PHẢI HIỂU CÂU NÓI: “NGOÀI GIÁO HỘI KHÔNG CÓ ƠN CỨU ĐỘ”
THẾ NÀO?
Anh Phương (daminhvn.net)
Đây là một định thức được coi như của thánh Cypriano, Giám mục
Carthage, Bắc Phi, nhưng thực ra nó đã có từ trước. Bài này
phác họa đôi nét chính yếu về các cách giải thích “Ngoài Giáo hội không có ơn
Cứu độ”.
I. THEO CÁC GIÁO PHỤ
1. Thánh Inhaxio thành Antiochia
Có lẽ, thánh Inhaxio thành Antiochia là người đầu tiên tuyên
bố câu này. Một trong những đề
tài Người viết cho các cộng đoàn là cần phải có sự hợp nhất sâu sắc trong Giáo
hội, hợp nhất trong Giám mục địa phương như là điều kiện hiệp nhất với Thiên
Chúa.
“Đối với Thiên Chúa và Đức Giê-su thì cũng như đối với Giám
mục. Hoán cải trở về hiệp nhất với Giáo hội làm cho con người
thuộc về Thiên Chúa và sống hòa hợp với Đức Giê-su Ki-tô. Hỡi
anh em, đừng lầm lạc nữa. Nếu ai đó muốn đi theo
Đức Ki-tô mà lại ly khai khỏi Giáo hội, người đó sẽ không được thừa hưởng vương
quốc Thiên Chúa. Nếu ai đó đi theo các tư tưởng kỳ lạ,
người ấy không hòa hợp với cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô” (Inhaxio, thư gởi
Philadenphia, chương III).
Những lời trên chỉ được nói với những người Ki-tô giáo có toan tính
tách khỏi Giáo hội, hoặc đã ly khai theo lạc giáo rồi,
chứ không nói với những người ngoài Ki-tô giáo. Dẫu sau, vị
Giám mục này cũng coi những người tách khỏi Giáo hội là phạm tội và họ phải
chịu trách nhiệm bị loại khỏi ơn cứu độ. Người viết:
“Để họ đừng nghĩ rằng con đường cứu độ được mở ra cho họ, nếu họ từ
chối vâng phục các Giám mục hoặc Linh mục… Lưỡi gươm của
Thánh thần sẽ phanh thây sự cao ngạo và hỗn xược khi họ liều mình tách khỏi
Giáo hội. Chỉ có một nhà của Thiên Chúa và không có ơn cứu độ cho những
ai sống ngoài nhà này, là Giáo hội” (thư gởi
Philadenphia, chương IV).
2. Thánh Gregori thành Nysse
Theo thánh Gregori thành Nysse, ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ
được áp dụng rõ ràng cho dân ngoại và người Do thái, vốn là những người có cơ
hội nhận biết và tin theo đức tin Ki-tô giáo, nhưng họ lại khước từ, từ đó họ
bị loại khỏi ơn cứu độ. Vào thế kỷ IV, đế quốc Roma với hoàng
đế Galerius (311) đã bách hại Ki-tô giáo. Nhưng đến
thời
“Nếu chúng tôi công bố mầu nhiệm Tin mừng chính là nói lên
rằng đó là ý muốn của Thiên Chúa. Ý
muốn đó là nhân loại được bảo đảm ơn cứu độ nhờ đức tin của họ. Trong khi đó, có những người đứng bên ngoài và chống lại mạc khải
này. Lời mời gọi của Thiên Chúa là cho tất cả mọi người không phân biệt
tuổi tác quốc gia…” (Gregori thành Nysse, các tác phẩm hộ
giáo).
3. Thánh Augustino giám mục Hippo
Thánh Augustino khẳng định ơn cứu độ cho tất cả mọi người
sống công chính trước khi Chúa Giê-su đến. Hơn nữa, qua
đức tin vào Đức Giê-su, con người được cứu độ. Thánh nhân không giải thích rõ
ràng làm thế nào con người có thể đạt được mạc khải về Đức Ki-tô. Tuy nhiên,
một đức tin “không rõ ràng” vào Đức Ki-tô cũng đủ vào thời tiền Ki-tô
giáo.
“Con người không thể được cứu độ ngoại trừ trong Giáo hội Công
giáo. Ngoài Giáo hội Công giáo, con người có mọi sự ngoại trừ
ơn cứu độ. Nó có danh dự, có các Bí tích, hát lên Alleluia, đáp lại
Amen, có Tin mừng, có và rao giảng đức tin nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần; nhưng không bao giờ có được ơn cứu độ ngoại trừ trong Giáo hội Công
giáo” (diễn từ gởi cho Giáo hội Cesare, cuốn 3).
Ơn cứu độ cho nhân loại dựa trên Đức Ki-tô, là đầu và trên chi thể
của Người- Giáo hội -vốn luôn hoạt động và hiện diện,.
“Giáo hội và Đức Ki-tô làm thành một con người duy nhất” (Giáo phụ học , cuốn 4, 1986).
Theo thánh Augustino, Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, tuy
nhiên con người cần cộng tác với ân sủng của Thiên
Chúa để đạt được ơn cứu độ. Con người có tự do chọn lựa hay không? Người cho
rằng những người không tin, không - Ki-tô giáo, lạc giáo, ly giáo là chống lại
ý muốn Thiên Chúa. Do đó, họ bị loại khỏi ơn cứu độ.
“Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý,
nhưng Ngườicũng không lấy đi tự do chọn lựa của họ, chọn lựa giữa tốt hoặc xấu,
theo đó họ sẽ bị xét xử. Như vậy, những người không tin chắc chắn hành động
ngược với ý muốn Thiên Chúa khi không tin vào Tin mừng của Người (Niềm tin của
các Giáo phụ tiên khởi, cuốn 3, 1970).
Theo thánh Augustino, những người không tin, không lãnh phép
rửa tội là đứng ngoài Giáo hội và bị loại khỏi ơn cứu độ. Tội nguyên tổ kết án cả người lớn không
có đức tin Ki-tô giáo cũng như trẻ nhỏ chết mà chưa được rửa tội. Theo Ngài, ân sủng của Đức Ki-tô còn vượt quá mọi công trạng, nhưng là
ơn huệ Gratis.
II. THỜI TRUNG CỔ
Thánh Toma Aquinas
lý luận ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ vì chỉ trong Giáo hội con người mới
có đức tin và các Bí tích là phương tiện cần thiết giúp đạt tới ơn cứu độ. Là
đầu của thân mình Hội thánh, Đức Ki-tô đổ tràn ân sủng
của Người cho mọi thành phần của Giáo hội vốn có sự thông hiệp trong thân thể
nhiệm mầu. Khi nói về Bí tích Thánh Thể cần thiết cho ơn cứu độ, thánh nhân
nói:
“Bí tích thật sự thống nhất toàn thân thể nhiệm mầu, nếu không sẽ
không có ơn cứu độ; con người không có ơn cứu độ ngoài Giáo hội, cũng như vào
thời đại hồng thủy, không một ai ngoài con tàu của Noê – ám chỉ về Giáo hội,
theo 1Pr 3,20-21 được cứu sống. (Tổng luận thần học III, vấn
đề 73, mục 3).
Như thế, cần ở trong Giáo hội để được ơn cứu độ vì cần phải chia sẻ
các phương tiện để được cứu độ là đức tin và các Bí tích, hai điều vốn chỉ có
trong Giáo hội.
Thánh nhân cũng nói mọi người buộc phải lãnh nhận Bí tích Rửa
tội thì mới có ơn cứu độ, vì Bí tích này là Bí tích tháp nhập vào Đức Ki-tô.
“Không ai có thể đạt được ơn cứu độ ngoại trừ qua Đức Ki-tô…
nhưng Bí tích Rửa tội là mục tiêu cần thiết, qua đó mọi người được tái sinh vì
tháp nhập vào Đức Ki-tô, trở nên chi thể của Người. Bí tích Rửa tội được ban cho bất cứ ai, nhưng không phải chỉ vì
ước muốn của họ: chẳng hạn, khi một người muốn lãnh Bí tích Rửa tội, nhưng mắc
bệnh có thể chết trước khi lãnh Bí tích Rửa tội, họ vẫn có thể được cứu độ tuy
chưa được Rửa tội nhưng do ước muốn được Rửa tội của họ, mà ước muốn này là hậu
quả của đức tin” (Tổng luận thần học, quyển 3, vấn đề 68, mục 1 và 2).
Như thế, “ước muốn rửa tội cũng đủ để được cứu độ vì khi con
người bắt đầu sử dụng lý trí, họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi cũng như
tội lỗi của mình. Điều trước tiên họ cần nghĩ đến là giải
thoát chính mình và nhờ ân sủng họ sẽ nhận được xóa bỏ
tội tổ tông” (Tổng luận thần học, quyển 1, phần II, vấn đề 89, mục 6).
III. THỜI HIỆN ĐẠI
1. Nhà thần học Emile Mersch đã thay thế “thân thể” và “linh hồn” của Giáo hội bằng “thân thể
huyền nhiệm” và “Giáo hội hữu hình”. Ông muốn giải thích rằng
mọi người được cứu độ trong Giáo hội. Một người không được cứu ngoài
Giáo hội, nhưng do ân sủng, tuy không là thành viên
của Giáo hội hữu hình, họ là thành viên của thân thể huyền nhiệm Đức
Ki-tô.
Ông phân biệt giữa Giáo hội và thân thể huyền nhiệm như là hữu hình
và vô hình:
“Thân thể huyền nhiệm” có ý nói đến toàn thể những người sống đời
sống Đức Ki-tô… trong khi từ “Giáo hội” lại chỉ nói về một tập thể những tín
hữu đã được lãnh Bí tích Rửa tội, được tổ chức và điều hành dưới các vị mục tử theo luật. Hai thực thể này có tương quan
chặt chẽ với nhau nhưng hoàn toàn không đồng nhất với nhau. (Francis A.
Sullivan. “Ơn Cứu độ ngoài Giáo hội ? Phác họa lịch sử
các câu trả lời của Công giáo, 1992)
Như thế, việc giải thích này có thể hòa hợp giữa ơn cứu độ
cho những người không phải Ki-tô giáo với ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ.
2. Theo cha Yves
Congar, một Thần học gia Dòng Đa Minh, những
người không Công giáo được xem như thuộc về Giáo hội “vô hình, bất toàn nhưng
có thực”. Cha Congar quan niệm các Bí tích là những dạng thức qua đó Thiên Chúa
ban ân sủng cho chúng ta cách hữu hình, đồng thời qua
đó chúng ta có thể nhận được hành vi của Người cách thiêng liêng. Ngườikhẳng định rằng Kinh thánh, con người, nơi chốn hoặc một biến
cố có thể coi như là một thứ Bí tích. Khi nói về Giáo hội, cha Congar thấy:
“Giáo hội là một giải thích hữu hình hoặc cơ chế vốn đón nhận ân
sủng của Thiên Chúa, nhưng không phải cho từng cá nhân, nhưng theo toàn diện và phổ quát của kế hoạch Thiên Chúa cứu độ
con người. Kế hoạch này được thực hiện nơi Ngôi Lời nhập thể, Con Thiên Chúa,
vì các Bí tích là sự liên tục và thay thế cho sự hiện diện của Ngôi Lời nhập
thể.” (Yves Congar, “Giáo hội Tôi yêu”, 1969)
Cha đã giải thích về giá trị của 7 Bí tích trong Giáo hội,
mỗi Bí tích có cách thế riêng như là cách thế dấn thân đặc biệt của Thiên Chúa
để cho con người được cứu độ. Bí tích Rửa tội và
Thánh thể được Đức Giê-su lập ra như là phương tiện để con người tháp nhập vào
Đức Ki-tô trong kế hoạch ân sủng của Người.
Giáo hội được xem như là một định chế “siêu ngôi vị” được Đức
Ki-tô thừa nhận. Do đó Giáo hội là dấu chỉ của ân sủng của Thiên Chúa hiện diện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Như
thế, Giáo hội Duy nhất, Công giáo và Tông truyền chính là sự hiện diện hữu hình
của Đức Ki-tô duy nhất, mang lại ơn cứu độ phổ quát cho con người. Hơn nữa,
Giáo hội là Bí tích không phải chỉ là “dấu chỉ” (tính chất 1 của Bí tích) – sự
hiện diện của ân sủng Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô, nhưng
còn là “hữu hiệu tính” (tính chất 2 của Bí tích) của Bí tích…” (Sđd)
Các Bí tích và Giáo hội là nơi mà chính Đức Ki-tô giao ước và Đấng
cứu độ đã và đang hiện diện , đồng thời hướng về tương
lai của thế giới nhờ Thánh Thần. Nơi các Bí tích chúng ta nhận thấy một thế
giới sẽ đến, được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô theo quan điểm cách chung. Bí tích là một thực tại vừa thuộc về hiện tại, vừa thuộc về thế
giới sẽ đến. Giáo hội tương quan hoàn toàn với Thiên
Chúa không phải là tận điểm của nhân loại, nhưng là khởi đầu của ơn cứu độ.
Cần phải thuộc về Giáo hội không phải theo nghĩa tuyệt
đối nhưng theo nghĩa: nơi Giáo hội Đức Ki-tô là Đấng trung gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và con người. Giáo hội là trung gian (mediatrix)
không như Đức Ki-tô là Đấng trung gian (mediator). Đức Ki-tô là Đấng
trung gian thực sự nhờ công trình cứu độ của Người, trong khi Giáo hội là trung
gian nhờ các phương tiện của ân sủng.
“Giáo hội có toàn bộ các phương tiện hay trung gian của ân sủng. Giáo hội là phương tiện hay trung gian vì chính Đức
Ki-tô đã lập nên Giáo hội, hoạt động trong Giáo hội nhờ Thánh Thần của Người. Giáo hội gìn giữ kho tàng Lời Chúa, các Bí tích và những công việc
phụng vụ tương ứng”. (Sđd)
Theo cha Congar, Giáo hội là dân Thiên Chúa, dân của một tôn giáo
mạc khải, dân này mang Đức Ki-tô (Christopher), rao giảng chân lý của Người và
thông hiệp với ân sủng của Người. Theo nghĩa rộng, dân này gồm tất cả mọi người
đã hay sẽ được cứu độ nhờ ơn cứu độ Thiên Chúa ban. Theo
nghĩa hẹp, mỗi người đều có thể chia sẻ Bí tích của Đức Ki-tô hoặc Bí tích của
ơn cứu độ. Nơi mỗi người Thiên Chúa đang hành động và
làm cho chính mình được mọi người nhận biết. Khi nói về sự khác nhau
giữa Bí tích có nơi con người và nơi Giáo hội, cha Congar đã phân biệt rõ ràng:
Giáo hội chỉ là cơ hội để tìm kiếm Thiên Chúa; Giáo hội lãnh nhận mạc khải tích
cực chân lý của Thiên Chúa, ân sủng của Người. Giáo
hội cũng là Bí tích công khai và phổ quát của ơn cứu độ, trong khi đó con người
chỉ là Bí tích riêng tư, đặc biệt và tùy hoàn cảnh.
Giáo hội là Bí tích phổ quát ơn cứu độ được thiết lập cho mọi
người, đủ cho mọi người. Một Giáo hội duy nhất có thể
thâu tập con người thành một dân Thiên Chúa hữu hình, chi thể của Đức Ki-tô,
đền thờ của Chúa Thánh Thần. Đó là ý muốn của Thiên Chúa.
Như thế cha Congar nói về “ Giáo hội, Bí
tích phổ quát của ơn cứu độ”, thay thế cho định thức cổ điển “ngoài Giáo hội
không có ơn cứu độ”.
Cha cho rằng nên bỏ định thức cổ điển này đi, bởi vì nó đã
không được hiểu cho đúng. Theo cha Congar,
trong định thức này cần phải công nhận hai chân lý: (1) Giáo hội là định chế
duy nhất được Thiên Chúa thành lập và chuẩn y để mang ơn cứu độ cho con người
là chính Đức Giê-su Ki-tô. (2) Giáo hội đã đón nhận từ Đấng sáng lập và là cứu
Chúa của mình mọi điều cần thiết để được ơn cứu độ cho nhân loại. Đây chính là
nội dung của quan điểm Giáo hội, Bí tích phổ quát ơn cứu độ. (Sđd)
Nói tóm lại, theo cha Congar Đức Giê-su
Ki-tô là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát, cho dù Giáo hội có vai trò thế nào
trong kế hoạch cứu độ. Giáo hội cung cấp mọi phương tiện cần thiết cho ơn cứu
độ của con người.
3. Công đồng Vatican II khẳng định lại ơn cứu độ có được do bởi Đức Ki-tô, bởi niềm tin và
bởi Bí tích Rửa tội. Tuy nhiên công đồng cũng coi việc thuộc về Giáo hội là cần
thiết để được cứu độ, nhưng những người không Ki-tô giáo cũng có thể được cứu
độ, do họ có liên hệ với Giáo hội cách này hay cách khác. Có hai cách cơ bản
trong tương giao với Giáo hội: thuộc về Giáo hội (các tín hữu) có tương giao
với Giáo hội (không Ki-tô giáo). Những người không Ki-tô giáo này gồm 5 nhóm:
(1) Do thái giáo, kiến thức của Do thái giáo về Thiên Chúa rất gần với đức tin
Ki-tô giáo vì dựa trên mạc khải. Theo đó, họ có một mối tương
quan đặc biệt đối với Đức Ki-tô và Giáo hội của Người. (2) Hồi giáo:
Người Hồi giáo tuyên xưng đức tin có từ thời Abraham; cùng với Ki-tô hữu họ tôn
thờ một Thiên Chúa nhân từ. (3) Những người thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa: Họ
là những người thuộc về các tôn giáo ngoài Ki-tô còn lại. (4) Những người không
do lỗi của họ chưa khám phá ra được Thiên Chúa cách minh nhiên. (5) Những người
tuy không có ân sủng, vẫn sống một cuộc đời tốt lành theo
lương tâm ngay thẳng. Theo nghĩa này, họ không thuộc về bất
cứ một tôn giáo nào, họ chỉ là những người thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa hoặc
không do lỗi của họ.
Tất cả 5 nhóm trên đều có chung một yếu tố
là: họ được đưa vaò kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, họ được Thiên Chúa ban cho
ân sủng cứu độ. Do đó, được đón nhận ân sủng cứu độ
của Thiên Chúa, họ được coi là có tương giao với Giáo hội. An
sủng hướng họ tới ơn cứu độ thế nào thì cũng hướng họ đến với Giáo hội như vậy.
Công đồng Vatican II coi Giáo hội là Bí tích phổ quát của ơn
cứu độ (Hiến chế vui mừng và hy vọng số 45).
Công đồng Vatican II cũng nhìn nhận nơi các tôn giáo khác
cũng có những giá trị tích cực, có thể chuẩn bị cho Tin mừng. Như thế các tôn giáo không Ki-tô được xem như có
cùng một nguồn gốc và định mệnh với Giáo hội. Mọi tôn
giáo đều tìm kiếm câu trả lời cho những khắc khoải của kiếp người, vấn đề nhân
sinh. Tất cả mọi dân tộc làm nên một cộng đồng, chia sẻ một định mệnh chung. Nơi đó có những “hạt giống của Lời” (Nostra Aetate số
11), “những tia chân lý soi sáng con người” (Lumen
Gentium số 17) và có hoa trái của Chúa Thánh Thần. Nơi các tôn giáo này có chứa
đựng những yếu tố siêu nhiên, ngay cả đức tin cứu độ. Bỏ qua
những giới hạn, sai lầm và tội lỗi, các tôn giáo này là một chuẩn bị cho Tin
mừng. Tuy nhiên công đồng không trả lời rõ ràng những người không Ki-tô
giáo có thể được cứu độ ngoài hay trong chính tôn giáo của họ? Phải chăng các
tôn giáo này tự nó có những giá trị cứu độ hay không?.
4. Đức Giáo Hoàng Phaolo VI nói đến thái độ Giáo hội cần phải có đối với các tôn fgiáo khác
trên thế giới: đối thoại huynh đệ. Thiên Chúa đã đối thoại
với nhân loại qua dòng lịch sử cứu độ, ngày nay Giáo hội tiếp tục cuộc đối
thoại này để đem ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Giáo hội
phải đối thoại vời (1) toàn thế giới (2) các phần tử của các tôn giáo khác (3)
Các giáo hội Kitô khác và (4) ngay chính trong lòng Giáo hội. Đức giáo hoàng Phaolo VI cũng khẳng định cần phải tôn trọng các gía
trị luân lý và tâm linh nơi các tôn giáo khác.
“ Giáo hội kính trọng và đánh gía cao
các tôn giáo Không-Kitô giáo, bởi vì các tôn giáo đó là cách diễn tả sống động
tâm hồn của vô số các nhóm dân tộc. Chúng mang trong mình tiếng vang vọng cuộc
tìm kiếm Thiên Chúa từ hàng ngàn năm nay, một cuộc tìm kiếm tuy bất toàn nhưng
được thực hiện với thành tâm thiện ý….Chúng có vô số “các hạt giống của Lời” và
do đó, hình thành một “chuẩn bị đích thực cho Tin Mừng” (Evangelii Nuntiandi
53).
5. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:trong thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng cứu thế), Đức Giáo
Hoàng Giao Phaolô II đã khẳng định: Giáo hội cần cho ơn cứu độ vì Giáo hội được
thiết lập do ý muốn của Thiên Chúa và Giáo hội tham dự vào kế hoạch cứu độ của
Người. Ơn cứu độ không chỉ ban cho những ai là thành viên của Hội thánh, minh
nhiên tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nhưng cũng được ban cho những ai
sống ngoài ranh giới của Giáo hội (RM số 10). Hơn nữa sứ vụ
của Giáo hội chính là làm cho mọi người nhận biết Đức Giê-su tình yêu của Người
và Người chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa. Theo chiều hướng đối
thoại và tôn trọng các tôn giáo khác, Đức Giáo Hoàng khẳng định: Đối thoại
không bắt nguồn từ những quan tâm lợi ích riêng mình nhưng là một hoạt động có
những nguyên tắc hướng dẫn. Cần phải kính trọng sâu sắc đối
với mọi điều đã được Thánh Thần thổi bất cứ nơi đâu Ngườimuốn. Qua đối thoại, Giáo hội muốn khám phá “hạt giống Lời” nơi các tôn
giáo khác. Tuy nhiên, đối thoại không thể thay thế cho
sứ vụ rao giảng Tin mừng của Giáo hội, vì đối thoại liên tôn là một phần của sứ
vụ Giáo hội. Đối thoại là con đường hiểu biết lẫn nhau và làm phong phú
lẫn nhau. Đối thoại và sứ vụ rao giảng Tin mừng liên hệ mật
thiết với nhau nhưng không hoán vị nhau.
Tuyên ngôn Dominus Jesus:
Theo tuyên ngôn này, chỉ duy một mình Đức Ki-tô là Đấng cứu độ. Tuy nhiên, hành
vi cứu độ của Thiên Chúa qua trung gian Đức Ki-tô chứ
không nói gì đến Giáo hội, thân thể của Người. Tuyên ngôn cũng khẳng định chỉ
có Giáo hội là phương tiện của ơn cứu độ, điều này có căn bản trên chỉ một mình
Đức Ki-tô Đấng cứu độ duy nhất của con người.
Kết luận:
Chúng ta đã lướt qua một số giải thích về “ngoài Giáo hội
không có ơn cứu độ”. Có thể kết luận: Giáo hội là
phương tiện mang lại ơn cứu độ cho nhân loại theo như
kế hoạch của Thiên Chúa. Chỉ có một lịch sử là lịch sử cứu
độ, qua lịch sử này, Thiên Chúa mạc khải dần dần kế hoạch cứu độ của Người.
Đỉnh cao của lịch sử, ơn cứu độ tuyệt đối và mạc khải là
chính Đức Giê-su Ki-tô.
Nguồn tin: Học Viện Đaminh