(daminhvn.net) 13/10/2015
Ở
trong tiếng Việt, các tôn giáo được gọi là “đạo” hoặc là “giáo” (thí dụ đạo Phật
hoặc Phật giáo); vì thế có người gọi là “Kitô giáo” có người gọi là “đạo Kitô”.
Từ nào chính xác hơn?
Muốn trả lời
cho chính xác, thiết tưởng phải sưu tầm lịch sử văn hoá Á châu, để xem hai từ “đạo”
và “giáo” có nghĩa gì, và có trùng nhau hay không. Trong nguyên ngữ Hán Việt,
“đạo” là con đường, còn “giáo” là lời dạy dỗ. Hai từ này đôi khi liên kết với
nhau (chẳng hạn chúng ta nói đến “đạo lý” hay “giáo lý”), nhưng có khi một “đạo”
không phải là “giáo” (chẳng hạn như chúng ta nói đến “đạo làm người”). Tôn giáo
được coi như là một “đạo”, theo nghĩa là nó chỉ cho ta thấy một con đường, một
hướng đi, để đạt đến một mục tiêu tối hậu. Điều này khá rõ nơi đạo Phật, với ”bát
chánh đạo” (tám
con đường chân chính) để đạt được sự giải thoát. Tuy nhiên, từ “Đạo” ở trong
sách Đạo đức kinh lại được hiểu theo nghĩa khác: Đạo là nguyên uỷ của vạn vật.
Dù sao, thiết tưởng thay vì phân tích ý nghĩa của các hạn từ “đạo” và “giáo”
bên Đông phương, chúng ta hãy đặt vấn đề cách khác. Nói đến “Kitô giáo” thì
chúng ta nghĩ tới các giáo thuyết, giáo lý, đạo lý của Chúa Kitô. Thế còn nói đến
“đạo Kitô” thì chúng ta sẽ nghĩ đến cái gì?
Đức Kitô dạy ta một con đường để lên trời, có đúng không?
Mới đúng có một
phần thôi. Thực ra ngay từ trong Cựu ước, chúng ta đã gặp thấy tư tưởng là
Thiên Chúa mặc khải cho con người một “con đường” để về cõi sống (chẳng hạn như
Thánh vịnh 16,11); đó là “đường chân lý”, “đường công chính”. Nhiều lần các
ngôn sứ nhắn nhủ các tín đồ hãy biết đi theo “đường ngay nẻo chính” là Luật
Chúa để được sống, chứ đừng theo đường gian ác tội lỗi đưa đến cái chết (chẳng
hạn như thánh vịnh số 1; 119). Từ đó truyền thống Do thái quen nói đến “hai con
đường”, “đường chính và đường tà”, “đường đưa đến cõi sống và đường đưa đến chỗ
chết”. Khi bước sang Tân ước, bàn về Đức Kitô, các học giả nhận thấy rằng từ “đạo”
được dùng trong bối cảnh rộng lớn hơn. Trong sách Tông đồ công vụ, Kitô giáo được
gọi vắn tắt là “đạo” (nói trống vậy thôi, chứ không thêm một thuộc từ nào hết).
Ở chương 9, câu 2, ông Saulô xin phép các thượng tế Do thái được phép bắt những
người theo Đạo để giải về Giêrusalem. Thế rồi chúng ta đã biết điều gì đã xảy
ra cho ông dọc đường. Về sau, tới khi ông Phaolô bị bắt và điệu ra toà án, thì
ông tự biện hộ rằng ông đã theo Đạo mà trước đây ông đã đi lùng bắt. Ở chương
24, câu 14, từ “đạo” được dùng để đối chiếu với “bè phái” mà người Do thái gán
cho các Kitô hữu. Dù sao, thánh Luca trình bày Kitô giáo như là Đạo ở nhiều chỗ
trong sách Tông đồ công vụ (18,26; 19,9.23; 22,4) nhưng không giải thích lý do.
Ở Phúc âm thánh Gioan, thì chúng ta gặp thấy một đoạn văn nổi tiếng nhất gắn liền
Đức Kitô với Đạo, nghĩa là đường.
Có phải đoạn văn mà Chúa Giêsu: “Thầy là Đường, là sự Thật, là sự
Sống” không?
Đúng thế, nếu
hiểu đạo là đường đi. Tuy nhiên, có những dịch giả Trung hoa hiểu Đạo không chỉ
theo nghĩa là “Đường đi”, mà còn theo nghĩa là “Nguyên uỷ hằng hữu của vạn vật”
theo quan điểm của sách Đạo Đức Kinh, cho nên họ dịch từ Logos ở Tự ngôn của Phúc âm thánh Gioan theo
chiều hướng là “Lúc khởi thuỷ đã có Đạo”. Có lẽ quan điểm này không được nhiều
người hoan nghênh; dù sao đi nữa, đoạn văn cổ điển hơn cả thường được trích dẫn
nơi thánh Gioan (14,6) là lời tuyên bố của chính Chúa Giêsu: “Thầy là Đường, là
sự Thật, là sự Sống”. Trong tông huấn hậu thượng hội đồng Ecclesia in Oceania (Hội thánh ở châu Đại-dương), Đức
thánh cha Gioan Phaolô II đã dùng đoạn văn này để trình bày căn cước của người
Kitô hữu: họ là những người đi theo con đường của Chúa Giêsu, tuân theo chân lý
mà dạy dỗ, và lãnh nhận nguồn sự sống từ các bí tích. Thiết tưởng đó là ba khía
cạnh của chương trình huấn giáo, gồm có: luân lý, tín lý, và bí tích. Nhưng
chính đoạn văn của thánh Gioan thì độc đáo hơn nhiều, khi định nghĩa Đức Kitô
là đường. Đây là đặc trưng thứ nhất của Tân ước: Đức Kitô là Đạo. Ngài không những
dạy cho chúng ta một con đường, mà ngài chính là con đường dẫn chúng ta về với
Chúa Cha, như thánh Gioan đã viết tiếp theo đó: “Không ai đến với Cha mà không
qua Thầy”. Đức Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa với nhân loại: Ngài đem Thiên
Chúa đến giữa nhân loại, để đưa nhân loại về với Thiên Chúa. Vì thế, ai muốn đến
cùng Thiên Chúa thì phải qua Ngài, nghĩa là tin nhận Ngài. Nên biết là theo
thánh Gioan, tin không có nghĩa là chấp nhận một giáo thuyết, nhưng là thiết lập
một mối tương quan mật thiết với Chúa Kitô.
Đặc trưng thứ nhất của đạo Kitô là Đức Kitô chính là đường đưa đến
Thiên Chúa. Thế còn đặc trưng nào nữa?
Có ít là ba đặc
trưng. Đặc trưng thứ hai là “con đường của Đức Kitô”, con đường mà Đức
Kitô đã đi. Ở Việt Nam chúng ta đã nghe bài hát “Lạy Chúa, con đường nào Chúa
đã đi qua?”. Dĩ nhiên câu hỏi này không có ý dò hỏi các cuộc du hành của Chúa,
muốn biết Người đã tham quan chỗ nào, chuyện trò với ai. “Đường của Chúa Kitô”
được hiểu về lối sống của Người. Nhiều người thời đó mong chờ một lãnh tụ chính
trị, đánh đuổi ngoại xâm, và thiết lập vương quyền, thế nhưng họ đã thất vọng!
Đức Giêsu đã đi con đường khác, con đường của khiêm tốn, phục vụ, từ bỏ mình,
chứ không phải con đường của vinh quang quyền lực. Nói cụ thể hơn, Đức Giêsu đã
lựa chọn đường thập giá.
Như vậy đạo Kitô không phải là đạo mà Đức Kitô dạy, cho bằng cái
đạo mà Ngài đã thi hành, phải không?
Đúng thế. Đối với
chúng ta, điều gay go nằm ở chỗ này: theo đạo Đức Kitô không phải là học thuộc
lòng giáo lý cho bằng đi vào con đường của Chúa Kitô. “Theo đạo” nghĩa là “đi
theo con đường”. Con đường này được gọi tắt là “đường thập giá”. Đó là ý nghĩa
của lời mời gọi: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Điều này giả thiết là chúng ta cần phải dán
mắt nhìn lối sống của Chúa và tìm cách noi theo (xc. Dt 2,10; 6,20; 12,2).
Đạo Kitô có nghĩa là Đức Kitô là đường đưa đến Thiên Chúa, và đi
theo con đường của Đức Kitô. Đó là hai đặc trưng rồi. Còn đặc trưng nào nữa
không?
Từ hai đặc
trưng vừa rồi, các tác giả rút ra thêm vài đặc trưng khác như là hệ luận. Đức
Kitô mời gọi chúng ta hãy đi theo sau Người. Điều này có nghĩa là chúng ta
không hổn hển leo dốc một mình, nhưng mà Đức Kitô đi trước, còn chúng ta đi
sau. Nói cách khác, đức Kitô đồng hành, nghĩa là cùng đi đườngvới chúng ta. Phúc
âm đã để lại cho chúng ta nhiều hình ảnh rất đẹp về điểm này. Trong Phúc âm thứ
bốn, (chương Mười) tác giả diễn tả Chúa Giêsu như vị mục tử nhân lành: ngài đi
trước, và dẫn dắt chúng ta đến đồng cỏ sự sống (trước đây, thánh vịnh 23 đã áp
dụng hình ảnh này cho Thiên Chúa). Hơn nữa, ngài đi tìm những con chiên lạc đường,
đưa chúng về ràn. Thánh Luca thì không chỉ nói đến việc chúng ta được mời gọi đi
theo sau Chúa Giêsu (qua đoạn văn đã trích dẫn lúc nãy) nhưng còn kể lại sự kiện
Chúa Phục sinh đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus: Chúa cùng đi đường
với ta, sưởi ấm lòng ta bằng lời nói và chia sẻ bánh trường sinh cho chúng ta.
Thánh Matthêu (Mt 11,28) lại dùng một hình ảnh khác nữa: không những là Chúa
Giêsu đi trước và đi cùng các môn đệ, nhưng còn mời các môn đệ đi đến với Chúa:
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho
nghỉ ngơi bổ dưỡng”. Tư tưởng “đến với Chúa Giêsu” gặp thấy nhiều lần nơi Phúc
âm thánh Gioan: “hãy đến mà xem” (1,39), “ai đến với tôi, không hề phải đói; ai
tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (6,35); “tất cả những người Chúa Cha ban cho
tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” (6,37).
Tiếc rằng vào cuối chương 6, thánh Gioan đau đớn ghi nhận rằng nhiều người đã
tháo lui, không đi với Chúa nữa.
Nói tóm lại, từ ngữ “đạo Kitô” xem ra súc tích hơn là “Kitô
giáo”, bởi vì Chúa Kitô không chỉ dạy một số đạo lý, mà còn trở thành con đường
cho chúng ta, đưa chúng ta về trời. Đúng thế không?
Đúng vậy. Từ ngữ
“đạo Kitô” cho thấy rằng Đức Kitô không chỉ truyền thụ cho chúng ta một mớ học
thuyết, nhưng nhất là Ngài muốn thiết lập một tương quan sống động với các môn
đệ, khi mời gọi họ hãy đến với Ngài, hãy đi theo Ngài, và Ngài cũng đồng hành với
họ. Thiết tưởng cần thêm một ý tưởng khác nữa. Vào lúc mở đầu Tân ước, chúng ta
thấy xuất hiện ông Gioan Tẩy giả, với sứ mạng là “dọn đường cho Chúa đến” (Lc
3,4). Ông Gioan mang biệt hiệu là “tiền hô”. Điều này cũng được áp dụng cho Hội
thánh ngày nay. Một đàng các tín hữu được mời gọi đi theo Chúa; đàng khác,
chúng ta cũng được kêu gọi chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Điều này không những đòi
hỏi thái độ tỉnh thức cầu nguyện, nhưng còn nhắc nhở rằng chúng ta mang thân phận
lữ hành, không được phép dậm chân tại chỗ, nhưng gắng sức tiến lên mãi. Thánh
Phaolô có khi dùng hình ảnh của dân Do thái lữ hành trên sa mạc, hướng về Đất hứa
(1Cr 10,1-13), và có khi dùng hình ảnh “chạy đua” theo ngôn ngữ thể thao của
văn hoá Hy-lạp: “Không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu:
nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức
Kitô Giêsu chiếm đoạt. Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi
chỉ chú ý một điều, là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước.
Tôi chạy thẳng tới đích để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã
dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu” (Pl 3,12-14).
(Lm. Giuse Phan Tấn
Thành, OP.)