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính
xác thịt mà thoả mãn các dục vọng. Rm 13,12-14
«
Nhờ bí tích Rửa tội, mỗi trẻ em như được đón nhận
vào một câu lạc bộ tình bạn không thể nào tan rã dù khi em còn sống hay khi đã
chết… Câu lạc bộ ái hữu này là gia đình của Thiên Chúa mà trẻ em được làm thành
viên, nó luôn luôn theo bên em dù trong lúc đau khổ, trong những đêm đen của cuộc
đời. Thiên Chúa sẽ mang đến ủi an, nâng đỡ và ánh sáng. Đức
Bênêđictô XVI, 8-1-2006
195.
Bí tích Rửa tội được cử hành thế nào ?
- Theo hình thức xưa: người rửa tội dìm người lãnh xuống nước 3
lần. Nhưng ngày nay, thường là người rửa tội đổ chút nước trên đầu 3 lần, trong
khi đó, đọc công thức: "(Tôi) rửa con, (ông, bà, anh, chị, em) NHÂN DANH
CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN". [1229 – 1245, 1278]
–
Nước có ý chỉ việc thanh tẩy và đời sống mới,
điều này đã có trong phép rửa sám hối của Gioan Tẩy giả. Việc rửa bằng nước
“nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” còn hơn là một dấu hiệu ăn năn đền tội và
trở lại, đó là một cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Do đó mà có các dấu hiệu phụ
thêm là xức dầu, mặc áo trắng và nến Phục sinh.
196.
Ai có thể được rửa tội, và người được rửa tội
cần điều gì?
- Bất cứ ai chưa được rửa tội, họ có thể được rửa. Điều cần duy
nhất nơi người được rửa tội là đức tin, họ phải tuyên xưng công khai khi
lãnh bí tích Rửa tội. [1246 – 1254]
–
Người đã theo Kitô giáo không phải chỉ thay đổi
cách nhìn về thế giới, họ cam kết đi vào con đường khai tâm (khóa dự tòng) để
trở nên một người mới nhờ ơn bí tích Rửa tội, và nhờ việc bản thân họ trở lại.
Nhờ thế họ là chi thể sống động của thân thể Chúa Kitô.
Khóa dự tòng. Trong Hội thánh sơ khởi những
người lớn muốn được Rửa tội (dự tòng) được sửa soạn trong 3 giai đoạn, trong
khóa dự tòng này họ được khai tâm về đức tin và tham dự dần dần vào việc cử
hành Lời Chúa, cho đến khi họ được nhận lãnh bí tích Thánh Thể.
«
Quà tặng mà các em mới sinh ra đã nhận được phải
giúp cho các em đảm nhận lấy để sau này khi lớn lên các em sử dụng một cách tự
ý và có trách nhiệm. Tiến trình lớn lên này sẽ dẫn các em tới lãnh nhận bí tích
Thêm sức để hoàn thành bí tích Rửa tội và để mỗi em được lãnh nhận ấn tín của
Chúa Thánh Thần. Đức Bênêđictô XVI,
8-1-2006
197.
Tại sao Hội thánh lại rửa tội con nít ?
- Từ rất xa xưa, Hội thánh đã thực hành việc rửa tội con nít
vì một lý do là: trước khi chúng ta quyết định theo Chúa, thì Chúa đã quyết
định chọn ta rồi. Hội thánh muốn chứng tỏ bí tích Rửa tội là một ơn phúc, là
món quà, Chúa đón nhận ta không điều kiện. Cha mẹ con nít là những người muốn
điều tốt nhất cho con cái họ, cũng muốn chúng được rửa tội, để chúng được thoát
khỏi ảnh hưởng tội Tổ tông và quyền lực sự chết. [1250 – 1282]
–
Cho con cái được rửa tội đòi phải khai tâm vào
đức tin cho nó. Có người lấy lý do sai lầm là để nó tự do chọn, nên đã hoãn
không cho nó được rửa tội, đó là một bất công. Cũng như người ta không thể hoãn
lại tình yêu chăm lo đối với con cái để chờ sau này khi nó chọn lựa. Thật là một
bất công nếu cha mẹ Kitô giáo cũng hoãn lại không cho con được hưởng ơn thánh
trong bí tích Rửa tội. Cũng như ai sinh ra đều có khả năng nói, nhưng họ phải học
để nói, cũng như ai sinh ra đều có khả năng tin, nhưng họ phải học để tin.
Không thể bó buộc ai phải nhận lãnh bí tích Rửa tội. Ai đã nhận bí tích Rửa tội
khi còn bé bỏng thì sau này phải “xác nhận” việc đó trong đời sống mình, nghĩa
là phải đồng ý cho việc rửa tội sinh hoa kết quả.
198.
Ai được làm phép Rửa tội ?
- Thông thường: giám mục, linh mục, phó tế làm phép Rửa tội.
Nhưng trong trường hợp khẩn cấp, bất cứ Kitô hữu nào cũng có thể làm phép Rửa
tội, bằng cách đổ nước trên đầu người lãnh và đọc rằng: " Tên ...,
TÔI RỬA con, (ông, bà, anh, chị, em) NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN". [1256 – 1284]
–
Bí tích Rửa tội rất quan trọng đến nỗi dù không
phải là Kitô hữu cũng có thể làm, miễn là cố ý làm điều Hội thánh làm khi rửa tội.
199.
Bí tích Rửa tội có phải là cách duy nhất để
được cứu rỗi không ?
- Đối với những ai đã đón nhận Tin Mừng và đã biết Lời Chúa
Giêsu dạy: "Thầy là Con Đường, là Sự
Thật, và là Sự Sống" (Ga 14,6), bí tích Rửa tội là con đường duy nhất
cho họ đến cùng Thiên Chúa để được cứu độ. Nhưng vì Chúa Kitô đã chết cho mọi
người, và mọi người đều được mời gọi để được cứu độ nên dù một người không có
cơ hội học biết về Chúa Kitô và đức tin, mà họ tìm Chúa cách chân thành và
sống theo lương tâm mình, họ cũng gặp ơn cứu độ. Họ được rửa tội bằng lòng
muốn. [1257 – 1261, 1281, 1283]
–
Thiên Chúa đã liên kết việc cứu rỗi với các bí
tích. Vì thế Hội thánh phải không ngừng trao ban cho nhân loại. Từ chối sứ mệnh
này là phản bội lệnh truyền của Chúa. Nhưng chính Chúa không bị trói buộc vào
các bí tích của Người. Nơi nào Hội thánh chưa đến được, hoặc không làm được –
dù do lỗi của Hội thánh hoặc vì các lý do khác – chính Chúa mở ra cho con ngưởi
một đường khác để được cứu rỗi. → 136
200.
Điều gì xảy ra khi lãnh bí tích Rửa tội ?
- Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên chi thể của thân
thể Chúa Kitô, anh chị em của Đấng Cứu chuộc, con cái Thiên Chúa. Chúng ta
được giải thoát khỏi tội lỗi, thoát khỏi sự chết, được lãnh số phận sống vui
trong Đấng Cứu chuộc ta. [1262 – 1274, 1279 – 1280]
–
Được rửa tội có nghĩa là lịch sử đời tôi được
chìm đắm trong dòng chảy tình yêu của Chúa. Đức Bênêđictô XVI nói: “đời tôi thuộc
về Chúa Kitô chứ không còn thuộc về tôi nữa… Được Chúa tháp tùng, vâng, được
Chúa đón nhận vào tình yêu của Người, tôi được thoát khỏi sợ hãi. Chúa bao bọc
tôi và mang tôi đi tất cả nơi nào tôi đi, Người là chính sự sống”.→ 126
Vì được dìm vào trong
cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như
Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì
chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Rm 6,4
Đấng muốn cho mọi người
được cứu độ và nhận biết chân lý. 1 Tm 2,4
Đức Giêsu đáp: “Thật,
tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước
và Thần Khí” Ga 3,5.
Chúng ta có sống là sống
cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn
thuộc về Chúa. Rm 14,8
Thật thế, tất cả chúng
ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép Rửa
trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy
tràn một Thần Khí duy nhất. 1 Cr 12,13
Vậy đã là con, thì cũng
là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức
Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh
quang với Người. Rm 8,17
201.
Khi lãnh bí tích Rửa tội, người ta nhận một
tên, điều này có ý nghĩa gì ?
- Qua tên ta nhận khi lãnh bí tích
Rửa tội, Thiên Chúa như nói với ta: "Ta
đã gọi tên con, con thuộc về Ta" (Is 43, 1). [2156 – 2159, 2165 – 2167]
–
Khi được rửa tội, con người không bị tan biến
trong một khối vô danh, trái lại nhân cách của họ được xác nhận. Nhận một tên
khi được rửa tội có nghĩa là: Chúa biết ta, Người nói với ta, “tốt”, “được” và
đón nhận ta đời đời với tất cả nét đặc thù của ta. → 361
«
Tôi được mời gọi để làm hoặc để là
cái mà không ai khác được mời gọi. Trên trái đất của Chúa, tôi có một chỗ trong
chương trình của Chúa mà không ai có như vậy. Dù tôi giàu hay nghèo, bị khinh dể
hay được trọng vọng bởi người đời, Chúa biết tôi và gọi tôi bằng chính tên tôi.
Hồng y John Henry Newman
202.
Tại sao Kitô hữu chọn tên thánh khi Rửa tội ?
- Vì không có gương mẫu nào và không có sự giúp đỡ nào tốt hơn
là của các thánh. Nếu ta có vị thánh làm bổn mạng, đó là ta có một người bạn
bên Chúa. [2156 – 2159, 2165]
2. Bí
tích Thêm sức
203.
Bí tích Thêm sức là gì ?
- Thêm sức là bí
tích hoàn tất bí tích Rửa tội. Nhờ Thêm sức, Đức Chúa Thánh Thần ban ơn
xuống cho ta. Bất cứ ai tự ý quyết định sống như con cái Chúa và xin ơn Thánh
Thần xuống qua sự đặt tay và xức dầu thánh sẽ nhận được sức mạnh để làm chứng
nhân cho tình yêu Chúa trong lời nói và việc làm. Nhờ đó họ trở nên phần tử đã
cam kết và có trách nhiệm đầy đủ của Hội thánh Công giáo.
[1285 – 1314]
–
Khi một huấn luyện viên cho một cầu thủ nào vào
trong sân, ông đặt tay trên vai và chỉ dẫn mấy lời. Điều này giúp ta có thể hiểu
được bí tích Thêm sức: Có việc đặt tay, có việc đi vào trường đời. Nhờ Chúa
Thánh Thần ta biết ta phải làm gì. Người động viên toàn bộ con người chúng ta
và điều người đòi hỏi vang lên trong tai ta. Ta cảm thấy sự giúp đỡ của Người.
Ta không làm Người mất tin tưởng và sẽ làm cho trận đấu có lợi cho Người. Chỉ cần
ta muốn, và ta lắng nghe Người. → 119 – 120
Bí tích Thêm sức: Cùng với bí tích Rửa
tội và bí tích Thánh Thể, bí tích Thêm sức hợp thành “bộ ba bí tích khai tâm
vào Kitô giáo”. Như Chúa Thánh Thần đã hiện xuống vào lễ Ngũ tuần trên các tông
đồ đang tập hợp, Người cũng hiện xuống với mọi người đã được rửa tội đang xin Hội
thánh ơn Chúa Thánh Thần. Bí tích Thêm sức củng cố họ và tăng sức để họ làm chứng
cho Chúa Kitô.
Dầu Thánh là dầu ôliu hợp với nhựa thơm. Đức Giám
mục thánh hiến trong lễ Dầu của Tuần thánh để dùng trong bí tích Rửa tội, Thêm
sức, Truyền chức Linh mục và Truyền chức Giám mục, trong lễ thánh hiến bàn thờ
và chuông. Dầu tượng trưng cho niềm vui, sức mạnh và sức khỏe. Những ai được xức
dầu thánh phải làm cho hương thơm của Chúa Kitô tỏa lan. 2 Cr 2, 15
204.
Kinh Thánh nói gì về bí tích Thêm sức?
- Trong Cựu ước người ta chờ mong Thánh
Thần xuống trên Đấng Messia. Chúa Giêsu đã sống cuộc đời trong Thánh Thần với
tình yêu và hiệp thông hoàn hảo với Cha trên trời. Thánh Thần Chúa Giêsu là
Thánh Thần người dân Israel mong đợi, cũng chính là Thánh Thần Chúa Giêsu đã
hứa cho các môn đệ của Người, là Thánh Thần đã xuống trên các môn đệ vào ngày
lễ Ngũ tuần (50) sau lễ Phục sinh. Và cũng là Thánh Thần của Chúa Giêsu xuống
trên những người lãnh bí tích Thêm sức. [1285 – 1288, 1315]
–
Trong sách Công vụ tông đồ, viết khoảng vài thập
niên sau Chúa Giêsu chết, ta thấy ông Phêrô và Gioan “đi kinh lý để ban phép
Thêm sức”; cả hai đặt tay trên các tân tòng “mới chỉ được rửa tội nhân danh
Chúa Giêsu” để lòng họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Các Tông Đồ ở
Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông
Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để
họ nhận được Thánh Thần. Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ,
họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Cv 8,14-16
Thánh Thần Chúa ngự
trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ
nghèo hèn, băng bó những tâm hồn tổn thương, báo cho kẻ bị cầm tù họ được tha,
và cho các tù nhân được giải thoát. Is 61,1
205.
Người lãnh bí tích Thêm sức được hưởng
những gì ?
- Khi lãnh bí
tích Thêm sức, người đã chịu phép Rửa tội được in một dấu ấn vĩnh viễn, chỉ
lãnh một lần và làm cho họ trở thành Kitô hữu mãi mãi. Ơn sức mạnh của Chúa
Thánh Thần ban xuống hoàn thành ơn bí tích Rửa tội, làm cho họ trở nên
chứng nhân của Chúa Kitô trong cả cuộc sống.
[1302 – 1305, 1317]
–
Lãnh nhận bí tích Thêm sức là ký một “giao ước”
với Chúa. Người chịu Thêm sức nói: “Vâng con tin Chúa, Chúa của con. Xin ban
cho con Thần trí của Chúa để con hoàn toàn thuộc về Chúa, không bao giờ xa cách
Chúa, và con làm chứng cho Chúa suốt đời con, với tất cả tâm hồn và thể xác, bằng
hành động cũng như lời nói, trong cả những ngày tốt lẫn ngày xấu”, và Chúa nói:
“Ta cũng vậy, Ta tin con, con của Ta, và Ta ban Thánh Thần Ta cho con, đúng vậy,
ban chính Ta. Ta sắp hoàn toàn thuộc về con. Ta không bao giờ xa cách con, ở đời
này cũng như trong đời sống vĩnh hằng. Ta sẽ ở trong linh hồn và thân xác con,
trong hành động và lời nói của con. Dù con có quên ta, ta vẫn luôn có mặt trong
những ngày tốt và những ngày xấu”. → 120
Xin hãy tạo dựng cho
tôi tấm lòng trong sạch, lạy Chúa, một khí phách mới, xin đặt vào lòng tôi. Tv
51, 12
Hãy đến gần Thiên Chúa,
Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tay cho sạch; hỡi kẻ hai lòng,
hãy tẩy luyện tâm can. Gc 4, 8
Ta đặt trước mặt ngươi
sự sống và sự chết, chúc lành và chúc dữ. Nhưng ngươi hãy chọn lấy sự sống ngõ
hầu ngươi được sống, ngươi và dòng dõi ngươi. Đnl 30,19
206.
Ai được lãnh bí tích Thêm sức? Họ phải chuẩn bị
thế nào?
- Những ai là
Kitô hữu (đã lãnh bí tích Rửa tội), có ơn nghĩa Chúa, đều được nhận lãnh bí
tích Thêm sức.
[1306 – 1311, 1319]
–
“Có ơn nghĩa Chúa” là không phạm tội nặng. Phạm
tội nặng là rời khỏi Chúa, và chỉ có thể làm hòa với Chúa nhờ bí tích Giao hòa.
Một bạn trẻ Kitô hữu sửa soạn lãnh bí tích Thêm sức là bước vào một giai đoạn
trong những giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời mình. Bạn sẽ phải làm mọi sự
để hiểu đức tin bằng cả tâm hồn và trí lực mình, bạn phải cầu nguyện Chúa Thánh
thần, một mình và với người khác, phải làm hòa với bản thân, với người thân cận,
và với Chúa, nhờ việc xưng tội cũng giúp bạn gần gũi với Chúa khi bạn không phạm
tội nặng. → 316 –
317
«
Điều quan trọng đó là bắt đầu một cách quyết
tâm. Thánh Têrêsa
207.
Ai được ban bí tích Thêm sức ?
- Thông thường việc ban bí tích Thêm sức
dành cho Giám mục. Nhưng khi cần, Giám mục có thể ủy cho Linh mục quyền ban bí
tích Thêm sức. Trường hợp nguy tử, bất cứ Linh mục nào cũng được ban bí tích
Thêm sức. [1312 – 1314]
3. Bí
tích Thánh Thể
208.
Bí tích Thánh Thể là gì ?
- Là bí tích Chúa Giêsu hiến ban Mình và Máu Người cho chúng
ta, để chúng ta cũng hiến mình ta cho Người trong tình yêu và kết hợp với Người
khi rước lễ. Nhờ rước lễ, chúng ta được liên kết với một Thân mình Chúa Kitô là
Hội thánh Công giáo. [1322, 1324, 1409]
–
Sau khi lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, bí
tích Thánh Thể là bí tích thứ ba giúp khai tâm vào Kitô giáo. Bí tích Thánh Thể
là trung tâm mầu nhiệm của toàn bộ các bí tích, vì hiến tế trong lịch sử của
Chúa Giêsu trên thập giá được thể hiện một cách ẩn giấu và không đổ máu trong
lúc truyền phép. Vì thế bí tích Thánh Thể là “nguồn suối và đỉnh cao của tất cả
đời sống Kitô hữu” (Hiến chế về Hội Thánh 11). Tất cả đều quy hướng về Thánh Thể:
không có gì tốt lành hơn mà ta có thể có được. Khi ta ăn bánh được bẻ ra, ta được
hiệp nhất với Đấng đã trao hiến thân mình cho ta trên thập giá. Khi ta uống
chén, ta được hiệp nhất với Đấng đã đổ máu mình ra vì ta, trong hiến tế của Người.
Chúng ta không sáng kiến ra nghi lễ này. Chính Chúa Kitô cử hành bữa tiệc ly
sau cùng với các môn đệ, trước khi người chịu chết. Người tự hiến cho các môn đệ
dưới hình bánh rượu và khuyên họ cử hành bí Tích Thánh Thể từ giờ phút đó và
sau này khi Người đã chết. Hãy làm việc
này mà nhớ đến Thầy! (1 Cr. 11, 24) → 126, 193, 217
Eucharistia
tiếng Hy Lạp là tạ ơn, tiếng dùng để chỉ kinh nguyện tạ ơn trong phụng vụ thời
Hội Thánh sơ khởi, kinh này đọc trước khi biến đổi bánh và rượu trở thành Mình
và Máu Chúa Kitô. Về sau được dùng để chỉ việc cử hành thánh lễ.
«
Thiên Chúa chắc sẽ ban cho ta một điều tốt lành
lớn hơn, nếu có điều nào tốt lành hơn là hiến tặng chính mình Người. Thánh Gioan Maria Vianney (1786 – 1859, cha sở xứ
Ars)
«
Hiệu quả đích thực của bí tích Thánh Thể là
chuyển đổi con người thành Thiên Chúa. Thánh Tôma Aquinô.
209.
Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể khi nào ?
- Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể trước ngày Người chịu chết
vào buổi tối trước khi Người bị trao nộp
(1Cr 11,23), Người tập họp các tông đồ ở Nhà Tiệc ly và Người cùng với họ cử
hành Bữa Tiệc ly. [1323, 1337 – 1340]
Trước lễ Vượt qua, Chúa
Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người
vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và người yêu thương họ đến
cùng. Ga 13,1
210.
Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể thế nào ?
- Thánh Phaolô kể lại như sau: "Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh
em, trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ
ra và nói "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh
em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Cũng thế, cuối bữa ăn,
Người nâng chén và nói, "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước
Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
(1Cr 11, 23- 25).
–
Đoạn tường thuật này là cổ xưa nhất ta có được
về những gì đã xảy ra trong nhà Tiệc ly, do thánh tông đồ Phaolô kể lại. Thánh
Phaolô không chứng kiến tận mắt, nhưng Người truyền lại điều đã được bảo quản
như một mầu nhiệm thánh và đã được thực hiện trong phụng vụ của cộng đoàn Kitô
giáo trẻ trung. à 99
«
Làm thế nào Chúa Giêsu có thể ban Mình và Máu
Người ? Bằng cách biến đổi bánh thành Thân xác Người và rượu thành Máu Người,
và Người ban Mình Máu Người trước khi chịu chết, Người đón nhận cái chết tự nội
tâm Người và biến nó thành một cử chỉ yêu thương. Xem bề ngoài đó là chuyện tàn
bạo dữ dội – việc đóng đinh vào thập giá – nhưng bên trong là hành vi yêu
thương tận hiến toàn vẹn. Đức Bênêđictô XVI, 21-8-2005
«
Ta là thức ăn của người mạnh, hãy lớn lên và ăn
Ta. Nhưng con không biến đổi Ta trong con như biến đổi một thức ăn mà đúng ra
là con sẽ được biến đổi thành Ta. Thánh Augustinô, thời ngài trở lại với Chúa
211.
Bí tích Thánh Thể đối với
Hội thánh quan trọng thế nào?
- Việc cử hành bí tích Thánh Thể là tâm điểm của sự thông
hiệp của Kitô giáo. Nhờ bí tích Thánh Thể, Hội thánh mới trở thành đích thực là
Hội thánh.[1325]
–
Không phải vì ta góp tiền giúp nhà thờ, không
phải vì ta hiểu đúng, cũng không phải vì ta đã gắn bó với xứ này xứ nọ mà ta
làm nên Hội thánh, nhưng là vì trong bí tích Thánh Thể, ta tiếp nhận Mình Chúa
Kitô, và mỗi lần ta dần dần trở nên Thân Thể Chúa Kitô.
«
Không rước lễ thì giống như chết khát bên dòng
suối. Thánh Gioan Vianney
«
Trong Thánh Thể ta nên một với Thiên Chúa, như
lương thực nên một với thân xác. Thánh
Phanxicô Salêsiô
«
Ta phải quyện đời ta quanh Thánh Thể. Mắt hướng
về Chúa là Ánh sáng; trái tim đặt rất gần trái tim thánh của Chúa; cầu xin Người
ơn để tuyên xưng Người, tình yêu để yêu mến Người, can đảm để phụng sự Người.
Tìm kiếm Người bằng tâm tình sốt sắng. Mẹ Têrêxa
212.
Bữa Tiệc của Chúa Giêsu với chúng ta được gọi
tên là gì và có ý nghĩa gì ?
- Có nhiều tên gọi khác
nhau giúp ta hiểu về mầu nhiệm phong phú của hiến tế thánh này: Thánh Lễ, Hi
Lễ, Bữa Tiệc của Chúa, Bẻ Bánh, Cuộc Tập họp Tạ ơn, Cuộc Tưởng nhớ sự Khổ nạn,
sự chết và sống lại của Chúa, Phụng vụ Thần Thánh, Mầu nhiệm thánh, Hiệp lễ
thánh. [1328 – 1332]
Hiến tế thánh, thánh lễ, hy lễ: hiến
tế duy nhất của Chúa Kitô đã được hoàn tất và vượt trên mọi hiến tế, hiến tế ấy
có mặt trong cử hành Thánh Thể. Hội thánh và các tín hữu hiệp nhất với nhau bằng
lễ vật riêng trong hiến tế của Chúa Kitô.
Bữa tiệc của Chúa: mỗi cử hành Thánh Thể luôn
luôn là bữa tiệc ly duy nhất mà Chúa đã cử hành với các môn đệ, và đồng thời
cũng là cử hành trước bữa tiệc mà Chúa sẽ cử hành vào thời sau hết với nhân loại
đã được cứu rỗi. Không phải chúng ta là những con người đã làm nên lễ, mà là
chính Chúa mời gọi chúng ta đến lễ, còn Chúa thì có mặt ở đó cách mầu nhiệm.
Bẻ bánh: đây là nghi lễ cổ xưa trong bữa ăn của
Do Thái mà Chúa Giêsu dùng trong bữa tiệc ly cuối cùng để bày tỏ Người tự nộp
mình vì chúng ta (Rm 8,52). Sau khi sống lại các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ
bánh. Vì thế các Kitô hữu thời đầu tiên dùng “bẻ bánh” để chi việc cử hành phụng
vụ của Tiệc ly.
Cuộc tập họp tạ ơn: Việc cử hành bữa tiệc
của Chúa cũng được thực hiện trong tập họp các tin hữu để tạ ơn Chúa, đây là biểu
lộ hữu hình về Hội Thánh.
Tưởng nhớ cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Chúa: Khi cử hành Thánh Thể, cộng đoàn không tôn vinh chính mình, cộng
đoàn luôn luôn khám phá và tôn vinh cuộc vượt qua cứu độ của Chúa Giêsu sang
cõi sống, nhờ việc chết và sống lại của Người ngay trong thời hiện tại này.
Phụng vụ thần thánh, mầu nhiệm thánh: Việc cử hành Thánh Thể tập hợp Hội Thánh trên trời và dưới đất
trong một lễ. Nên người ta gọi là bí tích cực thánh vì trong các lễ vật được
dâng lên có Chúa Giêsu hiện diện, đó là điều thánh thiêng nhất trên thế giới.
Hiệp lễ thánh: gọi là hiệp lễ thánh bởi vì
chúng ta nên một với Chúa Kitô trong thánh lễ, và nhờ kết hợp với Người chúng
ta nên một với nhau.
«
Chúng ta không được để đời mình xa lìa Thánh Thể.
Làm như thế, ta sẽ suy nhược. Người ta hỏi: “Các Sơ tìm đâu ra sức mạnh và niềm
vui để phục vụ?” – Trong Thánh lễ không phải chỉ có việc rước lễ, mà thánh lễ
còn làm dịu đi cơn đói của Chúa Giêsu. Người nói: “Hãy đến với Ta”. Người đói
linh hồn ta. Mẹ Têrêsa
213.
Những phần chính của Thánh lễ là phần nào ?
- Thánh lễ có 2 phần chính: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ
Thánh Thể.[1346 – 1347]
–
Trong phần phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa muốn
nói với ta và ta nghe đọc các bài đọc rút từ Cựu và Tân ước, cũng như một bài đọc
từ Phúc âm. Đây cũng là lúc giảng lễ và đọc lời nguyện chung cho mọi người. Tiếp
theo là phụng vụ Thánh Thể gồm việc dâng bánh rượu, rồi truyền phép bánh rượu
và rước lễ.
214.
Cơ cấu Thánh lễ như thế nào ?
- Thánh lễ bắt đầu bằng cuộc tập họp các tín hữu và rước linh mục
cùng các người giúp lễ. Sau lời chào của linh mục, là việc thú tội chung của
tất cả, rồi kết thúc bằng kinh Xin Chúa thương xót. Các chúa nhật (trừ Mùa Chay
và Mùa Vọng) và các ngày lễ kính, lễ trọng thì hát hoặc đọc kinh Vinh danh. Lời
cầu nguyện của ngày mở đầu cho một hoặc hai bài đọc Cựu ước và Tân ước. Rồi đến
lời tung hô Alleluia trước khi công bố Phúc âm. Chúa nhật và lễ trọng, sau Phúc
âm có bài giảng lễ. Cũng trong các chúa nhật và lễ trọng, sau giảng lễ, cộng
đoàn tuyên xưng đức tin bằng kinh Tôi tin kính, rồi đến lời cầu nguyện chung.
Phần hai thánh lễ bắt đầu bằng việc sửa soạn lễ vật và kết thúc
bằng lời nguyện trên lễ vật. Đỉnh cao của thánh lễ là kinh nguyện Thánh Thể,
được mở đầu bằng kinh Tiền tụng và kinh Thánh Thánh Thánh. Lúc này là lúc bánh
rượu được biến thành Mình và Máu Chúa Kitô. Kinh nguyện Thánh Thể kết thúc bằng
kinh Tán tụng và dẫn đến kinh Lạy Cha. Sau đó là lời cầu bình an, kinh Chiên
Thiên Chúa, rồi bẻ bánh và cho rước lễ, thông thường chỉ cho rước hình bánh là
Mình Chúa Kitô thôi. Thánh lễ kết thúc trong tĩnh lặng, tạ ơn, bằng một kinh
cuối cùng rồi đến chúc lành của linh mục. [1348 – 1355]
Truyền phép hoặc thánh hiến một người, một
vật, một nơi là dâng hiến dành để phụng sự Thiên Chúa. Trong thánh lễ tiếng này
được dùng để chỉ kinh nguyện mà linh mục đọc lại Lời Chúa Kitô đọc trong Bữa Tiệc
ly trên bánh và rượu để bánh rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô nhờ phép của
Chúa Thánh Thần.
Hiệp lễ
hay rước lễ là tiếp nhận Mình và Máu Chúa Kitô dưới hình bánh và rượu. Theo luật
chung chỉ được rước lễ trong thánh lễ; trong trường hợp đặc biệt như các bệnh
nhân có thể rước lễ ngoài thánh lễ. Rước lễ dù chỉ nguyên tiếp nhận hình bánh
mà thôi cũng là hiệp lễ đầy đủ Chúa Kitô.
Xin Chúa thương xót đây là kinh rất cổ
xưa để tôn kính các thần linh hoặc vua chúa, được dùng để hoan hô Chúa Kitô,
vào khoảng năm 500 (Kyrie eleison là tiếng Hy Lạp) trong phụng vụ Rôma và tây
phương.
Vinh danh là bài ca hoan hỷ của các thiên thần
hát trên các mục đồng (Lc 2,14) vào đêm Noel, nó mở đầu bài ca vãn Kitô giáo rất
cổ xưa từ thế kỷ IX. Đây là bài ca tụng ngợi khen Thiên Chúa một cách trọng thể.
Alleluia (gồm hai chữ Do Thái: halel là ngợi
khen tôn vinh, Yahvé là tên Thiên Chúa, có nghĩa là ta hãy ca tụng Thiên Chúa).
Tiếng reo vui mừng này được lặp đi lặp lại 24 lần trong các thánh vịnh trước
khi đọc Lời Chúa trong Phúc âm.
Bài giảng lễ (tiếng Hy Lạp là homilein, có
nghĩa là nói ngang hàng với ai theo tình người). Trong thánh lễ vị giảng thuyết
có nhiệm vụ công bố Tin Mừng, giúp đỡ các tín hữu và khuyến khích cổ võ họ loan
báo Tin Mừng và đem ra thực hành. Bài giảng lễ dành riêng cho giám mục, linh mục
và phó tế. Khi không có các ngài, trong một vài phụng vụ, giáo dân có thể được
mời giảng.
Thánh Thánh Thánh là một trong những
kinh cổ xưa nhất trong thánh lễ, phát xuất từ thế kỷ VIII trước công nguyên, và
không thể được loại bỏ. Kinh này vừa lấy lại bài ca của các thiên thần Sêraphim
trong Is 6,3; vừa là lời reo mừng trong thánh vịnh 118,25, cốt để ngợi khen
Chúa Kitô đang có mặt trong lễ.
Biến thể, các nhà thần học dùng từ này để cắt
nghĩa làm thế nào Chúa Giêsu có thể hiện diện trong bí tích Thánh Thể dưới hình
bánh hình rượu: bánh rượu vẫn có “hình” bề ngoài không thay đổi, nhưng cái “bản
thể” hoặc bản tính của bánh và rượu đã biến thành Mình và Máu Chúa Kitô, nhờ
tác động của Chúa Thánh Thần lúc đọc các lời truyền phép.
Lạy Chiên Thiên Chúa. Nhắc đến chiên
Thiên Chúa (Xh 12) nhờ hiến tế chiên mà dân được giải thoát khỏi nô lệ Ai Cập.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã áp dụng hình ảnh chiên vào Chúa Giêsu (Ga 1,29: đây
Chiên Thiên Chúa). Nhờ Chúa Giêsu bị dẫn đi giết như con chiên, ta được giải
thoát khỏi tội lỗi và được làm hòa với Thiên Chúa. Kinh cầu để ngợi khen Chúa
Kitô “Lạy Chiên Thiên Chúa” được đưa vào thánh lễ từ thế kỷ VII.
Kinh Tán tụng (tôn vinh) là kinh long trọng kết
thúc một kinh tôn vinh Thiên Chúa, chẳng hạn kết thúc kinh nguyện Thánh Thể:
Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều
quy về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
Kinh Tán tụng có khi hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi: Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức
Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có
và đời đời chẳng cùng. Kinh này thường dùng để kết thúc kinh nguyện Kitô giáo.
215.
Ai làm chủ-sự việc Cử hành Thánh lễ ?
- Chính Chúa Giêsu làm chủ-sự toàn bộ việc cử hành Thánh lễ. Giám
mục hoặc Linh mục là đại diện Chúa Giêsu, là người Chúa đã ủy quyền trong bí
tích Truyền chức thánh.[1348]
–
Đây là đức tin của Hội thánh: vị chủ-sự ở trên
bàn thờ “thay mặt Chúa Kitô là Đầu”,
có nghĩa là các linh mục không phải chỉ là thay chỗ hoặc được Chúa Kitô truyền
để làm mà vì các ngài đã được thánh hiến (truyền chức), nên chính Chúa Kitô là
Đầu của Hội thánh hành động qua các ngài. → 249 - 254
216.
Chúa Giêsu hiện diện cách nào khi Thánh lễ được
cử hành ?
- Chúa Giêsu hiện diện cách mầu nhiệm và
thực sự trong Thánh lễ. Mỗi khi Hội thánh ngày nay vâng lệnh Chúa: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy",
mà bẻ bánh, và dâng chén, thì Hội thánh cũng làm một việc như xưa Chúa làm:
Chúa Kitô dâng mình làm lễ tế cho chúng ta; chúng ta thực sự được chia sẻ với
Người lễ hi sinh Chúa Kitô dâng chỉ một lần trên thập giá, nay được dâng lại
trên bàn thờ, Người thực hiện việc cứu độ chúng ta. [1362 – 1367]
217.
Khi Thánh lễ được cử hành, điều gì xảy ra cho
Hội Thánh?
- Mỗi lần Hội thánh cử
hành Thánh lễ, Hội thánh trở về nguồn suối mà Hội thánh phát sinh và Hội thánh
được đổi mới không ngừng. Nhờ "ăn" Mình Chúa Kitô, Hội thánh trở nên
“Thân thể Chúa Kitô” (một tên khác chỉ Hội thánh). Trong lễ hi sinh của
Chúa Kitô, Đấng ban mình cho chúng ta, cả xác và hồn, đều có chỗ cho cả cuộc
sống của ta: từ việc lao động đến mọi đau khổ, niềm vui, tất cả đều có thể hiệp
nhất với Chúa Kitô. Nếu ta dâng lên Chúa qua cách này, ta sẽ được biến đổi,
ta làm đẹp lòng Chúa, và trở nên như bánh tốt lành nuôi sống cho mọi người.
[1368 – 1372, 1414]
–
Chúng ta không ngừng trách Hội Thánh dường như
chỉ là một cuộc họp những con người tốt nhiều hay ít. Thực ra, Hội Thánh hình
thành mỗi ngày cách mầu nhiệm trên bàn thờ. Thiên Chúa hiến mình cho mỗi người
và muốn mỗi người biến đổi nhờ hiệp lễ, nhờ rước Người. Một khi được biến đổi,
ta phải biến đổi thế giới. Còn những chuyện khác liên quan đến “Hội Thánh là gì”
đều là phụ thuộc.
→ 126, 171, 208
Thật vậy, cho tới ngày
Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu
chết. 1Cr 11,26
218.
Chúng ta phải làm gì cho xứng đáng để tôn sùng
Chúa hiện diện trong hình bánh và hình rượu ?
- Vì Thiên Chúa thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu đã
được truyền phép, nên chúng ta phải lưu giữ với lòng trọng kính hết sức, và thờ
lạy Thiên Chúa cũng là Đấng Cứu chuộc chúng ta trong Phép cực trọng Mình
và Máu thánh Chúa. [1378 – 1381, 1418]
–
Nếu sau lễ còn Mình Thánh Chúa, phải lưu giữ
trong các bình thánh và đặt trong Nhà Tạm. Nhà Tạm phải là nơi được tôn kính
hơn cả. Mỗi lần đi ngang qua phải bái kính. Thật ra ai muốn đi theo Chúa Kitô
thực sự thì phải nhận ra Chúa trong những người nghèo nhất và phụng sự Chúa qua
người nghèo. Kitô hữu cũng phải kiếm giờ để có thể tôn thờ Chúa thinh lặng trước
Nhà Tạm và bày tỏ tình yêu mến Chúa.
Nhà tạm (lều) cảm hứng từ hòm
bia giao ước trong Cựu ước, Hội thánh coi nhà tạm như nơi cao quý nhất để giữ
gìn Thánh Thể (Chúa Kitô dưới hình bánh).
Bình hương là đồ vật được dùng trong
dịp đặt Thánh Thể, là Chúa Kitô, cho các tín hữu tôn thờ.
219.
Người Công giáo thường phải tham dự bao nhiêu
Thánh lễ ?
- Hội thánh buộc mọi người Công giáo tham dự thánh lễ các
Chúa nhật và các lễ buộc. Bất cứ ai thực sự tìm làm bạn với Chúa Giêsu, sẽ đáp
lời mời của Chúa đến dự Tiệc thánh này càng nhiều càng tốt. [1389 – 1417]
–
Nói rằng người Công Giáo đích thực buộc phải dự
các lễ Chúa nhật và lễ buộc thì cũng rất chính đáng như nói rằng hai tình
nhân thì buộc phải ôm hôn nhau. Không ai có thể có mối liên hệ sống động với
Chúa Giêsu mà lại không đến với nơi Người đã hẹn gặp. Vì thế từ xưa đến nay
Thánh lễ luôn luôn là “trái tim của Chúa Nhật”, là điểm hẹn quan trọng nhất của
tuần lễ.
220.
Tôi cần dọn mình cách nào để có thể lên Rước
lễ?
- Tôi cần phải là
người Công giáo, và nếu lương tâm nghĩ mình đang có tội trọng thì phải xưng tội
đã. Trước khi tới gần bàn thờ, bạn phải làm hòa với người thân cận.
[1389 – 1417]
–
Trước đây ít năm có thói quen không ăn gì trong
3 tiếng đồng hồ trước rước lễ, vì muốn cho mình sửa soạn rước Chúa Kitô. Ngày
nay, Hội thánh truyền dạy giữ chay ít là một tiếng đồng hồ. Một dấu hiệu tỏ
lòng tôn kính khác là ăn mặc cho xứng đáng, vì thực ra đây là cuộc hẹn gặp với
Chúa của vũ trụ.
Lạy Chúa, con chẳng
đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn
con sẽ được lành sạch. Mt 8,8
Vì
thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến
Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén
này. 1Cr 11,27-28
221.
Việc rước lễ thay đổi tôi thế nào ?
- Mỗi lần rước lễ, tôi được kết hợp với Chúa Giêsu chặt chẽ hơn,
làm cho tôi trở nên phần tử sống động của Thân mình Chúa Kitô, đổi mới ơn thánh
tôi đã nhận trong bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức, và làm cho tôi mạnh sức
để chiến đấu chống lại tội lỗi. [1391 – 1397, 1416]
«
Chúng ta chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô chỉ có mục
đích được biến đổi nên Mình Máu Chúa mà ta lãnh nhận. Thánh Lêô Cả giáo hoàng
«
Chúng ta bẻ một bánh để được thuốc bất tử, giải
độc sự chết, và được lương thực sống đời đời với Chúa Giêsu. Thánh Inhaxiô Antiôkia
«
Chúng ta có nhiều việc phải làm. Các bệnh viện,
các người sắp chết đầy dẫy khắp nơi. Khi chúng ta bắt đầu cầu nguyện hàng ngày,
tình yêu của chúng ta với Chúa Kitô trở nên thân thiết hơn, tình yêu với những
người khác được nhẫn nại hơn, tình yêu với người nghèo đầy thương cảm hơn, và
ơn gọi đã tăng số gấp đôi. Mẹ Têrêxa
222.
Có thể cho người không phải là Công giáo rước
lễ được không?
- Rước lễ là diễn tả sự hợp
nhất của Thân mình Chúa Kitô. Để thuộc về Hội thánh Công giáo, người ta
phải được Rửa tội trong Hội thánh Công giáo, chia sẻ đức tin, sống hợp nhất với
Hội thánh. Cho nên thật là mâu thuẫn nếu Hội thánh Công giáo mời người chưa
chia sẻ đức tin và đời sống với Hội thánh rước lễ. Điều này làm cho dấu
hiệu của bí tích Thánh Thể không còn đáng tin cậy nữa. [1398 – 1401]
–
Các tín hữu Chính thống có thể tự cá nhân xin
rước lễ trong thánh lễ Công giáo, vì người theo Chính thống cũng tin vào bí
tích Thánh Thể như Hội thánh Công giáo, dù cộng đoàn họ chưa sống hoàn toàn hiệp
nhất với Công giáo. Còn với các thành viên các niềm tin Kitô giáo khác, chỉ có
thể cho rước lễ trong trường hợp khẩn cấp nặng và nếu họ có đức tin đầy đủ vào
sự hiện diện của Thánh Thể. Mục tiêu và ước mong của phong trào đại kết là đạt
tới việc cử hành Thánh Thể chung cho cả Kitô hữu Công giáo với Tin lành; tuy
nhiên thật là sai lầm, và tới nay chưa được phép tổ chức các cuộc cử hành Bữa
Tiệc ly chung, bao lâu việc Thân mình Chúa Kitô hiện diện chưa làm cho tất cả
có cùng một niềm tin và họp thành một Hội thánh duy nhất. Các cuộc hội họp đại
kết khác, trong đó các Kitô hữu có niềm tin khác nhau cùng cầu nguyện với nhau,
đó là một việc tốt, được Hội thánh Công giáo ước mong.
«
Các Kitô hữu Tin lành có thể
được rước lễ “nếu gặp nguy hiểm có thể chết”, nếu không có thừa tác viên của cộng
đồng họ có thể cho rước lễ… nếu họ thật tình xin. Tuy nhiên họ phải bày tỏ họ
có niềm tin Công giáo đối với bí tích này và phải có những tâm tình thích hợp. Giáo luật 844 §4.
223.
Việc rước lễ cho ta được sự sống đời đời như
thế nào ?
- Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ, và cả chúng ta rằng, một
ngày kia được dự tiệc với Chúa. Vì thế, mọi Thánh lễ đều là "tưởng niệm
cuộc Khổ nạn hồng phúc", tâm hồn chúng ta được tràn đầy ân sủng để bảo đảm
cho chúng ta được sống đời đời. [1402 – 1405]
Chương 2.
Các bí tích chữa lành
4. Bí
tích Sám hối và Giao hòa
224.
Tại sao Chúa Giêsu ban cho chúng ta bí tích Sám
hối – Giao hòa và Xức dầu bệnh nhân ?
- Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu Người trong việc Người đi tìm
những ai đã hư hỏng và chữa những ai đau yếu. Đó là lí do Người ban cho chúng
ta bí tích Sám hối và Giao hòa, để giải thoát ta khỏi tội, và bí tích Xức dầu
bệnh nhân để ta được mạnh sức phần xác và phần hồn. [1420 – 1421] → 67
Con
người đến tìm và cứu những kẻ đã hư mất. Lc.
19,10
225.
Bí tích Sám hối và Giao hòa còn có những tên
gọi nào?
- Bí tích Sám hối và Giao hòa còn gọi là bí tích Tha thứ, bí
tích Trở lại, bí tích Giải tội.[1422 – 1424, 1486]
226.
Qua bí tích Rửa tội, chúng
ta đã được giao hòa với Thiên Chúa, vậy tại sao còn cần đến một bí tích Giao hòa
riêng rẽ nữa ?
- Bí tích Rửa tội đã lôi kéo chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi
và sự chết, đưa chúng ta đến đời sống mới làm con Thiên Chúa, nhưng bí tích Rửa
tội không giải thoát chúng ta khỏi sự yếu đuối và hướng chiều về đàng tội. Vì
thế chúng ta cần một nơi để hòa giải nhiều lần cùng Thiên Chúa. Nơi đó
gọi là nơi Giải tội. [1425 – 1426]
–
Xưng tội không phải là theo “mốt”, xưng tội có
vẻ khó và lúc đầu cần cố gắng nhiều. Nhưng đây là một trong những ơn huệ lớn
cho đời ta, vì luôn có thể được bắt đầu lại – bí tích này quả thực làm mới lại,
bỏ bớt gánh nặng tội lỗi và trở ngại đã qua, khi được ta đón nhận trong tình
yêu và đầy sức lực mới. Thiên Chúa đầy lòng thương xót và ước mong tha thiết của
Người là ta van xin lòng thương xót của Người. Ai đã xưng tội là mở cuốn sách đời
mình sang một trang mới, trắng tinh. → 67-70
Nghe thấy thế, Chúa
Giêsu nói với họ, "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm
mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội
lỗi” Mc 2,1.
Nếu ta nói mình không
có tội là ta nói dối mình, không có sự thật trong ta. 1 Ga
1,8
227.
Ai đã lập ra bí tích Sám hối – Giao hòa ?
- Chính Chúa Giêsu đã lập bí tích Sám hối Giao hòa, khi Người
hiện ra cho các Tông đồ vào chiều lễ Phục sinh, và truyền cho các ông rằng: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha
tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị
cầm giữ. Ga 20, 22 [1439 – 1485]
–
Không ở đâu mà Chúa Giêsu đã minh họa chuyển động
của bí tích Sám hối Hòa giải tốt hơn là trong dụ ngôn ta quen gọi là “đứa con
hoang đàng” (mà trọng tâm chính là “người cha đầy lòng thương xót”); ta đi lạc
đường, ta hư hỏng, ta không thể đối mặt với đời ta. Thế mà Cha chúng ta vẫn chờ
mong tha thiết, chờ mong bằng lòng ao ước khôn cùng; Người tha thứ khi ta trở về;
Người đón nhận ta luôn luôn, lặp đi lặp lại, Người tha thứ tội lỗi cho ta.
Chính Chúa Giêsu đã tha thứ tội lỗi cho nhiều người; việc này đối với Người còn
quan trọng hơn việc làm phép lạ. Người xem đó như dấu hiệu lớn hơn cả báo cho
biết Nước Thiên Chúa đang đến, vì mọi thương tích được chữa lành, mọi nước mắt
phải khô đi. Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà
Người dùng để tha tội. Chúng ta trao thân vào tay Cha trên trời khi chúng ta
tìm đến linh mục để xưng tội. → 314, 524
Người con nói với Cha:
Thưa Cha, con thật đắc tội với trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con Cha nữa…
Nhưng người Cha liền bảo đầy tớ rằng: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ
nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. Lc 15, 21-22
228.
Ai có quyền tha tội ?
- Chỉ một mình Thiên Chúa có thể tha tội. Chỉ mình Chúa Giêsu
có thể nói “Ta tha tội cho con” (Mc
2, 5), vì Người là Con Thiên Chúa. Còn các linh mục có thể tha tội
chỉ vì Chúa Giêsu, đã ban quyền đó cho họ, để họ thay mặt Chúa mà tha tội. [1441
– 1442]
–
Có người nói rằng tôi cứ trực tiếp với Chúa
không cần linh mục. Nhưng Chúa lại muốn khác. Chúa biết rõ ta, vì ta thường lấy
những lý lẽ tốt để biện minh cho mình, và chúng ta dễ bỏ qua tội của mình coi
như chỉ là chuyện lỗ lã mà thôi. Vì thế Chúa muốn ta phải nói với Chúa về tội của
ta, và xưng thú ra trước mặt Chúa. Nên Chúa trao quyền này cho linh mục: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha,
anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23).
229.
Điều gì đưa người ta đến chỗ ăn năn thống hối ?
- Khi con người nhìn nhận tội lỗi của mình, thì nảy sinh ra
một ước muốn trở nên tốt hơn, điều đó gọi là ăn năn thống hối. Chúng ta đạt
được sự ăn năn tội, khi nhận thấy giữa tình yêu của Chúa và tội lỗi của ta có
sự mâu thuẫn trái nghịch. Ta đau lòng vì tội ta đã phạm. Ta quyết tâm thay
đổi đời sống và trông cậy Chúa giúp đỡ. [1430 – 1433, 1490]
–
Thực tại của tội lỗi thường bị dồn nén đi. Nhiều
người còn cho rằng ta chỉ cần nhờ khoa tâm lý để chiến đấu chống lại mặc cảm tội
lỗi. Nhưng điều quan trọng là phải có ý thức thực sự về tội lỗi của mình. Cũng
như khi chạy xe, khi đồng hồ báo hiệu đã vượt quá tốc độ cho phép, thì không phải
lỗi tại đồng hồ, mà lỗi tại người lái xe. Ta càng gần gũi Chúa là ánh sang, thì
vùng tối của ta sẽ hiện rõ ràng. Nhưng Chúa không phải thứ ánh sáng đốt cháy,
mà Người là ánh sáng chữa lành. Vì thế ăn năn hối hận đẩy ta bước vào ánh sáng
giúp ta tái lập lại hoàn toàn. → 312
«
Sám hối bắt nguồn từ việc
nhận ra sự thật. Thomas
Stearns Eliot (1888 – 1965, văn sĩ Anh-Mỹ).
«
Phải chỗi dậy ngay lập tức
khi ngã xuống. Không bao giờ để cho tội lỗi ở trong trái tim giây phút nào. Thánh Gioan Vianney
«
Sám hối là gì? Là rất đau
buồn vì ta đã sống như vậy. Marie Von Ebner-Eschenbach (1830-1916, văn sĩ người
Áo).
«
Thiên Chúa đánh giá rất cao lòng sám hối. Chỉ cần
có lòng sám hối một chút ở trần gian, miễn là thành thật, cũng làm Chúa quên hết
mọi tội lỗi, đến nỗi dù là quỷ dữ Chúa cũng tha hết tội cho chúng nếu chúng có
thể sám hối. Thánh Phanxicô Salêsiô.
«
Dấu hiệu của lòng sám hối thành thật là tránh
xa các dịp tội. Thánh Bernard de
Clairveaux
«
Thống hối là phép Rửa tội thứ hai, phép Rửa tội
bằng nước mắt. Thánh Gregory Nazianze
230. Việc đền tội là gì ?
- Đền tội là trả lại hay đền bù sự gì bất
công mình đã sai phạm. Đền tội không phải chỉ làm trong ý nghĩ, nhưng phải tỏ
ra trong việc bác ái và liên đới với người khác. Người ta cũng đền tội bằng cầu
nguyện, ăn chay, giúp người nghèo về tinh thần và vật chất. [1434 – 1439]
–
Việc đền tội thường bị hiểu lầm. Nó không phải
là khinh dể mình, hoặc bối rối sai lầm. Không phải là cứ lặp đi lặp lại không
ngừng rằng ta xấu quá. Việc đền tội giải thoát ta và khuyến khích ta lại lên đường.
«
Sau khi sa ngã, hãy đứng dậy ngay. Đừng bao giờ
để tội trong lòng dù một lúc. Thánh Gioan Vianney
231.
Đâu là 2 điều kiện căn bản để Kitô hữu được tha
tội ?
- Hai điều kiện căn bản là: Kitô hữu ăn năn trở lại, và Linh
mục nhân Danh Chúa tha tội cho người ấy. [1448]
Anh em tha tội cho ai,
thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ. Ga
20,23
Lòng yêu thương che phủ
muôn vàn tội lỗi. 1Pr 4,8
Tha tội: Việc tha tội của linh mục là tha thứ có tính cách bí tích một hay nhiều
tội sau khi một người đã sám hối để xưng tội. Công thức để tha tội là: “Thiên
Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của con Chúa mà giao hòa
thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội
Thánh mà ban cho…ơn tha thứ và bình an. Vậy tôi (cha) tha tội cho…nhân danh Cha
và Con và Thánh Thần”.
«
Thiên
Chúa biết hết mọi sự. Nhất là Người biết sau khi xưng tội ta lại bắt đầu phạm tội.
Dầu vậy Người vẫn tha. Người tha đến nỗi cố tình quên cả trong tương lai (ta sẽ
phạm tội) để vẫn cứ tha thứ. Thánh Gioan Vianney
232.
Trước khi vào toà xưng tội, tôi phải làm gì ?
- Những điều căn
bản cho mọi lần xưng tội là: xét mình, ăn năn. dốc lòng chừa, có ý sửa đổi, xưng
tội, đền tội.
[1450 – 1460; 1490 – 1492; 1494]
–
Xét mình phải làm theo chiều sâu, dù biết không
bao giờ là hoàn toàn. Không ăn năn hối hận thành thật, chỉ nói ở đầu lưỡi thì
không được khỏi tội. Việc dốc lòng chừa không tái phạm cũng cần thiết. Tội nhân
phải tuyệt đối tự mình xưng tội ra với cha giải tội. Sau cùng xưng tội cũng bao
gồm việc đền bù hay là đền tội mà cha giải tội chỉ định để tội nhân sửa lại sai
lầm đã gây ra.
233.
Phải xưng những tội nào ?
- Tất cả mọi tội nặng ta nhớ được sau khi đã xét mình, và
thấy nó chưa được xưng, thì khi xưng ra sẽ được tha thứ hết. [1457]
–
Thực ra người ta thường ngại đi xưng tội,
nguyên việc phải chịu trách nhiệm về mình đã là một bước đầu để tìm lại sức khỏe
nội tâm rồi. Điều đó thường giúp ta nghĩ rằng ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng phải
có can đảm để thú tội và những thiếu xót của mình cho một linh mục (nghĩa là
cho Thiên Chúa). Một linh mục cũng có thể ban phép giải tội cho một nhóm người
(người ta gọi là giải tội tập thể), mặc dầu trước đó những người này chưa xưng
tội cá nhân, nhưng chỉ được giải tội tập thể trong trường hợp khẩn cấp quan trọng
(như gặp chiến tranh, gặp máy bay tấn công, hoặc nhóm người đó gặp nguy hiểm có
thể chết)
→ 315-320
«
Tôi còn đáng bị phạt hơn bạn! Bạn đừng ngại đi
xưng tội. Thánh Gioan Vianney
234.
Khi nào người Công giáo
buộc phải xưng những tội nặng ?
- Khi đủ tuổi khôn, tín hữu phải xưng các tội nặng. Hội thánh
mạnh mẽ khuyên phải xưng tội nặng một năm ít là một lần. Dù sao, khi biết mình
mắc tội nặng, tín hữu phải đi xưng tội trước khi rước lễ. [1457]
–
Hội thánh hiểu đủ tuổi khôn là tuổi trẻ em có
thể dùng lý trí để học biết phân biệt tốt xấu. → 315-320
«
Nghĩ rằng ta phải sống sao để không bao giờ cần
được tha thứ, nghĩ thế không đúng. Chấp nhận sự yếu đuối của mình, nhưng luôn đứng
lại trên đường, không đầu hàng, trái lại cứ tiến bước về phía trước và luôn
luôn trở lại nhờ bí tích Giao hòa để lại lên đường và nhờ thế lớn lên cho Chúa,
tất cả được chín chắn lên trong hiệp thông với Chúa. Đức Bênêđictô XVI, 17-2- 2007
235.
Tôi có được xưng tội, nếu không có tội nặng
không ?
- Không có tội nặng thật thì không buộc xưng tội. Nhưng xưng
tội là một ơn lớn để được chữa lành, và
làm cho người ta được kết hợp chặt chẽ hơn với Chúa.[1458]
–
Ở các cuộc hội họp hoặc ngày giới trẻ thế giới,
người ta thấy đâu đâu cũng có giới trẻ tìm đến bí tích Hòa giải. Các Kitô hữu
coi trọng ước muốn theo Chúa Kitô thì tìm nơi bí tích này niềm vui lại lên đường
với Chúa. Ngay các vị thánh cũng thường đi xưng tội. Khi có thể, các ngài cần để
lớn lên trong khiêm tốn và bác ái, và để được ánh sáng tốt lành của Chúa chiếu
soi tận góc nhỏ của tâm hồn.
«
Mặc dù đôi khi có vụng về,
việc xưng tội là dịp quyết định để ta tìm lại được vẻ tươi mát của Tin Mừng nhờ
đó ta được tái sinh. Ở đó ta học biết loại bỏ những hối hận của mình bằng một
hơi thổi, như đứa trẻ thổi vào chiếc lá mùa thu đang quay cuồng. Ta tìm được ở
đó hạnh phúc của Thiên Chúa, khởi đầu của niềm vui hoàn hảo. Thầy Roger Schutz
236.
Tại sao chỉ có Linh mục mới được tha tội ?
- Không ai có thể
tha tội, nếu Thiên Chúa không ban quyền và năng lực để tha tội nhân danh Người.
Giám mục là người ưu tiên được chỉ định để tha tội. Còn linh mục là người cộng
tác với giám mục trong việc tha tội này.
[1461–1466; 1495] → 150, 228, 249–250
«
Sự thật thà mà ta chứng tỏ với một người anh em
không liên quan gì tới chuyện xưng tội. Việc xưng tội được thực hiện đối với
Chúa trên trời, và ở dưới đất đối với một người đã nhận được một sứ mệnh. Thầy Roger Schutz
237.
Có tội nào nặng đến nỗi Linh mục bình thường
không tha được không ?
- Có những tội mà con người hoàn toàn quay lưng lại với Chúa
vì mức độ nặng nề của nó thì họ mắc vạ "tuyệt thông". Để chứng tỏ mức
độ nặng nề đó, chỉ có giám mục tha vạ này. Trong ít trường hợp, chỉ độc nhất Đức
Giáo hoàng tha vạ tuyệt thông. Tuy nhiên trong trường hợp nguy tử (vì phần rỗi
linh hồn), bất cứ linh mục nào cũng được tha mọi tội và vạ tuyệt thông. (Người
công giáo trực tiếp phá thai thì mắc vạ tuyệt thông). [1463]
Vạ tuyệt thông là hình phạt không được
lãnh các bí tích.
238.
Linh mục, sau khi giải tội có được nói ra
điều mình biết trong tòa Giải tội không ?
- Không bao giờ, dù bất cứ trường hợp nào, linh mục phải
tuyệt đối giữ sự bí mật của tòa Giải tội. Bất cứ Linh mục nào nói ra cho người
khác điều gì mình đã nghe biết trong tòa Giải tội sẽ tức khắc bị vạ tuyệt
thông. Dù cảnh sát, công an hỏi, linh mục cũng không được nói hoặc làm dấu hiệu
gì. [1467]
–
Hầu như không có linh mục nào mà không coi trọng
việc giữ bí mật tòa giải tội. Có những linh mục liều chết hoặc chấp nhận bị
hành hạ để giữ lòng trung thành. Vì thế ta có thể nói cởi mở và không phải dè dặt
với một linh mục, ta cứ tin ở ngài cách an toàn, vì nhiệm vụ của ngài lúc giải
tội là hoàn toàn làm “cái tai của Thiên Chúa”.
239.
Hiệu quả tích cực của bí tích Giải tội là gì?
- Bí tích Giải tội cho tội nhân làm hòa với Thiên Chúa và Hội
thánh, được trở lại làm con Chúa và lại được Chúa yêu thương. [1468-1470,
1496]
–
Giây phút sau khi ban phép tha tội giống như nước
từ hoa sen tưới xuống sau khi thể thao, như luồng gió mát sau cơn bão mùa hè,
như được thức dậy dưới tia sáng mặt trời, như người lặn không bị trọng lực hút…
Hòa giải với Chúa là lại được làm con Chúa, được yêu mến, được đón nhận vào
tình yêu Người, được hòa thuận lại với Người.
«
Cứ yêu mến Chúa Giêsu, đừng sợ, dù bạn có phạm
mọi tội trên đời. Chúa Giêsu sẽ lặp lại lời này cho bạn: "Tội con nhiều,
nhưng đã được tha, vì con yêu mến nhiều". Thánh Padre Piô (1887-1968, một trong các vị thánh
bình dân nhất ở Ý)
5. Bí tích Xức dầu bệnh nhân
240.
"Bệnh tật" được hiểu như thế nào
trong Cựu ước ?
- Trong Cựu ước, bệnh tật thường được coi như thử thách lớn
lao khiến người ta phải nổi loạn, nhưng trong bệnh tật người ta có thể nhận ra
bàn tay của Chúa. Các ngôn sứ cũng coi bệnh tật không nhất thiết là lời nguyền
rủa, cũng không luôn là kết quả do tội cá nhân. Tuy nhiên người chịu đau khổ
của mình cách kiên nhẫn cũng có thể giúp người khác kiên nhẫn như vậy. [1502]
Cần phải được ứng nghiệm
lời tiên tri Isaia: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh
hoạn của ta. Mt 8,17
Chúa Giêsu nói,
"Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Vì Ta không đến
để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." Mc
2,17
241.
Tại sao Chúa Giêsu tỏ ra quan tâm đến các bệnh
nhân nhiều đến thế ?
- Chúa Giêsu đến trần gian để bày tỏ cho thấy tình yêu
của Chúa. Người có mặt khi chúng ta đặc biệt bị đe dọa sợ hãi: khi ta bệnh
tật Chúa muốn cứu chữa ta cả xác lẫn hồn, Người mời gọi ta tin nơi Người và
nhận ra rằng Nước Chúa đang đến. [1503 – 1505]
–
Đôi khi ta cũng phải mắc bệnh tật để ý thức rằng:
mọi người đều cần đến Chúa dù là có bệnh tật hay không. Bởi vì ta được sống là
nhờ Người. Vì thế các bệnh nhân và các tội nhân thường có bản năng đặc biệt ham
muốn điều cốt yếu là được sống còn. Ngay thời Tân ước, chính những bệnh nhân là
những người tìm cách đến gần Chúa Giêsu; họ cố gắng tìm cách chạm đến Chúa vì
có một sức mạnh phát xuất từ Người, và Người chữa lành cho mọi người (Lc 6,19).
→ 91
«
Giữa sự xấu hơn của thế giới Kitô giáo và sự tốt
hơn của thế giới ngoại giáo, tôi luôn chọn thế giới Kitô giáo vì thế giới Kitô
giáo dành một chỗ cho những người không bao giờ có thể có được chỗ đó trong thế
giới ngoại giáo: đó là những người bệnh tật, ốm đau, già nua và yếu đuối, và họ
được một điều còn tốt hơn là một chỗ: đó là được tình yêu thương đối với những
người mà trong thế giới ngoại giáo và không có Thiên Chúa, người ta đã coi và vẫn
còn coi họ là vô ích vô dụng. Heinrich
Boll (1917 – 1985, văn gia Đức)
«
Người bệnh tật cảm nghiệm được các sự việc tốt
hơn mọi người khác. Reinold
Schneider (1913-1958, văn sĩ người Đức)
242.
Tại sao Giáo hội phải chăm
sóc cách riêng cho người bệnh?
- Chúa Giêsu cho ta biết:
Thiên đàng đau khổ với ta khi ta đau khổ dưới đất. Thiên Chúa còn muốn chúng ta
nhận ra Người nơi "người anh em bé
mọn nhất" (Mt 25, 40). Đó là lí do tại sao, Chúa Giêsu muốn việc chăm
sóc người bệnh, người nghèo phải là nhiệm vụ chính của các môn đệ. Người truyền
dạy: "Hãy chữa lành bệnh tật"
(Mt 10, 8), và Người hứa ban quyền thiêng cho môn đệ "Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, sẽ đặt tay chữa lành bệnh nhân"
(Mc 16,17). [1506 – 1510]
–
Một trong những đặc tính nổi bật của Kitô giáo
là luôn luôn dành trọng tâm chăm sóc bệnh nhân, người già và những người nghèo
túng. Mẹ Têrêsa là người đón nhận những người đang hấp hối ở đường phố Calcutta
chỉ là một Kitô hữu như mọi Kitô hữu khác, nhưng Mẹ đã nhìn thấy Chúa Kitô
trong những người bị mọi người loại bỏ và chạy trốn. Nếu Kitô hữu là Kitô hữu
đích thật, thì từ nơi họ sẽ toát ra một ước muốn an ủi, nâng đỡ, được thực hiện
trong hành động. Họ có thể giúp người khác khỏi bệnh phần xác, nhờ sức mạnh của
Thánh Thần. (đặc sủng chữa bệnh → Đặc Sủng)
«
Việc lo lắng cho người
nghèo phải là một ưu tiên: cần phải giúp đỡ họ như họ là chính Chúa Kitô vậy. Thánh Benoît de Nursie (khoảng 480 – 547, đấng
sáng lập dòng Biển Đức)
« Và chúng tôi còn có lời thề là hứa trở nên người tận tâm
phục vụ các người bệnh tật của Chúa chúng ta. Luật dòng
thánh Jean de Malte
243. Ai được lãnh Bí tích Xức dầu bệnh nhân ?
- Bất cứ người Công giáo nào sức khỏe đến hồi liệt nặng đều được lãnh
bí tích Xức dầu bệnh nhân.
[1514 – 1515, 1528 – 1529]
–
Ta có thể lãnh bí tích này nhiều lần trong suốt
đời. Ngay cả người trẻ cũng có lý do để xin lãnh bí tích xức dầu bệnh nhân
trong trường hợp sắp được giải phẫu nặng. Trong những trường hợp như vậy nhiều Kitô
hữu còn muốn xưng tội nữa, họ muốn trình diện với Chúa một lương tâm trong trắng,
nếu họ không bình phục.
244.
Bí tích Xức dầu bệnh nhân được trao ban thế nào
?
- Nghi lễ cốt yếu của bí tích Xức dầu bệnh nhân là xức
dầu thánh trên trán và 2 bàn tay, trong khi đó linh mục đọc lời xức dầu. [1517
– 1519, 1531]
Ai trong anh em đau yếu
ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy,
sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Gc 5,14
245.
Bí tích Xức dầu bệnh nhân ban những ơn nào?
- Bí tích xức dầu bệnh nhân ban ơn an ủi, bình an, sức mạnh
và kết hợp tình trạng phiền não và đau đớn của bệnh nhân với những đau khổ của
Chúa Kitô cách sâu xa hơn, vì Chúa đã có kinh nghiệm với sự sợ hãi và chịu
những đau đớn của ta nơi thân xác Người. Với nhiều bệnh nhân, bí tích Xức dầu
còn ban cho họ sức khỏe phần xác. Nhưng nếu Chúa muốn gọi họ về quê trời, Người
ban cho họ sức mạnh hồn xác để chiến đấu lần cuối cùng. Trong hết mọi trường
hợp, bí tích Xức dầu bệnh nhân ban hiệu quả là ơn tha các tội lỗi đã phạm. [1520
– 1523, 1532]
–
Nhiều bệnh nhân sợ bí tích này và từ chối cho đến
giờ chót vì họ nghĩ rằng đây là một thứ án tử. Nhưng quả thật là trái ngược lại:
vì xức dầu bệnh nhân là một bảo đảm cho sự sống. Mọi Kitô hữu đang bị bệnh tật
đeo đuổi cần phải loại bỏ những cảm nghĩ sợ hãi và sai lầm. Hầu hết các bệnh
nhân trong tình trạng nguy hiểm nặng có trực giác vào lúc nhất định này là
không có gì quan trọng cho bằng trở nên đồng hình đồng dạng ngay tức thì và vô
điều kiện với Đấng đã thắng sự chết và là sự sống: Chúa Giêsu, Đấng cứu chúng
ta.
Dù
tôi qua thung lũng tối tăm tôi không sợ gì vì Chúa ở gần tôi; cây gậy của Chúa
có đó khiến tôi an lòng. Tv 23,4
Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời. Ga 6,54
246.
Ai được ban bí tích Xức dầu bệnh nhân ?
- Chỉ các Giám mục và linh mục được ban bí tích Xức dầu bệnh
nhân: chính Chúa Kitô ban qua các vị này, vì các Ngài đã được Truyền chức
thánh. [1516 – 1530]
«
Khi ban bí tích này, linh mục đọc: “Nhờ việc xức
dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh
Thần mà giúp đỡ … để Người giải thoát … khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa … và thương
làm cho … được thuyên giảm”. Nghi
thức Xức dầu bệnh nhân
247.
"Của ăn đàng" nghĩa là gì ?
- Khi bệnh nhân được “rước lễ" lần sau hết trước khi
chết, Hội thánh quen gọi là rước lễ như của ăn đường, để đi về với Chúa. [1524
– 1525]
–
Ít khi việc rước lễ lại cần thiết cách cốt tử
hơn là lúc con người sắp hoàn thành cuộc vượt qua chấm dứt cuộc sống đời này: trong
thế giới mai sau, cuộc sống sẽ là hiệp thông với Chúa Kitô.
Ai ăn Thịt Ta và uống
Máu Ta, sẽ được sống muôn đời. Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết. Ga
6,54
«
Hạnh phúc muôn đời là tình trạng mà việc chiêm
ngưỡng là lương thực. Simone Weil
(1909-1943, triết gia và nhà thần bí Pháp)
Chương 3.
Các Bí tích phục vụ cho sự hiệp thông và Sứ vụ
248.
Tên của các bí tích phục vụ sự hiệp thông trong
Hội thánh là gì?
- Người đã được Rửa tội và Thêm sức được lãnh nhận 2 bí tích
ban cho họ một sứ mạng đặc biệt trong Hội thánh và một sứ vụ do Chúa kêu gọi,
đó là bí tích Truyền Chức Thánh và Hôn phối. [1533 – 1535]
–
Hai bí tích này có một điểm chung là phục vụ
người khác. Không ai chịu chức thánh cho riêng mình và không ai kết hôn cho
riêng mình. Hai bí tích này nhắm tới xây dựng Dân Chúa, nghĩa là những cái máng
để tình yêu Chúa tưới cho thế giới.
«
Các linh mục được truyền chức thánh để nên
phương tiện cứu rỗi, không cho cá nhân mình, nhưng cho cả Hội thánh. Thánh Tôma Aquinô
6. Bí
tích Truyền Chức Thánh
249.
Bí tích Truyền Chức Thánh gồm những cấp bậc
nào?
- Bí tích Truyền Chức Thánh gồm có 3 cấp bậc: giám mục, linh
mục, phó tế. [1554, 1593] → 140
«
Chỉ có Chúa Kitô là linh mục
duy nhất và đích thực, các vị khác chỉ là thừa tác viên của Người. Thánh Tôma Aquinô
250.
Việc truyền chức Giám mục có ý nghĩa thế nào?
- Việc truyền chức Giám mục là việc trao
ban đầy đủ bí tích Truyền Chức Thánh cho linh mục để làm giám mục. Giám mục là
vị kế tiếp các tông đồ và gia nhập đoàn Giám mục. Cùng với các Giám mục khác và
Đức Giáo hoàng, từ nay ngài có nhiệm vụ trên toàn Hội thánh Công Giáo, và cách
riêng trong giáo phận. Hội thánh trao ban cho ngài có quyền giáo huấn, thánh
hóa và quản trị. [1555-1559]
–
Chức vụ giám mục là chức mục vụ đích thực trong
Hội thánh vì nguồn gốc có từ các tông đồ, là những chứng nhân đầu tiên về Chúa
Giêsu và chức đó làm cho chức mục vụ của các tông đồ Chúa Kitô thiết lập được tồn
tại mãi. Đức Giáo Hoàng cũng là một giám mục số một và đứng đầu Giám mục đoàn. à 92, 137
«
Tôi phải khiếp sợ vì là giám mục đối với anh em
nhưng tôi tự an ủi vì là Kitô hữu cùng với anh em. Đối với anh em tôi là giám mục,
cùng với anh em tôi là Kitô hữu, một có ý chỉ trách nhiệm, một có ý chỉ ân sủng,
một là nguy cơ, một là giải thoát. Thánh
Augustinô
251.
Giám mục quan trọng thế nào đối với một Kitô
hữu Công giáo ?
- Một Kitô hữu Công giáo buộc phải vâng lời
Đức Giám mục của mình. Giám mục là đại diện Chúa Kitô. Giám mục thi hành trách
nhiệm mục vụ. Cùng với các linh mục và các phó tế, là các phụ tá có thánh chức,
đó là nguyên lý hữu hình và nền tảng của một Hội thánh ở địa phương (giáo
phận). [1560 – 1561]
«
Tất cả anh em phải theo
Giám mục hướng dẫn, như Chúa Giêsu theo Đức Chúa Cha hướng dẫn... Đừng ai làm
gì trong Hội thánh mà không theo Giám mục. Thánh Inhaxiô Antiôkia
252.
Bí tích Truyền Chức Thánh ban ơn gì ?
- Bí tích Truyền Chức Thánh ban ơn Chúa Thánh Thần cho người nhận
lãnh, nghĩa là Chúa Kitô ban quyền thánh chức cho họ qua sự đặt tay của Đức
Giám mục. [1538]
–
Làm linh mục không chỉ là nhận một chức vụ hoặc
tác vụ. Nhờ bí tích Truyền chức, một linh mục nhận một quyền chuyên biệt và một
sứ vụ đối với anh chị em trong đức tin. à 150, 251, 228, 236
253.
Hội thánh hiểu thế nào về
bí tích Truyền Chức Thánh ?
- Các tư tế Cựu
ước có sứ vụ là trung gian giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và dân của Người.
Cũng như Chúa Kitô là "trung gian
duy nhất” giữa Thiên Chúa và nhân loại (1Tm 2,5), Người đã làm hoàn hảo và
hoàn tất chức linh mục đó. Sau Chúa Kitô chỉ có các linh mục đã được truyền
chức trong Chúa Kitô, trong hiến tế của Chúa Kitô trên thánh giá,
qua sự kêu gọi của Chúa Kitô, và sứ vụ tông đồ.
[1539 – 1553, 1592]
–
Một linh mục Công giáo cử hành các bí tích
không phải do quyền riêng của ngài, cũng không phải vì ngài hoàn hảo về luân lý
(không may có khi ngài không được như vậy), nhưng ngài làm nhân danh Chúa Kitô.
Nhờ có chức thánh, ngài được sức mạnh của Chúa Kitô để biến đổi, chữa lành, cứu
thoát. Vì linh mục tự mình chẳng có quyền gì, ngài trước hết là tôi tớ để phục
vụ. Tất cả các linh mục đều được coi là đích thực khi ngài luôn luôn khiêm tốn
ngạc nhiên rằng mình đã được Chúa gọi. à 215
254.
Việc truyền chức linh mục ban ơn gì ?
- Khi truyền chức linh mục, Giám mục xin sức mạnh của Thiên
Chúa xuống trên người lãnh chức. Sức mạnh ấy in vào linh hồn một ấn tích còn
mãi không bao giờ mất. Linh mục là người cộng tác của Giám mục, linh mục công
bố Lời Chúa, ban các Bí tích, nhất là dâng Thánh lễ. [1562 – 1568]
–
Trong thánh lễ, phong chức, bắt đầu là việc gọi
tên các người được chọn. Sau bài giảng của Giám mục, người chịu chức hứa vâng lời
Giám mục và các đấng kế vị. Việc phong chức được thực hiện bằng cử chỉ đặt tay
của Giám mục và kinh nguyện kèm theo. à 215, 236, 259
«
Linh mục tiếp tục công việc cứu rỗi của Chúa
Kitô trên thế giới. Thánh Gioan Vianney
«
Nếu người ta muốn phá Hội thánh, họ bắt đầu tấn
công linh mục, vì không còn linh mục, sẽ không còn thánh lễ, không còn thánh lễ
thì sẽ không còn đạo Công giáo nữa. Thánh
Gioan Vianney
255.
Việc truyền chức phó tế ban ơn gì?
- Trong việc truyền chức Phó tế, người lãnh được trao ban một
sứ vụ riêng trong bí tích Truyền Chức Thánh. Phó tế thay mặt Chúa Kitô Đấng đến
để "phục vụ và hiến dâng mạng sống làm
giá chuộc muôn người" (Mt 20, 28). Trong nghi thức Truyền Chức có nói
rằng: "Phó tế vì là thừa tác
viên của Lời Chúa, của bàn thờ, và của đức Ái, Phó tế sẽ biến mình thành
tôi tớ mọi người". [1569 – 1571]
–
Hình ảnh đầu tiên ta có về hàng phó tế là thánh
Têphanô tử đạo. Khi các tông đồ của Hội thánh tiên khởi ở Giêrusalem bị tràn ngập
bởi nhiều công việc bác ái, các ngài kêu gọi bảy người nam “để phục vụ cho bữa
ăn” mà sau đó các ngài truyền phép. Một vị tên là Têphanô “có đầy ân sủng và sức
mạnh của Thiên Chúa” đã hoàn thành mọi việc để phục vụ đức tin và những người
nghèo của cộng đoàn. Suốt nhiều thế kỷ chức phó tế chỉ là chặng đường dẫn đến
chức linh mục, nay chức phó tế đã trở thành chức vụ riêng biệt hoàn toàn, dành
cho những người độc thân hoặc đã lập gia đình. Một đàng Hội thánh muốn nhấn
mạnh đến việc phục vụ như đặc tính của Hội thánh, và đàng khác Hội thánh muốn,
như trong Hội thánh sơ khởi, phụ thêm cho các giám mục một chức vụ nhằm giúp đỡ
các ngài, và để hoàn thành ngay trong lòng Hội thánh những hoạt động mục vụ và
xã hội. Việc phong chức phó tế cũng in một dấu ấn bí tích (ấn tích) không thể
xóa bỏ cho đến suốt đời. à 140
Các trợ tá cũng vậy, phải là người đàng hoàng, biết giữ lời hứa, không rượu
chè say sưa, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; Họ phải bảo toàn mầu nhiệm
đức tin trong một lương tâm trong sạch. Họ phải được thử thách trước đã,
rồi mới được thi hành chức vụ trợ tá, nếu không bị ai khiếu nại. Các trợ
tá phải là người chỉ có một đời vợ, biết điều khiển con cái và gia đình cho tốt.
1 Tim 3,8.12
Phó
tế là bậc đầu tiên trong bí tích truyền chức
thánh trong Hội thánh Công giáo. Như chính tên đã nói rõ, phó tế dấn thân trước
hết trong các dịch vụ bác ái, và cũng có bổn phận giảng dạy, dạy giáo lý công bố
Tin Mừng, giảng trong Thánh lễ, cử hành bí tích Rửa tội và Hôn phối, và phụ
giúp trong các buổi cử hành.
256. Ai được lãnh Bí tích Truyền Chức Thánh ?
- Chỉ người nam giới, đã được Rửa tội trong đạo Công giáo, được Hội thánh
kêu gọi lên lãnh các chức Phó tế, Linh mục, Giám mục, thì mới lãnh các chức vụ
này thành phép.
[1577 – 1578]
«
Không ai có thể là linh mục
tốt hơn Đức Mẹ. Mẹ có thể nói cách không do dự: "Đây là Mình Tôi", vì
Chúa Giêsu mà Mẹ đã ban cho ta, quả thực là mình của Mẹ. Nhưng Mẹ đã giữ nguyên
địa vị tôi tớ hèn mọn của Thiên Chúa, đến nỗi chúng ta có thể chuyện trò với Mẹ như
là Mẹ chúng ta. Mẹ là một người trong chúng ta, và chúng ta luôn luôn hợp nhất
với Mẹ. Sau khi Con Mẹ qua đời, Mẹ tiếp tục sống trên trái đất để củng cố thêm
sức cho các tông đồ trong nhiệm vụ các ngài, để làm Mẹ các ngài, cho đến khi Hội
thánh trẻ trung thành hình. Mẹ Têrêsa
257.
Nếu chỉ có nam giới được lãnh bí tích Truyền
Chức Thánh thì nữ giới có bị kỳ thị không ?
- Luật nói rằng: chỉ nam giới được lãnh chức thánh, không làm
hạ phẩm giá nữ giới. Đối với Thiên Chúa, nam hay nữ đều có phẩm giá như nhau,
nhưng mỗi giới có những bổn phận và đoàn sủng khác nhau. Hội thánh quen chọn
người nam, chính vì Chúa Giêsu đã chỉ chọn người nam khi lập chức linh mục
trong bữa Tiệc ly. Năm 1994, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố rằng:
"Hội thánh không có quyền truyền chức linh mục cho nữ giới, và mọi tín hữu
của Hội thánh phải dứt khoát tuân giữ quyết định đó ".
–
Thời xưa không có ai đề cao phụ nữ bằng Chúa
Giêsu (điều mà thời đó được coi là khiêu khích), Người đã đồng ý làm bạn với họ
và bảo vệ họ. Nhiều phụ nữ đi theo Chúa Giêsu và Người đánh giá đức tin họ rất
cao. Người đầu tiên làm chứng nhân cho việc Chúa Giêsu sống lại là phụ nữ, bà
Maria Madalena. Vì thế người ta nói rằng bà là “một phụ nữ tông đồ giữa các
tông đồ”. Dầu vậy việc truyền chức linh mục cũng như trách nhiệm mục vụ luôn
luôn được truyền lại cho người nam. Các linh mục người nam phải thay mặt Chúa
Giêsu để tập họp Hội thánh. Chức linh mục là một chức vụ đặc biệt đòi hỏi người
nam phải thi hành vai trò của người nam làm cha. Không có sự ưu thế nào của nam
trên nữ. Các phụ nữ có vai trò trong Hội thánh, như ta thấy qua Đức Maria một
vai trò trung tâm không thua kém người nam, nhưng là vai trò của nữ giới. Bà
Eva trở thành mẹ của mọi người đang sống (St 3,20). Xét theo là mẹ của mọi người
đang sống, các phụ nữ có những tư chất và khả năng đặc biệt. Nếu không có cách
thế riêng biệt mà chỉ phụ nữ mới có như dạy dỗ, loan báo Tin Mừng, sống bác ái,
sống đạo đức và mục vụ, thì Hội thánh “bị cắt cụt một nửa”. Khi những người nam
trong Hội thánh dùng chức vụ linh mục như công cụ của quyền lực, hoặc khi các
người nữ không lo tận dụng những đặc sủng của mình, thì cả hai đã xúc phạm đến
tình yêu và đến Thánh Thần của Chúa Giêsu.
258.
Tại sao Hội Thánh Công giáo đòi các linh mục và
Giám mục sống đời độc thân ?
- Chúa Giêsu đã sống đời độc thân, và muốn dùng cách này để
nói lên tình yêu của Người với Thiên Chúa Cha là không chia sẻ với ai. Cho nên
việc theo lối sống của Chúa Giêsu và sống khiết tịnh không đôi bạn "vì Nước Trời" (Mt 19,12) đã có từ
thời Chúa Giêsu, được coi như là dấu hiệu của tình yêu, của sự hiến dâng cho
Thiên Chúa không chia sẻ, của sự tự nguyện hoàn toàn để phục vụ. Hội thánh Rôma
đòi các linh mục, giám mục của mình theo lối sống độc thân này, trong khi các
Giáo hội Công giáo Đông phương chỉ đòi các Giám mục của họ. [1579 – 1583, 1599]
–
Theo Đức Bênêđictô XVI, sống độc thân không có
nghĩa là “để cho tình yêu trống rỗng, trái lại nó phải mang ý nghĩa đó là người
để cho tình yêu Thiên Chúa chiếm lấy mình. Một linh mục sống độc thân phải chứng
tỏ rằng cuộc đời ngài có sinh sản bởi vì ngài làm cho tư cách là cha của Thiên
Chúa và Chúa Giêsu được thể hiện. Đức Giáo hoàng còn nói với chúng ta rằng
“Chúa Kitô cần những linh mục chín chắn và can đảm, có khả năng và thực hành tư
cách đích thực là cha thiêng liêng.”
«
Hội thánh Công giáo có ý thức
rõ ràng rằng mình sẽ kéo theo một sự đảo lộn triệt để về các giá trị khi loại bỏ
việc sống độc thân không ? Việc sống độc thân của linh mục là một điên rồ của
Tin Mừng, trong đó có chứa một chân lý ẩn giấu. Duy trì việc độc thân Hội thánh
đặt mình vào lãnh vực vô hình, vào Mầu nhiệm Chúa Kitô. Frère Roger Schutz
259.
Chức linh mục tổng quát của các tín hữu khác
với chức linh mục do chức thánh thế nào ?
- Qua bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu đã cho chúng ta gia
nhập vương quốc tư tế của Cha Người (Kh 1,6). Qua chức linh mục tổng quát, tất
cả các Kitô hữu được gọi nhân danh Chúa để làm việc trong thế giới, đem phép
lành và ơn phúc cho thế giới. Trong bữa Tiệc ly, khi Chúa ủy quyền cho các tông
đồ, là Chúa trang bị cho họ quyền ban bí tích để phục vụ giáo dân; những linh
mục có chức thánh này thay mặt Chúa Kitô như là người chăn chiên của dân mình,
và như đầu của Thân thể Chúa là Hội thánh.[1546 – 1553, 1592]
–
Từ “linh mục” có hai nghĩa gần giống nhau là
linh mục và tư tế nhưng thường bị lẫn lộn, vì linh mục và tư tế khác nhau về nội
dung cũng như cả về hình thức nữa (Công đồng Vatican II). Ta phải ngập tràn vui
mừng khi nghĩ rằng những ai được Rửa tội đều là tư tế, bởi vì họ sống trong
Chúa Giêsu Kitô và kết hợp với Chúa Giêsu ở chỗ Người là ai và Người làm gì. Tại
sao ta không thường xuyên cầu nguyện để chúc lành của Thiên Chúa xuống trên thế
giới ? Đàng khác ta phải khám phá ra ân huệ mà Thiên Chúa ban cho Hội thánh đó
là các linh mục có chức thánh, các ngài làm cho Chúa ở giữa ta. à 138
Còn
anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn là hàng tư tế vương giả, là dân
thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng
đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. Xưa anh em
chưa phải là một dân, nay anh em đã là dân của Thiên Chúa, xưa anh em chưa được
hưởng lòng thương xót, nay anh em đã được xót thương. 1 Pr 2,9.10
Hãy
để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ
thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những
lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. 1 Pr 2,5
7. Bí
tích Hôn phối
260.
Tại sao Thiên Chúa tạo dựng có người nam và
người nữ cho nhau ?
-
Thiên Chúa tạo dựng có người nam và người nữ để họ "không còn là hai nhưng là một xương một thịt" (Mt 19,6). Như
vậy họ phải sống trong tình yêu, phải sinh con cái, và trở nên chứng nhân của
một Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta bằng tình yêu vô hạn. [1601 – 1605] →
64, 400, 417
Ta sẽ làm cho ngươi
thành một dân lớn, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao,
ngươi sẽ là một mối chúc lành. St 12,2
261.
Bí tích Hôn phối được thực hiện thế nào?
- Bí tích Hôn phối được thực hiện do hai
người nam và người nữ hứa với nhau trước Thiên Chúa và Hội thánh. Thiên Chúa
nhìn nhận cũng như đóng dấu cho ưng thuận đó để đôi nam nữ thực sự hoàn thành
trong việc kết hợp hai thân xác. Dây liên kết của bí tích Hôn phối ràng buộc họ
cho đến chết, vì chính Thiên Chúa đã nối kết. [1625 – 1631]
–
Bí tích Hôn phối là một quà tặng hỗ tương mà chồng
vợ trao cho nhau. Linh mục hay phó tế nhân danh Hội thánh để trình bày cách hữu
hình rằng hôn phối là một thực tại của Hội thánh và xin chúc lành của Thiên
Chúa xuống trên đôi hôn phối. Một cuộc hôn nhân chỉ được thực hiện nếu có sự
ưng thuận kết hôn, nghĩa là nếu đôi bạn tương lai muốn kết hôn cách hoàn toàn tự
do, không sợ hãi, không bị ép buộc và nếu không có gì ngăn trở sự kết hôn, do
những bất tiện tự nhiên hoặc do Hội thánh (đã kết hôn rồi, đã khấn sống độc
thân).
«
Làm sao diễn tả được hạnh phúc của hôn nhân mà
Hội thánh sắp xếp? Đôi khi Kitô hữu được hiệp nhất bởi cùng một hy vọng, cùng một
ước muốn duy nhất, cùng một kỷ luật chung, cùng một sứ vụ ... không gì chia
cách họ trong tinh thần cũng như trong
thân xác. Ở đâu thân xác nên một thì tinh thần nên một. Tertulianô (160-220 văn sĩ Công giáo tiếng Latinh)
262.
Điều gì cần để lãnh bí tích Hôn phối ?
- Cần 3 điều này: nói lên ưng thuận cách hoàn toàn tự do; cam
kết sống suốt đời, và chỉ quan hệ độc quyền với nhau về tình dục; sẵn sàng sinh
con cái. Tuy nhiên, điều căn bản hơn cả về bí tích Hôn phối là đôi hôn nhân cần
biết rằng họ chính là hình ảnh sống động của tình yêu Chúa Kitô yêu thương Hội
thánh Người". [1644 – 1654, 1664]
–
Đòi hỏi hôn nhân phải một vợ một chồng và không
thể phân ly, đối nghịch với việc nhiều chồng nhiều vợ mà Kitô giáo coi là một tội
căn bản chống lại tình yêu và chống lại quyền con người. Đòi hỏi này cũng đối
nghịch với việc mà người ta có thể gọi là "nhiều vợ nhiều chồng liên tục",
nghĩa là cứ liên tục quan hệ mà không muốn cam kết chỉ trong một lần ưng thuận
duy nhất, không làm lại nữa. Đòi hỏi phải chung thủy trong hôn nhân quy kết là
phải chung thủy suốt đời, và phải loại bỏ mọi quan hệ ngoài hôn nhân. Đòi hỏi
phải đón nhận sinh con cái có nghĩa là đôi
bạn Kitô hữu sẵn sàng đón nhận những đứa con mà Thiên Chúa muốn ban cho. Các
đôi bạn không có con được Chúa kêu gọi đến một hình thức khác của việc
"sinh sản". Nếu khi cử hành hôn phối, một trong các yếu tố trên bị từ
chối, thì không có hôn nhân.
«
Các Kitô hữu không yêu thương khác với những
người khác, nhưng họ được giúp đỡ nhiều hơn. Vô danh
«
Một vợ một chồng, nhiều vợ nhiều chồng. Kitô
giáo không chấp nhận nhiều vợ nhiều chồng, cũng như Nhà nước cấm hai vợ hai chồng.
«
Tình yêu đạt tới hoàn thành trong sự chung thủy.
Kierkegaard
«
Yêu ai là nhìn nhận họ như Thiên Chúa đã muốn họ
như thế. Fedor Dostoïevski
«
Một đôi bạn cởi mở là một
đôi bạn không bao giờ khép kín trên chính mình. Théodor Weissenborn (1933- , văn
sĩ Đức)
«
Yêu ai là nhìn họ như tuyệt vời duy nhất mà người
khác không thấy được. Francois Mauriac
« Yêu là
yêu người khác như họ đang là, đã là và sẽ là. Michel Quoist (1921-1997, linh
mục văn sĩ Pháp)
263. Tại sao Hôn phối không thể phân ly (bất khả phân) ?
- Hôn phối không thể phân ly vì 3 lý do. Trước hết vì việc tự hiến
cho nhau không giữ lại gì đó là chính bản tính của tình yêu. Rồi vì đó giống
như là hình ảnh trung tín vô điều kiện của Thiên Chúa với thụ tạo của Người. Sau
cùng vì nó diễn tả tình yêu hiến dâng của Chúa Kitô cho Hội thánh Người, đến
nỗi chết trên Thánh giá.
[1605, 1612 – 1617, 1661]
–
Vào thời kỳ mà 50% các đôi vợ chồng ly dị, tất
cả các hôn nhân chung thủy với nhau là một dấu hiệu lớn, dấu hiệu về Thiên
Chúa. Trên trái đất chúng ta có biết bao chuyện chỉ là tương đối, nên cần phải
có những người tin rằng chỉ có Thiên Chúa là tuyệt đối. Do đó, những gì không
tương đối là rất quan trọng, chẳng hạn phải tuyệt đối nói sự thật, hoặc phải
tuyệt đối trung thành. Việc trung thành tuyệt đối trong hôn nhân chứng tỏ rằng
đó không phải do khả năng của con người mà đúng hơn là do lòng trung thành với
Thiên Chúa, Đấng luôn luôn trung tín dù chúng ta có phản bội bằng bất cứ cách
nào, và dù chúng ta không biết là Thiên Chúa trung tín như vậy. Kết hôn tại nhà
thờ là chứng tỏ chúng ta đặt tin tưởng hy vọng vào Thiên Chúa hơn là vào khả
năng yêu đương của chúng ta.
Người làm chồng, hãy
yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu
thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy
Hội thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội thánh xinh
đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng
thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể
mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Ep 5,25-28
Nếu ta không trung tín,
Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình. 2 Tm
2,13
Ghen ghét đốt nóng lên
các cãi lộn, còn tình yêu che đậy mọi thứ xúc phạm. Cn
10,12
Chúng tôi là sứ giả
thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy,
nhân danh Đức Kitô chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. 2 Cr
5,20
Mọi lo âu, hãy trút cả
cho Người, vì Người chăm sóc anh em. 1 Pr 5,7
Mẹ đi đâu con sẽ đi đó.
Mẹ lưu lại đâu con sẽ lưu lại đó. Dân của mẹ sẽ là dân của con. Thiên Chúa của mẹ
sẽ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu con cũng sẽ chết ở đó. Xin Giavê xử tàn
nhẫn với con và còn hơn thế nữa, nếu không phải chỉ cái chết mới làm con lìa mẹ.
Rt 16-17
264.
Điều gì đe dọa đôi Hôn phối ?
- Điều thực sự đe
dọa đôi Hôn phối đó là tội. Điều phục hồi cho đôi hôn phối là tha thứ. Điều làm
cho họ được mạnh mẽ là cầu nguyện và trông cậy vào Thiên Chúa hiện diện.
[1606 – 1608]
–
Sự xung đột giữa nam và nữ
trong cuộc sống lứa đôi có khi dẫn tới ghen ghét nhau, đó không phải là dấu hiệu
do hai giới không thể hòa hợp nhau; cũng không phải do có khuynh hướng di truyền
làm cho bất trung, hoặc là có cản trở đặc biệt về tâm lý đối với việc kết hợp để
sinh sống. Thực ra, nhiều đôi vợ chồng bị đe dọa bởi thiếu đối thoại với nhau,
thiếu quan tâm đến nhau. Thêm vào đó, còn có vấn đề kinh tế và xã hội nữa.
Nhưng vai trò chính vẫn là tội: ghen tuông, thống trị, gây gổ, mê dâm, không
trung thành, và các nhân tố phá hoại khác. Vì thế mỗi cặp vợ chồng rất cần đến tha
thứ và hòa giải với nhau, nhờ bí tích Hòa giải.
265.
Có phải mọi người đều được kêu gọi sống bậc Hôn
nhân không ?
- Không phải mọi người được kêu gọi sống đời Hôn nhân. Người
sống độc thân cũng có thể có một cuộc sống nảy nở trong an vui hạnh phúc. Và
một số người đó được Chúa Giêsu chỉ cho một con đường riêng; Chúa mời gọi họ
sống độc thân vì Nước Trời (Mt 19, 12). [1618 – 1620]
–
Nhiều người sống độc thân đau khổ vì cô đơn, và
cảm nghiệm như mình thiếu thốn hoặc bất lợi. Người không lo toan đến vợ chồng
hoặc gia đình thì được hưởng tự do và không lệ thuộc ai. Họ có thời giờ để làm
những việc lý thú và quan trọng mà nếu họ lập gia đình thì không thể làm được.
Có thể Chúa mời gọi họ chăm sóc những người đã bị mọi người bỏ rơi. Không hiếm
khi Chúa gọi một người như thế để gần gũi với Chúa hơn. Đó là trường hợp người
đó cảm thấy mình mong muốn không lập gia đình “vì Nước Trời”. Kitô hữu được ơn
gọi như thế không bao giờ là vì họ coi rẻ việc hôn nhân hoặc coi rẻ đời sống
tình dục. Chỉ có thể tự nguyện sống độc thân khi người ta sống trong tình yêu
và vì tình yêu, như là dấu hiệu mạnh mẽ chứng tỏ Chúa quan trọng hơn tất cả. Sống
độc thân là từ chối việc quan hệ tình dục, nhưng không từ chối tình yêu; họ đến
gặp gỡ Chúa Kitô là hôn phu đang đến
(Mt 25,6) với một trái tim đam mê.
266.
Hôn nhân Kitô giáo được cử hành thế nào?
- Theo Luật, hôn nhân phải được cử hành cách công cộng. Linh
mục hay Phó tế hỏi cô dâu chú rể về ý định thành hôn. Rồi đôi bạn nói với nhau
“Tôi … nhận … làm … và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với … khi thịnh vượng cũng
như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc khỏe mạnh, để yêu thương và tôn
trọng mọi ngày suốt đời …". Linh mục chúc lành cho những lời giao ước đôi
bên đã trao cho nhau. Cuối cùng linh mục phê chuẩn chấp nhận đám cưới và ban
phép lành. [1621 – 1624, 1663]
–
Theo nghi thức cử hành hôn phối Rôma, vị chủ sự
hỏi đôi hôn phối về sự tự do, về sự chung thủy, về sự đón nhận và giáo dục con
cái. Mỗi bên trả lời riêng rẽ. Vị chủ sự hỏi: Anh chị sắp cam kết với nhau bước
vào hôn nhân. Anh chị có tự do và không bị ép buộc không? Đôi bạn trả lời riêng
rẽ: có. Chủ sự : để kết hôn anh chị có hứa yêu thương và kính trọng nhau suốt đời
không? Đôi bạn trả lời riêng rẽ: có. Chủ sự: anh chị có sẵn sàng đón nhận con
cái mà Chúa ban và giáo dục chúng theo Tin Mừng của Chúa Kitô và trong đức tin
của Hội Thánh không? Đôi bạn trả lời riêng rẽ: có. Chủ sự: anh chị có sẵn sàng
cùng nhau đảm nhận sứ vụ là Ki tô hữu trong thế giới và trong Hội Thánh không?
Đôi bạn trả lời riêng rẽ: có.
267.
Phải làm gì khi một người Công giáo muốn kết
hôn với một Kitô hữu không Công giáo?
- Đây là cuộc Hôn phối "hỗn hợp", cần phải được
Giáo quyền cho phép rõ ràng. Hội thánh đòi đôi bên phải đặc biệt trung thành
với Chúa Kitô, tránh gương xấu chia rẽ giữa đôi bên trong một gia đình nhỏ bé,
và tránh dẫn đến chỗ bỏ thực hành đức tin. [1633 – 1637]
«
Sự khác biệt về niềm tin giữa một bên Công giáo
một bên được Rửa tội ngoài Công giáo không phải là ngăn trở không thể vượt qua
được để kết hôn, khi cả hai đạt tới chỗ đóng góp chung cho nhau những gì mỗi
bên đã nhận nơi cộng đoàn của mình, và giúp nhau biết cách mỗi bên trung thành
với Chúa Kitô. Giáo lý Hội Thánh Công
Giáo 1634
Phép chuẩn: Giáo luật của Hội thánh có nói đến phép chuẩn, đó là việc cho phép
không giữ đúng luật Hội thánh. Chỉ có Giám mục hoặc Tòa Thánh có quyền ban phép
chuẩn.
268.
Người Công giáo có được kết hôn với một người
khác đạo không ?
- Người Công giáo kết hôn với người theo một đạo khác (vd
Phật giáo), có thể là nguyên nhân gây khó khăn cho đức tin của bên Công giáo,
và khó khăn cho con cái sau này. Vì có trách nhiệm đối với các tín hữu, Hội thánh
lập ra thủ tục xin tha ngăn trở khác đạo. Muốn cho cuộc hôn nhân như thế thành
phép, Hội thánh đòi phải xin tha ngăn trở khác đạo cách rõ ràng. Hôn phối này
không phải là Bí tích.
[1633 – 1637]
269.
Vợ chồng không còn hợp ý, luôn "gây
chiến" với nhau có được li dị không ?
- Hội thánh luôn rất trọng kính khả năng của người ta trong
việc giữ lời hứa và cam kết chung thủy với nhau suốt đời. Hội thánh nhớ lời họ
đã đoan hứa, và biết rằng mọi cuộc hôn nhân đều có nguy cơ gặp khủng hoảng. Họ
cần đối thoại với nhau, cầu nguyện với nhau, có thể nhờ “tư vấn trị liệu” mở
đường giúp thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Nhưng luôn luôn vẫn phải hy vọng khi
nhớ rằng trong bí tích Hôn phối còn luôn luôn có Người thứ ba ràng buộc, đó là
Chúa Kitô. Người luôn hiện diện trong cuộc cam kết của đôi bạn. Tuy nhiên, có
những người không thể chịu được nữa hoặc khi ai đó bị bạo hành thể xác hay tinh
thần, họ có thể ly thân. Người ta gọi là ly thân (không còn chung sống), trường
hợp này cần phải trình Hội thánh. Trong những trường hợp này, ngay cả khi
đời sống chung cắt đứt, hôn nhân vẫn còn giữ nguyên tính thành phép. [1629,
1649]
–
Cũng có những trường hợp phát xuất do việc một
bên hoặc cả hai bên đều không thích hợp với hôn nhân khi đã cam kết, hoặc khi sự ưng thuận không
được đầy đủ. Hôn nhân như vậy không thành-sự theo nghĩa pháp lý. Trong trường hợp
đó, có thể nộp đơn xin chứng nhận là hôn nhân không thành-sự ở tòa án Hội thánh
có thẩm quyền.
Chớ để mặt trời lặn
mà cơn giận vẫn còn. Đừng để ma quỷ thừa
cơ lợi dụng. Ep
4,26-27
«
Thực ra tình yêu được thử
nghiệm trong việc trung thành, nhưng nó chỉ hoàn thành trong tha thứ. Werner Bergengruen (1862-1964, văn sĩ Đức)
270.
Hội thánh có lập trường thế nào với những người
li dị rồi tái hôn ?
- Theo lời dạy của Chúa Giêsu, Hội thánh vì tình yêu đón nhận
họ cách yêu thương. Bất cứ ai thành hôn trong Hội thánh, sau đó li dị, rồi tái
hôn, thì làm nghịch lại đòi hỏi rõ ràng của Chúa Giêsu là "hôn nhân bất khả phân ly". Hội
thánh không thể xóa bỏ đòi hỏi này. Đã rút lại sự trung tín khi ly dị, rồi
lại tái hôn, đó là phản lại với bí tích Thánh Thể, là bí tích nói lên đặc tính
Tình yêu Thiên Chúa không thể đảo ngược, không thể đổi thay. Do đó, những người
tái hôn này đã sống trong tình trạng mâu thuẫn như thế, họ không được rước lễ. [1665,
2384]
–
Đức Bênêđictô XVI nói rằng không phải giải quyết
mọi trường hợp như nhau, Đó là một “tình trạng đau khổ” và ngài mời gọi các mục
tử cần phân biệt những tình trạng khác nhau, để giúp đỡ về phần thiêng liêng,
và bằng cách thích hợp nhất các tín hữu đó. (Bí tích tình yêu, 29) à 424
«
Những người ly dị tái kết hôn, mặc dầu trong
tình trạng như vậy họ vẫn thuộc về Hội thánh, Hội thánh vẫn chăm chú theo họ
cách đặc biệt, và ước mong họ cố gắng phát triển một lối sống Kitô hữu bằng
cách vẫn tham dự Thánh lễ, nhưng không rước lễ ; bằng cách nghe Lời Chúa, thờ lạy
Chúa trong bí tích Thánh Thể và cầu nguyện; bằng việc tham gia vào đời sống cộng
đoàn; bằng việc đối thoại không ngần ngại với một linh mục hay một người hướng
dẫn thiêng liêng, bằng việc tận tụy bác ái cụ thể và làm việc đền tội, bằng
việc dấn thân để giáo dục con cái họ. Đức Bênêđictô XVI, Bí tích tình yêu
271.
Khi nói gia đình là Hội thánh thu nhỏ nghĩa là
gì ?
- Hội thánh ở trên qui mô lớn, gia đình ở trên qui mô nhỏ, đó
là hình ảnh Tình yêu Chúa trong cộng đồng nhân loại. Thực vậy, mọi cuộc hôn
nhân đều được hoàn thành khi mở ra cho người khác, cho con cái Thiên Chúa gửi
đến, cho sự chấp nhận nhau, cho sự hiếu khách, cho việc phục vụ mọi người. [1655
– 1657]
–
Điều quyến rũ nhất nơi các
Kitô hữu của Hội thánh đầu tiên, những người vừa mới theo “đạo”, đó là các Hội
thánh thu nhỏ. Một người đến và tin vào Chúa thường kéo theo cả gia đình họ;
và nhiều người trở thành tín hữu và xin được Rửa tội (Cv 18,8). Nhiều gia đình
trở về với Chúa đã trở thành những đảo nhỏ sống đạo trong một thế giới không đức
tin, trở thành những nơi để cầu nguyện, để chia sẻ và để tiếp đón ân cần thân mật.
Rôma, Côrintô, Antiôkia, những thành phố lớn thời xưa có rải rác nhiều Hội
thánh thu nhỏ, giống như những điểm chiếu sáng. Ngày nay, những gia đình được
Chúa Kitô cư ngụ cũng có thể trở thành men làm cho xã hội chúng ta được đổi mới.
→ 368
«
Nếu bạn muốn ai trở thành Kitô hữu, hãy mời họ
sống trong nhà bạn một năm. Thánh
Gioan Kim Khẩu
«
Không ai lại không có gia đình trong thế giới
này. Hội thánh là nhà, là gia đình của mọi người, đặc biệt của những người đau
khổ và đang mang những gánh nặng. Đức
Gioan Phaolô II, Tông huấn gia đình
Chương 4.
Các cử hành phụng vụ khác
(Các Á Bí
tích)
272. Các Á Bí tích là gì ?
- Là các dấu tích thánh, hoặc các
việc thánh có kèm theo sự chúc lành của Hội thánh. [1667 – 1672, 1677 – 1678]
–
Ví dụ: làm phép
nước thánh, làm phép chuông, đàn, làm phép nhà, xe, làm phép tro ngày xức tro,
lá dừa, nến phục sinh, làm phép hoa quả lễ Đức Mẹ Lên trời, phép lành khi hành
hương...
273. Hội thánh vẫn còn trừ quỉ sao ?
- Mỗi lần Rửa tội, có nghi lễ
gọi là "trừ quỉ đơn giản” đó là lời cầu nguyện xin cho người sắp
được Rửa tội thoát khỏi quỉ dữ và được mạnh sức chống lại "tên thủ lãnh và
quyền lực của nó" đã bị Chúa Giêsu đánh bại. Còn nghi lễ trừ quỉ
trọng thể là lời cầu nguyện mà Hội thánh dựa vào uy quyền của Chúa Kitô xin cho các Kitô hữu đã
được Rửa tội thoát khỏi ảnh hưởng và quyền lực tà thần. Hội thánh ít khi
dùng lời nguyện này, và chỉ sau khi kiểm tra rất nghiêm ngặt mới dùng. [1673]
– Những việc trừ quỷ mà
ta thấy trong phim ảnh của Hollywood không có liên quan gì với những trừ quỷ mà
Chúa Giêsu và Hội thánh thực hiện. Chúa có quyền trên các sức mạnh của sự dữ,
và Người có thể giải thoát những người bị quỷ ám. Người ban cho các Tông đồ quyền trục xuất các thần dữ và chữa lành mọi
bệnh hoạn tật nguyền (Mt 10,1). Hội thánh không làm gì khác cả ngoài việc
linh mục có thẩm quyền trừ quỷ, đọc lời cầu nguyện trừ quỷ trên người đến xin
ngài trừ. Cần phải kiểm tra trước để loại bỏ trường hợp mắc bệnh tâm thần (Việc
này phải nhờ đến thầy thuốc tâm thần).
Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em,
như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức
tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng
một loại thống khổ như thế. 1 Pr
5,8-9
Trừ quỷ: Đây là kinh cầu nguyện để nhờ đó một người
được che chở khỏi quỷ dữ hoặc thoát khỏi sự giam hãm của quỷ dữ.
274. Việc "Đạo đức bình dân" quan
trọng thế nào ?
- Lòng đạo đức bình dân được
biểu lộ qua sự tôn kính các thánh tích, rước kiệu, đi hành hương và các loại
tôn sùng khác, đó là những việc giúp ta nhận ra tầm quan trọng của việc đức tin
phải hội nhập vào văn hóa. Đó là việc tốt, bao lâu còn tùy thuộc vào Hội thánh,
và đưa dẫn tới Chúa Kitô, chứ không nhằm để "vào" Thiên đàng nhờ các
việc đó, mà không cần nhờ tin vào ơn Chúa.[1674 – 1676]
« Đạo đức bình dân là một trong những sức mạnh
của chúng ta, vì nó diễn tả những lời cầu nguyện ăn sâu vào tận thâm tâm con
người. Ngay cả những người đã xa Hội thánh, hoặc không có cảm thức nhiều lắm về
đức tin, cũng có thể xúc động vì những
hình thức cầu nguyện đó. Chỉ cần “làm cho sáng tỏ” các cử chỉ đó và “thanh tẩy”cái
truyền thống đó, để tất cả được hội nhập trong đời sống Hội thánh. Đức Bênêđictô XVI,
22-2-2007
275. Có được tôn kính các thánh tích không ?
- Thánh tích có nghĩa là xương
cốt của các vị thánh, hoặc là các vật dụng mà các ngài dùng. Tôn kính thánh
tích là nhu cầu tự nhiên của con người, là cách tỏ lòng tôn kính sùng mộ các
thánh. Tôn kính các thánh vì các ngài đã dâng hiến cả đời sống cho Chúa, đó là
ta ca ngợi hành động của chính Chúa vậy. [1674]
Thánh tích là những di vật của thân xác
các thánh hoặc những đồ vật mà các ngài dùng.
276.
Đi "Hành hương" có mục đích gì ?
- Một ít người đi hành hương để "cầu nguyện bằng
đôi chân", họ có kinh nghiệm bằng các giác quan rằng cả cuộc đời mình là
một cuộc hành trình dài tiến về cùng Thiên Chúa. [1674]
–
Trong Cựu ước dân
Tôi vui mừng khi người
ta nói với tôi: "Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa". Chân chúng ta đã đứng
nơi cửa tiền đình, Giêrusalem. Tv 122,1-2
«
Hội thánh bước đi vững vàng, tiến về đường hành
hương của mình, giữa những thử thách trên đời và những an ủi của Thiên Chúa. Thánh Augustinô
«
Những con đường của Thiên Chúa là những con đường
mà chính Thiên Chúa đã mượn mà ngày nay ta phải bước đi cùng với Người. Dietrich Bonhoeffer
277.
Chặng đường Thánh giá là gì?
- Theo Chúa Giêsu vác thánh giá lên núi Sọ bằng cách cầu
nguyện và suy gẫm 14 chặng đàng là sự sùng kính rất cổ xưa trong Hội thánh,
nhất là trong mùa Chay và Tuần Thánh. [1674 – 1675]
«
Thánh giá của Chúa ôm ấp
toàn thế giới. Đường thánh giá của Chúa đi ngang qua các lục địa và ngang qua cả
thời gian. Theo dõi đường thánh giá, chúng ta không thể chỉ là những khán giả
vô tư. Chúng ta cũng phải tham gia vào đường thánh giá và phải tìm xem chỗ của
chúng ta là chỗ nào. Chúng ta đang ở đâu? Đức Bênêđictô XVI, 14-4-2006
«
Thánh giá của bạn. Sự khôn
ngoan vô cùng tự đời đời đã tặng ban cho bạn thánh giá như một món quà quý báu.
Thánh giá này trước khi trao cho bạn, Người đã nhìn bằng đôi mắt biết hết mọi sự,
Người đã suy nghĩ trong trí tuệ thần linh của Người, Người đã nghiên cứu với sự
công chính dịu dàng của Người, Người đã đo để xem nó có to quá không, đã cân để xem nó có quá nặng không. Rồi Người đã chúc
lành cho nó bằng danh Thánh của Người, Người đã xức dầu bằng ân sủng của Người,
và nó được thấm nhuần sự an ủi của Người. Rồi Người còn đánh giá sự can đảm của
bạn, và ngay bây giờ Người từ trời đến với
bạn, như ân huệ của Thiên Chúa nhân lành, ân huệ của tình yêu thương xót của
Người. Thánh
Phanxicô Salêsiô
Hình ảnh 14 chặng đàng thánh giá
278.
Việc an táng Kitô hữu có đặc điểm gì?
- An táng Kitô hữu là việc được
cộng đoàn Công giáo thực hiện để cầu cho người quá cố được ơn phúc. Lễ nghi an
táng bày tỏ nỗi đau buồn của thân nhân người đã qua đời, tuy nhiên, qua lễ
nghi, Hội thánh muốn làm nổi bật đặc tính Vượt qua để phục sinh của cái chết Kitô
giáo. Chúng ta chết trong Chúa Kitô để có thể cử hành lễ Phục sinh với Người. [1686 – 1690]
«
Nhờ cái chết mà ta không xa lìa nhau, vì ta đều
đi cùng một đường, và ta sẽ lại gặp nhau tất cả ở cùng một nơi. Thánh Symêon người Thessalônica (1429 nhà thần học).