Biến
Cố Quang Lâm
(catechesis.net)
December 2, 2018
Phan
Tấn Thành
Trích “Niềm Hy vọng hồng phúc”
(Đời sống tâm linh XIV) trang 198-222.
Trong
đầu óc của nhiều tín hữu, ý tưởng “quang lâm” thường được gắn liền với “tận
thế” được hiểu như là ngày tận cùng của thế giới. Nó gây ra nỗi lo sợ chứ không
phải là hy vọng. Tuy nhiên, đó là một hình ảnh lệch lạc về quang lâm. Niềm tin
Kitô giáo tuyên xưng một biến cố tích cực hơn: Đức Kitô đến để tỏ lộ vinh quang phục
sinh và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa cách vĩnh viễn.
Vì thế
chúng ta cần có một ý niệm chính xác về Quang lâm, qua việc tìm hiểu đạo lý
được diễn tả trong Thánh kinh, các giáo phụ, huấn quyền, phụng vụ; sau đó,
chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của niềm tin.
I.
Thánh kinh
Quang
lâm là gì? Tầm quan trọng của nó như thế nào? Có những dấu hiệu nào báo trước
biến cố đó hay không? Chúng ta sẽ cố gắng tìm câu trả lời khi phân tích những
đoạn văn Tân ước liên quan đến biến cố này.
A. Từ
ngữ
Tân ước
sử dụng nhiều từ ngữ để diễn tả biến cố: Quang lâm (Parousia), Ngày của Chúa (Jôm YHWH), Mặc khải (Apocalysis), Tỏ hiện (Epiphaneia). Những từ ngữ
này không phải là hoàn toàn mới mẻ, bởi vì chúng đã được sử dụng trong Cựu ước.
Điều mới mẻ nằm ở nội dung của nó.
1.
Parousia
Parousia là
từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp. Theo nguyên ngữ, nó chỉ có nghĩa là: đến,
xảy đến (xuất phát từ động từ pareimi),
cũng tương tự như là adventus trong
tiếng La tinh (nghĩa đen là việc đến, và được đặt tên cho mùa phụng vụ; tiếc
rằng dịch ra tiếng Việt là Mùa Vọng thì mất hết ý nghĩa).
Trong
văn hoá Hy lạp, từ parousia được
dùng để nói về việc các biến cố xảy đến; các vua đến thăm viếng nhân dân; và
đôi khi cũng nói đến việc các thần linh đến (hạ giới) nhân các buổi lễ nghi tế
tự.
Ta dịch
từ parousia ra
tiếng Việt là Quang lâm[1] vì Đức
Kitô như vị vua sẽ đến thăm dân Ngài trong vinh quang, người trên đến thăm
người dưới, nên mình cho là vinh dự. Thật vậy, Tân ước dùng danh từ parousia 24 lần theo
nhiều nghĩa khác nhau,[2] nhưng phần lớn theo nghĩa chuyên môn
chỉ đến biến cố Đức Kitô đến trong vinh quang[3] để hoàn tất lịch sử cứu độ. Biến cố
này kèm theo nhiều sự kiện khác:
– Kết
liễu thế giới (x. Mt 24,3.27.37.39; 1Tx 2,19; 3,13; 2Tx 2,1.8; 2Pr 3,4.12), và
khởi điểm của tạo dựng mới;
– Người
chết sống lại (x. 1Tx 4,15; 1Cr 15,23);
– Phán
xét chung thẩm (x.1Tx 5,23; Gc 5,7-8; 1Ga 2,28).
Như
vậy, Quang lâm là một tổng bộ gồm nhiều khía cạnh, mà tuy được phân chia để học
hỏi, nhưng không được tách rời. Chúng ta có thể đọc một đoạn văn tiêu biểu 1Tx
4,13-18 mô tả đầy đủ nhất biến cố Quang lâm:
Thưa
anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng
hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người
không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống
lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được
Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu. Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh
em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày
Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu.
Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên
Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết
trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang
sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để
nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi
mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.
Theo
các học giả, thư thứ nhất gửi Thêxalônica là tác phẩm đầu tay của thánh Phaolô
và cũng của cả Tân ước nữa (viết khoảng năm 50). Trong đoạn văn vừa trích,
chúng ta nên phân biệt giữa đạo lý và hình thức văn chương.
Bối
cảnh của đoạn văn này là các tín hữu Thêxalônica tiếc thương những thân nhân
quá cố. Nỗi buồn này không những theo tâm tình tự nhiên gây ra do sự chia ly,
nhưng còn do sự tiếc xót bởi vì người thân của họ sẽ không được vinh dự tiếp
đón Đức Kitô trong ngày Quang lâm. Các tín hữu thời đó (cũng như thánh Phaolô)
tin rằng biến cố Quang lâm đã gần kề, thậm chí còn hy vọng sống cho tới lúc ấy
(x. 1Cr 15,51-52).
Vài lối
mô tả quang cảnh Chúa quang lâm sử dụng hình ảnh ước lệ gặp thấy từ Cựu ước.
Mỗi lần Chúa hiện ra thì có mây và tiếng kèn, chẳng hạn như trên núi Sinai (x.
Xh 13,22; 19,16). Cũng tựa như khi các vua sắp lâm triều thì có vệ binh thổi
kèn để loan báo, đến ngày tận thế các thiên sứ cũng thổi kèn để triệu tập toàn
dân lại (x. Mt 24,29-31).
Nội
dung của niềm tin nằm ở chỗ là tới ngày Quang lâm, Đức Kitô sẽ đến để đưa tất
cả những người còn đang sống về ở bên Người mãi mãi, còn những người chết thì
được sống lại và cùng hưởng hạnh phúc đó.
Tư
tưởng tương tự cũng được nói ở 1Cr 15 mà chúng ta sẽ phân tích trong mục 3
(phục sinh thân xác): Vào ngày Quang lâm, chúng ta sẽ sống lại, được biến đổi,
được đưa về với Đức Kitô và sau cùng kẻ thù bị tiêu diệt, vũ trụ được canh tân
đặt dưới vương quyền của Chúa Cha (câu 23-28).
2. Jôm
YHWH (ngày của Chúa)
Chúng
ta sẽ tìm hiểu các cách thức diễn tả, nguồn gốc và ý nghĩa của thuật ngữ này.
a) Xét
về hình thức của từ ngữ
Khi phân
tích tất cả các bản văn Cựu ước tiếng Hípri, từ jôm xuất hiện kèm
theo một tên riêng duy nhất YHWH (Giavê) và không bao giờ
thấy từ Adonai, Elohim hay một đại từ
danh xưng khác chỉ về Đức Chúa đi kèm theo. Đây là một trường hợp tiêu biểu:
“Này đây Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các người, trước khi Ngày của Đức Chúa (Giavê)
đến, ngày trọng đại và huy hoàng” (Ml 3,23).
Ta thấy
vài sự dị biệt về từ ngữ ở trong Tân ước tiếng Hy lạp. “Ngày của Chúa” (hêmera tou Kyriou: 1Tx
5,2; 2Tx 2,2; 1Cr 5,5) cũng còn được gọi là “Ngày của Chúa chúng ta là Đức
Giêsu Kitô” (1Cr 1,8); “Ngày của Đức Giêsu Chúa chúng ta” (2Cr 1,14); “Ngày của
Đức Kitô” (Pl 1,10; 2,16); “Ngày của Con Người” (Lc 17,22.24.26), “Ngày ấy”
(1Cr 3,13; Rm 2,16; 2Tm 1,18; 4,8; vv), “Ngày trọng đại” (Gđ 6; Kh 6,17;
16,14). Sự khác biệt giữa Cựu ước và Tân ước nằm ở chỗ chủ thể được chuyển từ
Thiên Chúa (Ngày của Giavê) sang Đức Kitô (mặc dù còn vài đoạn văn duy trì lối
nói cũ, chẳng hạn 2Pr 3,12: “Ngày của Thiên Chúa”). Ngày của Đức Kitô là ngày
Người đến để phán xét (x. 1Cr 1,8; 3,13; 5,5; Pl 1,10; 2,16; 2Tm 1,18), kết
thúc công trình cứu chuộc (x. Pl 1,6; 2Tm 4,8 …), chiến thắng sự dữ (x. Lc
17,24).
b) Xét
về nguồn gốc và ý nghĩa
Có
nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của thành ngữ “Ngày của Chúa” có khác nhau.
Có người cho rằng thành ngữ “ngày của Chúa” thuộc về một vài truyền thống dân
gian, trông mong ngày Chúa đến để bảo vệ Israel khỏi tay quân thù. Một ý kiến
khác cho rằng nguồn gốc của thành ngữ này đó là ngày đầu tiên của năm, một ngày
lễ tôn kính Giavê lên làm Vua.[4] Thực ra, hạn từ “Ngày của Giavê” xét
như lần can thiệp cuối cùng của Thiên Chúa vào lịch sử (x. Lc 17,24; Ga 8,56)
bao gồm nhiều ý nghĩa khác nhau trải qua nhiều giai đoạn lịch sử dân tộc
Israel:
– Đối
với Amos, đó là ngày trừng phạt Israel về sự chai đá cứng lòng, ngày của tối
tăm, than khóc, tàn sát, kinh hoàng (x. Am 2,13-16; 5,18-20; 8,9-10.13).
– Vào
thời lưu đày, “ngày của Giavê” biến thành nguồn hy vọng, bởi vì sự trừng phạt
của Thiên Chúa sẽ giáng xuống những kẻ đàn áp Israel (Babylonia, Ai cập). Vì
thế “Ngày của Giavê” sẽ mang lại sự phục hưng thịnh vượng cho Israel (x. Is
11,1; 12,1; 30,26; Gl 4,1).
– Sau
thời lưu đầy, “ngày của Giavê” trở thành ngày xét xử, ban thưởng kẻ lành và
trừng trị kẻ ác.
c) Xét
về lối diễn tả
Tương
ứng với sự thay đổi quan điểm về bản chất “Ngày của Giavê” là sự thay đổi trong
lối diễn tả bằng nhiều hình ảnh khác nhau:
– Ngày
của Chúa kèm theo những xáo trộn trong vũ trụ: động đất, nhật thực, chiến tranh
(x. Am 5,18-19; 8,9; Ge 2,1-2; 3,3; 4,15-16; Is 13,6-9; Xp 1,14-18).
– Ngày
của Chúa mang lại những phúc lành, thịnh vượng, an bình, đồi nương chảy tràn
sữa và mật (x. Am 9,11-14; Ge 4,18-21).
– Ngày
canh tân giao ước tình yêu giữa Chúa và dân Người (x. Gr 31,31-34; Ed
36,23-30).
Cần
phân biệt nội dung và lối diễn tả. Thí dụ khi mô tả cảnh Đức Giêsu chết trên
thập giá, Mátthêu nói đến “mặt trời ra tối tăm”, nhưng cảnh tượng này thực tế
có lẽ không xảy ra (khi đối chiếu với Luca và Gioan); một cách tương tự như
vậy, thánh Phêrô (x. Cv 2,16-22) trưng dẫn những đoạn văn nói đến những dấu lạ
trên trời (mặt trời ra tối tăm, mặt trăng hoá máu) để mô tả biến cố Ngũ Tuần,
song kỳ thực chẳng có hiện tượng nào kỳ lạ xảy ra trong vũ trụ.
Hai từ
ngữ kể trên đây (parousia,
jôm YHWH) mang nghĩa chuyên môn, dành riêng cho biến cố Đức Kitô
quang lâm và kết thúc lịch sử. Biến cố này còn được diễn tả với hai từ ngữ khác
nữa, đó là: epiphaneia và apocalypsis, tuy
không thuần túy dành riêng cho việc quang lâm.
3.
Epiphaneia
Trong
các thư mục vụ (gửi Timothê và Titô) danh từ epiphaneia thay thế danh từ parousia. Danh từ epiphaneia trong văn
hoá Hy lạp được dùng để ám chỉ các sự hiển linh (các vị thần hiện ra) hay các
cuộc xuất hiện của các vua (ngày chào đời) hay là du hành tới một nơi nào.
Trong Tân ước, từ epiphaneia vừa
được dùng cho ngày Chúa “hiển linh”, ngày Chúa “xuất hiện” trong vinh quang như
Đấng cứu độ viên mãn (x. 1Tm 6,14; 2Tm 4,1.8; Tt 2,13, trùng hợp với parousia)
vừa dùng cho việc Ngài “xuất hiện” trong thế gian qua nhập thể của Đức Giêsu
(x. 2Tm 1,10). Từ đó phụng vụ đặt tên cho lễ “Chúa Hiển Linh”. Về sau, để tránh
lẫn lộn, các giáo phụ phân biệt hai lần Chúa đến.[5]
4.
Apocalypsis
Apocalypsis theo
nguyên ngữ có nghĩa là “vén màn” (mặc khải). Nó được hiểu về nhiều nghĩa:
– Mặc
khải một chân lý (Lc 2,32), một mầu nhiệm (Rm 16,25).
– Mặc
khải một thị kiến, một cảm nghiệm huyền bí (Gl 1,12; 2Cr 12,1.7).
– Sự
hiển hiện của Đức Kitô vào lúc quang lâm (2Tx 1,7; 1Pr 1,7.13; 4,13), tỏ lộ
quyền xét xử của Thiên Chúa (Rm 2,5).
Ở 1Cr
1,7 thánh Phaolô nói đến niềm hy vọng “vào sự mặc khải của Đức Giêsu Kitô”,
được hiểu về mặc khải vinh quang trong “Ngày của Chúa” nói ở câu kế tiếp (câu
8).
B. Những
dấu hiệu của ngày Quang lâm
Từ lâu
rồi, mỗi khi nghe nói đến Quang lâm (tận thế), một câu hỏi thường nảy ra trong
đầu: Chừng nào Chúa đến? Có dấu hiệu gì để biết là Chúa sắp đến không? Tâm
trạng đó đã thấy ngay từ trong Tin mừng Mátthêu thuật lại việc các môn đệ tới
gặp riêng Đức Giêsu và thưa: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ những sự
việc ấy sẽ xảy ra, và điềm gì báo trước cuộc Quang lâm của Thầy và báo trước
tận thế” (Mt 24,3).
Trải
qua lịch sử, người ta cố gắng tìm tòi trong Tin mừng để kê khai các “điềm” tiên
báo tận thế. Chúng ta có thể kê ra bảy điềm (theo thánh Mátthêu) hoặc bốn điềm
(tổng hợp Tân ước).
1. Bảy
điềm báo
Dựa vào
chương 24 của Mátthêu, chúng ta có thể đếm được 7 điềm.
(i) Các
ngôn sứ giả: “Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta là Đấng
Kitô’ và họ sẽ lường gạt được nhiều người… Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và
lừa gạt nhiều người” (Mt 24,11; Mc 13,6).
(ii)
Chiến tranh: “Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã” (Mt 24,6).
(iii)
Tai ương: “Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi” (Mt
24,7).
(iv)
Bách hại: “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và
người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy” (Mt
24,9).
(v) Mất
đức tin, bỏ đạo: “Vì tội ác gia tăng cho nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ
nguội đi” (Mt 24,12).
(vi)
Tin mừng sẽ được giảng đến khắp cùng trái đất: “Tin mừng này về Vương quốc sẽ
được loan báo khắp thế giới, để làm chứng cho tất cả các dân ngoại được biết.
Và bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24,14).
(vii)
Vũ trụ xáo trộn: “Ngay sau những cơn gian nan ấy, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt
trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên
trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời” (Mt
24,29-30).
Chúng
ta thấy bản liệt kê này không có khả năng thuyết phục vì ba lý do:
a)
Nhiều hiện tượng đã và đang xảy ra đều đều trong lịch sử (chẳng hạn: chiến
tranh, loạn lạc, mất mùa).
b).
Những điềm được nói ở chương 24 của Mátthêu không chỉ áp dụng cho ngày tận thế
mà còn cho cuộc tàn phá Giêrusalem nữa (xem thêm: Mc 13,1-37 // Lc 17,20-18,8;
21,5-38).
c) Cần
phải lưu ý đến giọng văn khải huyền được sử dụng khi mô tả “Ngày của Giavê”.[6]
2. Bốn
điềm báo
Chúng
ta có thể thiết lập một danh mục khác ngắn hơn, rút xuống còn 4 điềm, dựa theo
nhiều chỗ trong Tân ước: a) Đức tin ra nguội lạnh (Lc 18,8); b) Quỷ vương xuất
hiện (2Tx 2,1tt); c) Tin mừng sẽ được giảng cho khắp muôn dân (Mt 24,14); d)
Dân Israel sẽ trở lại (Rm 11,25tt). Đâu là giá trị của các điềm báo ấy?
a) Đức
tin ra nguội lạnh. Điều này dựa theo kết luận của dụ ngôn nói về quan toà bất
chính và bà goá quấy rầy (Lc 18,1tt: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người
còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”). Tuy nhiên, xem ra đây không phải
là điềm tiên báo cho bằng lời khuyến dụ hãy kiên tâm, cho dù công lý của Thiên
Chúa chậm đến. Thánh Phaolô cũng nói tới hiện tượng chối đạo (apostasia) trước ngày
Quang lâm (x. 2Tx 3,2), nhưng đây không hẳn là một “điềm”.
b) Quỷ
vương xuất hiện. Hiện tượng một kẻ “Phản Kitô” (Antichrist) sẽ xuất hiện được nhiều tác phẩm
Tân ước nhắc đến (x. 2Tx 2,1tt; 1Ga 2,18-22; 4,1-4; 2Ga 7-9; Kh 13-17). Tuy
nhiên nhân vật này (cũng còn gọi là Tên Phản loạn, tên gian ác, hư hỏng) đôi
khi được hiểu về một cá nhân sẽ đến (như trong 2Tx), đôi khi được hiểu về một
nhóm (như trong thư của Gioan). Hơn thế nữa, theo thánh Gioan “nhiều tên Phản
Kitô đã xuất hiện rồi” có lẽ ám chỉ phái ngộ giáo không nhìn nhận Đức Kitô nhập
thể. Trong sách Khải huyền (13,1-10), xem ra tên Phản Kitô là đế quốc Rôma.
Chính vì căn cước của Phản Kitô thay hình đổi dạng như vậy, cho nên nhiều nhà
chú giải Thánh kinh cho rằng đây là biểu tượng của tất cả mọi lực lượng chống
đối vương quyền của Thiên Chúa trong dòng lịch sử.
c) Tin
mừng được rao giảng tới khắp cùng thế giới. Dấu chỉ này có thể được giải thích
nhiều cách, và vì thế khó được nhìn nhận như “điềm” tiên báo Quang lâm. Thực
vậy, thế nào là “khắp cùng thế giới” bởi vì hạn từ “thế giới” (oikoumene) đôi khi được
Tân ước đồng hoá với đế quốc Rôma (x. Lc 2,1). Thánh Phaolô trong thư gửi Rôma
quả quyết rằng “Tin mừng đã được rao giảng khắp thế giới rồi” (Rm 10,18). Ngày
hôm nay, quả thực Tin mừng đã được loan báo cho muôn dân rồi, nhưng vẫn chưa
tận thế. Hay là ta cần phải chờ cho tất cả mọi người phải tin nhận Chúa Kitô
nữa?[7]
d)
Israel sẽ trở lại. Cách riêng, đối với dân tộc Israel, việc dân tộc này chấp
nhận Tin mừng được thánh Phaolô suy nghĩ suốt chương 11 của thư Rôma. Thánh
Phaolô không chủ ý nói tới một điềm báo cánh chung, nhưng chỉ muốn nêu bật rằng
Thiên Chúa trung tín giữ lời đã hứa: Dù Israel cố chấp đi nữa, Thiên Chúa vẫn
cương quyết thi hành giao ước. Sau cùng, toàn thể dân Israel sẽ quay về với
Chúa và cùng hợp với dân ngoại thành một dân tộc duy nhất như từ thuở nhân loại
khai sinh (Rm 15,7-12).
Tóm
lại, chúng ta hơi “thất vọng” khi truy tầm những điềm tiên báo ngày Quang lâm.
Nhưng có lẽ chúng ta hiểu chưa đúng vấn đề. Tân ước loan báo ngày Quang lâm
không phải để kích thích óc hiếu kỳ của chúng ta, nhưng là nhắm mục tiêu huấn
giáo.
3. Bài
học của ngày Quang lâm
Trước
câu hỏi của các môn đệ về thời điểm tận thế, các tác giả Tân ước xem ra ghi lại
hai lập trường khác nhau của Đức Giêsu.[8]
Một
đàng Ngài từ chối trả lời, đồng thời cảnh giác họ:
Còn về
ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay
người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi. Anh em phải coi chừng, phải
tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến (Mc 13,32-33).
Có lẽ
bởi vì Ngài muốn nói rằng ngày Quang lâm xảy đến không thể được đo lường bằng
thời gian lịch sử và quy luật tiến triển; Parousia tự nó không có ngày tháng. Điều
cần thiết không phải là đi tìm các câu trả lời về triết lý và thần học lịch sử,
mà tốt hơn là sống “tỉnh thức”. Nói cách khác, khi loan báo Quang lâm, Thánh
kinh muốn chúng ta tìm ra một cách ứng xử thích đáng, đó là: tỉnh thức (x. Mc
13,33.35.37; Mt 24,44; 25,13), cầu nguyện (x. Lc 18,8b; 21,36), hăng say trong
việc bác ái (x. Mt 24,12; 25,40) và trong công cuộc truyền giáo (x. Mt 25,19).
Đàng
khác, chính Đức Giêsu đã loan báo các dấu hiệu sẽ xảy ra. Điều này có nghĩa
rằng trong Ngài, Thiên Chúa vừa hành động cách trực tiếp vừa hành động cách
gián tiếp qua trung gian “Con Người”. Ngài là telos (mục đích), sự viên mãn của mọi thực
tại, đồng thời là peras
(biên cương, giới hạn) cái kết thúc của thời gian lịch sử. Việc
Ngài quang lâm là sự giải thoát con người cách tự do, tuy nhiên nó không thành
tựu nếu không có con người.
Thật
vậy, các tín hữu Thêxalônica mong mỏi Chúa Quang lâm, và họ buồn phiền nếu vắng
mặt trong buổi lễ hội đó! Tiếc rằng, họ đi đến thái độ cực đoan, đó là chỉ ngồi
chờ Quang lâm và lãng quên công việc làm ăn! Vì thế thánh Phaolô thúc giục họ
hãy trở về với việc bổn phận “ai không làm việc thì đừng ăn” (2Tx 3,10). Dù
sao, có thể nói được là thánh Phaolô đã để lại một huấn giáo luân lý mang tính
cách quang lâm, nghĩa là các tín hữu được thúc gịuc hãy sống làm sao cho phù
hợp với niềm tin và hy vọng vào Chúa Quang lâm. Nó đòi buộc ta phải hoán cải,
từ bỏ ngẫu tượng, khước từ sự tối tăm, tiết độ, thi hành đức Tin-Cậy-Mến (x.
1Tx 1,9-10; Rm 13,11-14).
Thêm
vào đó, niềm hy vọng vào Chúa Quang lâm mang lại niềm vui (x. 1Tx 2,19; Rm
12,12, và nhất là Pl 4,4-5: “Anh em hãy vui lên… vì Chúa đã đến gần”). Niềm vui
này sẽ nâng đỡ các tín hữu đang chịu đau khổ vì những bách hại. Họ được mời gọi
hãy vui lên bởi vì một khi đã chia sẻ sự đau khổ của Đức Kitô, thì chắc chắn
cũng được tham dự vào vinh hiển của Ngài (x. Rm 5,3-5; 2Cr 1,3-7, và nhất là Rm
8,18; và 1Pr 4,13).
II.
Niềm tin của Hội thánh
Từ thời
các giáo phụ, Hội thánh luôn tuyên xưng đạo lý về việc Chúa Kitô sẽ đến trong
vinh quang. Niềm tin này được phát biểu trong các kinh Tin Kính, trong các cuộc
cử hành phụng vụ, các lời tuyên bố của Huấn quyền. Tuy nhiên, cũng nên ghi nhận
rằng niềm tin đó không được duy trì cùng một tâm trạng: Từ chỗ náo nức trông
mong thuở ban đầu chuyển sang thái độ khiếp sợ vào thời Trung cổ.
A. Tín
biểu
Các tín
biểu cổ điển đều chứa đựng lời tuyên xưng Đức Kitô sẽ trở lại trong vinh quang
để phán xét kẻ sống và kẻ chết, và đặt ở cuối phần thứ hai: “Đức Giêsu Kitô…
xuống thế làm người… chịu chết và phục sinh… lên trời… và sẽ trở lại trong vinh quang để
phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Tín biểu Nixêa- Constantinopolis (đọc trong Thánh
lễ ngày Chúa nhật) còn thêm: “Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.
B.
Phụng vụ
Trong
các buổi cử hành phụng vụ, niềm tin vào Chúa quang lâm được phát biểu cách đặc
biệt khi cử hành Thánh Thể. Thực vậy, các bản văn Tân ước đã cho thấy mối liên
hệ chặt chẽ giữa việc cử hành Thánh Thể và biến cố Quang lâm.
Trình
thuật về việc thiết lập Thánh Thể nói rõ đây không phải là bữa “Tiệc ly” để
chia tay, nhưng là bữa tiệc hướng tới cuộc hội ngộ trong Nước Chúa. Thực vậy,
khi trao chén rượu được chúc phúc, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy bảo cho anh em biết: Từ nay Thầy
không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được
cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29).[9] Hoạ
lại tư tưởng đó, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Côrintô rằng: “Mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là
anh em loan truyền Chúa đã chịu chết, cho tới ngày Chúa lại đến”
(1Cr 11,26).
Vì thế
chúng ta không ngạc nhiên gì khi cử hành Thánh Thể, các tín hữu khẩn nài Maranatha: “Lạy Chúa, xin
đến”. Câu này (bằng tiếng Aram) đã xuất hiện trong Tân ước (1Cr 16,22; Kh
22,20) có thể giải thích theo hai nghĩa: hoặc là một lời tuyên xưng đức tin (maran/ atha: Chúa chúng ta
đã đến); hoặc là lời khẩn cầu (marana/tha:
Lạy Chúa chúng con, xin hãy đến). Nhưng với sách Didakhê (10, 6) ý
nghĩa đã được xác định: đó là lời khẩn cầu: “Xin Chúa hãy đến” ở đây trên bàn
thờ này cũng như đến để đưa chúng con về với với Chúa.
C. Lịch
sử Giáo hội
Trong
lịch sử Giáo hội, niềm tin vào Chúa quang lâm đã trải qua nhiều lúc thăng trầm.
1. Thời
các giáo phụ
Nói
chung, các tín hữu vào thời các giáo phụ vẫn còn duy trì niềm mong đợi biến cố
Quang lâm. Sách Điđakhê (Giáo
huấn của Mười Hai Tông đồ) ra đời vào khoảng thế kỷ II (năm 90-160) chương cuối
cùng (ch. XVI) mang dấu ấn cánh chung khải huyền rất rõ. Sách nói đến thái độ
phải tỉnh thức trong khi mong chờ Chúa đến lần thứ hai, những dấu hiệu xảy ra
trước lúc tận cùng và ba dấu chỉ của chân lý sẽ diễn ra vào lúc Chúa quang lâm.
Xét về
ý nghĩa từ ngữ, các giáo phụ cũng xác định hơn. Trong Tân ước, từ parousia ám chỉ việc
Đức Kitô đến vào cuối lịch sử. Thánh Inhaxiô Antiôkia áp dụng từ này cho cả mầu
nhiệm Nhập thể nữa (Thư gửi
Philadelphia 9,2). Vì thế, để khỏi lẫn lộn, thánh Giustinô
phân biệt giữa hai lần Chúa đến: Lần thứ nhất nơi mầu nhiệm Nhập thể và lần thứ
hai vào tận thế. Sự phân biệt này còn được duy trì trong phụng vụ, đặc biệt là
trong Mùa Vọng (Adventus trong
tiếng La tinh có nghĩa là “đến, xảy đến”).
Mặt
khác, thuật ngữ “Ngày của Chúa” (Dies
Domini) không chỉ được hiểu về ngày tận thế nhưng còn ám chỉ “Chúa
nhật”, ngày đầu tuần lễ, tưởng niệm biến cố Phục sinh. Có lẽ tục lệ này bắt
nguồn ngay từ thời Tân ước, như đọc thấy trong Sách Khải huyền (Kh 1,10).[10]
2. Thời
Trung cổ
Dần
dần, biến cố Quang lâm không còn là đối tượng của niềm mong đợi nữa. Có lẽ vì
người ta ngóng chờ hoài mà không thấy Chúa đến cho nên không muốn “mỏi cổ” nữa.
Thay vào đó là tâm trạng tò mò, như ta thấy trong một tác phẩm của thánh
Augustinô (Thư 199, de fine saeculi) cảnh báo
các tín hữu hãy duy trì đức tin tinh tuyền và đừng phôi pha những chi tiết
hoang đường về điềm báo tận thế.
Một sự
thay đổi đáng kể nhất từ thời Trung cổ là tâm trạng sợ hãi. Đang khi các Kitô
hữu tiên khởi mong mỏi Chúa Quang lâm như “mong mẹ đi chợ về”, thì càng ngày
các tín hữu càng sợ mỗi khi nghe nói đến biến cố mà họ coi là tận thế. Tại sao
vậy? Trong số những lý do trưng ra để giải thích, Joseph Jungmann và Karl Adam
cho rằng lý do là vì hình ảnh của Đức Kitô đã bị thay đổi. Thật vậy, trong Tân
ước, Đức Kitô được giới thiệu như “trung gian giữa Thiên Chúa với nhân loại”,
là “thượng tế” (với những lối diễn tả đầy nhân tính trong thư gửi Do thái), là “kẻ
bào chữa” (1Ga 2,1), “lang quân” (sách Khải huyền). Nhưng vào thời giáo phụ và
cho tới thời Trung cổ, khi những cuộc tranh luận Kitô học càng lúc đề cao thiên
tính của Đức Kitô (Ngài “đồng bản thể với Chúa Cha”), thì hình ảnh của Ngài
càng ngày càng xa vời nhân loại. Vì thế các tín hữu cảm thấy khiếp run khi
trình diện trước toà Chúa phán xét.[11]
Một lý
do nữa có lẽ là từ thời Trung cổ, người ta nhấn mạnh đến “cánh chung cá nhân”
hơn là “cánh chung phổ quát”, vì thế đề tài Quang lâm giảm mất tầm quan trọng.
3. Công
đồng Vaticanô II
Với
việc trở về Thánh kinh và các giáo phụ, đề tài Quang lâm được công đồng
Vaticanô II đặt lại đúng chỗ, nghĩa là trở thành đối tượng của niềm hy vọng
Kitô giáo: Biến cố Quang lâm không đồng nghĩa với “tận thế” (hình ảnh kinh
hoàng của thể văn khải huyền) nhưng là sự hoàn tất kế hoạch cứu độ, sự thiết
lập vĩnh viễn của Vương quyền Thiên Chúa (LG 48-49). Công đồng cũng tái khám
phá chiều kích cánh chung của cuộc cử hành phụng vụ (SC 8).
Sự thay
đổi não trạng này cũng phản ánh trong các bản văn phụng vụ. Các Kinh nguyện Tạ
ơn được soạn ra sau công đồng Vaticanô II đều thêm chiều kính cánh chung trong
phần tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên
xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến”. Thánh lễ không phải chỉ
“kính nhớ” (tưởng niệm một biến cố quá khứ) cuộc Vượt qua của Đức Kitô, nhưng
còn “vọng về” (trong tương lai) biến cố Quang lâm. “Giờ đây, chúng con tưởng nhớ Con Cha đã chịu khổ hình để
cứu độ muôn người, đã sống lại diệu huyền và lên trời vinh hiển; đồng
thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và
thánh thiện này ¼” (Kinh Tạ ơn số III). “Giờ đây cử hành tưởng niệm công trình
cứu chuộc, chúng con kính nhớ Đức Kitô đã chịu chết và xuống cõi âm ty, chúng
con tuyên xưng Người sống lại và lên trời ngự bên hữu Cha, và đang khi
chờ đợi Người vinh quang ngự đến” (Kinh Tạ ơn số IV).
Sau
kinh Lạy Cha, chúng ta cũng bày tỏ niềm mong chờ ngày hồng phúc: “¼ Đang khi chúng con mong chờ ngày hồng
phúc, ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con ngự đến”.
Sách
GLCG bàn đến biến cố Quang lâm ở các số 668-677, khi giải thích lời tuyên xưng:
“Người sẽ đến trong vinh quang”. Mặc dù kể ra những dấu hiệu loan báo ngày
Quang lâm gần kề theo các chứng từ của Tân ước, nhưng ngày Quang lâm vẫn có thể
xảy ra bất cứ lúc nào. Hội thánh chỉ bước vào vinh quang Nước Trời sau cuộc
Vượt qua cuối cùng theo gót Đức Kitô. Thiên Chúa sẽ toàn thắng những cuộc nổi loạn
của sự dữ dưới hình thức cuộc phán xét chung thẩm.
III.
Suy tư thần học
Trong
quá khứ, mỗi khi nghe nói tới Quang lâm, người ta thường liên tưởng đến một
biến cố kết liễu lịch sử và thế giới với những thảm hoạ quả là rùng rợn. Tuy
nhiên, chúng ta nên nhớ rằng chủ thể của Quang lâm là Đức Giêsu Kitô: Đức Kitô
sẽ đến.
Mặt
khác, kinh Tin Kính đặt lời tuyên xưng Đức Kitô Quang lâm để kết thúc công
trình cứu chuộc, khởi đầu từ khi Con Thiên Chúa làm người. Vì vậy, để nắm bắt ý
nghĩa của biến cố Quang lâm, chúng ta cần lồng nó trong toàn thể mầu nhiệm của
Đức Kitô. Tiếp đó, chúng ta sẽ bàn đến vài chi tiết khác liên quan đến biến cố
này.
A.
Quang lâm và mầu nhiệm Đức Kitô
Chúng
ta đừng quên rằng “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một”: Người là
Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa, đã đi vào lịch sử nhân loại với mầu nhiệm
Nhập thể để thiết lập vương quyền của Thiên Chúa ở trần gian. Tuy nhiên, khi
còn tại thế, Người đã tự hủy mình (kenosis),
chấp nhận thân phận nô lệ và thậm chí đã chịu chết cách nhục nhã trên Thập giá.
Với
cuộc Phục sinh, Người đã toàn thắng sự chết. Khi lên trời, Người đã nhận lãnh
vinh quang đã có từ muôn thuở. Tuy nhiên, đối với chúng ta, vinh quang ấy chưa
được tỏ rạng. Biến cố Quang lâm sẽ là cuộc “mặc khải” toàn vẹn thân thế của Đức
Kitô. Đó là điều hàm ngụ trong từ ngữ “quang lâm, mặc khải”: Tiên vàn nó nhắm
đến Đức Kitô, tỏ lộ vinh quang của Người (Mc 14,63; Ga 17,5).
Việc tỏ
lộ vinh quang của Đức Kitô cũng là lúc hoàn tất công trình mà Người đã khởi sự
khi đi vào lịch sử nhân loại, nghĩa là thiết lập triều đại của Thiên Chúa, khi
mà mọi quyền lực của sự dữ sẽ bị dẹp tan: tội lỗi, bệnh tật, sự chết. Hiểu như
vậy, ta thấy vì sao các môn đệ tiên khởi trông ngóng biến cố Quang lâm. Họ mong
được giải thoát khỏi sự dữ, họ mong được sống lại và chia sẻ vinh quang với Đức
Kitô.
Tóm
lại, Quang lâm là sự tỏ hiện rõ ràng, trực tiếp và phổ quát của
con người Đức Kitô, đầy quyền năng và ở trong địa vị làm Chúa, làm vua của một
vương quốc vĩnh cửu. Đồng thời Quang lâm cũng là một biến cố cụ thể,
kết thúc trọn vẹn lịch sử của chúng ta, chứ không được quan niệm như cuộc gặp
gỡ của một cá nhân với Chúa trong giờ chết.[12]
B. Ý
nghĩa những điềm báo hiệu quang lâm
Một khi
đã mất cái nhìn tổng quát về Quang lâm như là mầu nhiệm về Đức Kitô, người ta
chỉ nhìn biến cố này như là “tận thế” và băn khoăn lo âu nó tới gần, chứ không
phải do niềm trông mong nhớ nhung như thuở ban đầu. Chúng ta sẽ tóm tắt những
suy tư về ý nghĩa các điềm báo, thời gian và nơi chốn Chúa quang lâm.
1. Trải
qua lịch sử, nhiều người đã miệt mài tìm kiếm trong Thánh kinh các điềm báo về
Quang lâm (tận thế). Chúng ta đã điểm qua vài điềm (có thể là 4 hoặc là 7).
Chúng ta cũng đã phân tích ý nghĩa của các điềm đó. Chúng không nói lên điều gì
chính xác cả, hoặc bởi vì vẫn xảy ra mọi nơi mọi thời (chiến tranh loạn lạc),
hoặc bởi vì chỉ là một hình thức văn chương khải huyền (mặt trời ra tối tăm),
hoặc có thể hiểu theo nhiều nghĩa (Tin mừng được loan báo khắp thiên hạ). Dấu
hiệu “Phản Kitô” (Quỷ vương) cũng rất mơ hồ: Thánh Gioan coi đó như một tập thể
và đã xuất hiện ngay từ thế kỷ I; còn thánh Phaolô thì xem ra hiểu về một cá
nhân. Sách GLCG (số 675-676) cho rằng nó tượng trưng cho các cơn cám dỗ muốn đi
tìm một quan điểm Mêsia giả hiệu, nghĩa là mong muốn thiết lập Nước Thiên Chúa
hoàn toàn thế tục ở dưới trần này.
Thiết
tưởng trước những “điềm lạ” đang diễn ra xung quanh, chúng ta đừng quá ngạc
nhiên, vì nó cho thấy điều kiện thường xuyên của thế giới này. Mỗi thế hệ phải
cảm thấy các dấu lạ này và áp dụng cho mình. Tuy nhiên, cũng đừng đánh mất tính
nhạy bén trước các điềm báo hay dừng lại não trạng khải huyền, nhưng hãy giúp
người khác biện phân theo niềm hy vọng cánh chung và sống một cuộc đời “tỉnh
thức” và có tinh thần trách nhiệm.
2. Lịch
sử Giáo hội cũng cho biết rằng nhiều nhân vật hay giáo phái còn khẳng định chắc
chắn ngày giờ tận thế. Thánh Hippôlytô Rôma (+235) và nhiều
tác giả ở Syria đã tiên đoán vào năm 500. Nhiều ý kiến lại dự đoán vào năm
1000. Họ lý luận rằng đối với Thiên Chúa, một ngày cũng tựa một ngàn năm (2Pr
3,8), và do công trình tạo dựng xảy ra năm 4000 TCN, nên Đức Kitô sẽ trở lại
vào đầu thiên niên kỷ thứ VI của trái đất, tức là vào năm 1000. Thánh Vinh-sơn
Ferrer tiên báo vào năm 1412…
Tất cả
những lời tiên báo về thời sau hết đều sai lầm. Chúng ta nên lưu ý đến nhận xét
của thánh Tôma Aquinô: “Điều mà Chúa Giêsu đã không muốn tỏ cho các thánh Tông
đồ thì Ngài cũng chẳng mặc khải cho những người khác. Vì thế những ai muốn tính
toán thời khắc từ xưa đến nay thì đều sai lầm. Thật vậy, theo như thánh
Augustinô cho biết (De
civitate Dei, lib. XVIII, c. 52), vài người cho rằng thời gian từ
khi Chúa Giêsu lên trời cho đến lúc Người quang lâm là 400 năm; người khác thì
tính ra 500, người khác thì 1000. Dĩ nhiên là họ đã tính trật hết. Và cả những
ai cứ tiếp tục tính toán thì cũng sẽ trật luôn”.[13]
Công đồng
Latêranô V (14/1/1516) đã khuyến cáo: “Chúng tôi ra lệnh rằng các nhà giảng
thuyết không được phép rao giảng hay khẳng định như là chắc chắn về những điều
xấu xa sắp xảy đến, sự xuất hiện của Phản-Kitô, ngày phán xét. Chân lý (Đức
Kitô) đã dạy rằng: Các con đừng bận tâm muốn biết về thời giờ mà Chúa Cha đã
dành riêng cho một mình Ngài. Và chúng tôi biết rằng cho đến nay những người
quả quyết về điều này đều là giả dối, và vì thế, gây nhiều khó khăn cho những
nhà giảng thuyết chân chính”.[14]
3. Nếu
đã khó dự đoán chừng nào Chúa sẽ đến, thì lại càng khó nói rằng Chúa sẽ quang
lâm ở đâu. Vào thế kỷ II, ông Montanô loan báo Đức Kitô sắp quang
lâm tại bình nguyên thị xã Pepuza miền Phrygia, Tiểu Á! Như đã nói, biến cố
Quang lâm vượt lên trên những ý niệm về không gian và thời gian. Dù sao, chúng
ta không nên tưởng tượng rằng từ ngày Thăng thiên, Chúa Giêsu đã “biến” khỏi
địa cầu, và đến lúc nào đó thì Người “trở lại”. Không phải thế, Người hứa ở lại
với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20), cách riêng trong cộng đoàn
cầu nguyện (Mt 18,20) và nơi Bí tích Thánh Thể (Ga 6,54). Đặc biệt Tin mừng thứ
tư nhấn mạnh rất nhiều đến việc Người “ở lại” với chúng ta và mời chúng ta hãy
ở lại với Người (x. Ga 15,4-10). Nói cách khác, Người không đi nghỉ nơi xa, rồi
lúc nào đó trở về. Người vẫn hiện diện ở giữa chúng ta cách “huyền nhiệm”, và
chúng ta mong đợi lúc mà Người sẽ “hiển linh”, biểu lộ vinh quang Phục sinh cho
chúng ta được thông hưởng.
C. Linh
đạo quang lâm
Để kết
luận, chúng ta nên ghi nhận linh đạo của Quang lâm được diễn tả trong Kinh Thần
vụ. Những đoạn văn của các giáo phụ về thái độ của người tín hữu đối với biến
cố Quang lâm được trích đọc ở giờ Kinh Sách Mùa Vọng.
1. Ý
nghĩa của việc Chúa đến
– Hai
cuộc giáng lâm của Đức Kitô (Thánh Cyrillô Giêrusalem, Giáo huấn tiền thanh tẩy,15,1-3):
Chúa nhật I.
– Anh
em hãy tỉnh thức: Chúa sẽ lại đến (Thánh Ephrem, Chú giải về sách Tin mừng tổng hợp,
18,15-17): Thứ Năm tuần I.
– Đặc
tính cánh chung của Hội thánh lữ hành (Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Hội thánh,
48): Thứ Ba tuần II.
2.
Chuẩn bị đón Chúa đến
– Ý
nghĩa Mùa Vọng (Thánh Carôlô Borromêô, Thư
mục vụ): Thứ Hai tuần I.
– Ngôi
Lời của Thiên Chúa sẽ ngự đến giữa chúng ta (Thánh Bênađô, Bài giảng năm mùa Vọng):
Thứ Tư tuần I.
– Khát
vọng được ngắm nhìn Thiên Chúa (Thánh Anselmô, Proslogion, cap.1): Thứ Sáu tuần I.
– Chúa
ngự đến lần thứ nhất, chúng ta đừng chống lại, để khi Chúa ngự đến lần thứ hai,
chúng ta khỏi sợ hãi (Thánh Augustinô, Chú
giải thánh vịnh, 95,14): Chúa Nhật XXXIII Thường niên.
———————————————————-
[1] Có khi cũng được dịch là “Cơ-đốc phục
lâm”.
[2] Chẳng hạn, thánh Phaolô vui mừng thấy
ông Stêphanô, Photunatô, Akhaicô đến thăm (1Cr 16,17); Khoảnh khắc thánh Phaolô
đến tìm gặp các tín hữu (Pl 1,26). Danh từ parousia được thánh Phaolô sử dụng nhiều
hơn các tác giả khác trong Tân ước (14 trên 24 lần).
[3] Từ parousia được các tác giả Tân ước dùng
để nói đến cuộc Quang lâm của Đức Kitô (4 lần trong Mátthêu; 7 lần trong
Phaolô; 2 lần trong Giacôbê; 2 lần trong II Phêrô; 1 lần trong I Gioan) chỉ trừ
một lần nói đến parousia của
Quỷ vương (Phản Kitô; 2Tx 2,9). Còn chính Đức Giêsu dùng thuật ngữ khác (elthein) để nói về mình,
đó là: “Khi Con người đến” (Mc 13,26; 14,62; Mt 10,23; 16,27; 24,44; 25,31; Lc
12,40; 18,8) để ứng nghiệm sách Đaniel 7,13.
[4] Xem Mario Cimosa, Il giorno del Signore e l’escatologia
nell’Antico Testamento, trong: DSPB 16, Borla, Roma 1997, tr.
20-24.
[5] Một từ ngữ tương tự là phanerosis (bởi động
từ phanerô)
có nghĩa là xuất hiện, tỏ hiện, được dùng để nói đến việc quang lâm: “Khi Đức
Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người”
(Cl 3,4). Tuy nhiên, từ này cũng được dùng để nói đến việc Đức Kitô nhập thể
(xuất hiện trong xác phàm: 1Tm 3,16; Hr 9,26; 1Pr 1,20; 1Ga 1,2) hoặc phục sinh
(xuất hiện cho các môn đệ: Mc 16,12-14; Ga 21,14).
[6] Xem những chú thích về chương này
trong bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
[7] Dựa theo ý kiến của thánh Tôma,
trong Summa Theologica,
I-II, q.106, a.4, ad 4m: “Potest intelligi praedicatio evangelii in universo
orbe cum pleno effectu, ita scilicet quod in qualibet gente fundetur ecclesia.
Et ita nondum praedicatum est evangelium in universo orbe. Sed hoc veniet
consummatio mundi”.
[8] Xem J. Ratzinger, Eschatology, tr.
194-195; Cánh chung học,
tr. 237-238.
[9] Điều này được lặp lại trong tất cả
Tin mừng Nhất lãm. “Thầy bảo thật anh em: Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm
của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước
Thiên Chúa” (Mc 14,25). “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt qua này với
anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không
bao giờ ăn lễ Vượt qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước
Thiên Chúa ¼ Từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi
Nước Thiên Chúa đến” (Lc 22,16-18).
[10] X. chú thích ở bản dịch của Nhóm Các
Giờ Kinh Phụng Vụ, và Sách GLCG số 1166 tt và 2171tt.
[11] X. J. A. Jungmann, Die Stellung Christi im liturgischen
Gebet, Munster 1925; K. Adam, Christus unser Bruder, Regensburg 1950.
[12] Xem Ủy ban Thần học Quốc tế, Một vài vấn đề hiện nay liên quan đến
cánh chung luận, số 2.1.
[13] Summa
Theologica, Supplementum,
q. 77, art. 2, c.
[14] Mandantes
omnibus qui hoc onus praedicationis sustinent quique in futurum sustinebunt, ut
tempus quoque praefixum futurorum malorum, vel Antichristi adventum, aut certum
diem iudicii praedicare vel asserere nequaquam praesumant, cum Veritas dicat:
Non est vestrum nosse tempora vel momenta, quae Pater posuit in sua potestate;
ipsoque qui hactenus similia asserere ausi sunt, mentitos ac eorum causa
reliquorum recte praedicantium auctoritati non modicum dectractum fuisse
constet. N.P. Tanner (ed), Decrees
of the Ecumenicals councils, Vol. I. Nicea to Lateran V, Sheed
and Ward, London,1990, p. 637.