Hội
Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ : Mầu Nhiệm Thánh Thể Trong Đời Sống Hội Thánh
07/Dec/2021
Lời người dịch:
Dưới đây là bản dịch tài liệu The Mystery of the
Eucharist in the Life of the Church được đăng trong trang web
https://www.usccb.org/resources/mystery-eucharist-life-church của Hội Đồng Giám
Mục Hoa Kỳ. Chúng tôi chỉ dịch bản văn của tài liệu mà không dịch phần ghi chú
vì có một số tài liệu đã được dịch, và có một số tài liệu chưa được dịch ra
tiếng Việt, nên không hoàn toàn cần thiết cho những ai chỉ cần đọc tiếng Việt.
Để giúp độc giả hiểu bối cảnh của tài liệu này, chúng tôi
xin trình bày lý do tại sao các Giám mục Hoa Kỳ ban hành nó. Trong cuộc họp
Khoáng Đại Mùa Xuân vừa qua của Hội Đồng Giám Mục Hoa kỳ vào tháng 6, nhiều
người nghĩ rằng các Giám mục sẽ bỏ phiếu cho phép hay không cho phép các chính
trị gia ủng hộ phá thai và hôn nhân đồng tính rước lễ. Thực ra chủ đề này thậm
chí không có trong chương trình nghị sự của các ngài. Sau phiên họp, các Giám
mục đã đúc kết các góp ý và ủy thác cho Ủy Ban Giáo Lý soạn thảo tài liệu cuối
cùng và tài liệu này đã được các ngài phê trong phiên Họp Khoáng Đại Mùa Thu từ
ngày16 đến 18 tháng 11 năm 2021.
Sau phiên họp này, nhiều người đã kết án các Giám mục là
hèn nhát vì họ chỉ đọc những tin tức trên báo chí. Chẳng hạn như tờ Washington
Examiner đã đăng một bài giật gân với tựa đề “Catholic bishops adopt Communion
document that doesn't mention politicians who favor abortion access – Các Giám
mục Công Giáo chấp nhận tài liệu không đề cập gì đến các chính trị gia ủng hộ
phá thai” và họ viết thêm rằng “The Catholic bishops of the United States have
paved the way for President Joe Biden to continue receiving Holy Communion
despite his opposition to some tenets of Catholic social teaching – Các Giám
mục Công Giáo đã dọn đường cho Tổng Thống Joe Biden tiếp tục rước lễ bất chấp
việc ông chống lại một số giáo lý của giáo huấn về Xã hội của Công Giáo”.
Có thực sự như vậy không?
Xin quý đôc giả đọc bản dịch tài liệu “Mầu nhiệm Thánh
Thể trong Đời sống Hội Thánh” thì rõ.
Thực ra, đây là một bài giáo lý rất súc tích về Bí Tích
Thánh Thể, trong đó bao gồm những điều tối thiểu mà mọi tín hữu cần phải biết
để có thể hưởng được những ơn ích từ MẦU NHỆM cao trọng này. Vì những nhạy cảm
về mục vụ và theo tinh thần của Công Đồng Vaticanô II là dùng liều thuốc Thương
Xót, thay vì lên án để hoán cải những người sai lạc, các Giám mục đã không trực
tiếp nêu đích danh các chính trị gia phò sự chết, nhưng nhắc cho tất cả mọi
người các giáo huấn rất minh bạch về những nguy hiểm đang chờ đợi linh hồn bất
cứ ai còn tiếp tục cố chấp thực hành hay ủng hộ những điều trái ngược với đức
tin Công Giáo mà vẫn tiếp tục rước lễ, đồng thời kêu gọi họ hoán cải trở về với
Lòng Thương Xót Chúa trong Bí tích Hòa Giải.
Phaolô Phạm Xuân Khôi
* * * * *
MẦU NHIỆM THÁNH THỂ TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
1. Trong ngày 27 tháng 3 năm 2020, vào thời điểm ban đầu
của đại dịch toàn cầu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đi bộ một mình trong mưa ngang
qua Quảng trường Thánh Phêrô vắng toanh để cầu nguyện cho thế giới trong thời
kỳ khủng hoảng. Ngài nói, “Đức tin bắt đầu khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta
đang cần sự cứu rỗi. Chúng ta không tự túc; dựa vào chính mình chúng ta bị
chìm: chúng ta cần Chúa, giống như những nhà hàng hải thời xưa cần những vì sao”.
Nhắc lại khi Chúa Giêsu ngủ trên thuyền trong lúc cơn bão đang hoành hành (Mc
4: 35-41), Đức Thánh Cha nói: “Chúa đã thức dậy để đánh thức và làm sống lại
đức tin Phục sinh của chúng ta”. Trong ngày hôm đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã
chủ sự nghi thức Chầu và ban Phép Lành Thánh Thể để tập trung sự chú ý của
chúng ta vào sự hiện diện của Đức Kitô trong Bí Tích Cực Trọng. Đức Thánh Cha
đã nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả trong thời kỳ rối loạn và khủng hoảng, Chúa
Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta, như Người đã hiện diện trên con thuyền cách
đây rất lâu trên Biển Hồ Galilê.
2. Cũng môt cách tương tự, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II đã nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện liên tục này khi ngài lặp lại với chúng
ta những lời của Đức Kitô: Thầy ở cùng các con luôn mãi, cho đến tận thế (Mt
28:20). Ngài công bố: “Lời hứa này của Đức Kitô không bao giờ ngừng vang lên
trong Hội Thánh như là bí mật màu mỡ của đời sống và suối nguồn hy vọng của Hội
Thánh. Như ngày Chúa Phục Sinh, Chúa Nhật không chỉ là ngày tưởng nhớ một biến
cố đã qua: mà còn là ngày kỷ niệm sự hiện diện sống động của Chúa Phục Sinh ở
giữa dân Người”.
3. Chúng tôi dùng những lời truyền cảm này của vị Giáo
Hoàng thánh thiện Gioan Phaolô II khi đưa ra những suy tư này về tầm quan trọng
của Bí tích Thánh Thể trong đời sống Hội Thánh. Chúng tôi rất lưu tâm đến việc
đại dịch đã buộc chúng ta phải xa nhau về thể lý như thế nào, và trong một thời
gian, chúng ta phải xem cuộc cử hành Thánh Lễ trên máy truyền hình hoặc màn ảnh
máy vi tính. Nhiều người trong các tín hữu dường như đã có đức tin và ước muốn
của họ đối với Bí tích Thánh Thể được củng cố bởi một thời gian dài xa cách như
vậy. Đồng thời, với tư cách là các mục tử, chúng tôi cảm thấy rằng những người
khác, đã sống không có Thánh Lễ quá lâu, có thể đã chán nản hoặc quen với cuộc
sống không Thánh Thể. Bằng nhiều cách, đại dịch vẫn còn ở với chúng ta.
4. Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta cần Đức Kitô
hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Người chính là của ăn của chúng ta như Người
đã nhắc nhở chúng ta: nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống máu Con
Người, thì các ông không có sự sống trong mình (Ga 6:53).
5. Chúa đồng hành với chúng ta bằng nhiều cách, nhưng
không cách nào sâu xa bằng khi chúng ta gặp gỡ Người trong Bí tích Thánh Thể.
Trên cuộc hành trình hướng đến cuộc sống vĩnh cửu, Chúa Chúa Giêsu Kitô nuôi
dưỡng chúng ta bằng chính Mình của Người. Một lần, khi được một người cho biết
rằng cô ta không còn thấy có lý do gì để dự Lễ hàng ngày nữa, Tôi Tớ Chúa
Dorothy Day đã suy nghĩ: “Chúng ta đi ăn trái cây sự sống này bởi vì Chúa Giêsu
đã bảo chúng ta. … Người đã tự mặc lấy nhân tính của chúng ta để chúng ta có
thể thông phần vào thiên tính của Người. Chúng ta được nuôi dưỡng bởi thịt của
Người để chúng ta có thể trở thành những Kitô khác. Tôi tin điều này theo nghĩa
đen, cũng như tôi tin rằng đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa từ mẹ nó”.
6. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Người hiện diện với
chúng ta bằng cách liên kết chúng ta lại với nhau như một thân thể, là điều
chúng ta công bố bằng tiếng "Amen" của chúng ta khi đáp lại lời mời
gọi: Mình Thánh Đức Kitô. Một lần nữa, chúng tôi dùng những lời của vị giáo
hoàng Ba Lan yêu dấu: "Để sự hiện diện này được công bố và sống một cách
đúng đắn, việc các môn đệ của Đức Kitô cầu nguyện riêng lẻ và tưởng niệm cái
chết và cuộc Phục sinh của Đức Kitô cách nội tâm, trong bí mật của con tim họ
thôi thì chưa đủ. Những người đã lãnh nhận ân sủng của phép Rửa không được cứu
như một cá nhân đơn lẻ, nhưng như các chi thể của Nhiệm Thể, đã trở thành một
phần của dân Chúa”.
7. Khi chúng ta tiếp tục chào đón mọi người trở lại với
việc cử hành Thánh Lễ chung, cần phải thừa nhận rằng không có tài liệu nào có
thể diễn tả hết mầu nhiệm của hồng ân Thánh Thể. Tuy nhiên, vào những thời điểm
khác nhau, cần phải suy niệm về một số khía cạnh của mầu nhiệm liên quan đến
các vấn đề và thách đố đương thời và điều đó giúp chúng ta trân quý một cách
sâu xa hơn món quà ân sủng đã được ban cho chúng ta. Vào thời điểm đặc biệt này
đối với Hội Thánh tại Hoa Kỳ, với nhiều thách đố, chúng tôi muốn suy niệm về
món quà chính Mình của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể và sự đáp trả của chúng
ta đối với món quà đó.
I. MÓN QUÀ
8. Trong Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa được cử hành vào Thứ
Năm Tuần Thánh, linh mục cầu nguyện những lời sau:
Người là Tư Tế thật và vĩnh cữu,
khi thiết lập thể thức hy lễ trường tồn,
Người là Đấng đầu tiên đã dâng mình cho Chúa làm của lễ
cứu chuộc,
và đã truyền cho chúng con dâng mà tưởng nhớ đến Người.
Khi chúng con rước Mình Người hiến tế vì chúng con
thì chúng con được mạnh sức,
và khi chúng con rước Máu Người đổ ra vì chúng con
thì chúng con được rửa sạch.
Những lời của phụng vụ trong đêm mà Hội Thánh kỷ niệm
việc thiết lập Bí tích Thánh Thể nói với chúng ta về Thánh Lễ như là việc tái
trình bày hy tế độc nhất của Đức Kitô trên Thánh Giá, việc đón nhận Đức Kitô
thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, và những hiệu quả kỳ diệu của sự
hiệp thông nơi những người nhận món quà này.
9. Sứ mệnh trong suốt cuộc đời của Chúa trên trần thế là
làm sáng danh Chúa Cha bằng cách mang lại ơn cứu rỗi cho chúng ta. Trong Kinh
Tin Kính Nicê được đọc trong Thánh Lễ, chúng ta tuyên xưng "Vì loài người
chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Ðức Chúa
Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người".
Ơn cứu rỗi được ban tặng trong Cuộc Đời, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Đức Kitô
không gì khác hơn là thông phần vào chính sự sống của Thiên Chúa, trong sự hiệp
thông tình yêu giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Không có món quà nào
lớn hơn mà Thiên Chúa có thể ban cho chúng ta. Trong Đức Kitô, chúng ta là
những người thông phần vào bản tính của Thiên Chúa (2 Pr 1: 4). Các Giáo Phụ
gọi sự tham gia này vào sự sống của Thiên Chúa là “sự thần hóa”. Con Thiên Chúa
vĩnh cửu đã thực hiện điều này bằng cách trở thành con người và kết hợp nhân
loại với Ngôi vị Thiên Chúa của Người. Thánh Augustinô giải thích, “Đấng tạo
dựng nên con người đã làm người, để con người có thể là người nhận được Thiên
Chúa”. Thật ra, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng “trong bánh Thánh
Thể, cuộc tạo dựng được hướng tới sự thần hóa, hướng tới tiệc cưới thánh, hướng
tới sự hợp nhất với chính Đấng Tạo Hóa '“.
A) Hy Tế của Đức Kitô
10. Để bắt đầu hiểu được món quà vĩ đại do Đức Kitô ban
tặng qua việc Nhập Thể, Cái Chết và Phục Sinh của Người, món quà được hiện tại
hóa cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải ý thức rằng
sự xa cách Nguồn Mạch của mọi sự sống của chúng ta như hậu quả của tội lỗi thực
sự sâu thẳm như thế nào. Chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về sự dữ, nhưng rất
nhiều người trong chúng ta phủ nhận nguyên nhân gây ra nhiều sự dữ ấy - sự ích
kỷ của chúng ta, tội lỗi của chính chúng ta. Như Thánh Gioan đã viết trong thư
Thứ Nhất của ngài, Nếu chúng ta nói, “chúng ta không có tội”, chúng ta tự lừa
dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta (1 Ga 1: 8).
11. Tội lỗi là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, không yêu mến
Thiên Chúa và người lân cận, điều này làm tổn thương bản chất của chúng ta và
làm tổn thương sự đoàn kết của con người. Những khả năng, tài năng, và hồng ân
chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa là để dùng vào điều tốt - không phải những
điều tốt sai lầm và hão huyền mà chúng ta vì ước muốn đặt trọng tâm vào mình
tạo ra cho chính chúng ta, mà những điều tốt thật sự làm vinh danh Cha nhân
lành và hướng đến điều tốt lành cho tha nhân và cuối cùng, cũng là điều tốt cho
chúng ta. Khi chúng ta sử dụng sai những món quà của cuộc tạo dựng, khi chúng
ta ích kỷ tập trung vào chính mình, chúng ta chọn con đường tội lỗi hơn là con
đường nhân đức. Việc đặt trọng tâm vào mình này là một di sản của sự Sa Ngã của
nguyên tổ chúng ta. Nếu không có ân sủng của Đức Kitô được lãnh nhận trong Bí
tích Rửa tội, được củng cố trong Bí tích Thêm sức, và được nuôi dưỡng bằng Bí
tích Thánh Thể, thì tính ích kỷ này thống trị chúng ta.
12. Tuy nhiên, trong Đức Kitô, những gì đã bị mất bởi tội
lỗi đã được ân sủng phục hồi và đổi mới một cách lạ lùng hơn nữa. Chúa Giêsu,
Ađam mới, “Chịu đóng đinh thời quan Phongxiô Philatô”, tự hiến mình như một của
lễ hy sinh ngõ hầu chúng ta có thể nhận được gia nghiệp đã bị mất bởi tội lỗi.
Bằng cách tự nguyện dâng hiến mạng sống mình trên Thánh Giá, Đức Kitô cho phép
chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa (Ga 1:12) và thừa hưởng Nước Thiên Chúa.
Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta, chính Đức Kitô đã gánh tội chúng ta trong thân
xác của Người trên Thánh Giá, ngõ hầu, được giải thoát khỏi tội lỗi, chúng ta
có thể sống cho sự công chính. Nhờ những vết thương của Người mà anh em đã được
chữa lành”. (1 Pr 2:24).
13. Trong Bữa Tiệc Ly, khi cử hành Lễ Vượt Qua, Chúa
Giêsu nói rõ rằng cái chết sắp đến của Người, được Người tự do chọn lấy vì yêu,
là của lễ hy sinh: Trong khi họ đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc
tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, mà nói, “Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là
mình Thầy”. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho họ và nói:
"Tất cả các con hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra
cho nhiều người được tha tội” (Mt 26: 27-28). Trong lời nói và cử chỉ của Bữa
Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói rõ rằng vì tình yêu dành cho chúng ta, Người tự nguyện
hiến mạng sống của Người để cho chúng ta được tha tội. Khi làm như vậy, Người
vừa là tư tế vừa là của lễ được dâng hiến. Là tư tế, Chúa Giêsu đang dâng của
lễ cho Thiên Chúa Cha, một của lễ được tiền trưng bằng của lễ bánh và rượu bởi
Melkixêđê, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao (St 14:18; xem Tv 110: 4; Dt 5-7). Tiên
liệu cuộc Khổ Nạn của Người trong việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô đã
chỉ đến các mô thức mà việc tự hiến của Người sẽ hiện diện một cách bí tích cho
chúng ta cho đến tận thế.
14. Tại sao việc chúng ta hiểu Bí tích Thánh Thể là một
hy lễ lại quan trọng như vậy? Đó là vì tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu
độ nhân loại đều được hiện tại hóa trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, kể cả
Cái Chết hy sinh và sự Phục Sinh của Người. Sự hy sinh chính mình của Đức Kitô
dâng lên Chúa Cha có hiệu quả và có sức cứu rỗi vì tình yêu cao cả mà với nó
Người đã đổ máu mình, giá của ơn cứu rỗi chúng ta, và đã dâng chính mình cho
Chúa Cha vì chúng ta. Máu Người đổ ra cho chúng ta, là dấu chỉ đời đời của tình
yêu ấy. Như một cuộc tưởng niệm, Bí tích Thánh Thể không phải là một hy tế
khác, nhưng là sự tái trình bày hy tế của Đức Kitô, mà nhờ đó chúng ta được hòa
giải với Chúa Cha. Đó là cách mà chúng ta được đưa vào hiến lễ tình yêu hoàn hảo
của Chúa Giêsu, để hy lễ của Ngài trở thành hy lễ của Hội Thánh. Như Đức
Bênêđictô XVI đã viết,
Việc tưởng niệm hồng ân tuyệt hảo của Người không hệ tại
ở việc lập lại cách đơn thuần bữa Tiệc Ly nhưng là ở chính Bí tích Thánh Thể,
nghĩa là trong điều mới mẻ triệt để của phụng tự Kitô giáo. Bằng cách này, Chúa
Giêsu để lại cho chúng ta sứ vụ bước vào “Giờ” của Người: “Bí tích Thánh Thể
đưa chúng ta vào hành vi dâng hiến của Chúa Giêsu. Chúng ta không chỉ lãnh nhận
Ngôi Lời nhập thể cách thụ động, nhưng chúng ta còn bước vào chính động năng
của việc ttự hiến của Người”.
15. Bí tích Thánh Thể là một bữa tiệc hy sinh, “bữa tiệc
thánh của sự hiệp thông với Mình và Máu Chúa”. Mô hình cơ bản của nó được tìm
thấy trong việc cử hành Bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, là bữa ăn liên hệ
đến cả một bữa ăn và một hy lễ. Bữa ăn Lễ Vượt Qua được cử hành để tưởng nhớ
cuộc Xuất Hành, khi dân Israel được lệnh phải hiến tế một con chiên cho Chúa và
lấy máu đánh dấu cột cửa nhà của họ, để Thần tru diệt sẽ vượt qua nhà của họ và
không làm hại dân Israel. Điều này đánh dấu một dân tộc được Thiên Chúa dành
riêng và chọn làm vật sở hữu đặc biệt của Ngài. Sau đó, mỗi gia đình sẽ ăn thịt
Chiên với bánh không men như một lời nhắc nhở về sự vội vã mà dân Israel phải
chuẩn bị cho chuyến rời khỏi Ai Cập và với rau đắng như một lời nhắc nhở về
việc họ được giải phóng khỏi ách nô lệ. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu tự tỏ
mình là Chiên Vượt Qua (“Đây Chiên Thiên Chúa”) mà sự hy sinh của Người mang
lại sự giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi và máu của Người đánh dấu một dân tộc mới
thuộc về Thiên Chúa. Tất cả các hy lễ trong Cựu Ước đều tiền trưng và tìm thấy
sự hoàn thành trong hy lễ hoàn hảo duy nhất của Chúa Giêsu.
16. Công trình cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, đã hoàn thành
những gì đã được loan báo bằng hình bóng trong Lễ Vượt Qua, nay được tái trình
bày trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể “hiện tại hóa hy tế
duy nhất của Đức Kitô là Đấng Cứu Thế”. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
dạy: “Hội Thánh không ngừng rút sự sống của mình từ hy tế cứu độ [này]; Hội
Thánh đến gần hy tế ấy không phải bằng một cuộc tưởng niệm đơn thuần đầy đức
tin mà thôi, nhưng còn bằng một tiếp xúc thực sự, vì hy tế này được làm cho
hiện diện một lần nữa, luôn mãi cách bí tích, trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó,
qua tay của thừa tác viên được thánh hiến”.
17. Cuối cùng, Bí Tích cực trọng này cũng là một sự tham
dự vào phụng tự được các thiên thần và các thánh dâng hiến trên thiên đàng,
trong và qua Đức Kitô. Đức Bênêđíctô XVI giải thích rằng:
mỗi cuộc cử hành Thánh Lễ hoàn thành một cách bí tích sự
quy tụ cánh chung của Dân Thiên Chúa. Đối với chúng ta, bữa tiệc Thánh Thể là
một sự nếm trước thực sự bữa tiệc cuối cùng đã được các ngôn sứ tiên báo (x. Is
25: 6-9) và được mô tả trong Tân Ước là "tiệc cưới của Chiên Con" (Kh
19: 7- 9), được cử hành trong niềm vui hiệp thông của các thánh.
B) Sự hiện diện thật của Đức Kitô
18. Ngay từ thuở sơ khai, Hội Thánh đã tin và cử hành
theo giáo huấn của chính Chúa Giêsu: Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sự
sống đời đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Vì thịt Tôi
thật là của ăn, và máuTtôi thật là của uống thật. Ai ăn thịt và uống máuTtôi,
thì ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy (Ga 6: 54-56). Chúng ta lãnh nhận trong
Bí tích Thánh Thể không phải “bánh thông thường và thức uống thông thường”,
nhưng thịt và máu của Đức Kitô, Đấng đã đến để nuôi dưỡng và biến đổi chúng ta,
để phục hồi mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau
19. Trong Bí tích Thánh Thể, với con mắt đức tin, chúng
ta nhìn thấy trước mặt chúng ta Đức Giêsu Kitô, Đấng, khi Nhập thể đã trở nên
xác phàm (Ga 1: 14) và là Đấng trong Mầu nhiệm Vượt qua đã hiến thân vì chúng
ta (Tim 2: 14), chấp nhận ngay cả chết trên Thánh Giá (Ph 2: 8). Thánh Gioan
Kim Khẩu đã giảng rằng khi bạn nhìn thấy Mình của Đức Kitô “đặt trước mặt bạn
[trên bàn thờ], hãy tự nói với chính mình: Bởi vì Mình này, tôi không còn là
bụi đất và tro, không còn là một tù nhân, nhưng được tự do: bởi vì điều này tôi
hy vọng được lên thiên đàng, và nhận được những điều tốt đẹp ở đó, cuộc sống
bất tử, phần của các thiên thần, [và sự gần gũi] với Đức Kitô”.
20. Làm sao Chúa Giêsu Kitô có thể hiện diện thực sự
trong điều vẫn có vẻ là bánh và rượu? Trong hành vi phụng vụ được gọi là
epiclesis (sai Thánh Thần), giám mục hoặc linh mục, nói thay cho Chúa Giêsu
Kitô, cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần xuống để biến bánh và rượu thành Mình và
Máu Đức Kitô, và sự biến đổi này xảy ra qua tường thuật thiết lập (Bí Tích
Thánh Thể), bởi quyền năng của lời Đức Kitô do vị chủ tế công bố.
21. Thực tại là, trong Bí tích Thánh Thể, bánh và rượu
trở nên Mình và Máu, Linh hồn và Thiên tính của Đức Kitô mà không ngừng có vẻ
như bánh và rượu đối với ngũ quan của chúng ta là một trong những mầu nhiệm
trung tâm của đức tin Công Giáo. Đức tin này là một cánh cửa mà qua đó chúng
ta, giống như các thánh và các nhà thần bí trước chúng ta, có thể đi vào nhận
thức sâu xa hơn về lòng thương xót và tình yêu được biểu lộ trong và qua sự
hiện diện bí tích của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Trong khi một sự vật được nhìn
bằng con mắt thể lý của chúng ta, thì một thực tại khác được cảm nhận bằng con
mắt đức tin. Sự hiện diện thực sự, đích thực và bản thể của Đức Kitô trong Bí
tích Thánh Thể là thực tại sâu xa nhất của bí tích. “Sự thay đổi Mầu Nhiệm này
được Hội Thánh gọi một cách thích hợp là biến thể”. Dù Đức Kitô hiện diện với
chúng ta bằng nhiều cách trong phụng vụ, kể cả trong cộng đoàn được tụ họp lại,
thừa tác viên chủ tế, và Lời Chúa được công bố, nhưng Hội Thánh cũng khẳng định
rõ ràng rằng “Cách hiện diện của Đức Kitô dưới dạng thức Thánh Thể là đôc nhất
vô nhị”. Như Thánh Phaolô VI đã viết,“ Sự hiện diện này được gọi là 'thật',
không loại trừ ý tưởng rằng những sự hiện diện khác cũng 'thật', nhưng là để
chỉ sự hiện diện một cách đôc nhất vô nhị, bởi vì sự hiện diện này là hiện diện
bản thể và qua nó, Đức Kitô trở nên hiện diện hoàn toàn và toàn thể, Thiên Chúa
và con người”. Trong việc tái trình bày cách bí tích hy tế của mình, Đức Kitô
không giữ lại gì, mà hiến dâng chính mình, hoàn toàn và toàn thể. Việc sử dụng
từ “bản thể” để đánh dấu sự hiện diện độc nhất của Đức Kitô trong Bí tích Thánh
Thể nhằm truyền đạt toàn bộ món quà mà Người ban cho chúng ta.
22. Khi Thánh Thể được phân phát và thừa tác viên nói:
“Mình Thánh Chúa Kitô,” chúng ta không chỉ đơn thuần nhìn vào điều hữu hình
trước mắt mình, nhưng nhìn vào điều đã trở thành qua lời của Đức Kitô và hồng
ân của Chúa Thánh Thần - Thân Mình của Đức Kitô. Câu trả lời “Amen” khi chụi lễ
là một lời tuyên xưng đức tin vào Sự Hiện Diện Thật của Đức Kitô và phản ánh
cuộc gặp gỡ thân mật cách cá nhân với Người, với món quà tự hiến của Người, xảy
ra qua việc rước lễ.
23. Niềm tin vững chắc của Hội Thánh vào Sự Hiện Diện
Thật của Đức Kitô được phản ánh qua sự thờ phượng mà chúng ta dâng lên Mình
Thánh Chúa bằng nhiều cách khác nhau, bao gồm Trình bày Thánh Thể, Chầu và Phép
Lành Thánh Thể; Rước Thánh Thể; và Bốn mươi giờ Sùng Kính. Ngoài ra, các thực
hành cung kính cúi đầu trước Mình Thánh Chúa được đặt trong nhà tạm, cúi đầu
trước khi rước Mình Thánh Chúa và ăn chay ít nhất một giờ trước khi rước lễ là
những biểu hiện rõ ràng về đức tin Thánh Thể của Hội Thánh.
C) Hiệp thông với Đức Kitô và Hội Thánh
24. Khi chúng ta Rước Lễ, Đức Kitô đang hiến mình cho
chúng ta. Người đến với chúng ta với tất cả sự khiêm nhường, như Người đã đến
với chúng ta trong cuộc Nhập Thể, để chúng ta đón nhận Người và trở nên một với
Người. Đức Kitô tự hiến cho chúng ta để chúng ta tiếp tục con đường lữ hành
tiến về cuộc sống với Người trong sự viên mãn của Nước Thiên Chúa. Nhà thần học
Chính Thống giáo thế kỷ XIV Nicholas Cabasilas đã mô tả bí tích này bằng cách
nói, “khác hẳn tất cả các bí tích khác, mầu nhiệm [Thánh Thể] hoàn hảo đến mức
đưa chúng ta đến đỉnh cao của mọi điều tốt lành: đây là mục tiêu cuối cùng của
mọi ước muốn của con người, bởi vì ở đây chúng ta đạt được Thiên Chúa và Thiên
Chúa kết hợp với chúng ta trong sự kết hợp hoàn hảo nhất”. Qua bí tích này, Hội
Thánh lữ hành được nuôi dưỡng, đào sâu thêm sự hiệp thông của mình với Thiên
Chúa Ba Ngôi và do đó với nhau.
25. Bí tích Thánh Thể được gọi là Sự Hiệp Thông Thánh
chính vì, khi đặt chúng ta trong sự hiệp thông mật thiết với hy tế của Đức
Kitô, chúng ta được hiệp thông mật thiết với Người và với nhau qua Người. Do
đó, Bí tích Thánh Thể được gọi là Sự Hiệp Thông Thánh vì nó là “dấu chỉ hữu
hiệu và nguyên nhân cao cả của sự hiệp thông trong đời sống thần linh và sự hợp
nhất của Dân Thiên Chúa mà nhờ đó Hội Thánh được duy trì”. Chúng ta có thể hiểu
điều này như thế nào? Tin Mừng thánh Gioan kể lại rằng, khi Chúa Giêsu chịu
chết trên Thánh Giá, máu và nước chảy ra (Ga 19:34), tượng trưng cho Bí tích
Rửa tội và Bí tích Thánh Thể. Công đồng Vaticanô II dạy, “Nguồn gốc và sự phát
triển của Hội Thánh được tượng trưng bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn mở
ra của Chúa Giêsu chịu đóng đinh,” và rằng “nó đến từ cạnh sườn của Chúa Giêsu
khi Người ngủ trong giấc ngủ của sự chết trên Thánh Giá mà từ đó sinh ra bí
tích kỳ diệu của toàn thể Hội Thánh”. Qua hình ảnh này từ Tin Mừng Thánh Gioan,
chúng ta thấy rằng Hội Thánh, Hiền thê của Chiên Con, được sinh ra từ tình yêu
hy sinh của Đức Kitô trong việc tự hiến của Người trên Thánh Giá. Bí tích Thánh
Thể trình bày lại hy tế duy nhất này để chúng ta được hiệp thông với bí tích
này và với tình yêu mà Thiên Chúa tuôn trào từ đó. Chúng ta được đặt trong sự hiệp
thông với nhau qua tình yêu này được ban cho chúng ta. Đó là lý do tại sao
chúng ta có thể nói, “Bí tích Thánh Thể tạo nên Hội Thánh”.
26. Trước hết, chúng ta được tháp nhập vào Nhiệm Thể Đức
Kitô, là Hội Thánh, nhờ dòng nước của Phép Rửa. Nhưng Phép Rửa, giống như các
bí tích khác, được xắp đặt hướng về sự hiệp thông Thánh Thể. Công đồng Vaticanô
II dạy:
Các bí tích khác, cũng như mọi thừa tác vụ của Hội Thánh
và mọi việc tông đồ, đều gắn liền với Bí tích Thánh Thể và đều hướng về Bí tích
này. Bí tích Thánh Thể Cực Thánh chứa đựng toàn bộ lợi ích thiêng liêng của Hội
Thánh, đó là chính Đức Kitô, Bánh Vượt Qua và Hằng Sống của chúng ta, qua chính
thịt của Người, được sống và sống động nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, đem
lại sự sống cho những ai được mời gọi và khích lệ hiến dâng chính mình, sức lao
công của họ và tất cả mọi vật được tạo ra, cùng với Người.
Các Nghị phụ của Công đồng tiếp tục,
Dưới ánh sáng này, Bí tích Thánh Thể tự cho thấy chính nó
là nguồn mạch và là tột đỉnh của toàn thể công việc rao giảng Tin Mừng. Những
người dưới sự hướng dẫn được giới thiệu theo từng giai đoạn đến việc tham dự
vào Bí tích Thánh Thể, và các tín hữu, đã được đóng ấn của Bí tích Rửa tội và
Thêm sức, qua việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể được kết hợp trọn vẹn vào Thân Mình
Đức Kitô.
Đó là lý do tại sao Công đồng gọi hy tế Thánh Thể là
“nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu”.
27. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng sự hiệp thông này không
chỉ tồn tại giữa chúng ta, mà còn với những người đến trước chúng ta. Khi ngỏ
lời với Hội Thánh tại Côrinthô, Ngài ca ngợi họ vì đã tuân giữ các truyền
thống, như tôi đã truyền lại cho anh em (1Cor 11: 2). Sau đó, ngài nhấn mạnh
đến Bí tích Thánh Thể như một truyền thống thánh được Đức Kitô truyền lại cho
các tông đồ, và trong đó giờ đây chúng ta chia sẻ: Vì tôi đã nhận được từ Chúa
điều gì, tôi cũng đã truyền lại cho anh em (1Cor 11:23). Trong mỗi Thánh Lễ,
chúng ta được kết hợp với tất cả những người nam nữ thánh thiện, các thánh, là
những người đã đi trước chúng ta.
28. Do đó, nhiệm vụ tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa nhật, Ngày
của Chúa, trong đó chúng ta tưởng niệm sự Phục sinh của Chúa Giêsu, và vào các
Ngày Lễ buộc khác là một biểu hiện quan trọng của sự hiệp nhất của chúng ta như
các chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô, là Hội Thánh. Đó cũng là biểu hiện của sự
thật rằng chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và ân sủng của Ngài. Một
giáo huấn từ thế kỷ thứ ba về đời sống của Hội Thánh vạch ra một trong những
hậu quả của việc cố ý vắng mặt trong Thánh Lễ: “Đừng ai cướp đoạt Hội Thánh
bằng cách không tham dự Thánh Lễ; nếu họ làm vậy, họ tước đi mất một trong
những chi thể của Thân Thể Đức Kitô!” Thánh Gioan Phaolô II viết về Chúa nhật
như “một ngày chính nằm ở trọng tâm của đời sống Kitô hữu ”, và khẳng định thêm
“Thời gian đã dành cho Đức Kitô là thời gian không bao giờ mất đi, nhưng đúng
hơn là thời gian có lợi, để các mối quan hệ của chúng ta và thực ra là cả cuộc
đời chúng ta có thể trở nên con người sâu sắc hơn”. Chúng ta đã được tái sinh
trong Bí tích Rửa tội và được nuôi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể để chúng ta có
thể sống hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau, không những chỉ ngày nay mà còn
trong sự viên mãn của Nước thiên đàng. Vì vậy, thờ phượng Thiên Chúa vào các
ngày Chủ Nhật không chỉ là việc tuân theo một luât lệ mà là việc hoàn thành căn
tính của chúng ta, về chúng ta là ai như chi thể của Thân thể Đức Kitô. Tham dự
Thánh Lễ là một hành động yêu thương.
II. ĐÁP TRẢ CỦA CHÚNG TA
29. Trong Kinh Tiền Tụng chung thứ tư của Sách lễ Rôma,
linh mục cầu nguyện những điều sau:
Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng,
nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa
lại là một hồng ân Chúa ban,
vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa,
nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ…
Những lời này nói về ân sủng của Thiên Chúa, món quà được
ban cho chúng ta cách nhưng không, là điều thúc đẩy chúng ta cảm tạ và thờ
phượng Ngài, biến đổi chúng ta nên giống Chúa Chúa Giêsu Kitô, giúp chúng ta
tìm kiếm ơn tha thứ và lãnh nhận ơn ấy khi chúng ta phạm tội, và thôi thúc
chúng ta ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trong thế gian.
A) Lễ Tạ Ơn và Phụng Thờ
30. Đã được thánh hóa nhờ hồng ân Thánh Thể và tràn đầy
đức tin, đức cậy và đức mến, các tín hữu được mời gọi đáp lại hồng ân này. Thật
vậy, việc chúng ta tạ ơn Chúa về tất cả những gì Ngài đã ban cho chúng ta là
điều tất nhiên. Làm sao tôi có thể đáp đền ơn Chúa về tất cả những điều tốt
lành Ngài đã làm cho tôi? Tôi sẽ nâng chén cứu độ và kêu cầu danh Chúa (Tv
116,12). Từ “Thánh Thể” có nghĩa đen là “tạ ơn”. Ngay cả cách cảm tạ của chúng
ta cũng đến từ Thiên Chúa, vì chúng ta làm như vậy là tuân theo mệnh lệnh của
Chúa: Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy (Lc 22:19).
31. Công Đồng Vaticanô II dạy rằng, để tạ ơn đúng cách
trong việc cử hành Thánh Lễ, chúng ta phải “tham dự cách trọn vẹn, có ý thức và
tích cực vào việc cử hành phụng vụ”. Chúng ta cần ý thức về hồng ân mà chúng ta
đã nhận được, một món quà không gì khác hơn là chính Chúa trong hành động tự
hiến của Người. Chúng ta trở nên ý thức về hồng ân này khi tích cực tham gia
vào mọi phần của phụng vụ, để cho Thiên Chúa nói với chúng ta qua lời nói, hành
động, cử chỉ, và ngay cả những lúc thinh lặng. Chúng ta tham dự một cách tích
cực và có ý thức bằng cách tập trung hoàn toàn vào những lời được đọc trong
kinh nguyện và Thánh Kinh, ngay cả khi chúng ta đã nghe chúng hàng trăm lần
trước đó. Chúng ta cũng làm như vậy bằng cách lắng nghe bài giảng và suy niệm
về cách Chúa có thể nói với chúng ta qua thừa tác viên có chức Thánh của Ngài.
Chúng ta tích cực cảm tạ khi chúng ta tham gia ca hát và trong các câu đối đáp;
khi chúng ta quỳ, đứng và ngồi; và khi chúng ta chú ý đến các mùa phụng vụ, qua
đó toàn thể lịch sử về những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta, trong và qua
Con của Ngài, được mặc khải cho chúng ta.
32. Lòng biết ơn thôi thúc chúng ta cảm tạ và tôn thờ
Thiên Chúa khi cử hành Bí tích Thánh Thể cần được nuôi dưỡng và phong phú hóa
bởi vẻ đẹp của chính hành động phụng vụ. Các giám mục và linh mục có nhiệm vụ
đặc biệt đảm bảo rằng Thánh Lễ được cử hành cách nào phù hợp với sự thánh
thiêng của những gì đang diễn ra. Như Đức Thánh Cha Phanxicô gần đây đã viết
thư cho các giám mục trên thế giới, “Tôi yêu cầu các chư huynh hãy thận trọng
trong việc đảm bảo rằng mọi phụng vụ được cử hành trang trọng và trung thành
với các sách phụng vụ được ban hành sau Công đồng Vaticanô II, không có những
hành vi sai lêch dễ trở thành lạm dụng”. Các linh mục chủ tế Thánh Lễ cần phải
có sự hiểu biết trong cầu nguyện về các sách phụng vụ, cũng như các ngày lễ và
các mùa lễ, cùng trung thành với các bản văn và luật chữ đỏ do Hội Thánh thiết
lập. Làm như vậy, họ sẽ dẫn dắt dân chúng cách sâu xa và tôn kính hơn vào cuộc
trao đổi vốn là cuộc đối thoại của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
33. Lòng biết ơn của chúng ta cũng được thể hiện qua việc
chúng ta chầu Mình Thánh Chúa ngoài Thánh Lễ, những hình thức thờ phượng này
đều liên quan đến bản chất của việc cử hành Thánh Thể.
Trong Bí tích Thánh Thể, Con Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng
ta và mong muốn được trở nên một với chúng ta; Việc chầu Thánh Thể chỉ đơn
thuần là hệ quả tự nhiên của việc cử hành Thánh Lễ. Rước nhận Thánh Thể nghĩa
là tôn thờ Người, Đấng mà chúng ta lãnh nhận. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới
trở nên một với Người, và được nếm trước vẻ đẹp của phụng vụ trên trời.
Chúng tôi vui mừng về số tín hữu cầu nguyện trong khi
chầu Thánh Thể càng ngày càng gia tăng, một minh chứng của đức tin vào sự Hiện
Diện Thật của Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chúng tôi khuyến khích lòng sùng
kính này là điều giúp tất cả chúng ta được hình thành bởi tình yêu tự hiến mà
chúng ta nhìn thấy trong món quà chính Mình của Chúa trong Bí tích Thánh Thể.
(Mẹ) Thánh Têrêxa thành Calcutta đã từng nói: “Khi bạn nhìn lên cây Thánh Giá,
bạn hiểu lúc đó Chúa Giêsu yêu bạn nhiều như thế nào. Khi bạn nhìn lên Mình
Thánh, bạn hiểu Chúa Giêsu yêu bạn như thế nào lúc này”.
B) Sự biến đổi trong Đức Kitô
34. Người được chia sẻ cách xứng đáng trong Bí tích Thánh
Thể càng ngày càng được giúp đỡ để sống luật yêu thương mới do Đức Kitô ban
cho, chính vì Đức Kitô đã thông ban chính mình trong bí tích Bàn Thờ. Nền tảng
của sự biến đổi cá nhân và luân lý của chúng ta là sự hiệp thông với chính
Người, là sự hiệp thông mà Đức Kitô thiết lập trong Bí tích Rửa tội và đào sâu
trong Bí tích Thánh Thể. Trong việc cử hành Thánh Lễ, chúng ta được cho thấy
tình yêu thực sự là gì, và chúng ta nhận được ân sủng giúp chúng ta có thể noi
gương tình yêu mà Đức Kitô đã bày tỏ cho chúng ta. Thánh Gioan Phaolô II lưu ý
rằng đời sống luân lý của Kitô hữu phát xuất từ và được nuôi dưỡng bởi “nguồn
thánh khiết vô tận và việc tôn vinh Thiên Chúa” được tìm thấy trong các bí
tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể: “nhờ thông phần vào hy tế Thánh Giá, Kitô
hữu dự phần vào tình yêu tự hiến của Đức Kitô cùng được trang bị và cam kết
sống đức ái này trong mọi suy nghĩ và việc làm của mình”.
35. Sự biến đổi cá nhân và luân lý được duy trì bởi Bí
tích Thánh Thể vươn đến mọi lãnh vực của đời sống con người. Tình yêu của Đức
Kitô có thể thấm nhuần tất cả các mối quan hệ của chúng ta: với gia đình, bạn
bè và những người lân cận của chúng ta. Nó cũng có thể định hình lại cuộc sống
của toàn thể xã hội chúng ta. Mối quan hệ của chúng ta với Đức Kitô không bị
giới hạn trong phạm vi riêng tư; nó không dành cho một mình chúng ta. Chính sự
liên đới hay sự hiệp thông trong tình yêu tự hiến của Đức Kitô đã tạo nên Hội
Thánh và khiến chúng ta trở thành chi thể của Hội Thánh truyền cho chúng ta
phải vượt ra ngoài cộng đồng đức tin hữu hình để đi đến với tất cả mọi người mà
chúng ta có nhiệm vụ yêu thương bằng chính tình yêu đã tạo nên sự hiệp thông
của chúng ta với Chúa. Ngược lại, nếu chúng ta không yêu thương tất cả mọi
người theo cách này, thì sự hiệp thông của chúng ta với Chúa sẽ bị suy giảm
hoặc thậm chí mâu thuẫn. Tình yêu này đặc biệt mở rộng và “ưu tiên” cho những
người nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất. Tất cả chúng ta cần phải kiên
định trong việc đem tình yêu của Đức Kitô không chỉ đến đời sống cá nhân của
chúng ta, mà còn đến mọi chiều kích của đời sống công cộng của chúng ta.
36. Đặc biệt, vai trò của giáo dân là biến đổi các mối
quan hệ xã hội cho phù hợp với tình yêu của Đức Kitô, được thực hiện một cách
cụ thể bằng những hành động và việc làm vì lợi ích khách quan chung. Giáo dân,
“ý thức về lời mời gọi nên thánh nhờ ơn gọi khi Rửa Tội của họ, phải hoạt động
như men trong bột để xây dựng một thành phố trần thế phù hợp với dự định của
Thiên Chúa. [Sự phù hợp] giữa đức tin và đời sống trong lãnh vực chính trị,
kinh tế và xã hội đòi hỏi sự đào luyên lương tâm, nghĩa là hiểu biết học thuyết
xã hội của Hội Thánh”. Những giáo dân thực thi một số hình thức quyền hành công
cộng có trách nhiệm đặc biệt là phải đào luyện lương tâm của họ cho phù hợp với
đức tin của Hội Thánh và luật luân lý, và phục vụ gia đình nhân loại bằng cách
duy trì sự sống và phẩm giá con người.
37. Sách Giáo lý của Hội thánh Công Giáo nhắc nhở chúng
ta rằng “Bí tích Thánh Thể đòi buộc dấn thân cho người nghèo. Để lãnh nhận
trong chân lý Mình và Máu của Đức Kitô bị nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhận
ra Đức Kitô trong những kẻ nghèo nhất, là các anh em của Người”. Khi giảng về
Mt 25, Thánh Gioan Kim Khẩu đã nhận xét: “Bạn có muốn tôn vinh Mình Thánh Chúa
ư? Đừng phớt lờ Người khi Người đang trần trụi. Đừng tỏ lòng tôn kính Người
trong đền thờ đầy lụa là rồi bỏ mặc Người ở bên ngoài, nơi Người phải chịu trần
truồng lạnh lẽo. Đầng đã nói: ‘Đây là Mình Thầy’ cũng chính là Đấng đã nói: Các
người thấy Ta đói và các người đã không cho Ta ăn’”. Thánh Têrêxa thành
Calcutta là một tấm gương nổi bật trong thời gian gần đây về việc học cách nhận
biết Đức Kitô trong những người nghèo. Chính đức tin sâu xa của Mẹ vào Bí tích
Thánh Thể và việc Mẹ rước lễ đã thúc đẩy Mẹ yêu thương chăm sóc cho những người
nghèo nhất trong số những người nghèo, và dấn thân cho sự thánh thiêng của tất
cả sự sống con người. Khi nhìn thấy khuôn mặt của Đức Kitô trong Bí tích Thánh
Thể, Mẹ đã học cách nhận ra khuôn mặt của Người trong những người nghèo khổ và
đau khổ. Mẹ Têrêxa được cho là đã khẳng định: “Chúng ta phải cầu xin Chúa Giêsu
ban cho chúng ta sự dịu dàng đó của Bí tích Thánh Thể. Trừ khi chúng ta tin và
nhìn thấy Chúa Giêsu dưới hình bánh trên bàn thờ, chúng ta sẽ không thể nhìn
thấy Người ngụy trang trong sự đau buồn của người nghèo”.
38. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo chúng ta rằng,
trong “nền văn hóa vứt bỏ” của chúng ta, chúng ta cần chống lại khuynh hướng
coi mọi người như “đồ dùng một lần”: “Dường như một số thành phần trong gia
đình nhân loại của chúng ta có thể sẵn sàng bị hy sinh cho lợi ích của những
người khác được coi là đáng được hưởng một cuộc sống vô tư. Cuối cùng, “con
người không còn được coi là có giá trị tối quan trọng để được chăm sóc và tôn
trọng nữa, đặc biệt là khi họ nghèo khó và tàn tật, ‘chưa có ích lợi’- như
người chưa sinh ra, hoặc ‘không còn cần thiết nữa’- như người già”. Là Kitô
hữu, chúng ta có trách nhiệm cổ võ sự sống và phẩm giá của con người, yêu
thương và bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất ở giữa chúng ta: những người
chưa sinh ra, những người di cư và tị nạn, những nạn nhân của bất công về chủng
tộc, những người bệnh tật và già cả.
39. Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh tầm quan trọng của
thái độ việc tôn kính đối với con người. “Mọi người phải coi mọi người lân cận
của mình như một cái tôi khác của mình, không có luật trừ, trước hết phải kể
đến mạng sống của họ và những phương tiện cần thiết để sống nó một cách có phẩm
giá, ngõ hầu không bắt chước người phú hộ không quan tâm đến người nghèo Lazarô”.
54 Công đồng tiếp tục nói rằng
bất cứ điều gì trái ngược với chính sự sống, chẳng hạn
như bất cứ hình thức giết người, diệt chủng, phá thai nào, giết chết êm dịu hay
cố ý tự hủy hoại thân thể, bất kỳ điều gì vi phạm sự toàn vẹn của con người,
chẳng hạn như cắt xẻo, hành hạ về thể xác hoặc tinh thần, cưỡng bức chính ý
chí; bất cứ điều gì xúc phạm đến phẩm giá con người, chẳng hạn như điều kiện
sống thấp kém, tủy tiện giam cầm, trục xuất, bắt làm nô lệ, mại dâm, buôn bán
phụ nữ và trẻ em; cũng như những điều kiện làm việc ô nhục, nơi con người bị
coi là công cụ đơn thuần để kiếm lợi, thay vì là những người tự do và có trách
nhiệm; tất cả những điều này và những điều tương tự khác như chúng thực sự là
những điều bỉ ổi. Chúng đầu độc xã hội loài người, nhưng chúng làm thiệt hại
cho những người thực hành chúng hơn là những người bị tổn thương.
40. Như chúng ta được Thánh Thể thúc đẩy để nghe tiếng
kêu của người nghèo, và đáp lại trong tình yêu, chúng ta cũng được mời gọi để
nghe tiếng kêu của trái đất và, tương tự như vậy, hãy đáp lại bằng sự quan tâm
yêu thương. Đức Phanxicô, cũng như Đức Bênêđíctô XVI trước ngài, đã vạch ra một
cách hùng hồn mối liên hệ giữa việc cử hành Thánh Thể và việc quan tâm đến môi
trường. Mọi thụ tạo đều tôn vinh Thiên Chúa, và hành trình hướng tới việc thần
hóa, tiến đến vi65c kết hợp với Đấng Tạo Hóa.
41. Chúng ta mong chờ ngày mà tất cả những tệ nạn như vậy
sẽ bị loại bỏ, khi Nước Thiên Chúa được thiết lập một cách sung mãn. Khi ấy, sẽ
có trời mới, đất mới, và cộng đồng nhân loại sẽ ở trong một Giêrusalem mới, nơi
đó chính Thiên Chúa sẽ ở với Dân Ngài (Kh 21: 1-3). Không ai phải chịu cảnh
nghèo đói, bất công hay bạo lực. Chúng ta sẽ có thể nhìn thấy nhau như Chúa
nhìn thấy chúng ta, mà không có bất kỳ sự biến dạng nào gây ra bởi tội lỗi hoặc
bởi cấu trúc của tội lỗi như phân biệt chủng tộc hoặc các biểu hiện khác nhau
của nền văn hóa vứt bỏ. Không ai được coi là "dùng một lần". Chúng ta
sẽ có thể yêu thương nhau phản ảnh cách Chúa yêu thương chúng ta.
42. Trong khi tất cả đều quá rõ ràng rằng trong thế giới
hiện tại của chúng ta, Nước Trời chưa được thiết lập hoàn toàn, nhưng sự hiệp
thông của chúng ta với Chúa cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ đơn thuần
là điều chúng ta chờ đợi vào ngày tận thế. Nước Trời đã hiện diện, nếu không
muốn nói là trong viên mãn: “Nước Trời đã đến trong con người của Đức Kitô và
phát triển cách Mầu Nhiệm trong lòng những người được kết hợp với Người,” cho
đến lúc hoàn thành khi Người lại đến trong vinh quang. Mầu nhiệm Nước Trời vẫn
hiện diện trong Hội Thánh vì Hội Thánh được kết hợp với Đức Kitô như các chi
thể của một Thân Thể với Đầu của mình. Trong sự hiệp thông là Hội Thánh, “Nước
thiên đàng, Triều đại Thiên Chúa, đã hiện hữu và sẽ được hoàn thành trong ngày
sau hết”.
43. Thiên Chúa đã không chỉ kêu gọi chúng ta ra khỏi sự
thờ ơ tội lỗi để làm bất cứ điều gì có thể ngõ hầu góp phần vào việc trị đến
của Nước Trời; qua Đức Kitô, Ngài đã ban cho chúng ta ân sủng mà chúng ta cần
để làm điều này. Bản Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo giải
thích:
Những người đã được tình thương Thiên Chúa “đổi mới” có
thể thay đổi các luật lệ và chất lượng của các mối quan hệ, thậm chí chuyển
biến cả các cấu trúc xã hội. Họ trở thành người có khả năng đem hoà bình đến
nơi xung đột, gầy dựng và nuôi dưỡng các mối tương quan huynh đệ ở nơi có hận
thù, đi tìm công lý ở nơi còn đầy cảnh người bóc lột người. Chỉ có tình thương
mới có khả năng thay đổi tận gốc những mối quan hệ đang có giữa con người với
nhau.
C) Hoán Cải
44. Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng cách
kêu gọi mọi người ăn năn và hoán cải: Hãy ăn năn và tin vào Tin Mừng (Mc 1:15;
x. Mt 4:17). Như vậy, thật phù hợp khi ở đầu mỗi Thánh Lễ, chúng ta được mời
gọi nhìn nhận tội lỗi của mình để chuẩn bị cử hành các mầu nhiệm thánh. Chúng
ta thú nhận rằng mình đã phạm tội, và chúng ta cầu xin lòng thương xót của
Chúa. Điều này là cần thiết vì tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và đôi khi
không sống đúng với ơn gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu và những lời hứa trong Bí
tích Rửa Tội của chúng ta. Chúng ta cần liên tục chú ý đến lời mời gọi hoán cải
của Đức Kitô. Chúng ta tin cậy vào lòng thương xót của Người, lòng thương xót
mà chúng ta thấy trong thân xác Người đã tan nát vì chúng ta và máu Người đã đổ
ra cho chúng ta để tha tội chúng ta. Chúng ta phải đến gần Chúa với tấm lòng
khiêm nhường và thống hối, cùng chân thành thưa rằng: “Lạy Chúa, con chẳng đáng
Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành
mạnh”.
45. Trong khi tất cả những thất bại của chúng ta trong
việc làm điều gì là đúng đều làm tổn thương sự hiệp thông của chúng ta với
Thiên Chúa và với nhau, chúng có nhiều loại khác nhau, phản ảnh mức độ nghiêm
trọng khác nhau. Điều này đưa chúng ta đến sự phân biệt giữa tội nhẹ và tội
trọng. Tội nhẹ là những tội và lỗi lầm hàng ngày, mặc dù chúng phản ảnh một mức
độ ích kỷ, nhưng không phá vỡ giao ước với Thiên Chúa. Chúng không tước mất
tình bạn với Thiên Chúa hoặc ơn thánh hóa của kẻ phạm tội. Không nên coi thường
tội nhẹ, nhưng chúng không hủy bỏ sự hiệp thông vì chúng không phá hủy nguyên
tố của sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta. Thật ra, việc rước Thánh Thể
củng cố đức ái của chúng ta và xóa sạch các tội nhẹ, đồng thời cũng giúp chúng
ta tránh được những tội trọng hơn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã làm cho chúng ta
chú ý đến tính chất thần dược này của Bí tích Thánh Thể khi ngài vạch ra rằng
Bí tích này “không phải là phần thưởng cho những người hoàn hảo nhưng là liều
thuốc mạnh mẽ và sự nuôi dưỡng cho những người yếu đuối”. Ngài cũng cảnh báo
chúng ta chống lại sai lầm của phái Pelagiô là quên mất việc thường xuyên cần
ân sủng và nghĩ rằng việc sống một cuộc sống thánh thiện lệ thuộc vào sức mạnh
ý chí của chúng ta.
46. Tuy nhiên, có một số tội phá vỡ sự hiệp thông mà
chúng ta chia sẻ với Thiên Chúa và Hội Thánh, và làm cớ cho sự xúc phạm nghiêm
trọng đến phẩm giá con người. Chúng được gọi là tội nặng, hay tội trọng (x. 1
Ga 5: 16-17). Người ta phạm một tội trọng bằng cách tự do, cố ý và sẵn sàng
chọn làm điều gì đó liên quan đến vấn đề nghiêm trọng và trái với đức bác ái,
trái với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân.
47. Một người không được cử hành Thánh Lễ hay Rước Lễ
trong tình trạng tội trọng mà chưa tìm đến Bí Tích Hòa Giải và được tha tội.
Như Hội Thánh đã dạy một cách chắc chắn, một người Rước Lễ trong tình trạng tội
trọng, không những không nhận được ân sủng mà bí tích truyền đạt; người ấy phạm
tội phạm thánh vì không bày tỏ lòng tôn kính dành cho Mình và Máu Thánh của Đức
Kitô. Thánh Phaolô cảnh cáo chúng ta rằng ai ăn bánh hay uống chén của Chúa
cách bất xứng, sẽ phạm tội với Mình và Máu Chúa. Một người phải tự xét mình,
rồi mới ăn bánh và uống chén này. Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân
Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. (1 Cor 11: 27-29). Việc rước Mình và Máu
Đức Kitô trong tình trạng tội trọng là một sự mâu thuẫn. Người nào, bằng hành
động của chính mình, đã làm tan vỡ sự hiệp thông với Đức Kitô và Hội Thánh của
Người nhưng lại rước Mình Thánh Chúa, thì hành động không mạch lạc, vừa công bố
và từ chối sự hiệp thông cùng một lúc. Như thế, nó là một dấu chỉ mâu thuẫn,
một lời nói dối - nó diễn tả một sự hiệp thông mà trên thực tế đã bị tan vỡ.
48. Chúng ta cũng cần ghi nhớ rằng “việc cử hành Bí tích
Thánh Thể giả định rằng đã có sẵn một sự hiệp thông, một sự hiệp thông tìm cách
củng cố và đưa đến sự hoàn thiện”. Bí tích Thánh Thể là bí tích của sự hiệp
thông Hội Thánh, vì nó vừa biểu thị và vừa tác động một cách trọn vẹn nhất vào
sự hiệp thông với Đức Kitô đã được bắt đầu từ Bí tích Rửa Tội. Điều này bao gồm
sự hiệp thông trong “chiều kích hữu hình, bao gồm sự hiệp thông trong giáo huấn
của các Tông đồ, trong các bí tích và trong trật tự phẩm trật của Hội Thánh”.
Cũng vậy, việc rước lễ đòi hỏi sự hiệp thông của một người với Hội Thánh trong
chiều kích hữu hình này. Chúng tôi nhắc lại những gì các Giám mục Hoa Kỳ đã
tuyên bố vào năm 2006:
Tuy nhiên, nếu một người Công Giáo trong đời sống cá nhân
hoặc nghề nghiệp của mình cố ý và ngoan cố chối bỏ các giáo lý đã được xác định
của Hội Thánh, hoặc cố ý và ngoan cố từ chối giáo huấn dứt khoát của Hội Thánh
về các vấn đề luân lý, thì người đó sẽ giảm thiểu cách nghiêm trọng sự hiệp
thông của mình với Hội Thánh. Việc rước lễ trong hoàn cảnh như vậy không phù
hợp với bản chất của việc cử hành Thánh Thể, vì vậy người đó phải kiềm chế.
Rước Lễ trong hoàn cảnh như vậy cũng dễ làm gương mù cho
người khác, làm suy yếu quyết tâm trung thành với các đòi hỏi của Tin Mừng của
họ.
49. Do đó, sự hiệp thông của một người với Đức Kitô và
Hội Thánh của Người bao hàm cả “sự hiệp thông vô hình” (ở trong tình trạng ân
sủng) và “sự hiệp thông hữu hình” của một người. Thánh Gioan Phaolô II giải
thích:
Phán quyết về tình trạng ân sủng của một người chỉ thuộc
quyền của người liên hệ, vì đó là một vấn đề về xem xét của lương tâm của một
người. Tuy nhiên, trong trường hợp một hành vi bên ngoài vi phạm nghiêm trọng,
công khai và liên tục luật luân lý, Hội Thánh trong quan tâm mục vụ về trật tự
cộng đồng và vì lòng tôn kính Bí tích, không thể không cảm thấy trực tiếp liên
hệ. Tình trạng mâu thuẫn luân lý công khai này đã được đề cập đến trong Giáo
Luật về việc từ chối không cho rước lễ những ai “tỏ tường ngoan cố ở trong tình
trạng tội trọng”.
Giám mục giáo phận có trách nhiệm đặc biệt là làm việc để
khắc phục các tình cảnh liên quan đến các hành động công khai trái ngược với sự
hiệp thông hữu hình của Hội Thánh và luật luân lý. Thật vậy, ngài phải bảo vệ
sự toàn vẹn của bí tích, sự hiệp thông hữu hình của Hội Thánh, và việc cứu rỗi
các linh hồn.
50. Trước khi rước lễ, chúng ta phải xét mình kỹ lưỡng
hầu đảm bảo rằng mình được chuẩn bị thích đáng để rước Mình và Máu Chúa. Nếu
chúng ta nhận thấy rằng mình đã làm vỡ sự hiệp thông với Đức Kitô và Hội Thánh
của Người, thì chúng ta không được chuẩn bị thích đáng để rước nhận Thánh Thể. Tuy
nhiên, chúng ta không nên tuyệt vọng, vì Chúa trong lòng nhân từ đã ban cho
chúng ta một phương thuốc. Người yêu thương chúng ta và vô cùng mong muốn tha
thứ cho chúng ta và phục hồi sự hiệp thông của chúng ta với Người. Vào đêm Phục
Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các tông đồ và những người kế vị
các ngài quyền năng để tha tội và hòa giải tội nhân với Hội Thánh. Người ban Bí
tích Thống hối và Hoà giải cho Hội Thánh khi Người thổi hơi trên các tông đồ và
nói với các ngài: Hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì người ấy
được tha, các con cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc (Ga 20: 22-23). Bất cứ
khi nào chúng ta phạm tội, chúng ta có cơ hội tuyệt vời này để được đổi mới và
củng cố bởi ân sủng của Thiên Chúa. Nếu chúng ta đã phạm tội trọng, Bí tích
cung cấp cho chúng ta cơ hội để phục hồi ơn thánh hóa và được khôi phục để hiệp
thông trọn vẹn với Thiên Chúa và Hội Thánh. Tất cả các Bí tích đòi hỏi chúng ta
như hối nhân là chúng ta phải ăn năn tội, dốc lòng chừa, xưng tội của mình, lãnh
nhận bí tích tha tội, và làm việc đền tội đã được chỉ định. Chúng tôi khuyến
khích tất cả những người Công Giáo nên có một sự trân quý được canh tân đối với
Bí tích tuyệt hảo này, trong đó chúng ta nhận được ơn tha thứ và bình an của
Chúa. Theo lời của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng tôi nói với tất cả những người
Công Giáo ở đất nước của chúng ta: “Đừng ngại đến với Bí tích Giải tội, nơi anh
chị em sẽ gặp Chúa Giêsu, Đấng đã tha thứ cho anh chị em”.
D) Thức ăn cho cuộc hành trình
51. Cuộc đời của các thánh và các chân phước cho chúng ta
thấy tầm quan trọng của Bí tích Thánh Thể trên cuộc hành trình làm môn đệ Chúa
Giêsu. Nhiều vị đã làm chứng cho quyền năng của Bí tích Thánh Thể trong cuộc
sống của các ngài. Chúng ta thấy những hoa trái của việc Rước Lễ trong đời sống
đức tin, đức cậy và đức mến của các ngài. Chính sự kết hợp mật thiết của các
ngài với Chúa Giêsu khi Rước Lễ và thường xuyên cầu nguyện trước Mình Thánh
Chúa đã nuôi dưỡng và củng cố các ngài trong cuộc hành trình về trời. Các ngài
dạy chúng ta rằng “sự lớn lên trong đời sống Kitô hữu cần được nuôi dưỡng bởi
sự Hiệp Thông Thánh Thể, tấm bánh cho cuộc hành hương của chúng ta cho đến giây
phút lâm chung, khi nó sẽ được ban cho chúng ta dưới dạng của ăn đàng
(viaticum)”.
52. Chân phước Carlo Acutis, một thiếu niên người Ý, từ
trần năm 15 tuổi và được phong chân phước năm 2020, thường nói: “Bí tích Thánh
Thể là con đường dẫn tôi lên thiên đàng”. Chân phước Carlo đạt được sự thánh
thiện khi còn rất trẻ vì Thánh Thể là trung tâm của cuộc đời cậu. Cậu dự Thánh
Lễ hàng ngày và cầu nguyện mỗi ngày trước Thánh Thể trong giờ chầu. Cậu đã khám
phá ra niềm vui của tình bằng hữu với Chúa Giêsu và mang niềm vui đó, niềm vui
của Tin Mừng, cho người khác. Cậu là một tông đồ của Bí tích Thánh Thể qua mạng
internet. Cậu nói: “Luôn luôn được kết hợp với Đức Kitô: Đây là chương trình
của đời tôi”.
53. Cũng vậy, Thánh José Sánchez del Río, một thiếu niên
Mễ Tâ Cơ đã tử vì đạo ở tuổi 14 và được phong thánh năm 2016, tràn đầy tình yêu
đối với Đức Kitô và Hội Thánh của Người đến nỗi cậu sẵn sàng từ bỏ mạng sống
của mình hơn là từ bỏ Đức Kitô và Vương quyền của Người. Trong khi bị cầm tù,
Thánh José Sánchez del Río đã có thể rước Mình Thánh Chúa khi Mình Thánh được
lén đưa vào phòng giam của cậu cùng với một giỏ thức ăn. Được củng cố bởi của
ăn đàng (viaticum) này, cậu có thể chịu đựng được sự tra tấn và trung thành với
Đức Kitô khi những kẻ bắt giữ cậu bảo cậu phải chối bỏ đức tin của mình hoặc bị
xử tử. Cậu trả lời những kẻ hành hạ cậu: “Đức tin của tôi không phải để bán”.
Chúng tôi khuyến khích tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ của chúng
ta, để tìm hiểu về cuộc sống của những thanh thiếu niên thánh thiện này. Giữa
rất nhiều điều phiền nhiễu trong cuộc sống của chúng ta, Chân phước Carlo và
Thánh José Sánchez del Río dạy chúng ta tập trung vào điều quan trọng hơn bất
cứ điều gì khác.
54. Có nhiều người đã được thu hút vào Hội Thánh Công
Giáo và đã gia nhập Hội Thánh vì họ tin vào sự Hiện Diện Thật của Đức Kitô
trong Bí tích Thánh Thể. Vị thánh đầu tiên sinh ra ở Hoa Kỳ của chúng ta, Thánh
Elizabeth Ann Seton, là một trong những người trở lại đạo này. Bà được thu hút
để gia nhập Hội Thánh Công Giáo sau khi chứng kiến sự sùng kính Thánh Thể của
những người Công Giáo. Bà đã thắc mắc về việc sùng kính đó. Ân sủng của Thiên
Chúa đã đưa bà đến với đức tin vào sự Hiện diện Thật. Khi vẫn còn là một người
theo Anh Giáo, bà thấy mình đang thờ phượng trong nhà thờ của bà ở New York,
nhìn ra cửa sổ đang mở và cầu nguyện với Chúa Giêsu trong nhà tạm cách đó một
dãy nhà trong một nhà thờ Công Giáo. Vào đêm sau khi gia nhập Hội Thánh Công
Giáo và Rước lễ lần đầu, Thánh Elizabeth Ann Seton đã viết trong nhật ký của
bà: “Cuối cùng THIÊN CHÚA LÀ CỦA TÔI và TÔI LÀ CỦA NGƯỜI”. Trong suốt quãng đời
còn lại, đức tin sâu xa vào sự phục vụ tiên phong của bà cho Hội Thánh trong
đất nước non trẻ của chúng ta đã được nuôi dưỡng bởi Chúa Giêsu Thánh Thể.
Trong những năm gần đây, càng ngày càng nhiều Kitô hữu trong nước chúng ta rời
bỏ các nhà thờ của họ và trở nên không theo giáo phái nào. Chúng tôi mời những
người Công Giáo đã rời bỏ Hội Thánh hoặc những người không còn thực hành đức
tin trở về nhà. Chúng tôi nhớ các bạn và chúng tôi yêu các bạn. Chúng tôi cầu
nguyện rằng Chúa Giêsu sẽ kéo các bạn trở lại với gia đình Công Giáo của các
bạn, Nhiệm thể của Người, qua Thân Mình Thánh Thể của Người. Chúng tôi lặp lại
những lời được cho là của Thánh Têrêxa thành Calcutta: “Một khi bạn hiểu về Bí
tích Thánh Thể, bạn không bao giờ có thể rời bỏ Hội Thánh. Không phải vì Hội
Thánh không cho phép bạn mà vì trái tim bạn sẽ không cho phép bạn”.
SAI ĐI
56. Đức Bênêđictô XVI đã nhắc nhở chúng ta rằng “tình yêu
mà chúng ta cử hành trong bí tích không phải là điều chúng ta có thể giữ cho
riêng mình. Tự bản chất của nó, nó đòi hỏi phải được chia sẻ với tất cả mọi
người”. Chúng ta không phải là những người duy nhất cần tình yêu mà Đức Kitô đã
bày tỏ cho chúng ta. Chúng ta được mời gọi để giúp phần còn lại của thế giới
kinh nghiệm điều đó. “Điều thế giới cần là tình yêu của Thiên Chúa; thế giới
cần gặp gỡ Đức Kitô và tin vào Người. Do đó, Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và
tột đỉnh không những chỉ của đời sống Hội Thánh, mà còn của sứ vụ Hội Thánh”.
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để cứu độ thế gian. Ở cuối cuộc cử hành Thánh
Lễ, chúng ta, những người đã lãnh nhận Mình và Máu Đức Kitô và đã được tháp
nhập sâu xa hơn vào Nhiệm Thể của Người, cũng được sai đi để loan báo Tin Mừng
cứu độ cho thế giới: “Hãy ra đi bình an, tôn vinh Chúa bằng đời sống của anh
chị em”.
57. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh rằng việc truyền
giáo - truyền bá Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô - là một nhiệm vụ của mọi chi thể
của Hội Thánh, không chỉ một vài chuyên gia:
Tất cả những người đã được rửa tội, bất kể địa vị của họ
trong Hội Thánh hay mức độ giáo huấn về đức tin của họ, đều là những tác nhân
của việc Phúc Âm hóa, và sẽ thiếu xót nếu hình dung một kế hoạch Phúc Âm hóa
được thực hiện bởi các chuyên gia trong khi các tín hữu còn lại chỉ đơn thuần
là những người đón nhận thụ động. Việc Tân Phúc Âm hóa mời gọi sự tham gia cá
nhân của mỗi người đã chịu phép Rửa Tội.
Ngài khuyến khích tất cả chúng ta trở thành môn đệ truyền
giáo: “Mỗi Kitô hữu là một nhà truyền giáo trong chừng mực mà họ đã gặp được
tình yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu: chúng ta không còn nói
rằng chúng ta là 'môn đệ' và 'nhà truyền giáo', mà là chúng ta luôn là 'những
môn đệ truyền giáo’”. Điều cốt yếu không phải là người ta được đào tạo cao cấp,
mà là qua Đức Kitô một người khám phá ra tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng
ta và người ấy mong muốn dẫn người khác đến với cùng một khám phá vui mừng đó:
"Bất cứ ai đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu cứu độ của Thiên Chúa thì
không cần nhiều thời gian hay sự huấn luyện lâu dài để đi ra ngoài và công bố
tình yêu đó”. Tất cả điều cần thiết là một người đã biết đến tình yêu đó - tình
yêu được thể hiện một cách ưu việt nhất trong Bí tích Thánh Thể - nói với người
khác về điều đó.
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để cung cấp cho
nhữngngười khác một chứng từ rõ ràng về tình yêu cứu độ của Chúa, Đấng bất chấp
những bất toàn của chúng ta, đã ban cho chúng ta sự gần gũi của Người, lời của
Người và sức mạnh của Người, và mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta. Trong
tâm hồn anh chị em, anh chị em biết rằng sống mà không có Người thì hoàn toàn
khác; những gì anh chị em đã nhận ra, những gì đã giúp anh chị em sống và cho
anh chị em hy vọng, là những gì anh chị em cũng cần phải truyền đạt cho những
người khác.
* * * * *
58. Chúng tôi đã đưa ra những suy tư này về đức tin và
việc thực hành Thánh Thể của Hội Thánh như một điểm khởi đầu. Có thể nói còn
nhiều điều nữa, nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta hãy đi sâu hơn nữa bằng
đức tin và tình yêu vào Mầu Nhiệm cao cả của các Mầu Nhiệm này. Tất cả chúng ta
hãy cầu xin Chúa mời gọi chúng ta bước vào thời kỳ canh tân Thánh Thể, thời kỳ
cầu nguyện và suy niệm, của những hành động bác ái và thành tâm sám hối. Chúa ở
cùng chúng ta trong Mầu Nhiệm Thánh Thể được cử hành trong các giáo xứ và các
họ lẻ của chúng ta, trong những thánh đường đẹp đẽ và trong những nhà nguyện
nghèo nàn nhất của chúng ta. Người hiện diện và Người đến gần chúng ta, để
chúng ta có thể đến gần Người hơn. Chúa rộng lượng cùng chúng ta với ân sủng
của Người; và vì vậy, chúng ta, nhờ ân sủng của Người, phải luôn khiêm tốn cầu
xin Người ban cho chúng ta những gì chúng ta cần thiết.
59. Đức Kitô Phục Sinh nói với chúng ta, Ta là Alpha và
Omega, là nguyên thủy và cùng đích. Ta sẽ ban cho kẻ khát một món quà từ suối
nước ban sự sống (Kh 21: 6). Thưa anh chị em, chúng ta hãy khát khao Chúa là
Đấng đã chịu cơn khát trước vì chúng ta (Ga 19:28). Chúng ta hãy tôn thờ Chúa
Giêsu, Đấng luôn ở lại với chúng ta, trên tất cả các bàn thờ của thế giới, và
dẫn dắt những người khác đến chia sẻ niềm vui của chúng ta!