Giáo hội với Hội thánh khác nhau ở chỗ nào?
(daminhvn.net) 07/10/2015
Trong
các sách vở, trong các bài giảng, cũng như trong những cuộc giao tiếp hằng ngày,
lúc thì người ta nói “Giáo hội công giáo” lúc thì “Hội thánh công giáo”. Hai từ
ngữ đó, “Giáo hội” và “Hội thánh”, có đồng nghĩa với nhau hay không? Nếu không
thì khác nhau ở chỗ nào?
Trước khi trả lời
cho những câu hỏi vừa nêu, chúng tôi xin phép ghi nhận một sự kiện về ngôn ngữ
tôn giáo ở Việt Nam. Nếu tôi không lầm, thì chỉ có Phật giáo dùng tiếng “Giáo hội”
(Giáo hội Phật giáo), chứ không ai nói tới Giáo hội Khổng giáo! Còn hình như
không có ai dùng tiếng “Hội thánh” ngoại trừ anh em Tin lành (chúng ta thấy tiếng
“Hội thánh Tin lành” được dùng nhiều hơn là “Giáo hội Tin lành”). Như vậy thì
trong Việt ngữ, đã có một sự khác biệt về cách áp dụng rồi đó. Còn tại sao lại
có sự khác biệt đó, thì tôi xin thú nhận là chưa đủ khả năng trả lời, bởi vì cần
phải khảo cứu lịch sử ngôn ngữ Việt Nam để xem những danh từ đó đã xuất hiện từ
hồi nào. Chắc chắn là tiếng “Giáo hội Phật giáo” chỉ mới ra đời trong thời gian
gần đây, chứ không có trong văn chương cổ truyền. Như chị đã biết, bên Đông
phương, người ta quan niệm tôn giáo như là “đạo”, nghĩa là con đường (đạo
Phật); hay là “giáo”, nghĩa là lời dạy (Phật giáo). Người nào chấp nhận
con đường hay lời dạy đó thì gọi là tín đồ, Phật tử. Các tôn giáo ở Đông phương
xem ra không đặt nặng vấn đề cơ cấu tổ chức; vì vậy mà tôi nghĩ rằng họ không
có nói tới “Giáo hội”.
Như vậy, “Giáo hội” ám chỉ cái cơ cấu của một tôn giáo, phải
không?
Theo tôi nghĩ,
thì đúng như vậy. Tuy nhiên, như đã nói trên đây, tôi không có dịp tra cứu lịch
sử ngôn ngữ học, để xem tiếng “Giáo hội” xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ
năm nào. Giới hạn vào Công Giáo, chúng ta thấy rằng hai tiếng “Giáo hội” và “Hội
thánh” đều được dùng để dịch cùng một từ trong các tiếng Âu châu: ecclesia tiếng La-tinh, église tiếng Pháp, hay là church trong tiếng Anh.
Con không có rành tiếng La-tinh cho nên không biết ý nghĩa của
nó; nhưng mà chữ “église” trong tiếng Pháp có nghĩa là “nhà thờ” nữa, phải
không?
Không phải chỉ
có tiếng Pháp, mà cả tiếng La-tinh và tiếng anh, “ecclesia” (église, church), vừa
có nghĩa là Giáo hội hay hội thánh, lại vừa có nghĩa là nhà thờ nữa.
Có phải tại vì “nhà thờ” tượng trưng cho công giáo, cũng như
“nhà chùa” tượng trưng cho Phật giáo hay không?
Có thể là ở Việt
Nam đã có người hiểu như vậy. Một lần nữa, tôi xin nhường câu trả lời cho các
nhà ngữ học, để xem sự đối chiếu ấy bắt đầu từ bao giờ. Theo tôi, thì trong các
thế kỷ trước, khi muốn đối chiếu giữa Thiên Chúa giáo với Phật giáo, thì người
ta dùng tiếng “nhà Chúa” để đối lại với “nhà chùa”, chứ không dùng tiếng “nhà
thờ”; bởi vì tiếng “nhà thờ” ám chỉ nơi dùng vào việc thờ cúng tổ tiên. Trong
xã hội cổ truyền, mỗi gia đình có bàn thờ để kính tổ tiên; còn mỗi dòng họ thì
có nhà thờ để kính thủy tổ của tộc. Do đó nhà thờ không thể nào làm biểu hiệu
cho Thiên Chúa giáo được.
Nãy giờ, có bao nhiêu câu hỏi mà cha đã dành cho các nhà ngữ học
trả lời thay. Bây giờ xin cha vui lòng giải đáp câu hỏi: Giáo hội công giáo và
Hội thánh công giáo có gì khác nhau hay không?
Như trên đã
nói, xét theo nguyên ngữ thì cả hai đều phát xuất bởi một danh từ duy nhất
trong tiếng La-tinh, hoặc tiếng Pháp, tiếng Anh. Dĩ nhiên, bây giờ tới lúc phải
hỏi xem: thế thì ecclesiacó nghĩa là gì?
Nên biết là muốn đi tìm gốc của tiếng Ecclesia, thì chúng ta phải quay sang tiếng
Hy-lạp, tức là nguyên ngữ của Tân ước. Trong tiếng Hy-lạp, ekklesia có nghĩa là sự triệu tập, tụ họp, hội
nghị. Khi dịch Cưụ ước từ tiếng Do thái ra tiếng Hy-lạp, thì người ta đã dùng
tiếng ecclesia để chuyển nghĩa cái từ “qahal”. Dân Israel đã dùng tiếng đó để ám chỉ
cộng đoàn phụng vụ, nghĩa là những người được tụ họp lại để nghe lời Chúa; rồi
dần dần chính dân Israel cũng tự coi mình là “qahal” bởi vì họ ý thức rằng sở
dĩ các bộ lạc lẻ tẻ đã trở thành một dân tộc là nhờ bởi Chúa đã quy tụ lại: họ
là đoàn dân của Chúa, được Chúa quy tụ, và kết lập giao ước. Do đó, ý tưởng chủ
chốt trong từ ngữ “ecclesia” (Hy-lạp) hay “qahal” (Do thái) là việc một đoàn
dân được Chúa triệu tập, quy tụ. Sang thời Tân ước, các Kitô hữu lấy lại ý tưởng
đó, khi gọi mình là “ecclesia”. Thực ra thì trong Tân ước, người ta thấy một từ
ngữ “qahal” từ tiếng Do thái đã được dịch ra hai từ ngữ khác nhau: synagoga,
nếu ám chỉ Israel (chúng ta thường dịch synagoga là: hội đường), và ecclesia,
nếu ám chỉ các Kitô hữu. Qua lối sử dụng từ ngữ như vậy, các nhà chú giải Kinh
thánh nhận thấy rằng: các Kitô hữu vừa muốn nêu bật sự liên tục với Israel, lại
vừa muốn vạch ra sự khác biệt. Liên tục ở chỗ ý thức rằng các Kitô hữu được quy
tụ lại không phải do máu mủ hay là do hợp đồng ý chí, song là do Chúa triệu tập
lại. Đây là một cộng đoàn được thành hình do ý định của Thiên Chúa, dựa trên
giao ước của Chúa. Nhưng mà đàng khác, các Kitô hữu cũng muốn phân biệt mình với
Dân Israel, bởi vì thủ lãnh của họ là đức Kitô, người mục tử đã quy tụ một đoàn
chiên mới cho Thiên Chúa qua cái chết của mình.
Như vậy, dịch ra tiếng Việt là “Giáo hội” hay “Hội thánh” thì
sát nghĩa lắm rồi, phải không)?
Trong cả hai tiếng
“Giáo hội” và “Hội thánh”, chúng ta đều thấy có tiếng “hội”. Nếu mà hiểu “hội”
theo nghĩa là “hội họp”, “lễ hội” thì quả thực là sát với nguyên gốc trong Kinh
thánh. Có lẽ người ta đã thêm tiếng “Giáo” để nêu bật rằng sự hội họp đó có
tính cách “tôn giáo”, để lắng nghe lời Chúa và thờ phượng Ngài, chứ không phải
họp nhau để đấu láo hay là bàn chuyện chính trị. Tiếc rằng nhiều lần, chúng ta nghĩ
tới “Giáo hội” theo nghĩa của một cơ cấu tổ chức, hơn là nghĩ tới chiều kích
năng động của nó: tức là một cộng đoàn được Lời Chúa quy tụ lại để lắng nghe và
đáp lại Lời Chúa.
Thế còn “Hội thánh” thì sao?
Thiết tưởng có
thể hiểu theo hai nghĩa. Một đàng thì muốn nhấn mạnh tính cách phụng tự của các
buổi hội. Như vừa nói, chúng ta hội nhau lại để phụng thờ Chúa, chứ không phải
để nhậu nhẹt hay đấu láo. Nghĩa thứ hai, thì nhấn mạnh tới tư cách của những
người tham dự buổi hội. Họ là những người “thánh”. Tư tưởng này gặp thấy nơi
các tác phẩm của thánh Phaolô: các Kitô hữu được gọi là “thánh”, không phải bởi
vì họ đã trở thành siêu nhân, nhưng vì họ đã được rửa sạch khỏi tội lỗi, qua bí
tích Thánh tẩy; họ được thánh hóa do chính sự tuyển lựa của Thiên Chúa là Đấng
thánh. Vì vậy mà họ họp nhau thành một cộng đoàn các thánh nhân.
Nói như vậy thì chừng nào các Kitô hữu họp nhau lại thì mới
thành Giáo hội hay Hội thánh; còn họp xong rồi thì Giáo hội cũng giải tán luôn?
Trong Tân ước,
chúng ta thấy tiếng “ecclesia” bao hàm rất nhiều chiều kích. Có lúc thì nó có
chiều kích năng động, ám chỉ một buổi hội họp. Theo nghĩa đó, thì dĩ nhiên, khi
tan họp thì cũng hết ecclesia. Tuy nhiên có lúc thì nó mang một chiều kích
tĩnh, ám chỉ một đoàn thể bao gồm tất cả các Kitô hữu, vượt lên trên điều kiện
không gian và thời gian. Từ đó mà ta có hai quan điểm về ecclesia: một quan điểm
vượt không gian và thời gian (quen gọi là Giáo
hội phổ quát hay hoàn vũ), và một quan điểm gắn với không gian (quen gọi là Giáo hội địa phương). Giáo hội
phổ quát hay hoàn vũ bao gồm không những là hết tất cả các tín hữu ở khắp nơi
trên mặt đất, mà còn cả các tín hữu còn sống hoặc đã qua đời. Nói khác đi, theo
nghĩa này, Hội thánh gồm các tín hữu còn lữ hành lẫn những phúc nhân trên trời
cũng như các linh hồn đang được thanh luyện. Tất cả họp thành một Hội thánh duy
nhất của đức Kitô, họp thành một thân thể mầu nhiệm mà chính Đức Kitô làm đầu.
Tuy nhiên, trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư của thánh Phaolô, tiếng
ecclesia còn ám chỉ những cộng đoàn của các tín hữu thuộc từng vùng, từng miền,
từng chỗ. Vì vậy mà có rất nhiều “Ecclesia”. Trong tiếng Việt, chúng ta thường
dịch là “ giáo đoàn”, thí
dụ giáo đoàn Rôma, Corintô, Ephêsô, vv. Riêng thánh Phaolô thì ngài thích dùng
lối nói “Hội thánh Chúa ở Rôma, Corintô”.
Như vậy, cùng là một từ “ecclesia” mà dịch ra tiếng Việt thành
ba từ khác nhau: Giáo hội, Hội thánh, giáo đoàn.
Đâu phải chỉ có
ba mà thôi, còn nhiều nữa: nhà thờ, thánh đường, giáo đường. Tại sao như vậy?
Như vừa nói, trong Tân ước, tiếng “ecclesia” khi mà hiểu theo nghĩa năng động
thì ám chỉ buổi hội họp của các tín hữu. Họ họp nhau ở đâu thì chỗ đó là
“ecclesia”, dù là ngoài trời, hay là ở trong tư thất. Chị đã biết là trong những
thế kỷ đầu, Kitô giáo còn bị bách hại, cho nên các tín hữu không có nơi thờ tự
nhất định. Mãi đến khi họ được hưởng tự do tín ngưỡng, thì họ mới bắt đầu xây cất
những nơi thờ tự. Và họ đặt tên cho địa điểm ấy là “ecclesia” (hay: domus
ecclesiae), nghĩa là chỗ cho các tín hữu tụ họp nhau lại để cầu nguyện. Từ đó
ta thấy có sự chuyển nghĩa: lúc đầu thì ecclesia được dùng để chỉ nhóm người tụ
họp nhau, đến nỗi có thể nói được rằng hết họp thì cũng hết ecclesia. Về sau,
thì ecclesia được dùng để chỉ nơi tụ họp, và cho dù chẳng có ai họp nữa thì nơi
đó cũng được gọi là ecclesia như thường! Trong các tiếng La-tinh và các ngôn ngữ
Âu châu, một tiếng ecclesia vừa ám chỉ cộng đoàn Kitô hữu vừa ám chỉ nơi thờ
phượng. Đến khi dịch ra Việt ngữ, thì chúng ta gọi cộng đoàn là “Giáo hội, hội
thánh, giáo đoàn”; còn nơi thờ phượng thì được gọi là: “nhà thờ, thánh đường,
giáo đường”.
(Lm. Giuse Phan Tấn
Thành, OP)