TỰ SẮC OMNIUM
IN MENTEM
CỦA ĐỨC THÁNH CHA
BÊNÊĐICTÔ XVI
VỀ VIỆC THAY ĐỔI
MỘT VÀI ĐIỀU KHOẢN TRONG BỘ GIÁO LUẬT
(gpquinhon.org)
Thứ sáu - 15/01/2016 04:54
Tông hiến Sacrae Disciplinae Leges (Các luật lệ của kỷ luật thánh)
được ban hành vào ngày 25 tháng Giêng năm 1983, đã làm cho mọi người quan tâm(Omnium
in Mentem) thấy rằng Giáo Hội, xét như là một cộng đoàn
vừa tinh thần đồng thời vừa hữu hình và được tổ chức theo phẩm
trật, cần thiết có luật pháp “để thi hành các nhiệm vụ được Thiên Chúa
trao phó, cách riêng những nhiệm vụ của thánh quyền và của việc cử hành các bí
tích, có thể được tổ chức cách thích hợp”. Những lề luật nầy luôn
luôn cần phải thể hiện, một mặt, sự đồng nhất trong đạo lý thần học
và lập pháp; và mặt khác, ích lợi mục vụ của những lề luật, nhờ
đó những định chế của Giáo Hội đem lại lợi ích cho các linh hồn.
Nhằm bảo đảm cách hiệu quả hơn cho sự đồng nhất đạo
lý và cho mục đích mục vụ, đôi khi thẩm quyền tối cao của Giáo Hội,
sau khi đã cân nhắc các lý do, đưa ra những quyết định điều chỉnh
thích hợp trong giáo luật hoặc bổ túc vài điểm nào đó. Đó là lý
do thúc đẩy Tôi ra văn thư nầy với hai vấn đề chính sau đây.
Trước hết, trong Bộ Giáo Luật các điều 1008 và 1009 bàn
về bí tích truyền chức thánh, đã xác định sự khác nhau căn bản
giữa chức tư tế cộng đồng của các tín hữu và chức tư tế thừa tác;
đồng thời cũng làm rõ sự khác nhau giữa chức giám mục, linh mục và
phó tế. Vì vậy, sau khi lắng nghe ý kiến của các nghị phụ trong Bộ
Giáo Lý Đức Tin, vị tiền nhiệm của Tôi, Đức Gioan Phaolô II đã ấn
định rằng sẽ phải thay đổi nội dung số 875 trong sách Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo để phù hợp hơn với giáo lý về chức phó tế theo
Hiến Chế Tín Lý Lumen
Gentium (số 29) của
Công đồng Vaticanô II. Tôi cũng chú ý rằng cần phải làm hoàn thiện
quy định giáo luật về vấn đề nầy. Bởi vậy, sau khi lắng nghe ý kiến
của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Văn Bản Luật, Tôi quyết định rằng nội
dung của các điều luật nói trên phải được thay đổi theo như dưới đây.
Ngoài ra, bởi vì chính các bí tích là cho toàn Giáo
Hội, và chỉ duy quyền bính tối cao mới có quyền duy nhất chuẩn nhận
và ấn định những yêu cầu về sự hữu hiệu của bí tích và cũng như
xác định những gì liên quan đến nghi lễ cần phải giữ khi cử hành
các bí tích đó (x. đ. 841), bởi vậy các điều đó chắc chắn cũng phải
được áp dụng đối với thể thức phải giữ khi cử hành hôn phối, nếu
một trong hai người phối ngẫu được rửa tội trong Giáo Hội công giáo
(x. đ. 11 và đ. 1108)
Tuy nhiên Bộ Giáo Luật quy định rằng các tín hữu đã
lìa Giáo Hội bằng một “hành vi chính thức”, thì không cần tuân giữ
những luật Giáo Hội liên quan đến thể thức giáo luật của hôn nhân (x.
đ. 1117), đến chuẩn chước ngăn trở khác đạo (x. đ. 1086), và đến việc
xin phép đối với hôn nhân hỗn hợp (x. đ. 1124). Lý do và mục đích của
luật trừ nầy đối với quy định tổng quát của điều 11 là nhằm tránh
những kết ước hôn nhân của các tín hữu có thể bị vô hiệu vì thiếu
thể thức hôn nhân hoặc vì bị ngăn trở khác đạo.
Tuy nhiên, kinh nghiệm nhiều năm qua cho thấy ngược lại,
luật mới nầy đã làm nảy sinh không ít những vấn đề mục vụ. Trước
tiên, trong các trường hợp cá nhân, xuất hiện sự khó khăn về việc quy
định và thể thức thực hiện hành vi
chính thức rời bỏ Giáo Hội xét
về khía cạnh bản chất thần học lẫn khía cạnh giáo luật. Hơn nữa,
nổi lên rất nhiều khó khăn vừa trong hoạt động mục vụ, vừa trong
hoạt động của các tòa án. Thực vậy, người ta nhận xét rằng trong
luật mới dường như nảy sinh ít là gián tiếp, một sự dễ dãi nào đó
hoặc, có thể nói như thế, một sự khích thích bỏ đạo tại những nơi
người công giáo quá ít ỏi hoặc những nơi hiệu lực luật hôn nhân không
được tôn trọng, đã tạo nên các phân biệt đối xử giữa những công dân
vì lý do tôn giáo; ngoài ra nó gây ra khó khăn cho sự trở lại của
những người đã được rửa tội, sau khi thất bại trong hôn nhân trước,
họ rất muốn được tái kết hôn theo giáo luật; cuối cùng, ngoài những
khó khăn khác, trong thực tế có rất nhiều hôn nhân kiểu đã xảy ra,
đối với Giáo Hội được gọi là hôn nhân “bí mật” (clandestino).
Sau khi cân nhắc và đánh giá kỹ lưỡng các ý kiến các
nghị phụ của Bộ Giáo Lý Đức Tin và của Hội Đồng Giáo Hoàng Về
Bản Văn Luật và cũng như của các Hội Đồng Giám Mục được tham khảo
về lợi ích mục vụ việc phải giữ hay bãi bỏ luật trừ đối với quy
định tổng quát trong điều 11, đều cho thấy rõ cần thiết bãi bỏ quy
tắc hiện hành nầy trong Bộ Giáo Luật.
Vậy thì trong chính Bộ Giáo Luật, Tôi quyết định tại
điều 1117, bỏ cụm từ «và đã không rời bỏ Giáo Hội ấy bằng một hành vi dứt
khoát» (neque actu formali ab ea defecerit); tại điều 1086§1 bỏ
cụm từ «và không rời bỏ Giáo Hội ấy bằng một hành vi dứt khoát» (nec actu
formali ab ea defecerit); cũng như trong điều 1124 bỏ cụm từ
«và đã không từ bỏ Giáo Hội ấy bằng một hành vi dứt khoát» (quaeque
nec ab ea actu formali defecerit).
Do vậy, sau khi lắng nghe vấn đề nầy của Bộ Giáo Lý
Đức Tin và Hội Đồng Giáo Hoàng Về Văn Bản Luật cũng như hỏi ý kiến
các Hồng y tổng trưởng các cơ quan giáo triều Rôma, Tôi quyết định
những điểm sau đây:
Điều 1. Bản văn điều 1008 trong Bộ Giáo
Luật từ đây về sau được đổi thành như sau :
“Sacramento ordinis ex divina institutione inter christifideles quidam,
charactere indelebili quo signantur, constituuntur sacri ministri, qui nempe
consecrantur et deputantur ut, pro suo quisque gradu, novo et peculiari titulo
Dei populo inserviant”. Do bí tích truyền chức thánh đã được Thiên
Chúa thiết lập, một số Kitô hữu được đặt làm thừa tác viên có chức
thánh, nhờ được ghi ấn tích không thề xóa nhòa, như thế họ được thánh hiến
và được chỉ định, mỗi người tùy theo cấp bậc của mình, với cách thức
mới và đặc thù, để phục vụ Dân Thiên Chúa.
Điều 2. Điều 1009 của Bộ Giáo Luật từ
đây về sau sẽ có 3 triệt, triệt 1 và triệt 2 sẽ giữ nguyên như cũ
trong giáo luật hiện hành, trong khi đó thêm mới triệt 3, và bản văn
1009§3 như sau:
“Qui constituti sunt in ordine episcopatus aut presbyteratus missionem
et facultatem agendi in persona Christi Capitis accipiunt, diaconi vero vim
populo Dei serviendi in diaconia liturgiae, verbi et caritatis”. Những
người chịu chức giám mục hoặc linh mục nhận lãnh sứ mạng và năng quyền hành động
trong cương vị (in persona) của Chúa Kitô thủ lãnh, trái lại các phó tế được
năng quyền phục vụ dân Thiên Chúa bằng việc phục vụ phụng vụ, Lời Chúa và bác
ái.
Điều 3. Bản văn điều 1086§1 của Bộ Giáo
Luật được thay đổi thành như sau:
“Matrimonium inter duas personas, quarum altera sit baptizata in
Ecclesia catholica vel in eandem recepta, et altera non baptizata, invalidum
est”. Hôn nhân giữa một người đã được rửa tội trong Giáo Hội công
giáo hoặc đã được nhận vào Giáo Hội ấy và với một người không được rửa tội, thì
bất thành.
Điều 4. Bản văn điều 1117 của Bộ Giáo
Luật được thay đổi thành như sau:
“Statuta superius forma servanda est, si saltem alterutra pars
matrimonium contrahentium in Ecclesia catholica baptizata vel in eandem recepta
sit, salvis praescriptis can. 1127, § 2”. Phải tuân giữ thể
thức ấn định ở trên, nếu ít là một trong hai bên kết ước đã được rửa tội trong
Giáo Hội công giáo hay đã được nhận vào Giáo Hội công giáo, miễn là vẫn giữ
nguyên những quy định ở điều 1127 §2.
Điều 5. Bản văn điều 1124 của Bộ Giáo
Luật được thay đổi thành như sau:
“Matrimonium inter duas personas baptizatas, quarum altera sit in
Ecclesia catholica baptizata vel in eandem post baptismum recepta, altera vero
Ecclesiae vel communitati ecclesiali plenam communionem cum Ecclesia catholica
non habenti adscripta, sine expressa auctoritatis competentis licentia
prohibitum est”. Nếu không có phép minh nhiên của thẩm quyền, cấm kết
hôn giữa hai người đã được rửa tội, mà một người đã được rửa tội trong Giáo Hội
công giáo hoặc đã được nhận vào Giáo Hội công giáo sau khi được rửa tội, còn
người kia đã gia nhập vào một giáo hội hoặc một giáo đoàn không thông hiệp trọn
vẹn với Giáo Hội công giáo.
Những gì Tôi đã quyết định trong tự sắc nầy, Tôi truyền
phải tuân giữ và có hiệu lực, bất chấp những gì trái ngược, và
những quyết định nầy cần được đăng trong công báo Tòa Thánh Acta Apostolicae Sedis.
Làm tại Rôma, cạnh Đền Thờ
Thánh Phêrô, ngày 26 tháng 10 năm 2009, năm thứ năm trong triều đại Giáo
Hoàng của Tôi.
Đức Giáo Hoàng BÊNÊĐICTÔ XVI
Bản văn gốc của Motu
Proprio Omnium
in Mentem lấy
từ:
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ chuyển
ngữ