Tại Sao Khi Ăn Chay Theo Giáo Luật Lại Kiêng Thịt Mà Không Kiêng Cá?
(catechesis.net) February 17,
2021
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Luật Giáo Hội buộc tín hữu phải ăn chay kiêng thịt. Nhưng
mà tại sao phải kiêng thịt? Tại sao phải kiêng thịt mà không kiêng cá, kiêng
trứng hay kiêng trái cây? Ăn thịt có gì xấu không?
Trước hết, nên lưu ý tới việc sử dụng từ ngữ. Tiếng “ăn chay
kiêng thịt” gợi lên cho chúng ta hai điều: một điều cấm (kiêng) và
một điều khuyến khích. Điều cấm là kiêng thịt; điều khuyến khích là ăn chay.
Chắc chị đã biết rằng ở Việt Nam có vài tôn giáo đã hiểu như vậy: ăn chay có
nghĩa là ăn đồ chay, những đồ lạt, không mặn. Còn đối với Kitô giáo, ăn chay có
nghĩa là kiêng ăn. Như thế, ngoài chuyện kiêng thịt lại còn thêm chuyện kiêng
ăn nữa. Vì vậy nếu muốn diễn tả cho đúng tư tưởng thì thay vì nói “ăn chay
kiêng thịt”, chúng ta phải nói “kiêng ăn kiêng thịt” hoặc
là “chay ăn chay thịt”.
Nếu đặt lại vấn đề như vậy, thì câu hỏi: “Tại sao
phải kiêng thịt?” đã được giải quyết một phần rồi, nghĩa là
chúng ta kiêng thịt không phải tại vì thịt nó xấu xa, cũng như chúng ta kiêng
ăn không phải tại vì sự ăn uống xấu xa: sự ăn uống cần thiết cho sự sống; nếu
ai tuyệt thực hoàn toàn thì sẽ sớm qua bên kia thế giới.
Chúng ta kiêng thịt không phải vì nó xấu; thế thì tại sao
lại chỉ kiêng thịt mà không kiêng luôn cả cá nữa?
Vấn đề kiêng thịt không phải là cái gì riêng của Kitô
giáo. Nó đã có một truyền thống lâu đời ở các tôn giáo trên thế giới, tuy với
những lý do và động lực khác nhau. Chẳng hạn, các tín đồ Phật giáo kiêng thịt
bởi vì họ tin vào thuyết luân hồi: khi giết các súc vật, biết đâu ta đã giết
chính ông bà của mình bị phạt đầu thai làm kiếp súc vật. Dĩ nhiên, Kitô giáo đã
đặt ra kỷ luật kiêng thịt không phải tại vì tin theo thuyết luân hồi, nhưng dựa
theo một động lực khác. Trong Cựu ước, ta đã thấy có những luật về kiêng thịt
với những chi tiết khá phức tạp, thí dụ trong chương 11 của sách Lêvi, phân
biệt những thú vật ô uế với vật tinh tuyền.
Tại sao lại có sự phân biệt giữa các thú vật tinh tuyền
với thú vật ô uế?
Các nhà chú giải Kinh Thánh không trả lời được. Có lẽ tác
giả của sách Lêvi đã lấy lại một tập tục có từ xa xưa mà không còn ai nhớ rõ
gốc gác. Cho dù lý do phân loại thế nào đi chăng nữa, đến khi bước sang Tân
ước, ta thấy có những cuộc cách mạng quan trọng. Chúa Giêsu đã xóa bỏ sự phân
biệt giữa các vật tinh tuyền và vật ô uế. Sự tinh tuyền và ô uế nằm ở trong
lòng của mình chứ thú vật chẳng có tội tình chi cả (Mc 7,15).
Tuy nhiên, xem ra các Kitô hữu tiên khởi (phần lớn
gốc Do thái) không thể thay đổi não trạng nhanh chóng, thí dụ
như ở chương 10 của sách Tông Đồ Công Vụ, ta thấy thánh Phêrô còn sợ chưa dám
ăn một vài thứ chim trời đã bị xếp vào hàng ô uế; lật qua chương 15 (câu 20 và
29) ta còn thấy thánh Giacôbê muốn đòi buộc các tín hữu tân
tòng phải kiêng tránh vài thức ăn. Nhưng thánh Phaolô đi mạnh mẽ hơn, nhất là
vì ngài để ý tới dân ngoại hơn là tới dân Do thái.
Thực vậy, thánh Phaolô chấp nhận hoàn toàn giáo lý của Đức
Kitô, theo đó chẳng có lương thực nào là ô uế hết. Nhưng có một vấn đề được đặt
ra là có được ăn đồ cúng hay không? Trong thư gửi Rôma (14,14-16),
thánh Phaolô đã phân biệt như thế này: tự nó, đồ cúng hay đồ không cúng chẳng
có gì khác nhau, cho nên các tín hữu không phải kiêng cữ. Tuy nhiên, nếu có
người non nớt bị vấp phạm vì việc người tín hữu ăn đồ cúng, thì mình phải
tránh. Nói khác đi, mình kiêng ăn đồ cúng không phải tại vì nó là đồ ô uế nhưng
mà mình phải tránh gây gương xấu cho người anh em mình; đây là một bổn phận
thuộc giới răn bác ái yêu thương.
Như vậy, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta cứ tha hồ ăn
uống, phải không?
Thánh Phaolô không bao giờ xúi các tín hữu ăn uống say
sưa; trái lại, ngài đã hơn một lần khiển trách những người lấy cái bụng làm
chúa. Thánh Phaolô chỉ muốn huấn luyện lương tâm của các tín hữu, hãy tìm hiểu
cái lý do của các luật lệ, chứ không phải chỉ giữ luật lệ cách máy móc. Tất cả
các lương thực đều tốt bởi vì do Chúa dựng nên cho con người. Chúng ta hãy
hưởng dụng để ngợi khen Ngài. Việc ăn uống có thể trở thành cơ hội để chúc tụng
tạ ơn Chúa như chúng ta đọc thấy ở thư gửi Rôma 14,6. Tuy nhiên, cần có chừng
mực. Hơn thế nữa, thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu hãy tiến thêm một bước
nữa, biết hy sinh cả những cái gì được phép làm: việc kiêng cữ những điều tốt
nằm trong chương trình thao luyện tinh thần, giống như các lực sĩ tập luyện ở
thao trường (1Cr 9,27), nhất là để họa theo gương của Đức Kitô chịu khổ
nạn trên Thập Giá vì yêu thương chúng ta.
Nhưng nếu đã muốn kiêng khem lương thực thì kiêng hết các
món, chứ sao lại chỉ kiêng thịt?
Như tôi đã nói ở đầu, trong Việt ngữ, vì đã quá quen với
thành ngữ “ăn chay kiêng thịt”, cho nên chúng ta chỉ giới hạn sự kiêng
vào chuyện ăn thịt. Vấn đề kiêng cữ bao hàm việc kiềm chế hết những gì đem lại
thỏa mãn thích thú, nhằm giúp cho ý chí chế ngự được bản năng.
Theo một vài sử gia, trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo Hội
phải mệt với những phe khắc khổ hơn là với phe phóng túng. Phe khắc khổ đòi
Giáo Hội phải ra luật buộc tất cả các tín hữu phải giữ chay. Nhưng mà Giáo Hội
đâu có thể bắt hết mọi người phải trở thành nhà khổ tu được. Mặt khác, trong số
các vị khổ tu thời đó, không thiếu những người chịu ảnh hưởng của thuyết ngộ
giáo, coi xác thịt và hôn nhân là tội lỗi. Dù sao, việc khổ chế vào những thế
kỷ đầu hoàn toàn mang tính cách tự nguyện. Nếu có luật lệ thì cũng chỉ giới hạn
cho từng địa phương chứ không bao trùm toàn thể Giáo Hội.
Việc kiêng khem tuyệt đối thường được dành cho ngày thứ
Sáu Tuần Thánh, rồi dần dần kéo dài ra các ngày thứ Sáu hằng tuần. Nhưng dần
dần, kỷ luật kiêng khem tuyệt đối (chay ăn) được gia giảm bởi vì
nhiều tín hữu phải làm việc lao động nặng nhọc, cần ăn uống để lấy sức. Mức độ
châm chế được thay đổi tùy vùng, tùy nơi. Bên Trung Đông, người ta kiêng cả
sữa, bơ, trứng; nhưng bên Tây phương, người ta chỉ đòi kiêng thịt. Từ thời
Trung Cổ, sự khổ chế tự nguyện biến thành khổ chế bắt buộc, nghĩa là trở thành
luật buộc. Ngoài ra, việc chay tịnh cũng là một hình phạt đền tội dành cho
những hối nhân.
Việc soạn thảo một bản văn pháp lý đòi hỏi phải xác định
tỉ mỉ các chi tiết của nghĩa vụ. Hậu quả là người ta trở lại với não trạng của
các luật sĩ vào thời Chúa Giêsu, với đủ thứ vấn nạn được nêu lên: luật kiêng
thịt buộc phải kiêng những thứ gì? Có phải kiêng mỡ heo, kiêng sữa bò, tiết
canh hay không? Các giống động vật nào phải kiêng: máu nóng hay máu lạnh? Thú
vật trên bộ hay là dưới nước? Ngan, ngỗng, vịt, lươn, rùa, sò, ốc, nhái,… có
phải kiêng không? Các chuyên gia về luân lý tha hồ mà nghiên cứu tranh luận về
các loại thịt. Tiếc rằng, người ta đã mất đi chính động lực của ăn chay là tinh
thần khổ chế lúc đầu. Vì thế, có cảnh ngược đời là, có người mong tới ngày thứ
Sáu để có dịp đi ăn ở nhà hàng thủy sản thập cẩm; đối lại là, cảnh chảy nước
mắt của bao dân nghèo phải chi tiền nhiều hơn vào ngày thứ Sáu, khi mà cá đắt
hơn thịt.
Giáo luật ngày nay vẫn giữ nguyên tình trạng như vậy chứ?
Bộ Giáo Luật hiện hành vẫn còn duy trì luật kiêng thịt,
tuy nhiên với một tinh thần mới của Công Đồng Vatican II mà Chân phước Giáo
Hoàng Phaolo VI đã chỉ dẫn qua Tông hiến Poenitemini (17/2/1966).
Tinh thần đó có thể tóm lại 3 điểm sau:
1/. Tiên vàn là phải kiêng những gì xấu xa, tức là kiêng
phạm tội; nói khác đi việc chay ăn chay thịt phải được lồng trong tinh thần
thống hối cải hoán.
2/. Ngoài sự kiêng cái xấu, chúng ta hãy gắng tiến thêm
một bước để kiêng cả cái tốt: sự kiêng cái tốt cũng nằm trong tinh thần đền tội
và tu đức, để tập kiềm chế những đòi hỏi của bản năng dục vọng. Dưới khía cạnh
này, lãnh vực kiêng khem rất là rộng: từ kiêng ăn uống có tới tới kiêng thuốc
lá tivi, các thứ tiêu khiển giải trí, các thứ tiêu pha hoang phí.
3/. Bước thứ ba nữa là ngoài tính cách tiêu cực (kiêng
lánh) cần thêm tích cách tích cực: nhịn ăn nhịn mặc để lấy
tiền giúp đỡ người nghèo, tỏ tình tương trợ với người thiếu ăn thiếu mặc. Đó là
động lực của việc kiêng khem. Các Hội Đồng Giám Mục sẽ tùy theo hoàn cảnh của
mỗi địa phương mà đề ra những hình thái cụ thể trong việc áp dụng luật ăn chay
kiêng thịt chiếu theo điều 1251 và 1253 của Bộ Giáo Luật.