Bài 3 :
BẦU KHÍ PHỤNG VỤ
“Con người, một thụ tạo vừa có thân xác vừa
thiêng liêng, diễn tả và tiếp nhận các thực tại thiêng liêng qua dấu chỉ và
biểu tượng vật chất. Con người có tính xã hội, nên cần dấu chỉ và biểu tượng để
giao tiếp với tha nhân qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động.Trong tương quan với
Thiên Chúa cũng thế. ” (GLHTCG 1146)
Không thể có lễ hội nếu không có nghi thức kèm theo những
dấu chỉ và biểu tượng. Bỏ hết đi những dấu chỉ và biểu tượng, đời sống tôn giáo
sẽ nghèo nàn và tẻ nhạt. Ngược lại, quá chú tâm đến nghi thức mà đánh mất nội
tâm, tôn giáo có nguy cơ biến thành mê tín dị đoan. Khi cử hành phụng vụ, tất
cả con người chúng ta phải tham dự vào việc cử hành, không những tâm tình, trí
tuệ mà tất cả mọi cơ năng của thân xác.
I.CON NGƯỜI CẦN DẤU CHỈ VÀ BIỂU TƯỢNG
Giả như chỉ có lời nói xuông thôi, tình yêu của chúng ta đối với nhau sẽ
như thế nào ? Trong những giờ phút quan trọng nhất của đời người, dù vui hay
buồn, cần phải có những lời nói và cử chỉ kèm theo mới có thể đánh động lòng
người. Trong lãnh vực tôn giáo, thì cử chỉ nghi lễ càng cần thiết để diễn tả
những mầu nhiệm, những gì mà lời nói không thể diễn tả hết ý nghĩa.
Thật vậy, lời nói có khả năng làm cho người ta bùi ngùi cảm động, chạm
tự ái hay bị tổn thương, hoặc trấn an... là vì trong lời nói đó có những ‘dấu
hiệu’ diễn đạt tình mến hay khinh khi... . Hơn nữa, con người có tính xã
hội nên rất cần đến dấu chỉ và biểu tượng để giao tiếp. Tuy không làm nên cuộc
sống, nhưng nghi lễ lại rất cần cho con người vì nó trao ban một ý nghĩa, làm
cho con người trở thành người hơn, như chất keo gắn kết mọi người, vì không có
nghi lễ, con người sẽ chỉ làm việc như con ong cái kiến.
Biểu tượng là những yếu tố vật chất hữu hình mà qua đó người ta
kiến tạo cho nó một ý nghĩa theo tiến trình sau :
- Trước tiên, dấu chỉ phải là một yếu tố hữu hình, ví
dụ: màu sắc, hình ảnh, vật thể...
- Thứ đến, nhờ dấu chỉ hữu hình này mà chúng ta thấy được
một cái khác nó, ví dụ: nhìn khói nghĩ tới lửa, quốc kỳ nghĩ tới tổ quốc...
- Sau cùng, biểu tượng hướng chúng ta đến một ý nghĩa hay
một thực tại ngòai tầm kinh nghiệm cảm giác. Ví dụ : màu đỏ chỉ máu tử đạo,
ngón tay chỉ sức mạnh ...
Tuy nhiên, dấu chỉ nhiều khi cũng có nghĩa tương phản, (nước chỉ sự
sống họăc sự chết), hoặc sự vật tự nó không có nghĩa nhưng do người ta quy
ước, hoặc dấu chỉ biểu tượng cho một ý nghĩa khác nhau tùy theo nền văn hóa hay
địa phương (màu trắng chỉ tang tóc đối với người Việt, còn Tây phương lại
dùng màu đen).
II. THIÊN CHÚA BAN ƠN QUA DẤU CHỈ
Khi Thiên Chúa làm một dấu chỉ nào đó, Người làm theo khả năng hiểu biết
và đón nhận của chúng ta. Bí tích là dấu chỉ nhằm diễn tả một ý nghĩa thiêng
liêng nhưng có thực. Dấu chỉ lớn nhất của Thiên Chúa là việc Người sai Con mình
đến thế gian để mạc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha. Vì thế chúng ta có thể
nói rằng Chúa Kitô là Bí Tích tuyệt hảo nhất diễn tả việc Thiên Chúa gặp gỡ
loài người. Đến lượt Hội Thánh là ‘bí tích’ diễn tả sự hiện diện của
Chúa Kitô ở giữa chúng ta. Trong Hội Thánh, mỗi bí tích là một lời, một dấu
hiệu của ơn cứu độ .
Phụng vụ sử dụng rất nhiều dấu chỉ và biểu tượng để chúng ta nhận biết
hành động của Thiên Chúa và diễn tả thái độ tôn thờ của con người. Dấu chỉ tự
nó không có ý nghĩa, song Hội Thánh mặc cho nó một ý nghĩa, khác với những gì
mà chúng ta thấy. Dấu chỉ được dùng trong các bí tích lại là yếu tố thành sự và
hữu hiệu làm nên bí tích. Các bí tích thường dùng hai loại dấu chỉ : dấu chỉ
bằng lời và dấu chỉ bằng sự vật hay hành động (nước, đặt tay, đọc lời cầu).
Kinh Thánh dùng rất nhiều dấu chỉ và biểu tượng (xức dầu để phong
vương, cầu vồng chỉ Giao Ước). Chúa Giêsu cũng sử dụng dấu chỉ song Ngài
mặc cho nó một ý nghĩa mới (Manna / Bánh Hằng Sống, nước giếng Giacóp / nước
hằng sống...)
Hội Thánh là dấu chỉ (Bí tích)
của Chúa Kitô vì Hội Thánh có nhiệm vụ lưu truyền sứ điệp của Chúa và được ủy
thác trao ban các bí tích cho mọi người. Vì thế,Hội Thánh có sứ mạng tổ chức
phụng vụ và quy định các dấu chỉ và biểu tượng để diễn tả các thực tại thiêng
thánh. Các dấu hiệu có thể thay đổi ý nghiã theo thời gian, môi trường và văn
hóa khác nhau.Hội Thánh dành quyền thích nghi phụng vụ vào các nền văn hóa,
cách cảm nghĩ của mỗi dân tộc, cho giám mục và Hội đồng giám mục. Về phần người
tín hữu, cần tránh lối giải thích dấu chỉ theo trí tưởng tượng cá nhân và cũng
đừng làm theo thói quen máy móc.
“Việc
cử hành thánh lễ, cũng như toàn bộ phụng vụ, được thực hiện qua các dấu chỉ khả
giác, nhờ đó đức tin được nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả. Vì thế, phải hết sức
lo liệu, lựa chọn và sắp xếp các hình thức và các yếu tố Hội Thánh đã đề ra, để
tùy theo hòan cảnh nhân sự và nơi chốn, các hình thức và yếu tố đó giúp đắc lực
hơn cho việc tham dự được tích cực và đầy đủ, đồng thời đáp ứng cách thích hợp
hơn lợi ích thiêng liêng của tín hữu.” (QCTQ 20)
III.
CỬ CHỈ VÀ ĐIỆU BỘ TRONG PHỤNG VỤ
Con người hiện diện bên nhau là nhờ thân xác nên không thể có một phụng
vụ nào ngoài thân xác. Không thể có cử hành phụng vụ mà không có dáng điệu và
cử chỉ. Trước khi có tiếng nói đã có cử chỉ, và ngay cả im lặng cũng là một dấu
chỉ. Cử chỉ có ngôn ngữ riêng. Tâm hồn và thể xác gắn liền nhau nên các cử chỉ
và điệu bộ cũng góp phần rất lớn vào thái độ cung kính của con người đối với
Thiên Chúa.
Có những cử chỉ đi kèm theo lời nói để nêu rõ giá trị của lời nói (đấm
ngực khi đọc kinh Thú Nhận, đặt tay khi cầu nguyện, giơ tay khi chào...).
có những cử chỉ có tính biểu trưng, diễn tả một thực tại thuộc lãnh vực khác (chúc
bình an, linh mục rửa tay sau khi chuẩn bị lễ vật).
Cử chỉ và điệu bộ trong phụng vụ không phải là bộc phát tự do, song đã
được sách phụng vụ quy định rõ ràng :
“Cử
chỉ và điệu bộ thân thể của vị tư tế, phó tế, các thừa tác viên, cũng như của
giáo dân nhằm làm cho toàn bộ cuộc cử hành toát ra vẻ đẹp, sự thanh cao và đơn
sơ, làm cho ý nghĩa thật sự và đầy đủ của các phần khác nhau được nhận thức và
làm cho sự tham dự của mọi người được khuyến khích. Do đó, phải chú ý đến những
gì được quy định bởi luật phụng vụ và thực hành truyền thống của nghi lễ Rôma,
và những gì mang lại lợi ích thiêng liêng chung cho Dân Chúa hơn là ý thích
riêng hay tùy tiện” (QCTQ 42).
Sau đây là một vài điệu bộ liên quan đến toàn thân hoặc từng chi thể
được quy định trong phụng vụ :
- Đứng là tư thế cơ bản của vị chủ tế, và tín hữu để dâng lễ, tiếp đón và chào
mừng. Đứng cũng là dấu chỉ kính trọng, cầu nguyện, tôn vinh và tỉnh thức của
người tín hữu đối với Chúa và với nhau. Trong Kinh Thánh, đứng còn là tư thế
của kẻ sống lại (Kh 7,9; 15,2), của những người vượt qua về miền đất hứa (Xh
12,11), của những con người tự do (Ga 5,1; Ep 6,1-4).
“Tín
hữu đứng : từ đầu ca nhập lễ, hoặc khi vị tư tế tiến tới tiến tới bàn thờ, cho
đến hết lời nguyện nhập lễ; khi hát Alleluia trong Tin Mừng; khi công bố Tin
Mừng; khi đọc kinh Tin Kính và lời nguyện cho mọi người; từ lời mời ‘Anh chị
em hãy cầu nguyện’ trước lời nguyện tiến lễ cho đến hết lễ” (Hội Thánh khuyến
khích quỳ khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể) (QCTQ 43).
- Ngồi là tư thế thỏai mái của con người được phụng vụ áp dụng trong việc lắng
nghe, chiêm niệm và cầu nguyện.
Dáng điệu ngồi rất thíchhợp cho việc các tín hữu lắng nghe các bài đọc
Thánh Kinh, trừ bài Tin Mừng, hát Thánh vịnh đáp ca, khi nghe giảng, lúc chuẩn
bị lễ vật, hoặc sau khi rước lễ (QCTQ 43).
- Quỳ là dấu chỉ của lòng sám hối, tôn thờ và khẩn nài. Thánh Kinh nói nhiều
đến việc quỳ gối cầu nguyện riêng (Cv 7,50; Cv 9,40; 20,30;
Kn 41,43; Et 3,2; Lc 5,8; 22,41)
Trong thánh lễ khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể là lúc phụng vụ khuyên nên
quỳ. “Những người không quỳ khi Truyền Phép thì phải cúi mình sâu khi vị tư
tế quỳ gối sau Truyền Phép” (QCTQ 43).
- Cúi mình, phủ phục chỉ sự kính cẩn, hạ mình trước một ai
đó lớn hơn mình. Đây là cử điệu thông thường của Dân Chúa khi linh mục ban phép
lành. Trong Thánh lễ quy định giáo dân phải cúi mình khi đọc “Bởi phép Chúa
Thánh Thần ... và đã làm người” trong kinh Tin Kính. Khi vào nhà thờ hay cử
hành thánh lễ, thay vì bái gối, người Việt chúng ta bái mình, nghĩa là
cúi mình sâu. Mỗi khi đọc tên Chúa Giêsu, tên Đức Maria và tên vị thánh mừng
kính trong ngày thì vị chủ tế phải cúi đầu chỉ sự tôn kính đặc biệt các
vị ấy (QCTQ 275).
-Bước đi là cử động di chuyển, rời chỗ khi phải thi hành một chức
năng (lên đọc sách thánh, lên rước lễ...).
- Rước kiệu là dấu chỉ sự tôn vinh, hân hoan, cảm tạ, không nhằm sự
khoa trương nhưng là cuộc rước của một cộng đoàn cầu nguyện. Trong Sách lễ Rôma
có nói đến bốn lần rước kèm theo bài hát: rước chủ tế ra bàn thờ qua bài ca
nhập lễ, rước Sách Tin Mừng đầu lễ và trước bài Phúc Âm qua tiền xuớng trước
Phúc Âm, rước của lễ qua ca tiến lễ và đang lúc lên rước lễ qua ca hiệp lễ.
Bài hát cũng sẽ chấm dứt ngay khi việc rước đã hoàn tất.
- Chắp tay, khoanh tay chỉ sự nghiêm trang, kính trọng.
- Đấm ngực chỉ sự khiêm nhường, hối lỗi.
- Dang tay là cử chỉ cầu nguyện ngay từ thời các tông đồ.
- Làm dấu thánh giá bắt nguồn từ nghi thức trừ tà trong việc tiếp nhận dự
tòng, được lập lại trong đời sống thường ngày của Kitô hữu. Đây cũng là dấu chỉ
nhận biết và minh chứng đức tin Kitô giáo. Các tín hữu phải tập ý thức mỗi khi
làm dấu thánh giá với tất cả sự nghiêm trang, kính cẩn vì đó là dấu đức tin và
cứu độ.
- Thinh lặng cũng là một cử chỉ rất quan trọng và cần thiết phải giữ
để tạo bầu khí phụng vụ : im lặng để nghe và im lặng để suy niệm và cầu nguyện.
“Sự
thinh lặng, kể như thành phần của việc cử hành Thánh Lễ, cũng phải được tuân giữ
đúng lúc. Bản chất của sự thinh lặng tùy thuộc vào lúc phải giữ trong Thánh Lễ.
Thật vậy, trong nghi thức sám hối và sau lời mời cầu nguyện, mỗi người hồi tâm
lại; sau bài đọc và bài diễn giảng, mỗi người suy gẫm vắn tắt về những gì đã
nghe; còn sau khi hiệp lễ thì ca ngợi và cầu xin Chúa trong lòng” (QCTQ
45).
-Kêu cầu là cầu nguyện lớn tiếng để tung hô hay van xin, như kinh
Xin Chúa thương xót, kinh Cầu các thánh.
IV.
CÁC YẾU TỐ VẬT CHẤT DÙNG TRONG PHỤNG VỤ
Các vật dụng dùng trong phụng vụ cũng biểu lộ những tâm tình phụng vụ
của người tín hữu :
- Nến và ánh sáng luôn được sử dụng trong các cử hành phụng vụ để nói lên
hình ảnh Đức Kitô là ánh sáng vĩnh cửu không bao giờ tắt : Nến Phục sinh
biểu tượng cho Chúa Kitô; nến được thắp sáng từ nến phục sinh để trao cho tân
tòng ...; nến thắp sáng bàn thờ, nến đi rước, canh thức ...
- Hương lửa biểu trưng cho các lời nguyện như hương trầm tỏa bay
trước tôn nhan Thiên Chúa. Phụng vụ dùng hương lửa cho việc tôn kính các nơi
thờ tự, tượng ảnh thánh, sách Phúc Âm, chủ tế và giáo dân (QCTQ
276).
Thường là xông hương ba lần, mỗi lần hai nhịp. HĐGM Việt Nam trong
thông cáo ngày 14/11/1974 cho phép thi hành và tham dự các nghi lễ thờ cúng
tổ tiên nên tại Việt Nam việc xông hương có thể thay thế bằng việc thắp
nhang, vái nhang hay niệm hương.
- Hoa lá mang ý nghĩa trang trí chỉ sự tôn vinh, niềm vui và tạ
ơn.
- Chén dĩa thánh dùng để đựng Mình Máu thánh Chúa Kitô nên nó phải được
kính trọng trong cách sử dụng và chế tạo đồ thánh. Các khăn thánh phải luôn
được giữ sạch sẽ để nói lên lòng kính trọng.
- Bánh lễ phải là bánh miến không men, rượu lễ phải là rượu nho
tinh tuyền để tôn trọng truyền thống muốn tuân giữ các chất liệu mà xưa kia
Chúa Giêsu đã dùng để biến đổi trở thành Mình Máu Ngài.
- Các sách dùng trong phụng vụ như Sách Thánh, sách lễ, sách nghi
thức phải được Tòa Thánh phê chuẩn, và mọi tín hữu phải có lòng kính cẩn gìn
giữ.
- Dầu thánh phải là dầu ô-liu hay thực vật được làm phép do giám mục
địa phương vào sáng thứ Năm tuần thánh, gồm ba loại: Dầu Thánh
được dùng trước các bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Truyền Chức thánh, hay khi
cung hiến thánh đường, bàn thờ. Dầu dự tòng xức cho dự tòng trước
khi cử hành Bí tích Thánh Tẩy. Dầu bệnh nhân dùng cho Bí tích Xức
dầu bệnh nhân.
- Nước mang nhiều ý nghĩa biểu tượng như sự sống, sự chết, giải
khát, thanh tẩy ... được pha vào rượu nho khi dâng lễ, và đặc biệt trong Bí
tích Thánh Tẩy.
-Lễ phục và màu sắc được dùng phụng vụ cũng nói lên vẻ trang
trọng và ý nghĩa của buổi cử hành. Y phục chung cho mọi thừa tác viên là áo dài
trắng (alba); và theo quy định bất cứ ai xuất hiện trên cung thánh vào
giờ cử hành phụng vụ phải mang áo ốp (alba) này, hoặc áo dòng cộng thêm áo
trắng ngắn (surplis). Phó tế mặc áo dài trắng với dây các phép (stola) đeo chéo từ vai
trái sang hông bên phải. Linh mục mặc áo dài trắng, dây các phép, áo lễ. Lễ
phục màu trắng dùng trong thánh lễ mùa Phục sinh và mùa Giáng Sinh, các lễ kính
Chúa (trừ cuộc Thương Khó), các lễ kính Đức Maria, các thiên thần, các
thánh (trừ thánh tử đạo). Lễ phục màu đỏ dùng trong Chúa Nhật lễ lá, thứ
sáu tuần thánh, lễ Chúa Thánh Thần, lễ các tông đồ và thánh sử, và lễ thánh tử
đạo. Lễ phục màu xanh dùng cho các lễ mùa thường niên. Lễ phục màu tím dùng
trong lễ mùa Chay và mùa Vọng, hoặc trong lễ an táng, cầu hồn. Riêng ở Việt
Nam, lễ phục màu vàng có thể thay cho các màu lễ có tính trang trọng. Lễ phục
màu đen cho lễ an táng, và màu hồng cho Chúa Nhật III mùa Vọng và Chúa Nhật IV
mùa Chay, ít được sử dụng.
V.
PHỤNG VỤ VÀ HỘI NHẬP VĂN HÓA
Con cá sống nhờ nước, con chim sống nhờ bầu trời, song con người không
chỉ cần nước để sống, cần khí để thở mà còn nhờ đến văn hóa. Bất cứ nền văn hóa
nào cũng cần đến dấu chỉ và biểu tượng để nói lên những ý nghĩa và quan niệm về
cuộc sống. Lễ hội và nghi thức tôn giáo luôn phản ánh nền văn hóa dân tộc. Con
Thiên Chúa làm người trên một mảnh đất, cho nên Tin Mừng Ngài rao giảng cũng
mang đậm nét văn hóa một dân tộc. Tin Mừng lại được rao giảng khắp thế giới nên
nó lại cần được bén rễ trong những nền văn hóa khác nhau.
Đó là sứ mạng của Hội Thánh trong việc thích nghi và hội nhập văn hóa :
“Bất cứ những gì trong tập tục, không liên quan mật thiết với dị đoan và
lầm lạc, đều được Hội Thánh mến phục với thiện cảm, và nếu có thể, còn được bảo
tồn trọn vẹn. Hơn nữa, đôi khi những tập tục đó còn được Hội Thánh nhận vào
trong Phụng vụ, miễn sao hòa hợp với những nguyên tắc của tinh thần phụng vụ
đích thực và chân chính” (PV 37)
“Phụng
vụ phải được cử hành phù hợp với đặc tính và văn hóa của các dân tộc. Để mầu
nhiệm của Đức Kitô được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục
Thiên Chúa (x. Rm 16,26),Hội Thánh phải loan báo, cử hành và sống trong tất cả
các nền văn hóa. Mầu nhiệm Đức Kitô không xóa bỏ, nhưng cứu chuộc và kiện toàn
các nền văn hóa. Chính nhờ nền văn hóa riêng được Đức Kitô tiếp nhận và thanh
luyện, đông đảo con cái Thiên Chúa đến được với Chúa Cha để tôn vinh Người
trong cùng một Thánh Thần” (GLHTCG 1204).
TÓM LƯỢC :
1* H.
Dấu chỉ và biểu tượng là gì ?
-T. Dấu
chỉ và biểu tượng là những yếu tố vật chất hữu hình, song người ta lại kiến tạo
cho nó một ý nghĩa mới.
2* H. Tại sao cử chỉ và điệu bộ lại quan trọng trong các cử hành phụng
vụ của Hội Thánh ?
-T. Cử
chỉ và điệu bộ quan trọng vì con người có thân xác và linh hồn nên cần có các
cách diễn tả của thân xác để biểu lộ chiều sâu nội tâm. Hơn nữa, các cử chỉ và
điệu bộ trong phụng vụ đều có ý nghĩa riêng biệt, và khi cùng nhau thể hiện lại
nói lên tính hiệp nhất của cộng đoàn.
3* H. Tính không gian của phụng vụ là gì ?
-T.
Tính không gian của phụng vụ bao gồm nhiều yếu tố như dấu chỉ và biểu tượng, cử
chỉ và điệu bộ, cùng các yếu tố vật chất sẽ tạo nên một bầu khí phụng vụ nghiêm
trang và linh thánh. Vì thế, các dấu chỉ phải có ý nghĩa, cử chỉ và điệu bộ
phải nghiêm túc, các vật dụng và nơi cử hành phải sạch sẽ gọn gàng thì tham dự
phụng vụ mới sốt sắng.
CẦU NGUYỆN :
“Lạy
Chúa,
con chỉ là một viên
gạch tầm thường nằm sát dưới chân tường. Con không được như viên gạch xây cửa,
ở ngay tầm mắt người ta. Con không được như viên gạch mặt tiền,
hãnh diện nhìn người
qua kẻ lại
và sung sướng được
người ta khen đẹp.
Con không được như
viên gạch trong phòng khách,
hàng ngày được người
ta lau chùi đánh bóng.
Con chỉ là một viên
gạch tầm thường nằm sát chân tường.
Nhưng lạy Chúa, con
vui vì chỗ ở của con,
con vui với nhiệm vụ
của con.
Con mừng vì con cũng
có góp phần trong ngôi nhà xinh đẹp này. Không có những người góp phần nhỏ bé,
âm thầm như con thì
bức tường sẽ đổ, ngôi nhà sẽ sập,
và những viên gạch
xinh đẹp kia cũng chẳng còn”.