Bài 11 :
PHỤNG VỤ
HÒA GIẢI
“Đấng giàu lòng từ bi’ giống như người cha trong dụ ngôn, không
đóng lòng lại với bất cứ đứa con nào. Người chờ đợi, tìm kiếm và đến gặp gỡ họ
ở chính nơi mà sự từ chối hiệp thông đã khép chặt họ trong cô lập và phân ly.
Người mời gọi họ tụ họp quanh bàn tiệc với niềm vui của buổi lễ mừng sự tha thứ
và hòa giải” (SH 10)
Khi được Thánh
Tẩy, chúng ta đã trở nên tạo vật mới nhưng bản chất con người vốn yếu đuối
thường hay sa ngã nên cần được phục hồi qua Bí tích Giải Tội (1Cr 6,11; 1Ga 1,8). Các Giáo Phụ coi đây là ‘cái phao thứ hai sau khi
tầu chìm, tức là đánh mất ân sủng’.
Phụng vụ Hòa Giải
là việc linh mục giao hòa hối nhân với Thiên Chúa và Hội Thánh bằng cách tha
tội nhân danh Chúa Giêsu.
I. HIỆU QUẢ CỦA
BÍ TÍCH HÒA GIẢI
- Xưng Tội là để được tha tội nhằm giao hòa với Thiên Chúa
và anh chị em. Tội lỗi nào cũng là một vết thương, một sự cắt đứt mối
giao hảo nối liền chúng ta với Thiên Chúa và anh chị em. Tội trước hết là xúc
phạm tới Thiên Chúa, là đoạn tuyệt với Người, đồng thời cũng làm tổn thương sự
hiệp thông với Hội Thánh. Cao điểm của bí tích này chính là để giao hòa, gặp gỡ
Thiên Chúa và người đồng loại. Được sạch tội là tạo điều kiện cho sự gặp gỡ
thân mật ấy. Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội cho con người, và quyền
ấy cũng được Chúa Kitô chuyển giao cho Hội Thánh để nhân danh Người mà tha tội (Ga
20,21.23). Đây là một trong những chân lý quan trọng nhất của Kitô giáo :
“Không có tội nào nặng đến nỗi
Hội Thánh không thể tha thứ được. ‘Dù có ai gian ác và xấu xa đến đâu… vẫn
có thể tin chắc được tha thứ, miễn là chân thành sám hối’. Đức Kitô, Đấng
đã chết cho mọi người, muốn rằng : mọi cánh cửa tha thứ trong Hội Thánh luôn
rộng mở cho bất cứ ai ăn năn trở lại” (GLHTCG 982).
Những thế kỷ
đầu, Hội Thánh rất ít ban bí tích này và đòi hối nhân phải chịu một hình thức
kỷ luật công khai rất khắt khe. Sang đến thế kỷ VII, với ‘hình thức thống
hối riêng tư ’mở đường cho việc năng nhận Bí tích Giải Tội. Việc tha tội
đặt nền tảng trên hai yếu tố chính là những hành vi thống hối của con người, và
tác động tha thứ của Thiên Chúa qua thừa tác vụ của Hội Thánh.
Linh mục vừa
là đại diện Chúa Kitô, Đấng giải hoà chúng ta với Thiên Chúa; vừa là đại diện
Hội Thánh để tha thứ tội lỗi và đón nhận chúng ta trở lại với cộng đồng. Hối
nhân cần trung thực cởi mở cõi lòng với linh mục, và cũng nên biết rằng mình
đang đối thoại với một tội nhân khác. Linh mục cũng là người, nghĩa là cũng
được Chúa Kitô tha tội như những người khác. Vì thế với đức tin, chúng ta nhìn
nhận linh mục trong toà giải tội như vị đại diện Chúa Kitô, nhưng cũng như một
người anh em và là bạn hữu của các tội nhân.
“Có một số tội nặng đặc biệt, ai
phạm sẽ bị vạ tuyệt thông. Đây là hình phạt nặng nhất theo Giáo Luật, cấm không
cho nhận lãnh các bí tích và hành xử một số tác vụ trong Hội Thánh. Theo Giáo
Luật, chỉ có Đức Giáo Hoàng, Giám mục địa phận hay vị linh mục được ủy quyền,
mới có quyền tha vạ. Trong trường hợp nguy tử, bất cứ linh mục nào, dù không có
năng quyền giải tội, vẫn có thể tha hết các tội và tha mọi vạ tuyệt thông” (GLHTCG 1463)
- Bí tích Giải
tội còn ban ơn trợ giúp hối nhân vượt thắng tội lỗi. Do đó, dù khi chỉ
phạm tội nhẹ, chúng ta cũng cần đến bí tích này để lãnh nhận ơn trợ giúp của
Chúa.
“Bí tích Thống Hối phục hồi
chúng ta trong ơn nghĩa Chúa và liên kết chúng ta với Người trong tình bằng hữu
thắm thiết và cao cả’. Mục đích và hiệu quả của bí tích này là giao hòa hối
nhân với Thiên Chúa. Ai lãnh nhận Bí tích Giao Hòa với lòng thống hối và đạo
đức, lương tâm ‘sẽ bình an thư thái, được an ủi thiêng liêng’. Bí tích Giao Hòa
thực hiện một ‘cuộc phục sinh thiêng liêng’ đích thực, hoàn lại phẩm giá và những
đặc quyền của đời sống con cái Thiên Chúa, nhất là tình bằng hữu với Người” (GLHTCG 1468)
II. DIỄN TIẾN
GIAO HOÀ
- Xét mình là nhìn lại đời sống của mình trong
ba tương quan (3 bổn phận) với Thiên Chúa, với anh chị em đồng loại và
với chính bản thân mình. Không thể giao hòa cùng Thiên Chúa và Hội Thánh mà
trước đó lại không chịu nhìn nhận tội lỗi của mình.
- Lòng thống hối ăn năn rất cần thiết để nhận
được ơn tha tội. Bí tích Giải Tội chỉ có hiệu lực đối với những ai thực tình
thống hối tội lỗi của mình và quyết tâm hối cải những tội mình đã phạm và chiến
đấu chống trả tội lỗi. Thói quen thống hối thường hay đọc kèm kinh Thú Nhận,
kinh Ăn năn tội.
- “Xưng tội” vừa có ý nghĩa nhận biết tình
yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, và đồng thời thú nhận tất cả tội lỗi của
mình. Toà giải tội không phải là diễn đàn để khoe mình, cũng không phải là ‘toà
án’ để tự biện hộ cho mình hay cáo tội người khác. Đơn sơ và khiêm tốn
trình bày những lỗi lầm của mình, cả về số lần phạm tội, để linh mục, thầy
thuốc tâm hồn, có thể khuyên bảo cách thích hợp và hữu ích. Không thể khuyên
bảo cùng một cách cho những người nhiều năm không giữ đạo, giống với những
người vẫn Xưng Tội đều đặn hàng tháng; vì làm như vậy, ơn trở lại của họ bị
giới hạn rất nhiều.
Tác vụ Giải
Tội rất cao trọng đòi hỏi cha giải tội phải tôn trọng và tế nhị đối với người
xưng tội. Nhân danh Chúa Kitô, linh mục đón nhận hối nhân, chuyển đạt cho họ
tình thương của Chúa Cha, và nghe họ thố lộ những bí mật của lương tâm. Giáo
Luật điều 983 $1 buộc nhặt linh mục , khi giải tội, phải giữ kín tuyệt
đối những gì mà hối nhân đã xưng thú. Đây là ‘ấn tín bí tích’, vì tất cả
những gì hối nhân xưng thú đều được bí tích ‘niêm ấn’. Bí mật tòa
giải tội không chấp nhận một luật trừ nào, cho nên ai vi phạm sẽ mắc vạ
nặng nề (GLHTCG 1467).
- ‘Xá giải’ là tháo cởi, giải
thoát tội nhân khỏi những xiềng xích ràng buộc của tội lỗi. Nhờ ơn Thiên Chúa,
xá giải là sự tha thứ trọn vẹn các tội được xưng thú và thiếu sót không cố ý.
Linh mục giơ tay hoặc đặt tay trên đầu hối nhân và đọc lời xá giải (giơ tay
là một cử chỉ biến thể của nghi thức đặt tay vì tha tội cũng là ơn của Thánh
Thần). Hối nhân quỳ hay đứng cúi đầu, im lặng lắng nghe lời xá giải và thưa
: “Amen”, chứ không phải là đọc kinh Ăn năn tội (sám hối là việc phải
làm trước khi vào tòa xưng tội). Lời xá giải là lời cầu khẩn hơn là một án
lệnh.
- Đền tội là tạ ơn lòng thương xót tha thứ của
Thiên Chúa. Tất cả phạm nhân bị toà án phân xử đều phải nhận một hình phạt
tương xứng với tội của họ. Trong Bí tích Giải tội, việc này không nhằm đền tội
đã phạm cho bằng giúp hối nhân tạ ơn và quyết tâm sống cuộc đời mới, giúp cải
thiện tương quan với tha nhân vì ‘tình yêu có thể che lấp mọi tội lỗi’ (1Pr
4,8).
III. NGHI THỨC
GIAO HÒA
Sách nghi thức
Bí tích Hòa Giải có nhiều mẫu nghi thức :
- Nghi thức Giao Hòa từng hối nhân bao gồm cả phần đón tiếp hối nhân, đọc Lời Chúa (hối nhân nghe hoặc
tự đọc), hướng dẫn cầu nguyện, xét mình, xưng tội, lời khuyên của linh mục,
nhận việc đền tội, cầu nguyện xin ơn tha thứ, linh mục xá giải, lời nguyện tạ
ơn trước khi ra về. Nếu có nhiều người lãnh nhận cùng lúc, có thể đọc chung cho
nhiều người, tuy nhiên việc đọc Kinh Thánh này cũng không bắt buộc, và tùy nghi
đơn giản các diễn tiến.
- Nghi thức Giao Hòa nhiều hối nhân nhưng xưng tội và giải tội từng
người để nhấn mạnh tính cộng đoàn vì
sự liên đới trong tội của nhiều người. Tội không chỉ là hành vi cá nhân mà
nhiều khi còn là hệ quả của sự đồng lõa nên cũng cần giúp nhau sám hối.
“Bí tích Giải Tội có thể được cử
hành cộng đoàn : tất cả cùng chuẩn bị xưng tội và cùng nhau cảm tạ vì được ơn
tha thứ. Lúc đó việc xưng tội và giải tội cá nhân được tiến hành trong một cử
hành Lời Chúa, với việc đọc Sách Thánh và diễn giảng, cộng đoàn được hướng dẫn
xét mình ; xin ơn tha thứ, đọc kinh Lạy Cha và cùng tạ ơn. Hình thức này diễn
tả rõ nét hơn tính Hội Thánh của việc thống hối” (GLHTCG 1482).
- Nghi thức Giao Hòa nhiều hối nhân nhưng thú tội và giải
tội chung, còn gọi là Giải Tội tập thể. Trong trường hợp nguy tử hay thật
khẩn thiết về điều kiện thời gian và hoàn cảnh, linh mục có thể cử hành Bí tích
Giải Tội tập thể, nghĩa là xưng tội chung và tha tội chung, nhưng đòi buộc phải
xưng lại những tội trọng khi có dịp xưng tội riêng.
- Nghi thức thống hối cộng đồng mà không Xưng Tội
nhằm gợi lên tinh thần sám hối để dọn mình Xưng Tội vào một dịp thuận tiện
khác.
Sám hối là tâm tình luôn phải có của giới luật mến Chúa
yêu người. Đặc biệt mỗi tối trước khi ngủ nên đọc kinh tối, xét mình và xin Chúa
thứ tha mọi tội lỗi trong tư tưởng, lời nói và hành động.
IV. ÂN XÁ
Ân xá là ơn
Hội Thánh ban nhờ công nghiệp Chúa Giêsu, Đức Maria và các Thánh để tha các
hình phạt tạm do tội gây nên, khi tội đã được tha.
Chúa Kitô là sự
công chính và là ‘Ân Xá’ của chúng ta. Chính Người tha thứ những hình phạt mà
chúng ta xứng đáng gánh chịu. Hội Thánh chuyển ban cho tội nhân thống hối tình
thương của Chúa Kitô và phân phát ‘ân xá’, nghĩa là ơn tha hình phạt tương xứng
với tội đã phạm.
“Giáo lý về ân xá và việc áp
dụng các Ân Xá trong Hội Thánh liên hệ mật thiết với các hiệu quả của Bí tích
Giao Hòa” (GLCG 1471)
1) Hình phạt do tội
:
- Tội nặng làm
cho ta không được thông hiệp với Chúa nên không được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.
Đây là hình phạt đời đời, bởi không được tồn tại trong Chúa thì hư mất đời đời.
Khi lãnh nhận Bí tích Giải Tội, tội trọng được tha, hình phạt đời đời cũng được
tha nhưng vẫn còn phải chịu một phần hình phạt tạm.
- Tội nhẹ cần
được thanh luyện ở này hay đời sau (quen gọi là luyện tội) trước khi được hưởng hạnh phúc bên Chúa. Đây là hình phạt tạm.
- Bí tích Thánh Tẩy hay Giải Tội
tha mọi tội trọng lẫn tội nhẹ, tha hình phạt đời đời nhưng hình phạt tạm vẫn
còn.
Do đó, ân
xá không đương nhiên tha tội (nhất là tội trọng) nhưng chỉ tha
hết mọi hình phạt tạm sau khi tội chúng ta đã được tha.
2) Mầu nhiệm Các
Thánh Thông Công :
- Tiểu xá là ơn tha một phần hình phạt tạm.
- Đại xá (toàn
xá) là ơn tha hết mọi hình phạt
tạm.
Mọi tín hữu
đều có thể hưởng ân xá, hoặc cho mình hoặc chuyển cầu cho những người đã qua
đời (không chuyển cầu cho người khác còn sống). Giáo lý gọi đây là mầu
nhiệm Các Thánh Thông Công, nghĩa là mọi Kitô hữu đều được liên kết và chia sẻ
với nhau cách lạ lùng trong Nhiệm Thể Chúa Kitô.
“Trong mầu nhiệm các thánh thông
công, các tín hữu – những người đã về quê trời, những người còn đền tội nơi
luyện ngục hay những người đang lữ hành trên trần gian này – tất cả liên
kết với nhau trong tình yêu bền vững và chia sẻ với nhau những điều thiện hảo.
Trong sự hiệp thông kỳ diệu này, sự thánh thiện của một người ảnh hưởng trên
người khác vượt xa thiệt hại do tội lỗi của một người có thể gây ra cho người
khác. Vì thế, sự hiệp thông của Dân Thánh giúp cho hối nhân được thanh luyện
nhanh chóng và hữu hiệu hơn” (GLHTCG 1475).
Việc ân xá cho
một tín hữu còn sống được thể hiện qua việc công bố xá giải, song Hội Thánh
không có quyền tài phán trên những người đã qua đời đang luyện tội. Chính vì
thế, Hội Thánh không thể ban trực tiếp qua việc xá giải nhưng gián tiếp qua con
đường ‘cầu thay nguyện giúp’ của các tín hữu còn sống.
3) Thiên Chúa ban ân
xá qua Hội Thánh :
Nhờ quyền cầm
buộc và tháo cởi do Đức Kitô ban, Hội Thánh chuyển cầu cho các Kitô hữu và mở cho
họ kho tàng công phúc của Đức Kitô và các Thánh để Chúa Cha nhân từ tha cho họ
những hình phạt tạm phải chịu vì tội lỗi. Kho tàng công đức này là vô giá và vô
lượng của Chúa Kitô tạo nên, đồng thời cũng bao hàm những lời cầu khẩn và việc
lành của Đức Maria và các thánh.
Quyền Ân Xá
này không được hiểu theo nghĩa rộng của quyền thẩm phán của Hội Thánh ; vì
không phải ai nắm quyền tha tội cũng đều có quyền ban Ân Xá. Trong quyền tha
tội có hàm chứa việc tha hình phạt đời đời, nhưng không chứa đựng quyền tha hết
mọi hình phạt tạm của tội.
Tự bản chất,
Ân Xá không phải là hành động hoàn toàn của ân sủng, nghĩa là không hoàn toàn
nhưng không, song phải có những hành động đối xứng. Vì thế, việc ban phát này
múc từ nguồn kho tàng đền tội của Đức Kitô và các thánh. Chỉ những người đứng
đầu Hội Thánh mới có quyền ban phát kho tàng thiêng liêng này cho các tín hữu,
bởi vì việc ban ân xá không phải là hành động của quyền chức thánh, nhưng là
quyền thẩm phán. Đức Giáo Hoàng là người nắm giữ quyền tối cao trên toàn thể
Hội Thánh nên có quyền tài phán tuyệt đối, không hạn hẹp, trên việc ban Ân Xá.
Như vậy, nguồn
gốc Ân Xá là kho tàng đền tội của Hội Thánh, bao gồm sự đền tội sung mãn của
Chúa Kitô và của các thánh.
4) Điều kiện lãnh
nhận ân xá :
- Phải Xưng Tội và Rước Lễ cùng quyết tâm hoán cải, dứt bén khỏi mọi
tội lỗi, dù là tội nhẹ.
“Theo Giáo Luật khoản 960 và
khoản 720 $1 Giáo Luật các Hội Thánh Đông Phương, thì thông thường phải xưng
tội từng người và xưng đầy đủ; sau khi đã xưng tội xứng đáng và thực thi điều
phải giữ, người tín hữu trong một thời kỳ thích hợp, có thể đón nhận ơn toàn xá
hoặc chỉ cho ai khác, có thể là mỗi ngày, mà không buộc phải xưng tội lại. Tuy
nhiên, người tín hữu cần năng lãnh nhận ơn Bí tích Hòa Giải, để tiến tới trong
việc hoán cải và thanh luyện tâm hồn. Trái lại, vào đúng ngày thực hiện ngoài
điều nói trên, nên lãnh Bí tích Thánh Thể – đây là điều cần thiết cho mỗi lần
lãnh ơn toàn xá” (Sắc lệnh đính kèm Tông sắc Mầu nhiệm Nhập Thể của Tòa Xá
Giải ngày 29/11/1998).
Trong điều
kiện thứ nhất này, khó khăn không phải là Xưng Tội vì chỉ xưng tội 1 lần có
thể lãnh nhiều đại xá trong nhiều ngày; không phải là Rước Lễ vì Sắc lệnh trên
cũng vẫn chỉ khuyên nên Rước Lễ trong chính ngày làm việc chỉ định có lãnh ân
xá; nhưng khó khăn là buộc loại trừ mọi quyến luyến tội lỗi, dù là tội nhẹ.
- Phải cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.
Cầu nguyện
theo ý Đức Giáo Hoàng được kể là đủ khi đọc 1 Kinh Lạy Cha chỉ theo ý Đức Giáo
Hoàng. Cũng có thể đọc bất cứ kinh nào tùy theo lòng hiếu thảo của mình đối với
Đức Giáo Hoàng.
- Phải làm những việc mà Hội Thánh dạy để được hưởng ân xá.
* Ân Xá gắn
liền với việc viếng Nhà thờ : vào ngày lễ Bổn Mạng hay ngày Cung Hiến của
nhà thờ Giáo Xứ, và ngày 2/8 là ngày có ân xá “Portiunculae”. Trong Năm
Thánh, viếng nhà thờ Chánh Tòa và các nhà thờ được chỉ định trong Giáo Phận
được lãnh ơn Toàn Xá.
* Ân Xá gắn
liền với việc đọc một kinh nào đó được chỉ định ban Tiểu Xá hay Đại Xá. Ví
dụ: Kinh Thánh Tâm đọc ngày lễ Thánh Tâm; kinh dâng loài người cho Chúa
Giêsu trong ngày lễ Kitô Vua.
* Ân Xá gắn
liền với việc viếng một nơi nào đó, ví dụ : viếng nghĩa Trang (1/11 – 8/11), Đất Thánh..., được Đại Xá trong ngày chỉ định và được Tiểu Xá bất cứ
ngày nào.
* Ngoài ra
còn nhiều dịp, nhiều việc khác nữa như : Phép Lành của tân linh mục, Phép
lành ban cho bệnh nhân lâm tử ...
Nếu không hội
đủ một trong những điều kiện trên thì chỉ được hưởng ơn tiểu xá.
Bằng việc ban
phát các ân xá, Hội Thánh muốn khuyến khích và thúc giục các tín hữu siêng năng
cầu nguyện, hy sinh hãm mình, và thực thi các việc bác ái, để rồi tất cả sẽ
được tham dự vào sự sung mãn vinh quang của Chúa Kitô trong sự hiệp thông của
toàn thể các thánh.
V. MỤC VỤ GIÁO LÝ
1* Xưng Tội để trở
lại :
Một người sống xa Thiên
Chúa, chìm sâu trong tội, nay được ơn thánh lay động, ý thức được tình tạng xấu
xa của mình và tin tưởng vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, quyết định trở
lại với Ngài để sống một cuộc đời mới.
Tội nặng làm đổ vỡ
tương quan với Thiên Chúa và mọi người, còn tội nhẹ không hoàn toàn xa cách
Thiên Chúa, nhưng việc Xưng Tội cũng cần thiết để thanh tẩy người tín hữu nên
hoàn thiện hơn trong việc gặp gỡ Chúa, để chỗi dậy bước theo Chúa.
Xưng Tội không phải
chỉ để được tha tội mà chủ đích là giao hòa để nối lại tương quan với Chúa và
Hội Thánh một cách tốt đẹp và thân tình như trước khi chưa phạm tội.
2* Giúp Xưng Tội như
thế nào cho có hiệu quả ?
Giáo lý viên cần
giúp cho các em ý thức Xưng Tội không thể làm cho qua lần chiếu lệ, cũng không
phải là máy móc cho xong bổn phận tín hữu, nhưng là thực tâm hoán cải. Đi Xưng
Tội mà chỉ xưng trống : “Con là kẻ có tội” hay đại khái : “Tội gì con
cũng có” mà không kể tội ra, thì việc Xưng Tội chẳng mang lại ơn ích, chẳng
mang lại hoán cải. Xưng như vậy thì cần gì phải xưng vì khách quan ai mà chẳng
biết. Mỗi bí tích là một hành vi nhất định được thực hiện vào một thời điểm
nhất định trong cuộc đời, tương ứng với một trạng huống tâm hồn lúc đó. Vì thế
cần phải minh họa thân phận tội lỗi của mình bằng những hành vi tội lỗi thực sự
đã làm. Bác sĩ không thể cho thuốc nếu không chắc chắn được cơn bệnh. Lời
khuyên của linh mục giải tội quá khuôn sáo và nhạt nhẽo thì làm sao có thể đưa
tội nhân ra khỏi con đường cũ.
Một số những tội
nặng đã xưng nay tuy không còn nữa về trách nhiệm luân lý nhưng nếu còn để lại
dấu vết tâm lý và có thể là nguyên nhân gây nên tội nhẹ thường phạm, thì cũng
nên xưng lại.
3* Trình bày bí tích
Hòa Giải :
Cũng là một Bí tích Hòa Giải nhưng cũng phải tùy theo đối tượng học sinh
để trình bày ý nghĩa của bí tích. Trình bày giáo lý cho một đứa trẻ mới Xưng
Tội vỡ lòng khác với một người trở lại sau một quãng đời tội lỗi. Không thể đặt
đứa bé vào tâm trạng của một kẻ tội lỗi kếch xù, song chỉ cần cho đứa trẻ thấy
Bí tích Hòa Giải là một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa Giêsu, và qua cuộc gặp
gỡ ấy làm cho mình cố gắng hơn, nên tốt hơn.
Trình bày không
thích hợp có thể làm cho nhiều người sợ hãi hoặc tránh né Xưng Tội, nhất là
những người khô đạo hoặc đạo đức nhưng lại hay bối rối.
TÓM LƯỢC :
1* H. Phụng vụ
Hòa Giải là gì ?
-T. Phụng vụ Hòa Giải là
việc linh mục giao hòa hối nhân với Thiên Chúa và Hội Thánh bằng cách tha tội
nhân danh Chúa Giêsu.
2* H. Bí tích
Hòa Giải mang lại cho ta những ơn ích gì ?
-T. Bí tích Hòa Giải mang
lại cho ta ơn tha tội và ơn trợ giúp để ta sống tốt lành thánh thiện và tránh
tội.
3* H. Muốn Xưng Tội ta phải làm những sự gì ?
-T. Muốn Xưng Tội ta phải làm bốn việc này: một là xét mình, hai là ăn
năn tội, ba là xưng tội, bốn là đền tội.
4* H. Đâu là dấu chỉ thiết yếu của Bí tích Hòa Giải ?
-T. Dấu chỉ thiết yếu của Bí tích Hòa Giải là việc sám hối của tội nhân (gồm 4 bước: xét
mình, ăn năn tội, xưng tội và đền tội ), và lời xá giải của linh mục.
5* H. Ân xá là gì ?
-T. Ân xá là ơn Hội Thánh ban nhờ công
nghiệp Chúa Giêsu, Đức Maria và các Thánh để tha các hình phạt tạm do tội gây
nên, khi tội đã được tha.
6* H. Muốn được hưởng ân xá ta phải làm gì ?
-T. Muốn được hưởng Ân xá, ta phải làm ba việc này :
. một là phải Xưng Tội và Rước Lễ cùng quyết tâm dứt
bén khỏi mọi tội lỗi;
. hai là phải cầu nguyện theo ý Đức giáo hòang;
. ba là phải làm những việc mà Hội Thánh quy định
để lãnh nhận ân xá.
CẦU NGUYỆN :
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con
không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với
các tội nhân, chờ Gioan làm phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng
con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của
mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ
thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. (Abba
63)