LỄ
CẦU CHO CÁC LINH HỒN BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU?
(catechesis.net)
November 2, 2021
Giuse Phan Tấn Thành, OP
Phụng
vụ dành ngày 2 tháng 11 để kính các linh hồn. Nguồn gốc lễ này bắt đầu từ đâu?
Nó có giống với lễ Vu lan trong Phật giáo không?
Như đã
biết, lễ Vu lan được cử hành vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, còn gọi là Tết Trung
nguyên. Có lẽ lễ này không bắt nguồn từ Phật giáo, nhưng từ phong tục dân gian.
Dù sao, trọng tâm của niềm tin ngày rằm tháng bảy âm lịch là “xá tội vong
nhân”: vào ngày này, các tội nhân dưới âm phủ được giải thoát. Thân nhân những
người mới qua đời tổ chức lễ cầu siêu. Nguồn gốc của lễ các linh hồn bên Công
giáo thì khác, với nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau. Ta có thể lấy một mốc
điểm lịch sử là ngày 2 tháng 11 năm 998, để từ đó theo dõi sự tiến triển khi đi
ngược hay đi xuôi.
Tại sao
lấy ngày 2 tháng 11 năm 998 làm mốc điểm?
Tại vì
theo lịch sử, thánh Ôđilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny dòng Biển đức
đã ấn định dành ngày 2 tháng 11 (nghĩa là ngày hôm sau lễ kính các thánh) để
cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời, qua việc dâng thánh lễ, đọc kinh
cầu nguyện và làm việc bác ái.
Tại sao
chọn ngày 2 tháng 11?
Như vừa
nói, cha Ôđilon chọn ngày 2 tháng 11 bởi vì liền kế ngày 1 tháng 11. Vào ngày
này, phụng vụ mừng lễ kính tất cả các thánh, nghĩa là các tín hữu đã lìa đời và
đang được hưởng hạnh phúc ở bên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng bên cạnh
các phúc nhân, còn có những tín hữu khác đang trải qua cuộc thanh luyện. Vì
thế, chúng ta cũng hãy nhớ cầu nguyện cho họ.
Đây là
một tư tưởng do cha Ôđilon gợi ra phải không?
Chúng
ta cần phân biệt nhiều khía cạnh: việc dành ngày 2 tháng 11 để cầu cho tất cả
những người qua đời là sáng kiến của cha Ôđilon. Nhưng việc cầu nguyện cho
những người đã qua đời thì đã có từ lâu rồi, mãi từ cuối thời Cựu ước, như
chúng ta đọc thấy chứng tích trong sách Macabê, quyển hai, chương 12, khi ông
Macabê quyên tiền gửi về đền thờ Giêrusalem để cầu nguyện cho các tử sĩ. Trong
Tân ước, ta cũng thấy thánh Phaolô khuyên ông Timôthêô hãy cầu nguyện cho
Onêsiphorô, một cộng tác viên với thánh Tông đồ tại Êphêsô (2Tm 1,16-18). Dĩ
nhiên, tập tục này được duy trì trong suốt lịch sử của Hội thánh. Còn việc dành
một ngày trong năm phụng vụ để cầu cho tất cả các linh hồn thì cũng đã có trước
cha Ôđilon từ ba thế kỷ.
Tại sao
phải cầu nguyện cho những người qua đời?
Việc
tưởng nhớ những người qua đời được gặp thấy nơi nhiều dân tộc, với nhiều ý
nghĩa khác nhau. Có khi việc tưởng nhớ người quá cố là dịp để thân quyến gặp gỡ
nhau, để ôn lại công đức tiền nhân, bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ, đồng thời
khuyến khích nâng đỡ nhau trên đường đời. Có nơi thì tin rằng hương hồn của tổ
tiên vẫn còn hiện diện với con cháu, vì thế họ được mời đến tham dự những biến
cố quan trọng của gia đình, cũng giống như lúc sinh tiền. Có nơi tổ chức cúng
giỗ để cung cấp lương thực và đồ dùng cho người quá cố, bởi vì người ta tin
rằng những người bên kia thế giới cũng có nhưng nhu cầu và sinh hoạt giống như
ở đời này. Có nơi thì tổ chức lễ cầu siêu, xin cho các linh hồn còn bị giam ở
địa ngục được giải thoát. Dĩ nhiên, không phải tất cả các quan niệm này đều phù
hợp với đức tin Kitô giáo.
Thế thì
các Kitô hữu cầu nguyện cho các người qua đời để làm gì?
Trong
việc cầu nguyện cho những người qua đời, có khá nhiều động lực khác nhau. Trước
hết, chúng ta không thể nào bỏ qua khía cạnh tâm lý: những buổi cầu nguyện bên
cạnh quan tài người chết hoặc vào dịp giỗ giáp tháng giáp năm nhằm bày tỏ sự
thương tiếc người đã qua đi. Thế nhưng bên cạnh động lực tâm lý, dần dần đức
tin Kitô giáo đã mang đến nhiều động lực mới. Ngay từ những lá thư đầu tiên
(tựa như thứ thứ nhất gửi các tín hữu Têxalônica, chương 4, câu 13), thánh
Phaolô đã nhắc nhở các tín hữu đừng buồn rầu như những kẻ thiếu niềm hy vọng.
Thực vậy, đối với người tín hữu, cái chết không phải là sự tận diệt của cuộc
sống, mà chỉ là ngưỡng cửa bước sang cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, các tín hữu
tiên khởi gọi ngày qua đời là “sinh nhật” (dies
natalis), bởi vì họ được sinh vào cuộc sống mới. Điều này được áp
dụng đặc biệt cho những vị tử đạo. Không lạ gì mà vào ngày giáp năm ngày tử
đạo, các tín hữu họp nhau lại để đọc hạnh tích của vị tử đạo, không những để
khuyến khích nhau bắt chước tấm gương can đảm, nhưng nhất là để tạ ơn Chúa vì
đã cho một tín hữu được hoà đồng với Đức Kitô. Nói cách khác, việc mừng các vị
tử đạo được liên kết với Thánh lễ, tức là lễ hy sinh của Đức Kitô. Các vị tử
đạo là những người đã đi theo sát với Thay mình trên đường thập giá, cho nên
chắc chắn họ cũng được thông dự vào sự phục sinh với Người.
Nhưng
mà đâu phải tất cả các tín hữu đều tử vì đạo?
Đúng
rồi. Khi kính nhớ các vị tử đạo, các tín hữu xác tín rằng các ngài đang được
hưởng vinh quang với Chúa rồi. Đó là buổi cử hành vui tươi. Thế nhưng không
phải tất cả các tín hữu đều chết vì đạo. Nói cách khác, không phải tất cả các
tín hữu sau khi qua đời đều nắm chắc sẽ được hưởng vinh quang với Chúa. Vì thế,
những người qua đời cần được Hội thánh cầu nguyện để được thanh luyện khỏi tội
lỗi, như chúng ta thấy phản ánh nơi đoạn văn trích từ sách Macabê quyển 2
chương 12 đã nhắc đến trên đây. Chúng ta chỉ cần trưng dẫn một chứng tích thì
đủ rõ. Trong sách Tuyên xưng (Confessiones hay
Tự thuật), thánh Augustinô kể lại lời trối trăn của thân mẫu Monica rằng: “Các
con có thể chôn xác mẹ ở đâu cũng được. Mẹ chỉ xin các con một điều là dù các
con ở đâu, thì hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa”. Câu nói này phản ánh một tập
tục đã có từ lâu đời, đó là cầu nguyện cho các người qua đời trong khi dâng
Thánh lễ. Thánh lễ là nơi mà các tín hữu sống cao độ tín điều về sự “thông hiệp
các thánh”. Thực vậy, không những các tín hữu thông hiệp vào Mình và Máu của
Chúa Kitô, nhưng còn thông hiệp với Nhiệm thể của Chúa là Hội thánh. Các Kinh
nguyện Thánh Thể đều nhắc đến sự thông hiệp với Đức Maria, các thánh, các phúc nhân,
và tất cả những ai đã ly trần. Sự tưởng nhớ này không những chỉ tuyên xưng rằng
các người qua đời vẫn còn sống (chứ không bị hủy diệt ra tro bụi), nhưng con
cầu xin Chúa nhân lành thương xóa bỏ những thiếu sót của họ. Dĩ nhiên, không
phải chỉ chúng ta (những người còn sống) chuyển cầu cho các người qua đời,
nhưng là cả Hội thánh (nghĩa là kể cả Đức Kitô, Đức Maria và các phúc nhân) đều
liên đới chuyển cầu cho các linh hồn. Ngoài việc cử hành Thánh lễ, Hội thánh
cũng cầu nguyện cho các người qua đời bằng những kinh nguyện khác, cũng như
bằng các công tác bác ái.
Việc
cầu nguyện cho người qua đời đã có từ Cựu ước, còn việc dành một ngày để cầu
cho tất cả những người qua đời thì mới chỉ thành hình từ thế kỷ VII. Lai lịch
tục lệ này như thế nào?
Trên
đây, chúng ta nhắc đến lễ Trung nguyên, một ngày mà tục lệ dân gian ở Á đông
cầu siêu cho các vong nhân. Ở Rôma thời cổ, cũng có một ngày cầu siêu như vậy,
vào ngày 22 tháng hai dương lịch (nghĩa là vào ngày cuối năm theo lịch cổ
Rôma). Không lạ gì mà nhiều nơi trong Giáo hội công giáo cũng muốn dành ra một
ngày để cầu nguyện cho tất cả các người qua đời. Chứng tích cổ nhất là bản luật
các đan sĩ của thánh Isiđorô Sevilla bên Tây ban nha (+636), truyền dâng Thánh
lễ cho tất cả các người qua đời vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện
xuống. Vào các thế kỷ sau đó, người ta thấy tại nhiều đan viện tại Đức, Pháp,
Ý, chỉ định một ngày trong năm để cầu cho hết các linh hồn, tuy không trùng
ngày như nhau. Với cha Ôđilon, thì ngày này được ấn định sau lễ kính các thánh.
Nhờ uy tín của các đan viện Cluny, tục lệ này sớm lan tràn khắp châu Âu từ thế
kỷ XI.
Tục lệ
mỗi linh mục dâng ba thánh lễ nhân ngày kính các linh hồn cũng bắt đầu từ thánh
Ođilôn, phải không?
Không
phải, tập tục này ra đời muộn hơn, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV với các cha dòng
Đaminh ở Valencia (Tây ban nha). Đức thánh cha Bênêđictô XIV năm 1748 châu phê
tập tục này và nới rộng cho tất cả các linh mục bên Tây ban nha, Bồ đào nha,
châu Mỹ la-tinh. Mãi đến năm 1915, đức thánh cha Bênêđictô XV mới nới rộng ra
toàn thể Hội thánh. Dù sao, nên biết là Hội thánh không chỉ dành mỗi năm một
ngày để tưởng nhớ các người đã qua đời. Nhiều tu viện và giáo xứ vẫn có thói
quen cầu nguyện cho các linh hồn mỗi ngày, hay ít là mỗi tuần vào ngày thứ hai.
Tại sao
dành ngày thứ hai để cầu nguyện cho các linh hồn?
Nguồn
gốc tục lệ này là một quan điểm hơi kỳ quặc vào thời Trung cổ. Người ta cho
rằng các linh hồn ở luyện ngục được xả hơi vào Chúa nhật để mừng Chúa Phục
sinh, và qua ngày thứ hai, lại phải tiếp tục lao động. Vì thế, chúng ta nên
giúp cho họ một tay. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể cầu nguyện cho các
linh hồn vào bất cứ ngày nào mà không cần đếm xỉa đến tập tục đó.
————————–
II. CÓ
NGHI THỨC PHỤNG VỤ CHO VIỆC HỎA TÁNG KHÔNG?
Tháng
11 dương lịch được dành để kính nhớ các người qua đời. Bên cạnh việc đọc kinh
cầu nguyện cho họ, các tín hữu còn đi thăm viếng nghĩa trang. Thế nhưng trong
những năm gần đây, tục lệ đó đã giảm bớt, không phải chỉ vì người ta quá bận
bịu với công ăn việc làm đến nỗi không còn thời giờ tưởng niệm người chết,
nhưng còn vì tại vài quốc gia, người ta muốn dẹp bỏ các nghĩa trang. Thi hài
người chết bị hỏa thiêu ra tro, chứ không còn được chôn cất nữa. Theo họ, biện
pháp này giải quyết vấn đề khan hiếm đất đai thành phố cũng như vấn đề ô nhiễm môi
sinh. Thái độ của Giáo hội đối với vấn đề hỏa táng như thế nào? Có nghi thức
phụng vụ nào dành cho việc hỏa táng không?
Trong
lịch sử nhân loaị, tục lệ hỏa táng không phải là điều mới lạ. Thậm chí, đôi khi
nó gắn liền với một nền văn hóa hay với một tôn giáo nữa. Chúng ta có thể lấy
nước Ấn độ làm thí dụ, nơi mà tục lệ hỏa táng đã có từ lâu đời, tuy rằng khó
nói rằng việc hỏa táng có nhất thiết gắn liền với thuyết luân hồi hay không.
Thế nhưng, khi bước sang truyền thống của người Do thái, thì chúng ta thấy
ngược lại. Từ những tác phẩm cổ điển của Kinh thánh, chúng ta đã thấy họ chôn
cất người chết chứ không hỏa thiêu, tuy dù vào thời cổ, người Do thái chưa có
quan niệm rõ rệt về số phận con người bên kia thế giới. Vào cổ thời, người Do
thái tin rằng sau khi chết, con người dù tốt dù xấu đều phải xuống dưới cõi âm
ti, với cuộc sống thoi thóp, không biết có đáng gọi là sống hay không nữa. Dù
sao, vào thời của đức Kitô, tục lệ chôn cất người chết đã thành phổ thông ở
Palestina. Theo Phúc âm, chúng ta được biết rằng sau khi đã Ngài đã chết, thì
các môn đệ đã hạ xác Ngài khỏi thập giá và mai táng trong huyệt đá; nhưng vào
ngày thứ ba, khi ra thăm viếng mộ thì các môn đệ thấy nó đã trống rỗng, bởi vì
Ngài đã sống lại. Sau đó, các Kitô hữu, dù là gốc Do thái hay gốc từ các dân
tộc khác, đã duy trì việc mai táng người chết, một đàng có lẽ vì muốn bắt chước
việc táng xác Thầy của mình, và đàng khác cũng muốn biểu lộ niềm tin vào việc
thân xác sống lại theo lời Chúa hứa.
Tuy
nhiên, việc an táng người chết có thực sự gắn liền với lòng tin Kitô giáo, hay
chỉ là một tục lệ văn hóa của một vài dân tộc hay vài thời đại?
Như đã
nói trên đây, người Kitô hữu không có bày ra việc an táng người chết, nhưng họ
đã lấy lại tục lệ của người Do thái. Đến khi bước sang vùng văn hóa Hy-lạp La
mã, thì chúng ta cũng thấy người dân tại đây chôn cất người chết chứ không có
hỏa táng như là bên Ấn độ. Nói như thế không có nghĩa là các Kitô hữu chấp nhận
một thói tục thường tình. Lắm lúc họ đã phải phấn đấu để duy trì một điều mà họ
cho là có liên hệ tới niềm tin. Vấn đề này được đặt ra trong trong thời kỳ các
Kitô hữu bị bách hại trong Đế quốc Rôma. Một số tín hữu đã bị kết án tử hình vì
đã không tuân hành luật lệ của Hoàng đế. Chiếu theo hình luật, các tử tội không
được an táng, nhưng thây của họ phải bị phơi giữa trời trong vòng 6 ngày rồi
sau đó bị đốt ra tro. Các tín hữu đã tìm hết cách, không để cho thi hài các vị
tử đạo phải chịu cảnh đó. Có khi thì họ lén lút lấy trộm xác vào ban đêm để về
mai táng; có khi thì họ đút lót cho binh sĩ để chuộc xác về. Dĩ nhiên, có người
sẽ nói rằng đó là do lòng nhiệt thành tôn kính các vị tử đạo. Dù vậy, phải nhận
rằng còn có động lực khác nữa khiến cho các Kitô hữu không muốn thấy thi hài bị
thiêu đốt. Đó cũng là lý do vì sao các Kitô hữu tại Rôma cũng như tại các nơi
khác đã tậu đất để lập nghĩa trang riêng. Nên biết là trong tiếng La-tinh
“nghĩa trang” được gọi là “coemeterium”,
gốc bởi tiếng Hy-lạp “coimeterion”:
nơi an nghỉ, chờ ngày phục sinh. Các tín hữu năng lui tới các nghĩa trang này,
được coi là “đất thánh”, không những là để tưởng nhớ người chết mà còn để cầu
nguyện, cử hành phụng vụ, và biểu dương niềm tin và hy vọng phục sinh nữa.
Như
vậy, tục lệ an táng người chết không còn phải là một vấn đề văn hóa mà thôi,
nhưng còn gắn liền với niềm tin Kitô giáo, phải không?
Có lẽ
trong quá khứ ít khi có người đặt ra câu hỏi đó. Tưởng cũng nên biết là tuy
quan niệm về số phận con người sau khi chết có khác nhau, nhưng tục lệ chôn cất
người chết coi như là phổ thông trong những miền mà Phúc âm được rao giảng
trong các thế kỷ đầu tiên. Nghĩ tới các kim tự tháp bên Ai cập thì đủ rõ: các
kim tự tháp chẳng qua chỉ là các lăng tẩm của các vua Pharaô đó thôi. Nói được
là trong suốt thời Trung cổ tại Âu châu, không ai đòi xét lại vấn đề chôn cất
người chết cả. Mặt khác, phụng vụ đã có nghi thức không những là để cầu cho
người quá cố, mà còn có lễ nghi an táng, bắt đầu từ khi tẩn liệm nhập quan, kế
đo đưa quan tài vào nhà thờ cử hành thánh lễ cầu hồn, và sau cùng là nghi thức
tạm biệt, khi mà cộng đoàn tháp tùng quan tài ra nghĩa trang, đến nơi an nghỉ.
Từ khi
nào có người đòi xét lại vân đề an táng người chết, và thay thế bằng việc hỏa
thiêu?
Thực ra
thì vào thời Trung cổ, đôi khi người ta cũng thi hành việc hỏa thiêu, chẳng hạn
như khi xảy ra một vụ dịch tễ; nhưng đó chỉ là ngoại lệ. Việc xét lại xảy ra
không phải từ khi Phúc âm được truyền bá sang nền văn hóa quen thuộc với tục
hỏa táng (tỉ như tại Ấn độ), nhưng là tại Âu châu, và cách riêng là tại Pháp.
Do ảnh hưởng của các nhóm Tam điểm, nhiều phong trào đã được thành lập để cổ
động cho viec hỏa táng. Một kết quả cụ thể là quốc hội Pháp biểu quyết đạo luật
ngày 15/11/1887 cho phép các công dân đuọc tự do lựa chọn giữa việc mai táng
hay hỏa thiêu. Và hai năm sau đó, khi đạo luật có giá trị chấp hành, một lò hỏa
thiêu đã được khai trương tại nghĩa trang thành phố Paris.
Phản
ứng của Giáo hội đối với việc hỏa táng thế nào?
Vào
cuối thế kỷ XIX, Bộ Thánh vụ (nay gọi là Bộ Giáo lý đức tin) đã ra nhiều nghị
định liên quan tơi việc hỏa táng. Một nghị định ngày 19/5/1886 cấm các tín hữu
không được gia nhập những tổ chức phổ biến việc hỏa táng. Vài tháng sau, ngày
15/12/1886, một nghị định khác phạt người nào tự nguyện chấp nhận hỏa táng thân
xác của mình sẽ không được an táng theo lễ nghi tôn giáo. Ngày 27/7/1892, một
nghị định nữa thêm vài chi tiết ngăn cấm việc hỏa táng (nới rộng ra cả người
làm cố vấn kỹ thuật cho việc hỏa táng). Sở dĩ Bộ Thánh vụ đã có những biện pháp
khắt khe như vậy là vì vào thời đó, các chiến dịch cổ động việc hỏa thiêu là do
phong trào Tam điểm điều khiển, và phong trào này có nhiều điều chống lại Giáo
hội công giáo. Họ cho rằng việc an táng ngươi chết là điều hủ lậu, bởi vì dựa
trên lòng mê tín về việc con người có linh hồn bất tử. Mặt khác, tuy rằng sự
hỏa thiêu tự nó không có gì trái ngược với đúc tin Kitô giáo, nhưng tâm thức
của người thời đó vẫn coi chuyện hỏa thiêu như cái gì kinh tởm, tàn bạo. Vả
lại, khi hỏa thiêu thì đâu có thể thi hành nghi thức an táng cổ truyền được
nữa.
Những
quy luật chống lại việc hỏa thiêu ngày nay có còn giá trị nữa không?
Cần
nhắc lại là những nghị định trên đây đã được ban hành hối cuối thế kỷ XIX,
trước khi có Bộ giáo luật. Trong bộ giáo luật ra đời năm 1917, kỷ luật ngăn cấm
vẫn còn được duy trì ở đ.1203. Thêm vào đó, ai tình nguyện để cho xác mình hỏa
táng sẽ bị phạt không được an táng theo nghi thức tôn giáo. Mãi tới ngày
8/5/1963 mới có sự chuyển hướng trong kỷ luật của Giáo hội. Xét rằng nhiều
người đã chọn việc hỏa táng không phải vì lý do bài trừ tôn giáo, cho nên Bộ
Thánh vụ đã ra một nghị định mới nói như sau: “Cần phải cố gắng duy trì tục lệ
an táng người chết. Những điều ngăn cấm việc hỏa táng được bãi bỏ, trừ khi nào
đã rõ là đương sự đã chọn lựa hỏa táng vì chối bỏ các tín điều công giáo, hay
vì lòng thù ghét khích bác Giáo hội. Để khỏi làm suy giảm sự gắn bó của các
Kitô hữu đối với việc an táng, những nghi thức dành cho việc an táng và các
kinh nguyện kế tiếp sẽ không bao giơ được cử hành tại nơi hỏa táng. Và cũng sẽ
không tháp tùng thi hài ra đến nơi hỏa táng.”
Nói như
vậy là không có một nghi thức nào dành cho những người hỏa táng hay sao?
Tôi vừa
mới nói đến nghị định của Bộ Thánh vụ ra năm 1963, nghĩa là trước khi bế mạc
công đồng Vaticanô II. Sau công đồng, chúng ta thấy có một cuộc cải tổ về kỷ
luật cũng như về phụng vụ. Trong lãnh vực mà chúng ta đang bàn, thì việc cải tổ
phụng vụ tiến hành sớm hơn, với sự xuất bản nghi thức an táng (Ordo exsequiarum) vào năm
1969. Nghi thức cho phép cử hành lễ nghi an táng cho những ngưởi tín hữu nào đã
chọn việc hỏa táng không phải vì những lý do trái nghịch với Kitô giáo. Và
nhưng nghi thức được cử hành tại nhà nguyện nghĩa trang hay tại huyệt thì có
thể được cử hành tại nơi hỏa thiêu, hay tại lò hỏa thiêu (Dẫn nhập,
Praenotanda, số 15). Như vậy là ta thấy có sự thay đổi, so với nghị định của Bộ
Thánh vụ năm 1963. Còn việc cải tổ kỷ luật, thì như chị đã biết, được hình
thành với việc ban hành bộ giáo luật năm 1983. Đ.1176, khoản 3, nói như sau:
“Giáo hội thiết tha khuyên nhủ nên duy trì phong tục đạo đức chôn cất thi hài
người quá cố. Tuy nhiên, Giáo hội không cấm hỏa táng, trừ khi nào sự hỏa táng
được chọn lựa vì những lý do trái ngược với đạo lý Kitô giáo”. Như vậy, không
có chi mới lạ.
Nói tóm
lại, thì có thể cử hành lễ nghi an táng cho người hỏa thiêu, phải không?
Cứ dựa
theo các bản văn thì phải trả lời là có thể cử hành các lễ nghi. Thế nhưng khi
đi vào thực tế thì người ta mới thấy nó rắc rối. Phải hiểu thế nào là nghi thức
an táng dành cho người hỏa thiêu? Có nghĩa là mang thi hài đến nhà thờ cử hành
thánh lễ an táng trước khi đem hỏa táng ư? Chuyện này chẳng có gì khó khăn cả.
Có nghĩa là làm phép xác tại nghĩa trang trước khi hỏa thiêu, tương tự như
trước khi chôn xuống lòng đất ư? Vấn đề trở nên phức tạp hơn, bởi vì phải thay
đổi nhiều lời kinh. Chưa hết, lại còn có chuyện thi hài được hỏa táng liền sau khi
chết; thế thì có được đem hủ tro vào nhà thờ cử hành thánh lễ giống như là đối
với thi hài hay không? Trong một bài báo đăng trong tạp chí “Notitiae” năm
1977 (trang 45), bộ Phụng tự đã trả lời là không, bởi vì thiếu trung thực với
cử chỉ. Trong nghi thức an táng với sự hiện diện của thân xác, Giáo hội bày tỏ
lòng tôn kính đối với thân xác, đã được thánh hóa nhờ bí tích rửa tội, và trở
nên đền thờ của Thánh Thần. Đám tro tàn không còn bộc lộ được dấu hiệu đó nữa,
vì thế cho nên không thể dành cho đám tro những nghi thức dành cho thân xác,
tựa như xông hương. Dĩ nhiên, việc dâng Thánh lễ cầu nguyện cho những người qua
đời là chuyện khác, cho dù có thi hài hay không. Nhưng phần nào những câu hỏi
vừa rồi còn nằm trong phần nguyên tắc. Khi đi vào thực tế, các mục tử còn thấy
nhiều khó khăn khác nữa. Thí dụ như tại nhiều nơi Giáo hội có thể có nghĩa
trang riêng, và tổ chức các nghi thức tại đó tùy tiện. Nhưng các lò hỏa thiêu
thì do Nhà nước quản lý, và được điều hành theo luật lao động, nếu chưa dám
thêm là theo quy tắc của Sở vệ sinh. Chính vì thế mà sự hiện diện của thân nhân
tại những nơi này đã gặp nhiều trở ngại rồi, phương chi là sự có mặt của các
giáo sĩ để thi hành lễ nghi tôn giáo. Kế đó, phải xử sự như thế nào đối với tro
tàn: tung bay theo chiều gió, đổ xuống sông, lưu trữ ở nơi công cộng, hay mang
về gia đình? Đó là những thắc mắc mà các Hội đồng Giám mục Âu Mỹ đang nghiên
cứu.