Bài 2 :
LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
“Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn
luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không
ngừng” (Cv
2,42).
Phụng vụ của Hội Thánh như chúng ta thấy hiện nay đã
không hình thành một sớm một chiều, nhưng đã tiến triển từng bước theo thời
gian. Một mặt vì phụng vụ là tác động thần linh nên có những yếu tố nền tảng không
thể thay đổi; mặt khác vì tính nhân trần nên phụng vụ không phải là một thực
tại bất động, khô cứng, nhưng cần phải thích nghi theo từng môi trường và văn
hóa địa phương. Đó chính là lý do tạo nên những truyền thống phụng vụ, hay còn
gọi là gia đình phụng vụ trong dòng lịch sử.
I. PHỤNG VỤ VÀ
TRUYỀN THỐNG
Truyền thống là cách thức bảo tồn và chuyển tải di sản
tinh thần của thế hệ đi truớc sang cho các thế hệ sau. Hiểu như vậy, Truyền
thống Kitô giáo vừa bảo đảm nội dung đức tin, vừa là cách thức truyền tải đức
tin một cách chắc chắn từ các tông đồ đến chúng ta ngày nay. Chính đức tin chi
phối việc cử hành phụng vụ, như câu châm ngôn ngàn đời của Giáo Hội: “Luật
cầu nguyện là luật đức tin” (Lex orandi lex credendi). Ngay từ đầu,
Giáo Hội đã cử hành phụng vụ đồng thời với việc rao giảng Tin Mừng về mầu nhiệm
Vượt Qua của Chúa Kitô (Cv 2,1-47) . Tuy nhiên, việc cử
hành phụng vụ có trước và tạo nên Truyền Thống, còn bản văn phụng vụ đến sau
dựa vào Ký Ức cộng đòan.
Bận tâm của Hội Thánh ban đầu không phải là những bản văn
thần học hay phụng vụ, nhưng là công cuộc rao giảng Tin Mừng dựa vào uy thế của
các tông đồ và những người kế vị. Vì thế không thể quan niệm một cử hành phụng
vụ không có Hội Thánh hay tách rời khỏi các tông đồ và những người kế vị. Chính
trong sự liên tục của Truyền thống này mà đức tin Kitô giáo được gìn giữ vẹn
tuyền và trở nên sống động qua mọi thời nhờ các cử hành Phụng vụ.
II.
BẢN VĂN PHỤNG VỤ
Ngoài những dấu tích khảo cổ về các bức bích họa trên tường,
các di tích thánh còn để lại những dấu vết sinh hoạt phụng vụ của Hội Thánh
thời tiên khởi, chúng ta còn thấy xuất hiện các nguồn tài liệu viết.
Trước hết phải kể đến cuốn sách Kinh Thánh.Hội Thánh kế
thừa nhiều dấu chỉ và nghi lễ mà sách Cựu Ước còn ghi lại; và sách Tân Ước là
những bản tường trình chính xác và trung thực về đời sống phụng vụ của Hội
Thánh ban đầu. Thứ đến là các nguồn tài liệu khác mang giá trị lịch sử phụng
vụ, quy định các thể thức phải giữ khi cử hành phụng vụ như sách Didaché, sách
hộ giáo của thánh Justinô, sách truyền thống tông đồ của thánh Hypôlytô;
hoặc trình bày và giải thích các cử hành phụng vụ như các bài giảng và giáo
lý của Tertulianô, Xyrilô thành Giêrusalem, Ambrôsiô, Augustinô...
III.
BƯỚC KHỞI ĐẦU CỦA PHỤNG VỤ KITÔ GIÁO
Các Kitô hữu tiên khởi thường xuyên lui tới đền thờ cầu
nguyện và chu toàn các việc phượng tự như những người Do Thái khác, và chỉ
ngừng lên đền thờ khi bị người Do Thái loại trừ ra khỏi đời sống phượng tự của
họ. Ngòai ra các Kitô hữu còn hội họp riêng tại tư gia để cầu nguyện, lắng nghe
các tông đồ giảng dạy và cử hành nghi lễ bẻ bánh; đặc biệt vào ngày thứ
nhất trong tuần, ngày Đức Kitô phục sinh và gọi là ‘ngày của Chúa’ (Chủ
Nhật).
IV.
PHỤNG VỤ CỦA HỘI THÁNH TRONG BỐN THẾ KỶ ĐẦU
Phụng vụ của Hội Thánh trong những thế kỷ đầu chưa có
những quy định bắt buộc vì mỗi Hội Thánh địa phương còn gắn bó với truyền thống
các tông đồ theo những nét độc đáo riêng. Phụng vụ thời này được coi là giai
đoạn ứng khẩu, nghĩa là các giám mục chủ tọa các buổi cử hành phụng vụ có quyền
sáng tác các bản văn và lời kinh phụng vụ, vì vào thời điểm này chưa có các bản
văn chung. Dù là ứng khẩu nhưng các giám mục vẫn theo những truyền thống phụng
vụ sẵn có trong Hội Thánh.Chúng ta có thể đọc thấy những điều đó trong các
nguồn tài liệu sau đây :
-Sách Didaché (cuối thế kỷ I)
“Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha vì cội nho thánh thiện của Đavít, tôi tớ
Cha, mà Cha đã mặc khải cho chúng con qua Đức Giêsu, Tôi Tớ Cha, được vinh hiển
đến muôn đời. Amen. (Didaché 9 : lời tạ ơn trên chén)
-Sách Hộ giáo của thánh Justinô (khỏang
năm 150).
-Sách Truyền thống các tông đồ của thánh Hypôlytô (vào
đầu thế kỷ III).
-Sách Giáo lý của thánh Ambrôsiô (thế
kỷ IV)...
Nói chung các cử hành phụng vụ trong bốn thế kỷ đầu của Hội Thánh không
đồng nhất trong chi tiết nhưng luôn bảo đảm tính tông truyền và sự trong sáng
của đức tin Kitô giáo. Sau khi Hội Thánh Công Giáo được hợp thức hóa trong toàn
đế quốc Rôma, và có các Công đồng chung để minh định đức tin Kitô giáo đã tạo
nên các gia đình phụng vụ.
V.
CÁC GIA ĐÌNH PHỤNG VỤ
Vào thế kỷ V, Hội Thánh có 5 tòa giám mục quan trọng (Tòa
Thượng Phụ) là Rôma, Constantinople, Alexandrie, Antiokia, và
Giêrusalem. Chính những dẫn giải thần học, cộng thêm những ảnh hưởng văn hóa
chính trị đã tạo nên sự độc lập cho các Tòa thượng phụ với những nghi lễ riêng,
gọi là gia đình phụng vụ.
Các gia đình phụng vụ không phải một sớm một chiều hình
thành, song là một quá trình lâu dài, hoặc là kết quả của sự hội tụ nhiều gia
đình phụng vụ khác nhau. Ngày nay,có những Giáo Hội Đông Phương hiệp thông hoàn
toàn với Hội Thánh Công Giáo, song lại theo một gia đình phụng vụ có nguồn gốc
Chính Thống giáo.
1) Nhóm Alexandria :
Có hai nghi lễ chịu ảnh hưởng của gia đình phụng vụ
Alexandria : nghi lễ Cốp (Copte) và nghi lễ Êtiôpi. Đặc tính của hai
nghi lễ này là dùng ngôn ngữ Hy Lạp và Copte (Ai Cập cổ), và chủ trương thần
học độc tính thuyết, nghĩa là Chúa Giêsu chỉ có một bản tính duy nhất.
Ngày nay, những Kitô hữu hiệp thông với Hội Thánh Rôma vẫn cử hành theo nghi lễ
Copte hay Ethiopie bằng tiếng Ả Rập.
2) Nhóm Antiôkia (Syrie):
Antiôkia là một tỉnh lớn của đế quốc Rôma, và một trong
những nơi đầu tiên đón nhận Tin Mừng (Cv 11,26) nên Hội Thánh tại
đây cũng đã có những cử hành phụng vụ riêng biệt, rồi chia thành nhiều nghi lễ
khác nhau: nghi lễ Antiôkia, Cađêen, Byzantin, Armêni ...
VI.
NGHI LỄ TÂY PHƯƠNG
Phụng vụ Tây Phương từ thế kỷ IV đã chuyển dần từ tiếng
Hy Lạp sang tiếng La Tinh, để rồi trở thành ngôn ngữ chính thức của Hội Thánh trong
phụng vụ và các văn kiện Tòa Thánh.
Nghi lễ Rôma mang giá trị truyền thống tông đồ và lan
rộng sang nhiều địa phương. Đặc điểm của nghi lễ Rôma là chỉ có một Kinh nguyện
Thánh Thể cho mọi thánh lễ, dù rằng có nhiều lời tiền tụng thay đổi.
Nghi lễ Ambrôsiô do thánh Ambrôsiô áp dụng nghi lễ Rôma
với ít nhiều thích nghi cho vùng Milan, và nó đã tác động ngược lại trên phụng
vụ Rôma (KNTT I, và kinh Te Deum của Giáo Hội Tây Phương được gán
cho thánh Ambrôsiô).
Nghi lễ xứ Gaule (Bắc Âu) và Mozarabe (Tây
Ban Nha) mượn lại nghi lễ Rôma song có nhiều Kinh Nguyện Thánh Thể, nhiều màu
sắc rực rỡ và hoành tráng.
VII.
GIAI ĐOẠN CANH TÂN
Từ thế kỷ IX đến trước Công đồng Trentô (thế
kỷ XVI), phụng vụ bị pha tạp nhiều yếu tố phụ làm lu mờ các cử
hành chính, xảy ra nhiều lạm dụng, dị đoan, dẫn đến các phong trào cải cách và
phe phái trong Hội Thánh.Công đồng Trentô (1562) đã mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử phụng vụ của Hội Thánh.Công đồng Trentô tái khẳng định
các nghi thức thánh lễ là hợp pháp với hai phần: bàn tiệc Lời Chúa và
bàn tiệc Thánh Thể, chỉ dùng ngôn ngữ La Tinh trong phụng vụ, và cũng trong
thời kỳ này,Hội Thánh có một cuốn sách Giáo lý chung làm nền tảng cho việc huấn
giáo và canh tân phụng vụ. Việc canh tân của Công đồng Trentô đã có ảnh hưởng
trong phụng vụ Rôma và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Công đồng Vatican II đã kế
thừa di sản ấy và tiếp tục đường lối canh tân của Công đồng Trentô.
Hiến chế về Phụng vụ thánh là văn kiện đầu
tiên của công đồng Vatican II (1963) đã mở ra những
hướng đi tích cực, vừa trở về nguồn Thánh Kinh và Truyền Thống, vừa hội nhập
văn hóa để cộng đồng Dân Chúa tham dự một cách chủ động và tích cực như chúng
ta thấy hiện nay.
“Giáo
Hội Mẹ Thánh coi tất cả những nghi lễ đã được chính thức công nhận đều bình
đẳng trên pháp lý và được tôn trọng như nhau, lại muốn các Nghi Lễ ấy được duy
trì trong tương lai và được cổ võ bằng mọi cách. Thánh Công Đồng cũng ước mong,
nơi nào cần, các Nghi lễ ấy phải được cẩn thận tu chỉnh cho toàn vẹn theo tinh
thần truyền thống lành mạnh và được bổ sung một sinh khí mới mẻ hầu phù hợp với
hoàn cảnh và nhu cầu hiện tại.”(PV 3).
TÓM
LƯỢC :
1* H. Tại sao Truyền Thống lại giữ một vai trò quan trọng
trong lịch sử phụng vụ ?
-T. Truyền Thống của Hội Thánh có vai trò quan trọng trong lịch sử phụng
vụ vì nó góp phần bảo tồn và chuyển tải di sản tinh thần và đức tin của Hội
Thánh, và hình thành các bản văn phụng vụ và tuyên tín vì “luật cầu nguyện
là luật đức tin”.
2* H. Người Kitô hữu có quyền sáng tác phụng vụ theo sở thích riêng
không ?
-T. Không ai có quyền sáng tác phụng vụ theo ý riêng mình, kể cả giám
mục, bởi vì phụng vụ không phải là những họat động riêng tư mà là những cử hành
của Hội Thánh; và vì là họat động chung nên phụng vụ phải được quy định rõ ràng
bởi những thẩm quyền chính thức trong Hội Thánh, như Hội Thánh đã từng làm
trong các giai đoạn lich sử của phụng vụ. Ngoài ra,người ta chỉ được phép thích
nghi những chỗ mà chính nghi thức phụng vụ đã nói rõ và cho phép (GL 837; 838/1).
3* H. Ngày nay người tín hữu Công Giáo theo nghi lễ nào của Hội Thánh ?
-T. Người tín hữu Công Giáo chúng ta ngày nay theo nghi lễ Rôma được
điều hành bởi Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí Tích. Ngoài ra có một số Giáo
Hội vẫn hiệp thông hoàn toàn với Hội Thánh Rôma nhưng lại được phép sử dụng
nghi lễ riêng của địa phương.
CẦU NGUYỆN :
Lạy Chúa, xin dạy con vững bước
trong đêm trăng mờ ảo
hay ngày sáng rạng ngời.
Xin dạy con nhìn lên phía trước,
đừng lầm lẫn những gì
của ngày mai với hôm qua.
Xin dạy con cùng Ngài làm nên
ngày mới,
đừng tích tụ hoa tàn nhụy rữa
bên lối cũ đường xưa.
Xin dạy con mở toang những vách
ngăn
thành cánh cổng của một lộ trình
mới.
(ĐHY Roger Etchegaray)