MỘT
VÀI NÉT CHÍNH YẾU TRONG VIỆC CANH TÂN GIÁO LÝ (giaolyductin.net)
Từ xa xưa, việc dạy
giáo lý được hiểu như là việc dạy giáo huấn Kitô giáo dựa vào “sách giáo lý”,
ngày nay, dưới ánh sáng của những chỉ dẫn và những yêu cầu thực tế, Giáo lý
được nhìn nhận như là việc phục vụ Lời Chúa, Lời nhập thể trong kinh nghiệm đức
tin, trong việc thực hiện hành trình phát triển và trưởng thành một cánh sống
động khi được tháp nhập vào kế hoạch canh tân tổng thể của Giáo Hội.
Theo hình thức giản
lược, chúng ta có thể nhìn lại “khuôn mặt giáo lý được canh tân” qua những nét
chính sau:
1. Một định hướng căn
bản mới: Giáo lý trong tiến trình Loan báo Tin Mừng
- Việc dạy giáo lý được
chuyển tiếp từ hoạt động mục vụ “hoán cải” đến mục vụ Loan báo tin
Mừng, mục vụ Truyền giáo (kết thúc thời kỳ “Kitô
giáo”).
- Dạy Giáo lý, “thời
điểm thiết yếu của tiến trình loan báo Tin Mừng” (HDTQ 63-64), không thể chỉ
giới hạn vào việc thăng tiến mẫu người “Kitô hữu tốt” hoặc “người
tín hữu thực hành đạo”, mà nhất là phải khơi dậy hình ảnh những Kitô
hữu chân chính, từ đức tin cá nhân hóa nhờ thức tỉnh hoán cải, chọn
lựa vì Tin Mừng và niềm vui được là Kitô hữu.
- Giáo lý phải “phục vụ
việc khai tâm Kitô giáo” (HDTQ 65-68). Ngay bước đầu tiên của “bài giáo lý”
phải lập tức có mối bận tâm cho việc khai tâm: nếu như trước
đây người ta quan tâm đến việc dạy các giáo điều, thì ngày nay người ta tái
khám phá tầm quan trọng thiết yếu là tiến trình khai tâm, đó cũng là tiến
trình dự tòng, tiến trình này như việc khởi đầu hoặc tái khai tâm
đức tin Kitô giáo.
2. Một nhận định mới
về chủ thể và những chủ đích giáo lý:
- Từ việc ưu tiên dạy
giáo lý cho trẻ em và nhi đồng người ta hướng đến việc dạy giáo lý cho
người lớn và người “trưởng thành” (HDTQ 172-176). Sự
lưu tâm đến thế giới của thiếu nhi nhường chỗ ưu tiên hàng đầu cho giáo
lý người lớn và giáo lý cho người trưởng thành, nhưng
không xao nhãng việc giáo dục tôn giáo cho các trẻ em và người trẻ. Hơn nữa
người ta cũng lưu tâm đặc biệt đến việc giáo dục tôn giáo cho những người khuyết
tật, thường hay bị xao nhãng trong thực hành mục vụ.
- Xuất hiện một tầm
nhìn rộng lớn về nhiệm vụ giáo lý. Từ một giáo lý “đơn điệu”
bị giản lược hầu như chỉ trong việc truyền bá kiến thức tôn giáo, người ta
chuyển sang một viễn tượng rộng lớn hơn đó là việc đào tạo người Kitô
hữu toàn diện (HDTQ 84) về kinh nghiệm niềm tin Kitô giáo.
- Từ việc dạy giáo
lý cá nhân chuyển sang việc dạy giáo lý theo hình thức cộng
đoàn.Nhấn mạnh vai trò cần thiết của cộng đoàn và nhóm trong toàn bộ tiến
trình trưởng thành đức tin: cộng đoàn được nhắc đến như điều kiện, nơi
chốn, chủ thể, đối tượng và mục đích của giáo lý
(HDTQ 141, 158, 219-221, 253-257).
- Từ việc đặt trọng tâm
vào thực hành đạo chuyển sang ưu thế của đức tin dấn
thân.Người ta cảm thấy cần khuyến khích, cổ võ những “tín hữu dấn
thân”, những người có niềm tin được đâm rễ sâu và những người mở ra
dấn thân trong thế giới hơn là những “tín đồ thực hành đạo” (giữ đạo).
- Từ một giáo lý “chuẩn
bị” lãnh bí tích, chuyển sang giáo lý “giáo dục đức tin” (HDTQ
84). Từ định hướng truyền thống “sùng đạo” của việc dạy giáo lý phát sinh mối
bận tâm về việc giáo dục thái độ tin và giáo dục tình yêu như là
“nghi lễ của cuộc sống”.
3. Một cái nhìn mới
về nội dung giáo lý
- Kinh nghiệm,
trước khi là giáo điều (HDTQ 116-117, 152-153). Thay vì nhắm vào việc thông
truyền “giáo huấn” Kitô giáo, dạy giáo lý trước hết phải là
việc “thông truyền kinh nghiệm đức tin”. Kinh nghiệm
đức tin kitô giáo xây dựng nội dung giáo lý. Điều này không miễn trừ
phương diện giáo huấn, nhưng kết hợp nó trong một bối cảnh rộng lớn và sống
động hơn.
- Từ giáo lý của chân
lý “ban tặng” đến giáo lý của chân lý “ban tặng và lời
hứa”. Với sự diễn tả này người ta nhấn mạnh đến bước chuyển tiếp từ
việc truyền bá những chân lý đã được nắm giữ (giáo lý chỉ toàn những điều “chắc
chắn”) đến một giáo lý mà không thỏa hiệp những yếu tố chắc chắn và quyết định
về niềm tin Kitô giáo, việc dạy giáo lý cũng tuân theo chiều kích cánh
chung của mạc khải, chân lý vẫn xảy đến vì còn tồn tại những điều chưa
hoàn tất; vì thế việc dạy giáo lý phải là việc mở ra cho sự tìm kiếm, chiếu
sáng cho bóng tối của sự hoài nghi và mở ra cho sự kiên trì trông đợi nữa.
- Từ nội dung “gạn lọc
kết tinh” đến sứ điệp nhập thể và nhập thế (hội nhập
vào lịch sử). Thay vì một nội dung “bất biến”, bất di bất dịch theo
thời gian, người ta nhấn mạnh đến chiều kích lịch sử của mạc
khải và những cố gắng “nhập thể” hoặc “hội nhập văn hóa đức tin”
trong những bối cảnh văn hóa khác nhau.
- Từ giáo lý của “chân
lý” đến sự quan tâm “tính có ý nghĩa”. Đối với định kiến giáo huấn mang tính
thần học đúng đắn, nảy sinh việc đòi hỏi phải bảo đảm đặc tính “ý
nghĩa”, sự sống, hiện sinh của sứ điệp được loan truyền. Không được
phớt lờ “đòi hỏi chân lý”, mà trước hết phải khao khát thông truyền một giáo lý
làm sao để người nghe cảm nhận được đặc điểm của “Tin Mừng”, của tin vui và của
sứ điệp Kitô giáo.
- Về mối bận tâm đối
với tính chính thống là sự trung thành với các nguồn
mạch (trước tiên hết là Thánh Kinh, trọng tâm là các Tin
Mừng: HDTQ 41). Giáo lý chăm chú đến việc “trao” (chuyển giao) đức tin
(HDTQ 85 và 88) đồng thời cảm thấy có bổn phận tái giáo dục tính khả
tín của lời chứng (chứng từ).
4. Một viễn tượng mới
về sư phạm giáo lý
- Từ việc đặt trọng tâm
vào kiến thức đến việc đặt ưu tiên hàng đầu về thái
độ (cf. HDTQ 85-86). Giáo lý không chỉ truyền bá toàn bộ di sản kiến
thức tôn giáo, nhưng là phải hướng đến giáo dục thái độ nội tâm đức tin đúng
đắn.
- “Rao giảng Tin
Mừng bằng giáo dục và giáo dục bằng Rao giảng Tin Mừng” (HDTQ 147). Tiếp
nhận tầm quan trọng của chiều kích giáo dục và thăng
tiến trong giáo lý, để ý đến nguy cơ giáo điều (nhồi sọ) mất đi tính
cách cá nhân… Người ta bận tâm đến một giáo lýgiáo dục và thăng
tiến, tôn trọng sự tiệm tiến và khả năng dẫn đến đức tin trưởng thành.
- Từ việc truyền thông
đơn giản bằng lời đến việc truyền thông bằng ngôn ngữ đa dạng
(HDTQ 208-209). Người ta muốn khắc phục sự thiếu hụt việc dạy giáo lý “thủ bản”
và việc truyền bá chỉ bằng lời, để mở ra một sự đa dạng về ngôn
ngữ (tường thuật, biểu tượng, cử hành, chứng từ, nghệ thuật, v.v…) và
mở tầm nhìn đến một thế giới rộng lớn của phương tiệnthông tin đại
chúng và truyền thông xã hội.
- Từ sư phạm đồng
hóa (hấp thụ - assimilation) đến sư phạm sáng tạo. Người
ta mong ước bước chuyển tiếp từ việc dạy giáo lý đơn giản chỉ là “hấp thụ”,
thuần túy tiếp nhận một nội dung đã định sẵn, đến một việc dạy giáo lý mang
tính sáng tạo và tính đồng trách nhiệm (HDTQ
157).
5. Sự quan tâm nổi bật
đến nơi chốn và môi trường mới cho việc dạy
giáo lý
- Việc dạy giáo lý
trong cộng đoàn và trong nhóm: người ta nhấn
mạnh vai trò của cộng đoàn và vai trò của nhóm (HDTQ
159) như những nơi chốn và điều kiện tuyệt vời không thể thiếu cho sự trưởng
thành đức tin, trước hết là mối quan hệ về nội dung và sự cấp thiết về “tương
quan cá vị” của giáo lý viên.
- Sự kích hoạt giáo
lý gia đình (HDTQ 226-227): đứng trước thái độ thường là thụ
động của các bậc cha mẹ, họ ủy thác trách nhiệm giáo dục tôn giáo của con cái
họ cho người khác, đây là trách nhiệm được định giá lại và cổ võ khả năng giáo
dục và giáo lý gia đình, gia đình như là tế bào của Giáo Hội và là nơi ưu tiên
của việc giáo dục đức tin (nhất là giáo lý kinh nghiệm và giáo lý theo cơ hội).
- Tầm quan trọng
của cộng đoàn nhỏ hoặc cộng đoàn cơ bản (HDTQ
263-264). Người ta đã tái khám phá tiềm năng rao giảng Tin Mừng và tiềm năng
dạy giáo lý nơi những cộng đoàn nhỏ ở mức độ nhân bản (human).
- Sự phân biệt giữa
việc dạy giáo lý và dạy tôn giáo ở học đường (cf.
HDTQ 73-75). Ngày nay nảy sinh vấn đề trường công như là một nơi chốn để trình
bày giáo lý của Giáo Hội. Nhìn chung, người ta có khuynh hướng xem viêc dạy tôn
giáo nơi học đường như một tiếp cận giáo dục và văn hóa của
hoạt động tôn giáo.
6. Một dung mạo mới
của Giáo lý viên và việc đào tạo GLV
- Trong truyền thống,
việc dạy giáo lý hầu như do các giáo sĩ chiếm độc quyền, nay chuyển sang giáo
lý viên giáo dân, những người cắm rễ trong đời sống dân chúng, những chứng
nhân đức tin trong thế giới.
- Bổn phận của GLV được
tái khám phá như thừa tác viên thực thụ của Giáo Hội, xứng
đáng được chính thức nhìn nhận trong cơ cấu tổ chức và những kế hoạch mục vụ.
- Người ta cảm thấy có
một đòi hỏi chính đáng khi nghĩ tới việc đào tạo và sự đầu
tưđúng đắn cho việc này. Khắc phục tình trạng huấn luyện hời hợt, ứng biến
“mì ăn liền”, cổ võ một sự huấn luyện linh đạo kỹ lưỡng cho
GLV và huấn luyện tính “chuyên nghiệp” thể hiện trong 4 chiều kích
căn bản: là (essere/being – dung mạo nội tâm), biết (sapere/knowledge
- hành trang kiến thức), biết làm (saper fare/savoir faire –
khả năng làm việc) và biết sống / làm việc chung với nhau (saper
vivere insieme/being together - khả năng tương giao).
7. Một ý nghĩa mới về
việc dạy giáo lý trong Giáo Hội và xã hội
- Từ việc dạy giáo lý
hữu hiệu đến việc bí tích hóa trong nội bộ Giáo Hội, người ta
chuyển sang một giáo lý khai tâm, mà then chốt là Loan báo
Tin Mừng.
- Giáo lý “trở lại / hoán
cải” mà hiện nay muốn bảo tồn, phải trở thành giáo lý của sự “biến đổi”,
nhằm phục vụ một kiểu mẫu tín hữu mới, một mô hình cộng đoàn và mô hình Giáo
Hội mới.
- Từ lòng sùng
đạo, nảy sinh mối bận tâm đến một giáo lý giải thoát và dấn
thân, việc dạy giáo lý lưu ý đến chiều kích xã hội và lịch sử của đức
tin.
- Cuối cùng, dạy giáo
lý là mở ra cho cuộc gặp gỡ và đối thoại. Từ
việc dạy giáo lý chú trọng đến sự bảo vệ ngày một hơn chính căn tính của mình,
nảy sinh một tinh thần mở rộng và đối
thoại, nhạy cảm với chiều kích đại kết và có khả năng
cổ võ sự hiểu biết lẫn nhau và sự chung sống hòa bình giữa những người có niềm
xác tín và quan điểm khác nhau.
Md Phạm Thúy
Lược soạn từ EMILIO ALBERICH, La
catechesi oggi. Manuale di Catechetica fondamentale, Elledici (TO),
2001, 307-310.