ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KITÔ
(II)
MƯỜI ĐIỀU RĂN
DẪN NHẬP
(x. SGLHTCG 2052-2074)
1. MƯỜI ĐIỀU
RĂN
Đạo Đức Chúa Trời có Mười Điều răn
Thứ nhất, thờ phượng một Đức Chúa
Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
Thứ hai, chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ.
Thứ ba, giữ ngày Chúa Nhật.
Thứ bốn, thảo kính cha mẹ.
Thứ năm, chớ giết người.
Thứ sáu, chớ làm sự dâm dục.
Thứ bảy, chớ lấy của người.
Thứ tám, chớ làm chứng dối.
Thứ chín, chớ muốn vợ chồng người.
Thứ mười, chớ tham của người.
2. MƯỜI ĐIỀU
RĂN TRONG THÁNH KINH
v Ý nghĩa của Mười Điều Răn:
Mười Điều Răn có nghĩa là “Mười
lời” (Xh 34,28; Đnl 4,13;10,4), tóm tắt Lề Luật do Thiên Chúa ban cho dân
Israel trong bối cảnh của Giao ước qua trung gian ông Môisen. Khi trình bày các
giới răn về tình yêu đối với Thiên Chúa (ba giới răn đầu) và đối với tha nhân
(bảy giới răn sau), Mười Điều Răn vạch ra cho dân Chúa và từng người con đường
dẫn đến cuộc sống được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Những lời này được lưu truyền cho
chúng ta trong sách Xuất Hành và sách Đệ Nhị Luật.
Ø Xuất
Hành 20,2-17
“Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời
cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước, phía dưới mặt đất, để mà thờ.
Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì
Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ
ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những
ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn
đời.
Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Ngài một cách bất
xứng.
Ngươi hãy nhớ ngày Sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu
ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là
ngày Sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm
công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc va
ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên
trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Ngài đã nghỉ ngày thứ bảy.
Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sabát và coi đó là ngày thánh.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham
muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người
ta”.
Ø Đệ Nhị Luật 5,6-21
“Ta là Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi
đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời
cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước, phía dưới mặt đất, để mà thờ.
Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì
Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ
ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những
ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn
đời.
Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Ngài một cách bất
xứng.
Ngươi hãy giữ ngày Sabát, mà coi đó là ngày thánh, như Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao
động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sabát kính Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả
ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc và ngoại
kiều ở trong thành của ngươi, để tôi tớ nam nữ được nghỉ ngơi như ngươi. Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ
tại đất Ai Cập, và Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy
quyền đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi dã truyền
cho ngươi cử hành ngày Sabát.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu và để được hạnh phúc trên đất mà
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng dối hại người.
Ngươi không được ham muốn vợ người
ta, ngươi không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con
bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”.
v Liên hệ giữa Mười Điều Răn và
Giao ước
Mười Điều Răn phải được hiểu dưới
ánh sáng của Giao ước; trong ánh sáng đó, Thiên Chúa tự mạc khải và cho biết ý
muốn của Ngài. Bằng việc tuân giữ các giới răn, dân Chúa muốn nói lên sự lệ
thuộc của mình vào Thiên Chúa và đáp lại sáng kiến yêu thương của Ngài với lòng
biết ơn, cộng tác vào dự định của Thiên Chúa đang theo đuổi trong lịch sử.
3. MƯỜI ĐIỀU
RĂN VỚI CHÚA GIÊSU
Để trả lời câu hỏi của người thanh
niên: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?”,
Chúa Giêsu trả lời: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn”,
rồi Người thêm: “Hãy đến theo Tôi” (Mt 19,16-21). Như vậy, việc theo
Chúa Giêsu bao gồm cả việc tuân giữ các điều răn. Lề luật không bị phá bỏ, nhưng
con người được mời gọi tìm lại Lề luật nơi con người của Thầy minh,Đấng thực
thi trọn vẹn Lề luật,và chứng nhận tính trường tồn của Lề luật.
Để kiện
toàn Lề luật, Chúa giải thích Lề luật dưới ánh sáng của giới răn yêu thương duy
nhất nhưng có hai vế: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là
điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải
yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisen và các sách tiên tri đều
tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40). Như thế, Mười Điều Răn phải
được giải thích dưới ánh sáng của điều răn, tuy hai nhưng là một, là đức mến, đó
là sự viên mãn của Lề luật.
4. MƯỜI ĐIỀU RĂN TRONG TRUYỀN THỐNG HỘI THÁNH
Trung thành với Sách Thánh và theo
gương Chúa Giêsu, Truyền thống Hội
Thánh nhìn nhận Mười Điều Răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu. Người Kitô
hữu buộc phải tuân giữ Mười Điều Răn. Công đồng Triđentinô dạy rằng: “Các Kitô
hữu buộc phải giữ Mười Điều Răn”. Công đồng Vaticanô cũng khẳng định: “Các Giám
mục vì là những vị kế nhiệm các Tông Đồ, nhận từ nơi Chúa … sứ vụ dạy dỗ muôn
dân và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, để mọi người được cứu độ nhờ đức
tin, Phép Rửa và việc chu toàn các Điều Răn” (LG 24).
5. TÍNH THỐNG
NHẤT CỦA MƯỜI ĐIỀU RĂN
Mười Điều Răn tạo thành một thể
thống nhất và không thể phân chia vì mỗi giới răn đều liên kết với các giới răn
khác và với toàn thể Mười Điều Răn. Vì vậy, vi phạm một giới răn là vi phạm tất cả các điều răn khác. Không thể tôn
trọng người khác mà không chúc tụng Chúa, Đấng Tạo Hóa của họ. Không thể tôn
thờ Thiên Chúa mà không yêu thương tất cả mọi người là thụ tạo của Ngài. Mười
Điều Răn thống nhất đời sống đối thần với đời sống xã hội của con người.
6. TÍNH BẮT
BUỘC CỦA MƯỜI ĐIỀU RĂN
Vì nêu lên những trách nhiệm căn
bản của con người đối với Thiên Chúa
và đối với người khác, Mười Điều Răn, trong nội dung chính yếu của nó, mạc khải
những nghĩa vụ quan trọng. Mười Điều Răn, một cách căn bản, là bất biến và có
giá trị bắt buộc mọi lúc va mọi nơi. Không ai có thể miễn chuẩn Mười Điều Răn, đã
được Thiên Chúa khắc ghi trong trái tim con người.
Để giúp chúng ta tuân giữ Mười
Điều Răn, Chúa Giêsu, Đấng mà không có Người, chúng ta không thể làm được việc
gì, ban cho chúng ta khả năng tuân giữ nhờ hồng ân Thánh Thần và ân sủng của Người.
CHƯƠNG
MỘT
NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA
THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI HẾT LÒNG,
HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI
Chúa Giêsu tóm tắt các bổn phận
của con người đối với Thiên Chúa bằng giới răn này: “Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt
22,37). Đây là âm vang trực tiếp của lời hiệu triệu long trọng: “Nghe đây, hỡi
Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6,4).
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta
trước. Tình yêu của Thiên Chúa duy nhất được nhắc đến trong lời thứ nhất của
“Mười Lời”. Các điều răn sau đó giải thích câu trả lời của tình yêu mà con
người được kêu gọi để đáp lại Thiên chúa.
BÀI MỘT
ĐIỀU RĂN
THỨ NHẤT
TA
LÀ ĐỨC CHÚA
THIÊN
CHÚA CỦA NGƯƠI
NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC CÓ THẦN NÀO KHÁC
(Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi
sự)
(x. SGLHTCG 2038 – 2141)
“Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi
đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với
Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trời cao, cũng như dưới
đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ
phục trước những thứ đó mà phụng thờ” (Xh 20,2-5).
“Đã có
lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ
phượng một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10).
I. CHÍNH ĐỨC CHÚA,
THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, LÀ ĐẤNG NGƯƠI PHẢI PHỤNG THỜ; CHÍNH NGÀI LÀ ĐẤNG NGƯƠI
PHẢI PHỤNG SỰ.
Khi thực hiện
công cuộc giải phóng dân, Thiên Chúa đã mạc khải quyền năng và lòng nhân hậu cho dân
được chọn: “Ta đã đưa các ngươi ra khỏi
Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ” (Đnl 5,6). Vì thế, Israel thuộc về Chúa, là dân
của Chúa nên phải tôn thờ một mình Ngài (x. Đnl 6,13-14).
Khi
Thiên Chúa mạc khải vinh quang của Ngài cho dân Israel, Ngài cũng mạc khải về
chính con người và ơn gọi của họ,để họ phải cư xử thế nào cho phù hợp với Thiên
Chúa, Đấng đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như Ngài. Con người
phải thờ phượng Thiên Chúa, và chỉ thờ phượng một mình Ngài mới là phải đạo: “Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa, là Chúa của
ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Lc 4,8).
Thờ
phượng Thiên Chúa là nhìn nhận sự hư vô bất lực của mình, nên phải lệ thuộc
hoàn toàn vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu chuộc duy nhất. Thờ phượng
Thiên Chúa là làm như Mẹ Maria: ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa, chấp nhận thân
phận hèn mọn với lòng tri ân và cảm tạ xưng tụng những kỳ công tuyệt vời của
Chúa (x. Lc1,46-55). Thờ phượng Thiên Chúa như vậy là thể hiện lòng tin, cậy, mến
đối với Thiên Chúa. Như thế, điều răn thứ nhất bao gồm đức tin, đức cậy và đức mến.
1. Đức tin
Đời sống luân lý của chúng ta bắt
nguồn từ đức tin vào Thiên Chúa, Đấng mặc khải tình yêu của Ngài cho chúng ta. Vì
thế, bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là tin vào Ngài và làm chứng về
Ngài. Theo Thánh Phaolô, chính sự không nhận biết Thiên Chúa là nguyên nhân và
lời giải thích cho mọi lệch lạc luân lý (x.Rm 1,18-32).
Cho nên điều răn thứ nhất đòi hỏi
ta phải giữ gìn, nuôi dưỡng đức tin và phải loại bỏ tất cả những gì nghịch với
đức tin. Sau đây là những tội nghịch với đức tin:
a. Nghi ngờ:
Ø
Cố tình nghi ngờ những chân lý đức tin: là sự thờ ơ hay
không nhìn nhận những điều Thiên Chúa đã mạc khải và Hội Thánh dạy phải tin.
Ø
Vô tình nghi ngờ các chân lý đức tin: là sự do dự khi tin, là sự khó khăn khi vượt qua những vấn
nạn về đức tin. Điều này có thể làm cho tâm trí bị mù quáng.
b. Vô tín: cố
chấp coi thường hay không tin những lời Chúa và Hội Thánh dạy. Có những hình thức
vô tín sau đây:
Ø
Lạc giáo: ngoan cố chối
bỏ một chân lý phải tin hoặc ngoan cố hồ nghi về chân lý ấy sau khi đã lãnh
nhận Bí tích Rửa Tội.
Ø
Bội giáo: chối bỏ toàn
bộ đức tin Kitô giáo.
Ø
Ly giáo: từ chối vâng
phục Đức Giáo Hoàng hay từ chối hiệp thông với các chi thể của Hội Thánh thuộc
quyền Đức Giáo Hoàng.
2. Đức cậy
Được Thiên Chúa
kêu gọi tới hưởng phần phúc đời đời, con người, tự sức mình, không thể đáp trả
tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa mà phải cậy trông vào sự trợ giúp của Ngài. Đức
cậy là lòng mong đợi đầy tin tưởng được Thiên Chúa chúc lành và được vinh phúc
hưởng kiến Thiên Chúa.
Sau đây là những tội nghịch với đức cậy:
a. Ngã lòng: không
còn hi vọng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa để mình được cứu độ, không còn hi
vọng ơn tha thứ các tội lỗi của mình.
b. Tự phụ: Có
hai loại tự phụ:
Ø
Tự phụ vào sức riêng của mình: quá tin vào khả năng của mình mà không cần ơn Chúa trợ giúp.
Ø
Ỷ lại vào lòng thương xót của Chúa: nghĩ rằng chắc chắn mình được Chúa cứu độ mà không cần hối
cải, không cần lập công.
3. Đức mến
Điều răn thứ nhất dạy ta phải yêu
mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến mọi thụ tạo vì Ngài và nhờ Ngài. Sau đây là những tội nghịch với đức
mến :
Ø
Lãnh đạm: không lưu tâm đến tình yêu củaThiên Chúa.
Ø
Vô ơn: không đáp lại tình yêu
của Thiên Chúa.
Ø
Nguội
lạnh: do dự hay thờ ơ trong việc đáp trả
tình yêu của Thiên Chúa.
Ø
Lười biếng: coi thường, khinh chê mọi lợi ích
thiêng liêng.
Ø Căm ghét
Thiên Chúa: do kiêu ngạo
chống lại tình yêu của Thiên Chúa, phủ nhận sự tốt lành của Ngài, cố ý nguyền
rủa Thiên Chúa, Đấng cấm các tội lỗi và đặt ra các hình phạt.
II. NGÖÔI PHAÛI THÔØ PHÖÔÏNG MOÄT MÌNH NGAØI MAØ THOÂI
Các nhân đức đối thần “tin, cậy, mến”
định hình và đem lại sức sống cho các nhân đức luân lý. Đức mến làm cho chúng
ta trả lại cho Thiên Chúa những điều chúng ta mắc nợ Ngài theo đức công bằng. Nhân
đức thờ phượng giúp chúng ta sống tâm tình này.
1. Thờ lạy
Hành vi đầu tiên
của nhân đức thờ phượng là thờ lạy.Thờ lạy Thiên Chúa là nhận biết Ngài là
Thiên Chúa, là Đấng sáng tạo và cứu chuộc, là Chúa tể mọi loài, là tình yêu vô
biên và giầu lòng thương xót. Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối quy
phục Ngài vì biết tính hư vô của thụ tạo, biết sự hiện hữu của chúng ta hoàn
toàn nằm trong tay Ngài.
2. Cầu nguyện
Các hành vi tin cậy mến mà điều răn
thứ nhất truyền dạy được chu toàn trong kinh nguyện, tức là tỏ bày tâm tình thờ
lạy, chúc tụng, cảm tạ, ăn năn và cầu xin. Cầu nguyện là hơi thở của sự sống
siêu nhiên.
3. Hy lễ
Để tỏ lòng tôn
kính, thờ lạy, khẩn cầu và hiệp thông với Thiên Chúa, người ta dâng lên Ngài
những hy lễ. Hy lễ bên ngoài cần đi đôi với tâm tình bên trong. Chỉ có hy lễ mà
Chúa Giêsu dâng trên bàn thờ Thập giá mới là lễ tế đẹp lòng Thiên Chúa. Hy lễ
của chúng ta cần hiệp với hy lễ của Người.
4. Các lời hứa và lời khấn
a. Các lời hứa: người
ta có thể hứa với Thiên Chúa làm những điều lành. Có những lời hứa với Thiên
Chúa được bao hàm khi chịu Bí tích Rửa tội, Thêm sức, Hôn phối và Truyền Chức
Thánh. Ngoài ra, do lòng sùng kính, người Kitô hữu có thể hứa với Chúa để làm
việc này việc kia. Lời hứa này bày tỏ lòng yêu mến đối với Thiên Chúa, và tin
tưởng Ngài là Đấng toàn năng và trung thành.
b. Lời khấn: Lời
khấn là một hành vi của lòng sùng đạo. Khấn là tự hiến cho Thiên Chúa hoặc là
tự nguyện và ý thức hứa với Thiên Chúa sẽ làm một điều tốt lành nào đó. Hội
Thánh vốn công nhận giá trị gương mẫu của những lời khấn sống theo các lời
khuyên Phúc Âm của các tu sĩ nam nữ. Trong một số trường hợp, Hội Thánh có thể
miễn chuẩn những lời khấn và lời hứa vì những lý do tương xứng. Lời khấn thuộc về
đức thờ phượng và buộc phải tuân giữ (x.Giáo Luật điều 1191,1)..
5. Bổn phận xã hội về tôn
giáo
Người Kitô hữu không chỉ có bổn
phận tôn thờ Thiên Chúa mà còn phải “cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm
nhuần não trạng, phong tục, luật lệ
và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống” (TĐ
13). Bổn phận xã hội của người Kitô hữu là tôn trọng và khơi dạy nơi mỗi con
người lòng yêu mến điều chân thật, cái tốt lành. Người Kitô hữu được mời gọi
trở thành ánh sáng thế gian.
III. NHỮNG TỘI NGHỊCH VỚI ĐIỀU
RĂN THỨ NHẤT
Điều
răn thứ nhất cấm không được tôn thờ thần linh nào khác ngoài Đức Chúa là Thiên
Chúa duy nhất. Sau đây là các tội nghịch với điều răn thứ nhất:
1. Mê tín, dị đoan: là lệch lạc trong tâm tình tôn giáo và trong cách thể hiện
tâm tình ấy như tôn kính những vật hoặc làm những việc không được Giáo Hội nhìn
nhận.
2. Thờ ngẫu tượng: là tôn thờ bất cứ tạo vật nào thay thế Thiên Chúa như thờ ma quỷ, vật tổ, sông núi, khoái lạc, tiền bạc …Nói chung, thờ ngẫu tượng là người
“gán ý niệm bất diệt về Thiên Chúa cho bất cứ thứ gì không phải là Thiên Chúa”
(GLHTCG 2114)
3. Bói toán và ma thuật
a. Bói toán: là
cậy nhờ ma quỷ hay cách thế nào khác để biết được tương lai, những điều bí
nhiệm. Vì thế, việc coi tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải mộng, xin xăm, bói
toán, đồng bóng là nghịch với sự cung kính và tôn trọng mà chúng ta phải dành
cho một mình Thiên Chúa mà thôi.
b. Ma thuật: Các thực hành ma thuật hay pháp
thuật mà người ta muốn dùng để chế ngự các bí ẩn, bắt chúng phục vụ mình và nắm
được quyền lực siêu phàm trên người khác, dù là để chữa bệnh,nhất là có ý làm
hại người khác, đều nghịch với nhân đức thờ phượng cách nghiêm trọng
4. Hành động thử thách Thiên
Chúa: Dùng lời nói hoặc việc làm để thử
sự tốt lành và sự
toàn năng của Thiên Chúa. Thử thách Thiên Chúa luôn hàm chứa thái độ hoài nghi về
tình yêu của Ngài, sự quan phòng và quyền năng của Ngài .
5. Phạm thánh: là xúc phạm đến các bí tích hay đồ vật, người hoặc nơi đã
được thánh hiến cho Thiên Chúa.
6. Mại thánh: là mua hay bán những thực tại thiêng liêng bằng tiền bạc.
IV. NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC
LÀM CHO MÌNH BẤT CỨ HÌNH TƯỢNG NÀO VỀ THIÊN CHÚA
Trong
Cựu Ước, giới răn này cấm
trình bày Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối siêu việt, bằng bất cứ hình thức nào. Nhưng khởi từ mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa, việc
tôn kính ảnh tượng thánh của người Kitô hữu được xác nhận (qua Công Đồng Nicêa
II năm 787) vì việc tôn kính này được đặt trên mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm
người, qua đó, Thiên Chúa siêu việt trở nên hữu hình. Do đó, việc tôn kính ảnh
tượng: Đức Kitô, Đức Trinh nữ Maria, các thiên thần và các thánh không nghịch với giới răn thứ nhất. Vì khi tôn kính ảnh tượng, ta không
tôn kính chính ảnh tượng,mà là tôn kính chính Đấng có hình ảnh đó. Lời cầu
nguyện khi làm phép ảnh diễn tả tâm tình phải có: “Lạy Chúa, Chúa không chê bác việc tạc vẽ tượng ảnh của các Thánh Chúa, để
mỗi lần con mắt thể xác chúng con chiêm ngưỡng ảnh tượng đó, thì con mắt ký ức
cũng suy niệm hành vi và đời sống thánh thiện của các Đấng mà bắt chước”. Như
thế, việc tôn kính ảnh tượng trở thành phương thế giúp cầu nguyện, sống mầu
nhiệm hiệp thông các Thánh và huấn luyện đời sống đức tin.
BÀI HAI
ĐIỀU RĂN
THỨ HAI
NGƯƠI
KHÔNG ĐƯỢC
KÊU TÊN CHÚA CÁCH BẤT XỨNG
(Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ)
(x. SGLHTCG 2142 – 2167)
“Ngươi không được dùng danh Chúa,Thiên Chúa của ngươi một
cách bất xứng”(Xh 20,7).
“Anh em nghe luật dạy người xưa rằng:Chớ bội thề … còn Thầy, Thầy
bảo cho anh em biết:đừng thề chi cả” (Mt 5,33-34)
Điều
răn thứ hai dạy ta phải tôn kính Danh Chúa vì Danh Chúa là Thánh. Người ta chỉ
được dùng Danh Thánh Chúa để kêu cầu, chúc tụng ngợi khen và tôn vinh Thiên
Chúa. Người ta cũng phải tôn kính những gì thuộc về Chúa như vậy.
I. DANH CHÚA LÀ THÁNH
Khi
mạc khải Danh Thánh cho con người, Thiên Chúa mạc khải chính bản thân thánh
thiện siêu việt của Ngài. Danh Ngài là Thánh (x.Lc 1,49) như chính Thiên Chúa
là Đấng Thánh. Người tín hữu phải tôn kính Danh Thánh Chúa và làm chứng cho
Danh Chúa bằng cách tuyên xưng đức tin của mình mà không sợ sệt.
II.
NHỮNG TỘI NGHỊCH VỚI ĐIỀU RĂN THỨ HAI
Sau
đây là những lời nói, hành vi nghịch với Điều răn thứ hai:
1. Lạm dụng Danh Thiên Chúa: là việc kêu đến Danh Thiên Chúa để làm chứng cho một tội ác.
2. Không giữ những điều đã
hứa: Khi nhân danh Chúa mà thề hứa điều
gì thì ta phải giữ những lời hứa ấy. Không giữ những lời hứa đó là lạm dụng
Danh Thiên Chúa, và một cách nào đó, làm cho Thiên Chúa thành kẻ nói dối.
3. Nói phạm thượng hay lộng
ngôn: Nói phạm thượng hay lộng ngôn là
trực tiếp vi phạm điều răn thứ hai. Tội này cốt tại việc nói những lời căm
ghét, than trách, thách đố trong lòng hay ngoài miệng. Luật cấm nói phạm thượng
cũng cấm nói những lời nghịch với Hội Thánh của Đức Kitô, các thánh, những sự
thánh, nhất là khi nại đến Danh Thiên Chúa để che đậy những hành vi tội ác.Nói
phạm thượng, tự bản chất, là một tội nghiêm trọng.
4. Kêu tên Chúa vô cớ dù không có ý phạm thượng cũng là thiếu tôn kính đối với Chúa
5. Thề gian: Khi người ta nại đến Thiên Chúa, Đấng là chính Chân lý, để
làm chứng cho một lời nói dối.
6. Bội thề: Bội thề khi đưa ra một lời hứa kèm theo một lời thề nhưng
không có ý tuân giữ hay sau khi đã dùng lời thề để hứa lại không giữ lời hứa. Đó
là một tội trọng phạm đến Thiên Chúa vì Ngài là Đấng luôn trung tín với những
lời Ngài đã hứa.
III.
DANH HIỆU KITÔ HỮU (TÊN THÁNH)
Bí tích Rửa tội được ban “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Trong Bí tích
Rửa tội, Danh Chúa thánh hóa con người, và Kitô hữu nhận được một tên riêng
trong Hội Thánh.Tên này có thể là tên của một vị thánh nào đó, nghĩa là của một
môn đệ đã sống đời trung thành mẫu mực với Chúa. Nhận một vị Thánh làm bổn mạng
là cố gắng bắt chước göông maãu tốt
lành của vị Thánh và được bảo đảm vị Thánh chuyển cầu cho trước mặt Chúa.
Mỗi khi bắt đầu
ngày sống,khởi đầu cầu nguyện và làm việc, người Kitô hữu làm dấu Thánh Giá:
“Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen”. Người đã chịu Phép Rửa dâng trọn
ngày mình sống để tôn vinh Thiên Chúa và kêu cầu Đấng Cứu Độ ban ân sủng giúp
họ hành động trong Thần Khi như một người con của Chúa Cha.Dấu Thánh Giá làm
cho chúng ta nên mạnh mẽ trong các cơn cám dỗ và trong những lúc khó khăn.
BÀI BA
ĐIỀU RĂN
THỨ BA
NGƯƠI
PHẢI THÁNH HÓA
NGÀY
CỦA ĐỨC CHÚA
(Giữ ngày Chúa Nhật)
(x. SGLHTCG 2168 – 2195)
“Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu
ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là
ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm
công việc nào”(Xh 20,8-10)
“Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con
người vì ngày sabát. Bởi đó, con người làm chủ luôn cả ngày sabát” (Mc 2,27-28)
Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa Nhật
và các ngày lễ buộc khác bằng việc tham dự Thánh lễ, tránh mọi hoạt động làm
ngăn trở việc thờ phượng Chúa, cũng như việc nghỉ ngơi cần thiết cho tinh thần
và thể xác.
I. NGÀY SABÁT
“Trong
sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là ngày sabát, một ngày nghỉ
hoàn toàn dâng Đức Chúa”(Xh 31,15). Đối với dân Israel, ngày sabát là
ngày thánh hiến cho Thiên Chúa. Ngày đó nhắc lại
công trình sáng tạo của Thiên Chúa (x.Xh 20,11) và tưởng nhớ công cuộc giải
phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập (x. Đnl 5,15). Như vậy, dân được chọn phải tuân giữ ngày
sabát như dấu chỉ của giao ước vững bền. Ngày sabát không những dành để ca tụng
công trình sáng tạo và giải phóng mà còn là ngày nghỉ ngơi của dân Chúa theo
mẫu gương của chính Thiên Chúa, “vì trong sáu ngày Đức Chúa đã dựng nên trời
đất, nhưng ngày thứ bảy, Ngài đã ngưng các việc và nghỉ ngơi” (Xh 31,17). Đức Giêsu đã
nhiều lần giải thích ý nghĩa đúng đắn của ngày sabát, cũng như việc tuân giữ
ngày đó theo ý định của Thiên Chúa (x.Mc 2,27-28;3,4).
II. NGÀY CHÚA NHẬT
Người Kitô hữu
thay thế ngày sabát bằng ngày Chúa nhật vì ngày Chúa nhật là ngày phục sinh của
Đức Kitô. Là “ngày thứ nhất trong tuần” (Mc
16,2) ngày Chúa nhật gợi lại cuộc sáng tạo lần thứ nhất; là “ngày thứ tám” tiếp
sau ngày sabát, ngày Chúa nhật biểu trưng một cuộc sáng tạo mới được khởi đầu
bằng cuộc phục sinh của Đức Kitô. Như thế, đối với các Kitô hữu, ngày Chúa nhật
trở thành ngày thứ nhất của mọi ngày và của tất cả mọi ngày lễ: ngày của Chúa; trong ngày này, nhờ cuộc
Vượt qua, Đức Kitô hoàn tất ý nghĩa thiêng
liêng ngày sabát của người Do thái và loan báo sự an nghỉ đời đời của con người
trong Thiên Chúa. “Những người sống trong
trật tự cũ của vạn vật, đã đi tới một niềm hy vọng mới: họ không giữ ngày sabát
nữa, nhưng họ giữ ngày Chúa nhật, là ngày mà cuộc đời của chúng ta được chúc
phúc bởi Chúa và bởi sự chết của Người” (Thánh Inhaxiô Antiôkia).
III. THÁNH LỄ CHÚA NHẬT
Ngay
từ thời các Tông Đồ, Chúa nhật là ngày tập họp các tín hữu để cử hành Thánh
Thể. “Chúa nhật là ngày mà theo Truyền
thống Tông Đồ, mầu nhiệm Phục sinh vẫn được cử hành, sẽ phải giữ trong toàn thể
Hội Thánh, như ngày lễ buộc chính yếu” (GL 1246). Tất cả các tín hữu trong
cộng đoàn Giáo xứ họp nhau cử hành Thánh Lễ Chúa nhật chung quanh linh mục được
Đức Giám Mục ủy quyền. Chính tại cộng đoàn Giáo xứ mà sinh hoạt Phụng vụ, việc
dạy Giáo lý và các công tác từ thiện được hình thành và phát triển.
IV. THÁNH HÓA NGÀY CHÚA NHẬT
1. Tham dự
Thánh Lễ: “Các tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ ngày
Chúa nhật và các ngày lễ buộc khác” (GL 1247), vì toàn bộ đời sống người
Kitô hữu được đặt nền tảng trên sự chết và sự sống lại của Chúa. Khi dự Thánh lễ Chúa nhật, người tín
hữu:
v Biểu lộ sự
gắn bó và lòng trung thành của mình với Đức Kitô và Hội Thánh.
v Bày tỏ sự
hiệp thông đức tin và đức mến đối với Chúa và với nhau.
v Làm chứng
cho sự thánh thiện của Thiên Chúa và niềm hy vọng của mình vào ơn cứu độ.
v Làm cho
nhau nên vững mạnh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Ngoài ngày Chúa nhật, người
tín hữu còn phải giữ những ngày Lễ trọng sau: Lễ Chúa Giáng sinh, lễ Hiển linh,
Lễ Chúa Lên trời, Lễ Mình Máu Chúa, lễ Mẹ Thiên Chúa, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, lễ
Đức Mẹ Lên trời, lễ Thánh Giuse, lễ Thánh Phêrô và Phaolô, lễ Các Thánh (GL
1246).
2. Nghỉ
việc xác: Ngày Chúa
nhật và các ngày lễ buộc khác, các
tín hữu còn phải kiêng làm việc xác và những công việc gây trở ngại cho việc
thờ phượng Thiên Chúa, cho niềm vui riêng trong ngày của Chúa, cũng như việc
nghỉ ngơi cần thiết cho tinh thần và thể xác.
Tuy
nhiên, trong ngày Chúa nhật, các Kitô hữu có thể làm những việc liên quan đến
nhu cầu của gia đình hay lợi ích lớn lao của xã hội, với điều kiện những hoạt
động này không tạo thành những thói quen có hại cho việc thánh hóa ngày Chúa
nhật, cho cuộc sống gia đình hay cho sức khỏe.
Người
tín hữu phải nêu gương công khai về cầu nguyện, thờ phượng và sống vui tươi
trong ngày của Chúa và bảo vệ truyền thống nghỉ ngơi ngày Chúa nhật, lễ trọng
như một đóng góp quý báu cho đời sống tinh thần của nhân loại.
CHƯƠNG
HAI
“NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG
NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH”
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
(Ga 13,34).
“Ngươi phải yêu thương người lân cận
như chính mình” (Mc 12,31).
“Ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật
thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không
được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác đều tóm lại
trong lời này: ‘Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình’. Đã yêu thương,
thì không làm hại đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm
13,8-10).
Để trả lời câu hỏi về điều răn trọng nhất, Chúa Giêsu nói: “Điều răn đứng đầu là: ‘Nghe đây, hỡi Israel,
Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất; ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực
ngươi’; điều răn thứ hai là: ‘Ngươi phải yêu mến người lân cận như chính mình’.
Chẳng có điều răn nào lớn hơn các điều răm đó”(Mc 12,29-31).
Thánh
Phaolô cũng nhắc điều này: “Ai yêu người
ta thì đã chu toàn Lề Luật. Thật vậy, các điều răn như: Ngươi không được ngoại
tình, không được giết người, không được trộm cắp, cũng như các điều răn khác
đều tóm lại trong lời này: ‘Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình’. Đã
yêu thương, thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm
13,8-10).
BÀI BỐN
ĐIỀU RĂN
THỨ TƯ
NGƯƠI
HÃY THẢO KÍNH CHA MẸ
(Thảo kính cha mẹ)
(x. SGLHTCG 2197 – 2257)
“Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu trên đất mà Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).
“Người hằng vâng phục các ngài”(Lc 2,51).
“Ai
yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8). Tình yêu ấy trước hết phải dành cho tổ
tiên, ông bà, cha mẹ là những người có công sinh thành dưỡng dục ta. Vì thế, điều
răn thứ tư mở đầu cho bảy điều răn về yêu người đã dạy: phải thảo kính cha mẹ, nghĩa
là phải tôn kính và chăm sóc cha mẹ
và những ai được
Thiên Chúa trao ban quyền hành để mưu ích cho chúng ta. Đây cũng là đòi hỏi rất phù hợp với truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam. Khi gia đình thực sự là cộng đồng tình yêu và sự sống, gia
đình sẽ đóng góp rất nhiều cho việc xây dựng xã hội an bình, hạnh phúc.
I. GIA ĐÌNH TRONG KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA
1. Bản
chất của gia đình
Người nam và người nữ kết hợp với nhau qua hôn nhân, cùng với con cái tạo thành một gia đình. Thiên Chúa đã thiết lập gia đình và đặt nền tảng căn
bản cho gia đình. Hôn nhân và gia đình được sắp
xếp hướng về thiện ích của đôi vợ chồng, về việc sinh sản và giáo dục con cái. Giữa
các thành viên trong gia đình có những mối liên hệ cá nhân và những trách nhiệm
hàng đầu.
2. Gia đình Kitô giáo
Gia đình
Kitô giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh, vì
lẽ đó, gia đình trở thành một Hội Thánh
tại gia, là một cộng đoàn đức tin, đức cậy, đức mến.
Gia
đình Kitô giáo còn là sự hiệp thông giữa các nhân vị, là dấu vết và hình ảnh
của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Thực vậy, việc
sinh sản và giáo dục con cái trong gia đình Kitô giáo phản ánh công trình sáng
tạo của Chúa Cha, và gia đình Kitô giáo được mời gọi để tham dự việc cầu nguyện
và hiến tế của Chúa Kitô.
Gia
đình Kitô giáo cũng là một cộng đồng ưu việt được kêu gọi để thực hiện một kế
hoạch chung của đôi phối ngẫu và sự cộng tác chu đáo của cha mẹ trong việc giáo
dục con cái (x. MV 52).
II. GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
1. Vai trò của gia đình
trong xã hội
Gia
đình là tế bào nguyên thủy của xã hội loài người. Các nguyên tắc và giá trị của
gia đình tạo nền tảng cho đời sống xã hội. Đời sống gia đình là khởi điểm của
đời sống xã hội.
Vì
thế, gia đình phải sống sao để mọi thành phần biết quan tâm lo lắng cho người
trẻ cũng như người già, người đau yếu hay khuyết tật, và cả những người nghèo
trong gia đình mình. Như thế, đời sống gia đình thực sự là cuộc khai tâm vào
đời sống xã hội.
2. Trách nhiệm của xã hội đối với gia đình
Vì gia đình có tầm quan trọng đối
với sự sống và sự lành mạnh của xã hội (x.MV 47), nên xã hội có trách nhiệm đặc
biệt nâng đỡ, củng cố hôn nhân và gia đình. Xã hội phải có những biện pháp
thích đáng để giúp đỡ và bảo vệ gia đình. Các cộng đồng lớn không được xâm phạm quyền lợi hoặc can thiệp vào
nội bộ các gia đình. Trái lại, xã hội phải “bổ
trợ” cho gia đình. Chính quyền có trách nhiệm phải tôn trọng, bảo vệ và cổ
võ bản chất đích thực của hôn nhân và gia đình, đạo đức chung, các quyền của
cha mẹ và sự thịnh vượng của các gia đình (x. MV 52).
III. BỔN PHẬN CỦA CÁC PHẦN TỬ
TRONG GIA ĐÌNH
1. Bổn phận của con cái
a. Với
cha mẹ
Vì ơn nghĩa sinh thành mà con cái
dù lờn hay nhỏ đều phải hiếu thảo với cha mẹ. Đó là lệnh truyền của Thiên Chúa
(Xh 20,12).
Ø
Hiếu thảo trước hết là biết ơn những người đã
sinh thành dưỡng dục. Sách Huấn Ca viết: “Hãy
hết lòng tôn kính cha con,và đừng quên những đau khổ của mẹ con. Hãy nhớ rằng
các ngài đã sinh ra con, con sẽ làm gì để đền đáp ơn nghĩa?” (Hc 7,27-28).
Ø
Hiếu thảo là vâng lời: “Con
ơi, hãy giữ lấy lời cha truyền, đừng quên lời mẹ dạy. Những lời đó sẽ hướng dẫn
khi con đi, bảo vệ khi con nghỉ, dạy dỗ khi con thức” (Cn 6,20-22).
Ø Hiếu thảo là giúp đỡ cha mẹ: khi đã khôn lớn, con
cái có trách nhiệm giúp đỡ cha
mẹ cả vật chất lẫn tinh thần, lúc bệnh tật già yếu hay lúc cô đơn buồn phiền.
b. Với
anh chị em và bà con họ hàng
Điều răn thứ bốn còn dạy ta phải có
tương quan tốt đẹp với anh chị em ruột trong gia đình, với bà con,anh em họ
hàng. Nhờ những tương quan tốt đẹp này, con cái góp phần làm tăng thêm sự hòa
thuận và thánh thiện của toàn bộ đời sống gia đình.
Ngoài ra, vì là người Kitô hữu, chúng
ta còn phải biết ơn đặc biệt những người đã giúp mình lãnh nhận đức tin, được
sống trong Hội Thánh như giáo sĩ, tu sĩ, giáo lý viên, thầy cô, bạn hữu …
2. Bổn phận của cha mẹ
Cha mẹ đã sinh thành thì phải dưỡng
dục con cái về mọi mặt: nhân bản cũng như đức tin. “Vai trò cha mẹ trong việc giáo dục con cái thật là quan trọng đến nỗi hầu như không ai thay thế được” (GĐ 3). Không những cha mẹ có
quyền mà còn có bổn phận giáo dục con cái và cha mẹ là người có trách nhiệm đầu
tiên trong việc giáo dục (x. GĐ 36). Thật vậy, vì được
tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa, cha mẹ là những người đầu tiên có trách
nhiệm giáo dục con cái, và cũng là những người đầu tiên giáo dục đức tin cho
con cái.
Họ có nhiệm vụ yêu thương và tôn
trọng con cái, là những nhân vị và con cái của Thiên Chúa; họ có nhiệm vụ cung cấp cho con cái, theo hết khả
năng của mình, những nhu cầu vật chất và tinh thần, chọn cho chúng những trường
học thích hợp, và với những lời khuyên nhủ khôn ngoan, giúp chúng chọn lựa nghề
nghiệp hay bậc sống.
Đặc biệt, cha mẹ có sứ vụ giáo dục
đức tin Kitô giáo cho con cái. Phương thế mà các bậc cha mẹ sử dụng để giáo dục
đức tin cho con cái chủ yếu là gương sáng, kinh nguyện, dạy giáo lý trong gia
đình và tham dự vào đời sống Hội Thánh.
Tuy nhiên, các mối liên hệ trong gia đình, dù rất quan trọng,
nhưng không phải là tuyệt đối, bởi vì ơn gọi tiên quyết của người Kitô hữu là
bước theo Đức Kitô bằng cách yêu mến Người: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không đáng làm môn đệ Thầy. Ai yêu con
trai,con gái mình hơn Thầy thì không đáng làm môn đệ Thầy” (Mt 10,37). Cha
mẹ phải vui mừng giúp đỡ con cái bước theo Chúa Giêsu trong tất cả các bậc
sống, kể cả trong đời sống thánh hiến hay thừa tác vụ linh mục.
IV. QUYỀN BÍNH TRONG XÃ HỘI
Bản Toát Yếu Sách Giáo Lý của Hội Thánh
Công Giáo viết: “Quyền bính phải được
thực thi như một sự phục vụ, nhờ tôn trọng các quyền lợi căn bản của con người
bậc thang giá trị đúng đắn, các luật lệ, sự công bằng phân phối và nguyên lý hỗ
trợ. Khi thực thi quyền hành, mỗi người phải tìm lợi ích cho tập thể chứ không
phải cho bản thân. Các quyết định của họ phải dựa trên chân lý về Thiên Chúa, về
con người và về thế giới.
Công dân
phải coi cấp trên như những người đại diện Thiên Chúa, góp phần cộng tác cách
chính trực với họ để đời sống công cộng và xã hội được hoạt động tốt đẹp. Điều
này bao gồm cả tình yêu và việc phục vụ tổ quốc, quyền lợi và bổn phận bầu cử, đóng
thuế, bảo vệ tổ quốc và quyền phê phán mang tính xây dựng.
Tuy
nhiên, “theo lương tâm,người công dân không phải vâng phục những mệnh lệnh khi
chúng đi ngược lại các đòi hỏi của trật tự luân lý” (câu 463-465).
V. ĐIỀU RĂN IV VÀ ĐẠO HIẾU CỦA
CON NGƯỜI VIỆT NAM
1. Điều răn thứ tư mở đầu cho bảy điều răn về yêu người và là
một trong các nền tảng của học thuyết xã hội của Hội Thánh. Điều răn này đòi
hỏi phải thảo kính cha mẹ. Hơn thế nữa, điều răn này còn soi sáng cho các mối liên
hệ khác trong gia đình và xã hội, giúp mọi người nhận ra anh chị em ruột thịt
hay họ hàng là con cái của cha mẹ, chú bác, cô dì …, nhận ra mọi đồng bào đều
là con của tổ quốc, nhận ra những người đã được Rửa tội đều là con cái của mẹ
Hội Thánh, và mỗi người đều là con của Đấng muốn mọi người gọi Ngài là Cha. Vì
thế, người thân cận ta không phải chỉ là một cá thể xa lạ trong tập thể loài
người, nhưng là một người đáng để ta đặc biệt quan tâm và kính trọng (x.
SGLHTCG 2212).
2. Người Kitô hữu Việt Nam sống trong
lòng dân tộc đã có sẵn truyền thống rất tốt đẹp để sống với nhau trong gia đình, ngoài xã
hội và đối với cả trời đất. Đạo Hiếu Việt Nam dạy:
“Uống nước nhớ nguồn.
Làm con phải hiếu
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho
tròn chữ yếu mới là đạo con”.
Nghĩa là phải phụng dưỡng cha mẹ lúc còn sống cũng như khi đã
qua đời (sự sinh như sự tử), là chăm lo săn sóc lúc cha mẹ già yếu;và sau khi
chết phải lo an táng, lễ giỗ, lập bàn thờ, xây đắp mộ, nhang đèn để tỏ lóng báo
hiếu. Đối với thầy cô thì dù được một chữ hay nửa chữ cũng không quên ơn thầy
(nhất tự vi sư, bán tự vi sư)… Đó là những vốn quý của dân tộc mà người Kitô
hữu Việt Nam phải trân trọng và Phúc Âm hóa, theo gương Đức Kitô. Đức Kitô là
mô hình tuyệt hảo về lòng hiếu thảo với Cha trên trời: “Xin theo ý Cha , đừng theo ý Con” (Mt 26,39), với cha mẹ dưới đất:
“Người hằng vâng phục các ngài” (Lc
2,52). Người cũng là mô hình tuyệt hảo cho những ai có trách nhiệm trên người
khác, vì Người là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các môn đệ (x.Ga 13,14). Người
Kitô hữu Việt Nam phải phát huy truyền thống Đạo Hiếu của dân tộc, như chỉ thị
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam để xóa đi những thành kiến của nhiều người cho
rằng theo Đạo Thiên Chúa là bỏ ông bà (x. Thông cáo của HĐGMVN năm 1965).
BÀI NĂM
ĐIỀU RĂN
THỨ NĂM
NGƯƠI
KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI
(Chớ giết người)
(x. SGLHTCG 2258-2330)
“Ngươi sẽ không phạm tội giết người” (Xh 20,13).
“Anh em
đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa
ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo anh em biết, ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra
tòa” (Mt 5,21-22)
Điều răn thứ năm dạy phải tôn trọng sự sống con người,sự
sống toàn vẹn và trong mọi chiều kích.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo viết: “Sự sống con người
phải được coi là linh
thánh, vì từ lúc khởi
đầu của mình, sự sống đó ‘đòi phải có
hành động của Đấng Tạo Hóa’ và mãi mãi được liên kết một cách đặc biệt với Đấng
Tạo Hóa, là cùng đích duy nhất của mình. Chỉ có Thiên Chúa là Chúa của sự sống
từ khi sự sống khởi đầu cho tới khi kết thúc: không ai, trong bất cứ hoàn cảnh
nào, có thể dành cho mình quyền trực tiếp đem cái chết đến cho một thụ tạo nhân
linh vô tội” (2258).
I. TÔN TRỌNG SỰ SỐNG CON NGƯỜI
Sự
sống của con người là điều linh thánh. Thật vậy, ngay từ khởi đầu, sự sống đã
do Thiên Chúa sáng tạo và sự sống mãi mãi nằm trong một liên hệ đặc biệt với
Đấng Sáng Tạo, là cùng đích duy nhất của minh. Không ai được phép trực tiếp hủy
hoại một con người vô tội, vì điều này đối nghịch cách nghiêm trọng với phẩm
giá và với sự thánh thiện của Đấng Sáng Tạo. Trình
thuật Cain giết em là Abel cho thấy, ngay từ đầu lịch sử loài người đã có cảnh
máu đổ do huynh đệ tương tàn. Cựu Ước luôn coi máu như dấu hiệu linh thánh của
sự sống (x. Lv 17,14) và xác định rằng: “Ngươi không được giết
người vô tội cũng như người công chính” (Xh 23,7). Giáo lý này vẫn luôn là điều cần thiết cho mọi
thời đại (x. SGLHTCG 2260).
Chúa
Giêsu đã nhắc lại giới răn này: “Ngươi không được giết người” (Mt 5,21) và
còn thêm rằng: “không được giận ghét hoặc oán thù” (Mt 5,22). Người còn đòi môn đệ “nếu bị vả má phải, thì giơ luôn má trái nữa” (Mt 5,39)
và “phải yêu cả kẻ thù” (Mt 5,44). Chính Người cũng đã không tự vệ khi
bị bắt trói và còn bảo ông Phêrô “cất
gươm vào vỏ” (Mt 26,52).
II. TỰ VỆ HỢP PHÁP
Yêu
mến bản thân là một nguyên tắc căn bản của luân lý. Vì vậy, làm thế nào để
quyền được sống của chính mình được tôn trọng là điều hợp pháp. “Nếu vì bảo vệ sự
sống của mình thì không mắc tội giết người, mặc dù có giáng một đòn chí tử vào
kẻ tấn công” (SGLHTCG 2264).
Đối
với những người có trách nhiệm về mạng sống của người khác, việc bảo vệ hợp
pháp không những là một quyền mà còn là một nhiệm vụ quan trọng.
Tuy
nhiên, trong mọi trường hợp, không được sử dụng bạo lực vượt quá những gì cần
thiết.
III.
NHỮNG TỘI NGHỊCH VỚI ĐIỀU RĂN THỨ NĂM
Điều răn thứ năm cấm những
hành vi trái ngược cách nghiêm trọng với luật luân lý:
1. Tội giết người có chủ ý
Điều răn thứ năm coi việc giết
người cách trực tiếp và có chủ ý là một trọng tội. Kẻ sát nhân và người cộng
tác một cách có chủ ý đều phạm tội trọng.
Ta cũng không được phép giết người
cách gián tiếp như đưa người ta vào chỗ nguy hiểm hay từ chối giúp đỡ khi người
ta lâm nguy.
2. Phá thai
Sự sống con người, ngay từ lúc
tượng thai, phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối (x. SGLHTCG 2270).
Ngay từ thế kỷ thứ I, Hội Thánh đã
khẳng định rằng mọi cuộc cố tình phá thai là trái với luân lý. Giáo huấn này
vẫn không hề thay đổi. Người phá thai và người cộng tác vào việc phá thai là
một trọng tội. Hội Thánh đã ra vạ tuyệt thông cho người phạm tội phá thai (GL
1398).
3. Làm chết êm dịu
Trực tiếp làm cho những người tật
nguyền, ốm đau hoặc hấp hối được chết êm dịu là không thể chấp nhận được về mặt
luân lý, dù với bất cứ lý do hay phương tiện nào, vì nghịch với phẩm giá con
người và xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Nếu ngưng dùng các loại thuốc
quá đắt đỏ vượt quá khả năng tài chánh của mình, nguy hiểm, quá khác thường
hoặc không xứng với kết quả mong muốn, và do đó đương sự phải chết, thì hợp
pháp. Lý do vì không phải muốn làm người đó chết, nhưng chỉ là chấp nhận không
thể ngăn cản được sự chết. Tuy nhiên,việc này phải được chính bệnh nhân hay
người hưởng quyền trước pháp luật quyết định.
4. Tự sát
Tự sát và chủ ý cộng tác vào việc
tự sát là một xúc phạm nghiêm trọng đến tình yêu chính đáng đối với Thiên Chúa,
đối với chính mình và đối với tha nhân. Về phần trách nhiệm, tội tự sát có thể
nghiêm trọng hơn khi gây gương xấu, nhưng cũng có thể giảm thiểu vì những rối
loạn tâm lý đặc biệt hoặc vì những sợ hãi trầm trọng.
IV. TÔN TRỌNG PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
Điều
răn thứ năm không chỉ ngưng lại ở những cấm đoán, nhưng còn mời gọi tôn trong
sự sống cách tích cực và toàn diện.
1. Tôn trọng linh hồn tha
nhân: gương xấu
Gương xấu hệ tại ở việc dẫn người
khác đến chỗ phạm tội. Người ta phải loại bỏ gương xấu vì tôn trọng linh hồn và
thể xác con người. Nếu ai cố ý dẫn dắt người khác phạm một điều xấu nặng nề, thì
chính người dẫn dắt đã phạm một tội nghiêm trọng.
2. Tôn trọng sức khỏe
Chúng ta phải
chăm sóc sức khỏe thân xác của mình và của tha nhân cách hợp lý, nhưng phải
tránh xa việc tôn thờ thân xác và mọi thứ thái quá. Ngoài ra, còn phải tránh sử dụng ma túy, vì nó gây nên sự hủy hoại trầm
trọng cho sức khỏe và đời sống con người, cũng phải tránh sự lạm dụng các thứ
như thực phẩm, rượu, thuốc hút và các thứ thuốc men.
3. Tôn trọng con người và
nghiên cứu khoa học
Những nghiên cứu khoa học, y học
hay tâm lý học về con người hoặc về các nhóm người, có thể giúp chữa trị bệnh
tật và thăng tiến sức khỏe của mọi người. Tuy nhiên, về mặt luân lý, các thí
nghiệm ấy là hợp pháp nếu chúng phục vụ cho lợi ích toàn vẹn thể lý hay tâm lý
của các cá nhân và xã hội, mà không gây ra những rủi ro không cân xứng cho sự
sống và sự toàn vẹn thể lý hay tâm lý của các cá nhân; những người nhận thí
nghiệm phải được thông báo trước và đã ưng thuận.
Còn về việc ghép các bộ phận cơ
thể, về mặt luân lý, có thể được chấp nhận với sự ưng thuận của người cho và
không gây nguy hiểm quá đáng cho người đó. Hiến tặng các bộ phận sau khi chết
là một hành vi cao quý, nhưng trước khi lấy các bộ phận đó, phải xác định người
hiến tặng chắc chắn đã chết.
4. Tôn trọng sự toàn vẹn của
thân thể
Phải tôn trọng sự toàn vẹn thể lý
của con người. Những vụ bắt cóc, bắt người làm con tin, khủng bố, tra tấn, bạo
lực, trực tiếp làm người ta vô sinh là đối nghịch với sự tôn trọng sự toàn vẹn
của thân thể. Việc cắt bỏ một phần thân thể của một người chỉ được chấp nhận về
mặt luân lý nếu mục đích là để chữa bệnh
cho chính người đó.
5. Tôn trọng người chết
a. Với người hấp hối: Những
người hấp hối có quyền được sống xứng đáng với phẩm giá vào giây phút cuối cùng
của đời sống trần thế, nhất là được nâng đỡ bằng lời cầu nguyện và các Bí tích,
giúp họ chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống.
b. Với người quá cố: Thân xác người quá cố phải được đối xử với lòng
tôn trọng và bác ái. Hội Thánh cho phép hỏa táng, nếu việc này không biểu lộ sự
hoài nghi về đức tin vào sự phục sinh của thân xác (x.GL 1176,3).
V. BẢO VỆ HÒA BÌNH
1. Hòa bình
Khi nhắc lại điều răn: “Chớ
giết người”(Mt 5,21), Chúa Giêsu đòi chúng ta phải có sự bình an trong tâm
hồn và kết án thái độ giận dữ, tức là muốn báo thù vì điều xấu đã phải gánh
chịu, và lòng thù ghét, nghĩa là ao ước điều xấu cho tha nhân. Những thái độ
này, nếu cố ý và ưng theo trong những vấn đề rất quan trọng, đều là những trọng
tội nghịch với đức bác ái.
Ngoài
ra, sự tôn trọng và sự phát triển đời sống con người đòi phải có hòa bình. Thật
vậy, hòa bình trên thế giới cần thiết để đời sống con người được tôn trọng và
phát triển. “Hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh hay là sự cân
bằng các thế lực đối lập, nhưng là sự ổn định trật tự” (MV78). Hòa bình
trên thế giới còn là sự phân phối cách công bằng và bảo vệ tài sản của con
người, sự tôn trọng phẩm giá con người và các dân tộc, sự kiên trì thực hiện
công bằng và tình huynh đệ. Hòa bình trần thế là hình ảnh và hoa trái bình an
của Đức Kitô.
2. Tránh chiến tranh
Mỗi người đều buộc phải hành động
để tránh chiến tranh.Tuy nhiên, “bao lâu
nguy cơ chiến tranh tồn tại, bao lâu chưa có quyền bính quốc tế nào có thẩm
quyền và có đủ sức mạnh, thì một khi đã tận dụng mọi phương thế dàn xếp ôn hòa,
các chính phủ có thể được phép sử dụng quyền tự vệ hợp pháp” (MV 79).
Để có thể thi hành quyền tự vệ
chính đáng bằng quân sự, xét về mặt luân lý cần phải hội đủ các điều kiện sau
đây:
a. Những thiệt hại do bên gây hấn gây
ra cho quốc gia và cộng đồng các quốc gia phải lâu dài, nặng nề và chắc chắn.
b. Tất cả các giải pháp hòa bình
đều thất bại
c.
Phải hội đủ các điều kiện quan trọng để thành công
d. Việc
sử dụng vũ khí không kéo theo những tai hại và hỗn loạn nghiêm trọng hơn tai
hại ta đang cố gắng loại trừ (x. SGLHTCG 2309).
Trong trường hợp phải tiến hành
chiến tranh tự vệ, chính quyền có quyền và bổn phận áp đặt trên công dân nghĩa
vụ cần thiết cho việc quốc phòng. “Đối
với những ai hy sinh phục vụ tổ quốc trong quân ngũ, họ phải coi mình như những
người đem lại an ninh và tự do cho các dân tộc. Và nếu họ chu toàn bổn phận
này, họ thực sự đóng góp vào việc củng cố hòa bình” (MV 79,5).
Tuy nhiên, dù trong chiến tranh, lúc
nào luật luân lý cũng có hiệu lực. Luật này đòi buộc phải xử sự cách nhân đạo
với những người không chiến đấu, các chiến binh bị thương và các tù binh.
v
Tóm lại: vì chiến tranh luôn gây ra những sự dữ và bất công, nên
chúng ta phải làm tất cả những gì hợp lý để ngăn chặn chiến tranh bằng bất cứ
giá nào. Những bất công và bất bình đẳng thái quá trong lãnh vực kinh tế xã
hội, lòng tham lam, sự ngờ vực và tính kiêu căng đang sinh sôi nảy nở giữa con
người với nhau, giữa các quốc gia, không ngừng đe dọa nền hòa bình và gây ra
chiến tranh. Bất cứ điều gì được thực hiện nhằm khắc phục những xáo trộn này, đều
góp phần vào việc xây dựng hòa bình và tránh chiến tranh. “Phúc cho ai xây dựng hòa bình,vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt
5,9).
BÀI SÁU
ĐIỀU RĂN
THỨ SÁU VÀ THỨ CHÍN
X
A. ĐIỀU
RĂN THỨ SÁU
NGƯƠI
KHÔNG ĐƯỢC NGOẠI TÌNH
(Chớ làm sự dâm dục)
(x. SGLHTCG 2331 – 2400 )
“Ngươi
không được ngoại tình”(Xh 20,14).
“Anh em
đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai
nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt
5,27-28).
I. GIÁ TRỊ CỦA PHÁI
TÍNH
Tông Huấn về gia đình viết:
“Thiên Chúa là tình yêu. Ngài sống nơi chính bản thân mình mầu nhiệm hiệp thông
và yêu thương. Khi tạo dựng con người có nam có nữ giống hình ảnh Ngài …Ngài
khắc ghi trong họ ơn gọi, nghĩa là khả năng và trách nhiệm tương ứng, để sống
yêu thương và hiệp thông”(11). Như thế loài người có hai phái: nam và nữ. Mỗi
phái có đặc tính riêng gọi là phái tính. Phái tính chi phối mọi khía cạnh của
con người cả hồn lẫn xác, đặc biệt là khía cạnh cảm xúc, khả năng yêu thương và
sinh sản, nói tổng quát hơn là khả năng nối kết những quan hệ để hiệp thông với
người khác.
Mỗi người phải chấp nhận phái tính riêng của mình và nhận ra
tầm quan trọng của nó đối với toàn thể con người, tính đặc thù của mỗi phái
tính và hai phái tính bổ túc cho nhau.
II. ƠN GỌI KHIẾT TỊNH
Khiết
tịnh là sự điều hợp thành công tính dục trong con người. Tính dục thực sự nhân
bản khi được hòa hợp cách đúng đắn trong liên hệ giữa người và người. Khiết
tịnh là một nhân đức luân lý, một ơn lộc của Thiên Chúa, một ân sủng, một hoa
trái của Thánh Thần.
Như vậy, nhân đức khiết tịnh bao
gồm toàn bộ nhân vị và sự trọn vẹn của việc hiến thân.
1. Toàn bộ nhân vị
Người khiết tịnh giữ được toàn bộ
sức mạnh của sự sống và tình yêu, đã được đặt nơi con người mình. Sự toàn vẹn
này bảo đảm sự thống nhất của nhân vị, chống lại mọi thái độ làm tổn thương đến
sự thống nhất đó. Nó không chấp nhận cuộc sống hai mặt, lời nói hai ý.
Nhân đức khiết tịnh đòi hỏi sự rèn
luyện để làm chủ bản thân, như cách biểu lộ sự tự do của con người, hướng đến
việc tự hiến bản thân. Để đạt được mục đích này, cần phải có sự giáo dục đầy đủ
và thường xuyên, được thực hiện qua từng giai đoạn tăng trưởng.
2. Sự trọn vẹn của việc hiến
thân
Đức khiết tịnh là trường dạy việc
hiến thân. Sự tự chủ được quy hướng tới sự tự hiến. Đức khiết tịnh hướng dẫn
người thực thi nhân đức đó trở thành chứng nhân về lòng trung tín và yêu thương
của Thiên Chúa trước mặt người lân cận. Đức khiết tịnh được biểu lộ cách đặc
biệt trong tình bằng hữu đối với người lân cận. Tình bằng hữu được triển nở
giữa những người cùng phái hoặc khác phái, là điều thiện hảo lớn lao cho mọi
người. Tình bằng hữu dẫn đến sự hiệp thông tinh thần.
3. Những cách sống khiết
tịnh
Có nhiều phương tiện như ân sủng
Thiên Chúa, sự trợ giúp của các Bí tích, việc cầu nguyện, sự xét mình,việc thực
hành khổ chế tùy theo những hoàn cảnh khác nhau, việc thực hành các nhân đức
luân lý, đặc biệt là nhân đức tiết độ, nhằm giúp lý trí hướng dẫn các đam mê.
Là người Kitô hữu, chúng ta được
mời gọi luôn nhìn Đức Kitô là khuôn mẫu đời sống khiết tịnh. Chúng ta được mời
gọi sống khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình: những người sống bậc đồng trinh
hay độc thân của đời thánh hiến, là cách sống trổi vượt để sẵn sàng hiến mình
cho Thiên Chúa với trọn tâm hồn; những người lập gia đình được mời gọi sống
khiết tịnh theo bậc vợ chồng; những người không lập gia đình cũng đươc mời gọi
sống khiết tịnh bằng cách tiết dục.
III. NHỮNG TỘI NGHỊCH ĐỨC KHIẾT TỊNH
Tùy theo bản chất của từng đối tượng, những tội sau
đây là những tội nặng phạm đến đức khiết tịnh:
1. Mê dâm dục : là sự
ham muốn vô trật tự hay hưởng thụ vô độ khoái lạc tình dục mà không nhằm mục
đích sinh sản và kết hợp trong tình yêu.
2. Thủ dâm: là việc chủ ý kích thích cơ quan
sinh dục để đạt được khoái lạc tình dục.
3. Gian dâm hay tà dâm: là quan
hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ còn tự do.
4. Khiêu dâm: cốt tại việc đem những hành vi
tính dục, có thật hay giả vờ, ra khỏi vòng thân mật của những người trong cuộc,
chủ ý phơi bày cho những người khác.
5. Mại dâm: Dùng thân xác nam hay nữ làm
phương tiện thu lợi nhuận bất chính. Kẻ mua, người bán và người chứa chấp, kẻ
chủ mưu đều phạm lỗi nặng vì nó làm băng hoại xã hội, chà đạp nhân phẩm con
người và làm nô lệ cho dục vọng.
6. Hiếp dâm: là dùng
sức mạnh, với bạo lực, bắt kẻ khác quan hệ tình dục với mình.
7. Đồng tình luyến ái: Giáo hội khẳng định hành vi đồng
tình luyến ái trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là thác loạn và không thể chấp
nhận được. Tuy nhiên, Giáo hội khuyên các chủ chăn và các tín hữu hãy đón nhận
những anh chị em này với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất
công với họ.Họ cũng được kêu gọi sống khiết tịnh.
v
Tóm lại, dù trong bản văn Thánh Kinh về Mười Điều Răn, chúng ta chỉ
đọc thấy “Ngươi chớ phạm tội ngoại tình” (Xh 20,14), nhưng truyền thống Hội
Thánh vẫn theo sát các giáo huấn luân lý của Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, luôn
xem điều răn thứ sáu như bao gồm tất cả các tội phạm đến đức khiết tịnh.
IV. GIÁ TRỊ HÔN NHÂN
Theo
ý định của Thiên Chúa, phái tính hướng về tình yêu; tình yêu hướng về sự kết
hợp nam nữ làm thành đời sống hôn nhân. Đời sống hôn nhân không phải chỉ dừng
lại ở hành vi tính dục, nhưng nó vươn xa hơn trong trách nhiệm cùng xây dựng
cho nhau,góp phần xây dựng xã hội và Giáo hội. Những hành vi vợ chồng trong hôn
nhân là chính đáng và thánh thiện, khi nó được thực hiện trong khuôn khổ hợp
pháp của hôn nhân. Đời sống hôn nhân gia đình đòi hai người phải chung thủy và
sẵn sàng đón nhận con cái Chúa ban.
1. Những bổn phận của hôn
nhân : Thiên Chúa đã thiết lập thể chế hôn
nhân và sắp đặt những quy luật cho đời sống chung ấy dựa trên sự đồng thuận của
hai người là vĩnh viễn và độc hữu. Như thế, vợ chồng phải sống trung thành với
nhau mãi mãi,trừ khi một trong hai người qua đời.
Hôn nhân có hai mục đích: đem lại
hạnh phúc cho nhau và sinh sản, giáo dục con cái. Tình yêu vợ chồng tự nhiên
trong hôn nhân hướng về sinh sản, nên cha mẹ phải đón nhận con cái như những
quà tặng của Chúa ban hầu tham dự vào việc sáng tạo của Thiên Chúa, một thiên
chức cao cả của hôn nhân.
Một khía cạnh đặc biệt của trách
nhiệm liên quan đến việc điều hòa sinh sản.Việc điều hòa sinh sản được Giáo hội
dạy như sau:
a.
Khi có lý do chính đáng, vợ chồng được quyền kéo dài thời gian có con hay bớt
số con. Việc làm này phù hợp cách khách quan với luật luân lý, khi được chính
đôi vợ chồng thực hiện, mà không bị một áp lực bên ngoài, cũng không do ích kỷ,
nhưng vì những lý do chính đáng và bằng những phương pháp phù hợp với những
tiêu chuẩn khách quan của luân lý, nghĩa là nhờ việc tiết dục định kỳ và sử
dụng những thời kỳ không thể thụ thai như phương pháp Ogino và Knauss …
b. Tránh
sử dụng những phương pháp điều hòa sinh sản không phù hợp với luân lý. Mọi hành
động nhằm mục đích tạo phương thế ngăn cản sự truyền sinh, ví dụ như trực tiếp
triệt sản hoặc chống lại sự thụ thai, trước hoặc trong khi giao hợp, tự bản
chất là không hợp luân lý.
c. Việc thụ tinh và thụ thai nhân tạo không thể chấp
nhận về mặt luân lý, vì tách rời việc sinh sản với hành vi mà nhờ đó đôi vợ
chồng trao hiến cho nhau, và như vậy, áp đặt kỹ thuật lên trên nguồn gốc và vận
mệnh của con người. Hơn nữa, việc thụ tinh và thụ thai nhờ người khác, tức là
nhờ kỹ thuật để làm cho một người ngoài can dự vào hành vi vợ chồng, vi phạm
quyền của đứa bé được sinh ra từ người cha và người mẹ của nó,hai người được
liên kết với nhau bằng hôn nhân và có độc quyền là chỉ nhờ nhau mà cả hai mới
được làm cha,làm mẹ.
d. Trường
hợp các đôi vợ chồng không có con, Giáo hội khuyên : nếu không được Thiên Chúa
ban tặng con cái, sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, đôi
vợ chồng có thể sống quảng đại qua việc bảo trợ hay nhận con nuôi, hoặc tham
gia những công tác phục vụ tha nhân. Như thế, họ thực hiện một sự sinh sản quý
giá về mặt thiêng liêng.
2.
Những tội xúc phạm đến phẩm giá của hôn nhân
a. Ngoại tình: Người đã có vợ hay chồng quan hệ tình dục với người khác
ngoài người bạn đời của mình. Đức Kitô lên án tội ngoại tình, ngay cả khi chỉ
là ngoại tình trong ước muốn (x. Mt 5,27-28). Điều răn thứ sáu và Tân Ước tuyệt
đối cấm ngoại tình. Tội ngoại tình là một sự bất công. Người phạm tội này làm
tổn thương dấu chỉ của giao ước là dây liên kết hôn nhân, vi phạm quyền của
người phối ngẫu kia, và xâm phạm thể chế hôn nhân khi vi phạm hôn ước, là nền tảng
của thể chế đó. Người đó làm phương hại đến điều thiện hảo của việc sinh sản và
của con cái, vốn cần đến sự kết hợp bền vững của cha mẹ.
b. Ly dị: Giữa
những người đã chịu Phép Rửa, “hôn nhân
thành nhận và hoàn hợp (ratum et consummatum) không thể được tháo gỡ do bất cứ
quyền bính nhân loại nào, và vì bất cứ lý do nào, trừ lý do tử vong” (GL
1141).
Ly dị là một xúc phạm nghiêm trọng đối với luật tự nhiên. Ly
dị cố ý phá vỡ khế ước đã được đôi phối ngẫu tự do ưng thuận, để sống với nhau
cho tới chết. Ly dị làm tổn thương Giao ước cứu độ mà Bí tích Hôn phối là dấu
chỉ. Sự tái hôn, mặc dầu được luật dân sự công nhận, càng làm cho tình trạng đổ
vỡ thêm nghiêm trọng: người tái hôn, sau khi ly dị, sống trong tình trạng ngoại
hôn công khai và thường xuyên. Ly dị gây nên xáo trộn đời sống gia đình và xã
hội vì người bạn đời bị ruồng bỏ, con cái bơ vơ và tạo nên những hậu quả tai
hại cho Giáo hội và xã hội. Người bị ruồng bỏ được xem là không có lỗi gì.
Khi cần thiết vì lợi ích chung của hai người, Giáo hội cho phép
vợ chồng được ly thân (không lập gia đình với người khác). Việc ly dị luật đời
mà không tái hôn cũng được kể là ly thân nếu việc ly dị dân sự là phương cách
duy nhất để bảo đảm một số quyền lợi hợp pháp như việc chăm sóc con cái hoặc bảo vệ tài sản (x.GLHTCG 2383).
c. Đa thê, đa phu: Một người chồng có nhiều vợ
hoặc một người vợ có nhiều chồng đều đi ngược lại với luật hôn nhân gia đình, vì
nó trực tiếp chối bỏ kế hoạch của Thiên Chúa là một vợ một chồng, đối nghịch
lại với phẩm giá con người.
d. Loạn luân: Tội quan hệ tình dục giữa
những người trong họ hàng cùng huyết tộc hay hôn tộc còn trong giới hạn luật
cấm kết hôn với nhau.
e. Tự do chung sống: Người nam và nữ tự đến chung
sống với nhau như vợ chồng mà không có hôn phối là lỗi luật hôn nhân. Thói quen
sống thử là xúc phạm đến phẩm giá hôn nhân, phá hủy sự cao quý của gia đình.
X
B. ĐIỀU
RĂN THỨ CHÍN
NGƯƠI
KHÔNG ĐƯỢC
HAM
MUỐN VỢ NGƯỜI TA
(Chớ muốn vợ chồng người)
(SGLHTCG từ 2514 đến 2527)
“Ngươi
không được ham muốn vợ người ta, tôi nam tớ nữ, con bò, con lừa hay bất cứ vật
gì của người ta” (Xh 20,17).
“Ai nhìn
người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt
5,28).
Thánh Gioan phân biệt ba loại ham muốn hay dục vọng: dục vọng
của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và lối sống kiêu kỳ (x. 1Ga 2,16). Theo
truyền thống dạy Giáo lý Công giáo, điều răn thứ chín cấm dục vọng của xác
thịt.
Điều răn thứ chín đòi buộc phải chiến thắng đam mê xác thịt
trong tư tưởng cũng như trong ước muốn. Như vậy, điều răn thứ chín cấm nuôi
dưỡng những ý tưởng và ước muốn về những hành vi bị điều răn thứ sáu cấm đoán.
Để chiến thắng dục vọng xác thịt, phải cần đến việc thanh
luyện tâm hồn và thực hành đức tiết độ.
I. THANH LUYỆN TÂM HỒN
Mối phúc thứ sáu công bố: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch,vì họ sẽ
được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Để có tâm hồn trong sạch, người tín
hữu phải biết làm cho lý trí và ý chí của mình phù hợp với những đòi hỏi của sự
thánh thiện của Thiên Chúa, chủ yếu trong ba lãnh vực: trong đức mến, trong sự
khiết tịnh hay ngay thẳng về tính dục, trong sự yêu mến chân lý và đức tin
chính thống. Có mối dây liên kết giữa sự trong sạch của tâm hồn, của thân thể
và của đức tin.
Như thế,
với ơn Chúa, trong cuộc chiến đấu chống lại các ước muốn sai trái, người tín
hữu đạt được sự thanh sạch của tâm hồn nhờ nhân đức và hồng ân khiết tịnh, nhờ
sự trong sáng nơi ý hướng, nơi cái nhìn bên ngoài và bên trong, nhờ chế ngự các
giác quan, trí tưởng tượng và nhờ lời cầu nguyện.
Tâm hồn trong sạch sẽ giúp
chúng ta biết nhận ra thân thể con người của mình, của người khác là đền thờ
của Chúa Thánh Thần, là biểu lộ vẻ đẹp thần linh.
II.
THỰC HÀNH ĐỨC TIẾT ĐỘ
1. Sự trong sạch đòi phải có
nết na. Đây là một phần không thể thiếu của đức tiết độ.
ü
Sự nết na giúp gìn giữ
những gì thầm kín của con người. Nó hướng dẫn cái nhìn và cử chỉ cho phù hợp
với phẩm giá của con người và những giao tế của họ.
ü
Sự nết na bảo vệ mầu
nhiệm của con người và mầu nhiệm tình yêu của họ. Nó mời gọi nhẫn nại và điều
độ trong quan hệ yêu đương. Sự nết na cũng là sự đoan trang, nó gợi hứng cho
việc lựa chọn y phục. Sự nết na cũng là sự thận trọng, nó giúp giữ sự dè dặt
khi có nguy cơ tò mò thiếu lành mạnh.
2. Ngoài ra, đức trong sạch Kitô giáo còn đòi hỏi sự thanh tẩy
bầu khí xã hội. Sự trong sạch của tâm hồn giải thoát khỏi nạn khiêu dâm đang
lan tràn và đẩy xa những màn trình diễn nhằm kích thích sự tò mò không trong
sạch và những hình ảnh không đứng đắn.
Hiến Chế Mục Vụ viết: “Tin
Mừng của Đức Kitô không ngừng đổi mới đời sống và văn hóa của con người đã sa
ngã, chống lại và loại bỏ những sai lầm và điều xấu, xuất phát do sức quyến rũ
thường xuyên của tội lỗi. Tin Mừng không ngừng thanh tẩy và nâng cao các phong
hóa của các dân tộc. Nhờ những nguồn phong phú từ trên cao, Tin Mừng làm trổ
sinh hoa trái, như từ bên trong, các phẩm chất tinh thần và các truyền thống
của mỗi dân tộc và mỗi thời đại. Tin Mừng củng cố, kiện toàn và phục hồi những
điều đó trong đức Kitô”(58).
BÀI BẢY
ĐIỀU RĂN
THỨ BẢY VÀ THỨ MƯỜI
X
A. ĐIỀU
RĂN THỨ BẢY
NGƯƠI
KHÔNG ĐƯỢC TRỘM CẮP
(Chớ lấy của người)
(x. SGLHTCG
2401-2463)
“Ngươi
không được trộm cắp”(Xh 20,15)
“Ngươi
không được trộm cắp”(Mt 19,18)
Điều răn
thứ bảy cấm lấy hoặc giữ của cải của người khác cách bất công hay làm thiệt hại
của cải của họ bất cứ bằng cách nào. Điều răn này dạy phải giữ đức công bằng và
bác ái về những của cải trần thế và thành quả lao động của con người. Vì công
ích, điều răn này đòi phải tôn trọng quyền chung hưởng các của cải trần thế để
phục vụ Thiên Chúa và tình bác ái huynh đệ.
I. QUYỀN CHUNG HƯỞNG VÀ QUYỀN TƯ
HỮU CỦA CẢI
1. Quyền chung hưởng: Dựa vào Thánh Kinh, người Kitô hữu hiểu rằng Thiên Chúa đã trao trái đất và các tài nguyên của nó cho
nhân loại chung sức quản lý để chăm sóc, chế ngự và hưởng dùng. Như thế, của
cải của công trình tạo dựng được dành cho toàn thể nhân loại. Hiến chế Mục vụ
viết: “Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất
thuộc quyền sử dụng của mọi người, và của mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải
được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người cách hợp lý, theo luật
công bằng là luật đi liền với bác ái” (69).
2. Quyền tư hữu: Trái đất cũng cần được phân chia ra giữa người với người để
bảo đảm an toàn cho cuộc sống của họ, vốn bị sự túng thiếu và bạo lực đe dọa. Hiến chế Mục vụ viết: “Mọi người đều có quyền có một phần của cải
đầy đủ cho mình và cho gia đình” (69). Quyền tư hữu của cải là hợp pháp nhằm
bảo vệ tự do, bảo đảm những nhu cầu căn bản. Tuy nhiên, quyền tư hữu này cũng phải giúp biểu lộ tình liên đới tự nhiên giữa người với
người và quyền chung hưởng của cải trần
thế vẫn là ưu tiên.
v
Hai yếu tố: tư hữu và
chung hưởng phải gắn bó với nhau và bổ túc cho nhau, tạo mối quan hệ hài hòa
giữa người với người trong cuộc sống chung.
II. TÔN TRỌNG THA NHÂN VÀ CỦA CẢI
CỦA HỌ
1. Tôn trọng tài sản của tha
nhân :
a. Điều răn thứ bảy buộc:
ü
Phải tôn trọng tài sản của người khác, qua
việc thực thi công bằng và bác ái, sống tiết độ và liên đới.
ü
Tôn trọng các lời hứa và các hợp đồng đã cam
kết;
ü
Đền bù những điều bất công đã gây ra và hoàn
trả những gì đã trộm cắp;
b. Điều răn thứ bảy cấm:
ü Trộm cắp, nghĩa là cấm chiếm đoạt của cải của
người khác trái với ý muốn hợp lý của họ. Tuy nhiên, có những trường hợp lấy
của người khác mà không phải là trộm cắp. Đó là trường hợp “những người sống trong cảnh cùng quẫn cực
độ, họ có quyền lấy ở của cải của người khác những gì cần thiết cho sự sống của
mình” (MV 69)
ü
Trả lương không công bằng,
ü
Lũng đoạn giá trị tài sản để từ đó rút ra lợi
nhuận cho mình mà làm thiệt hại cho người khác,
ü
Việc giả mạo các thương phiếu hay hóa đơn.
ü
Trốn thuế hoặc buôn bán gian lận, cố ý phá
hoại tài sản cá nhân cũng như công cộng,
ü
Đầu cơ, tham nhũng, lạm dụng tài sản công làm của riêng, cố ý làm sai trái
trong lao động, lãng phí.
2. Tôn trọng sự toàn vẹn của
công trình tạo dựng
Ngày nay, ô nhiễm môi trường đã trở
thành vấn đề quan trọng của cả nhân loại. Khoáng sản, thực vật, động vật là
những tài nguyên Thiên Chúa ban tặng cho tất cả mọi người. Vì thế, một đàng con
người được phép khai thác những tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cuộc sống, nhưng
đàng khác phải tôn trọng thiên nhiên là của cải chung cho con người hôm nay và
thế hệ mai sau.
III. HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA HỘI
THÁNH
ü
Học thuyết Xã hội của Hội
Thánh là sự khai triển có hệ thống các
chân lý của Tin Mừng về phẩm giá con người và chiều kích xã hội của con người.Nói
cách khác, Học thuyết Xã hội của Hội Thánh là tập hợp các giáo huấn của Hội
Thánh về các biến cố lịch sử dưới ánh sáng mạc khải của toàn bộ Lời Chúa và sự
trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Học thuyết ấy đề ra những nguyên tắc để suy tư, quy
định những tiêu chuẩn để phán đoán, và trình bày những quy luật và định hướng
để hành động. Hội Thánh cố gắng phổ biến những lập trường đúng
đắn đối với của cải trần thế sao cho phù hợp với các yêu sách của công lý và
hòa bình, hợp với ý định khôn ngoan của Thiên Chúa.
ü
Hội Thánh can thiệp vào lãnh
vực xã hội : Hội Thánh sẽ can thiệp vào lãnh vực xã hội khi các quyền căn
bản của con người, thiện ích chung hoặc phần rỗi các linh hồn bị vi phạm. Hội
Thánh can thiệp bằng việc đưa ra một phán đoán luân lý trong lãnh vực kinh tế
và xã hội.
ü Đường hướng mà đời sống kinh tế xã hội
phải thực hiện: Đời sống kinh
tế và xã hội phải được thực hiện theo những phương pháp riêng của mình, trong
vòng trật tự luân lý, để phục vụ con người trong sự toàn vẹn của họ và phục vụ
cho toàn thể cộng đồng nhân loại, trong sự tôn trọng công bằng xã hội. Đời sống
kinh tế và xã hội phải lấy con người làm đối tượng, trung tâm và cùng đích của
mình.
IV. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ CÔNG
BẰNG XÃ HỘI
Càng
ngày kinh tế chiếm vai trò quan trọng hơn trong cuộc sống con người (x. MV 63).
Vì thế,Hội Thánh đưa ra những hướng dẫn về đời sống kinh tế nhằm phục vụ con
người, vốn “là tác giả,là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế xã hội”
(MV 63).
1. Hoạt động kinh tế
Phát triển kinh tế là nhằm phục vụ
con người, nên những hệ thống kinh tế và xã hội chủ trương hy sinh quyền lợi
căn bản của con người, hay coi lợi nhuận là quy luật tuyệt đối và là mục đích
tối hậu của chúng là đi ngược lại với Học thuyết Xã hội của Hội Thánh. Đồng
thời, Hội Thánh cũng phi bác chủ nghĩa cá nhân và quan niệm coi luật thị trường
có vị trí tuyệt đối trên lao động của con người.
2. Lao động
Đối với Kitô giáo, lao động có giá
trị cao cả không những nuôi sống bản thân và gia đình mà còn liên kết với tha
nhân và phục vụ họ, cộng tác vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, tham gia
vào công cuộc cứu độ của Chúa Kitô qua những lao công vất vả của mình (x. MV
67). Như vậy, lao động vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của con người.
Do đó, mọi người, không
phân biệt chủng tộc, tôn giáo, phái tính hay giai cấp, đều được quyền có một
việc làm ổn định và lương thiện, không bị kỳ thị cách bất công, được quyền tự
do lựa chọn về mặt kinh tế và được quyền hưởng đồng lương công bằng.
Để đạt được mục đích trên, đòi phải
có sự cộng tác của các bên liên quan:
Ø
Nhà
Nước: Nhà Nước có trách nhiệm giữ vững
giá trị tiền tệ, làm cho những việc phục vụ xã hội có hiệu quả, trông coi và
hướng dẫn việc thực thi các quyền con người trong lãnh vực kinh tế, giúp các
công dân tìm được việc làm.
Ø
Những
người lãnh đạo xí nghiệp: Họ phải chịu trách nhiệm về hậu
quả kinh tế và môi sinh do các công việc của họ. Họ phải chú tâm đến thiện ích
của con người chứ không chỉ nhằm làm gia tăng các lợi nhuận, mặc dầu lợi nhuận
cũng cần thiết để bảo đảm các cuộc đầu tư, tương lai của xí nghiệp, việc làm và
sự phát triển tốt đẹp của đời sống kinh tế.
Ø Các công
nhân: Họ phải chu
toàn các công việc của mình một cách có lương tâm, thành thạo và nhiệt tình, tìm
cách giải quyết các tranh chấp bằng đối thoại. Việc sử dụng đình công bất bạo
động là hợp pháp về mặt luân lý khi đó là một phương cách cần thiết để đạt được
quyền lợi chính đáng nhưng phải nhắm đến công ích.
V. SỰ CÔNG BẰNG VÀ TINH LIÊN ĐỚI GIỮA CÁC QUỐC GIA
Ngày nay, người ta chứng
kiến sự cách biệt rất lớn giữa các nước giầu và các nước nghèo. Đang khi một số
quốc gia càng lúc càng giàu hơn, thì nợ nần của các nước nghèo lại gia tăng. Và
nhiều khi một quốc gia giàu có là vì đã tước đoạt tài nguyên thiên nhiên của
các nước nghèo, bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, Hội Thánh kêu gọi xây dựng
công bằng thế giới, và tình liên đới giữa các dân tộc. Sự liên đới ấy không chỉ
thể hiện bằng cách giúp đỡ trực tiếp, nhưng còn phải cải tổ cả cơ cấu của nền
kinh tế thế giới, và phải hướng đến việc phát triển toàn diện của gia đình nhân
loại.
VI.
YÊU THƯƠNG NGƯỜI NGHÈO
Tiếng gọi của Thiên Chúa không chỉ ngưng lại ở đòi hỏi
công bằng, mà còn đi xa hơn đến chỗ: yêu thương người nghèo. Ngay trong Cựu
Ước, dân Chúa đã có những biện pháp cụ thể để nâng đỡ người nghèo: Năm Toàn Xá
với việc tha thứ nợ nần, trả lại đất đai. Đến thời Tân Ước, tiếng gọi ấy lại
càng khẩn thiết hơn: Đức Giêsu công bố hạnh phúc cho người nghèo, chính Người
đã sống giữa người nghèo để chăm sóc họ, và Người vẫn hiện diện trong những
người nghèo (x.Mt 25,31-36). Vì thế, trong suốt lịch sử của mình, Hội Thánh
luôn dành cho người nghèo tình yêu thương đặc biệt, không chỉ nghèo về vật chất
mà cả về văn hóa, tôn giáo.
Là người Kitô hữu, ta không thể không mang tâm tư của
Đức Giêsu. Lòng yêu thương ấy được thể hiện qua cuộc sống tiết độ, không tham
lam của cải, không tiêu xài lãng phí. Tích cực hơn, ta góp phần làm vơi đi nỗi
khổ của những anh chị em nghèo khổ hơn về tinh thần cũng như vật chất qua việc
an ủi, khích lệ, khuyên bảo, dạy dỗ, giúp đỡ vì “Nếu con không cho người đói ăn uống tức là con đã giết họ”(Các Giáo
Phụ). Các việc từ thiện, đặc biệt là bố thí, là một trong những bằng chứng
chính yếu của tình bác ái huynh đệ. Những công việc đó làm cho ta được
nên giống Cha trên trời là Đấng nhân từ và giầu lòng thương xót.
X
B. ĐIỀU RĂN
THỨ MƯỜI
NGƯƠI
KHÔNG ĐƯỢC HAM MUỐN
TÀI
SẢN CỦA NGƯỜI TA
(Chớ tham của người)
(x. SGLHTCG 2514 – 2533)
“Ngươi
không được ham muốn … bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20,17).
“Ngươi
không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò, con
lừa, hay bất cứ vật gì của người ta (Đnl 5,21).
“Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng của anh ở đó” (Mt 6,21).
Điều răn thứ mười giải thích và bổ túc điều răn thứ
chín, là điều răn về dục vọng xác thịt. Điều răn thứ mười cấm sự ham muốn của
cải của người khác, là cội rễ của sự trộm cắp, cướp đoạt và gian lận, mà điều
răn thứ bảy đã cấm. “Dục vọng của đôi mắt” (1Ga 2,16) đưa đến bạo lực và
sự bất công, mà điều răn thứ năm đã cấm. Sự ham muốn, cũng như sự gian dâm, bắt
nguồn từ việc thờ ngẫu tượng, mà ba điều răn đầu của Mười Điều Răn đã cấm. Điều
răn thứ mười nhắm đến ý hướng của trái tim; và cùng với điều răn thứ chín, điều
răn thứ mười tóm kết tất cả Mười Điều Răn.
I. SỰ VÔ TRẬT TỰ CỦA CÁC HAM MUỐN
Sự ham muốn giác quan khiến chúng ta ước muốn những điều thích
thú mà chúng ta không có. Chẳng hạn muốn ăn khi đói, mong sưởi ấm khi lạnh. Những
ước muốn này tự chúng là tốt, nhưng chúng thường không giữ sự điều độ của lý
trí, thúc đẩy chúng ta ham muốn cách bất chính điều không phải của chúng ta và
điều thuộc về người khác.
Vì thế, điều
răn thứ mười :
Ø Buộc phải
có thái độ tôn trọng tài sản của người khác.
Ø
Cấm sự tham lam và ước muốn sở hữu
của cải trần thế cách vô chừng mực.
Ø
Cấm sự ham muốn phát sinh do đam mê
vô độ của cải và quyền lực do của cải đem lại.
Ø
Cấm ước muốn làm điều bất công gây
thiệt hại cho người lân cận về của cải trần thế của họ.
Ø
Cấm ganh tị, nghĩa là cảm thấy buồn
phiền khi thấy người khác có tài sản, và ước ao vô độ muốn chiếm tài sản đó. Ganh
tị là một trong bảy mối tội đầu. Nó có thể đưa tới việc làm tồi tệ nhất. Khi
ganh tị lại kèm theo ước muốn cho người khác gặp hoạn nạn nặng nề, thì đó là
một trọng tội.
Người đã chịu Phép Rửa phải chiến
đấu chống lại tính ghen tị bằng sự nhân hậu, khiêm nhường và phó mình cho sự
quan phòng của Thiên Chúa.
II.
PHƯƠNG THẾ CHỐNG LẠI HAM MUỐN VÔ ĐỘ
1. Điều chỉnh ước muốn hợp ý
Chúa Thánh Thần
Tự nó, ước
muốn không phải là điều xấu. Vấn đề là phải điều chỉnh những ước muốn cho đúng
đắn. Phải cảnh giác trước sự quyến rũ của những thực tại “ăn thì ngon, trông đẹp mắt và đáng quý” (St 3,16), nhưng lại ẩn
chứa bên trong nọc độc của tội lỗi và sự chết. Điều mà người tín hữu phải ước
muốn là sự toàn thiện, và đặt mình trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Vì
thế, Thánh Phaolô đã nói: người tín hữu là người “đã đóng đinh xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê”
(Gl 5,24), và ước muốn những điều hợp ý Chúa Thánh Thần (x. Rm 8,27), để vượt
qua nhũng ý muốn bất chính.
2. Sống tinh thần nghèo khó
Mối phúc
đầu tiên được Chúa Giêsu công bố là “Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó”(Mt
5,3), và Người thường xuyên cảnh giác con người trước mối nguy hiểm của tiền
bạc (x.Lc 6,24).
Sống tinh thần nghèo khó là chọn Chúa làm gia nghiệp của
mình,đặt Chúa trên hết mọi sự và sẵn sàng từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng
(x. Mc 8,35). Nhờ thế, trong cuộc sống thường ngày, người tín hữu: “điều khiển tâm tình cho đúng đắn để việc sử
dụng của cải trần gian và lòng quyến luyến sự giầu sang nghịch với tinh thần
nghèo khó của Tin Mừng không cản trở họ theo đuổi Đức ái trọn hảo” (GH 42).
3. Khao khát nhìn thấy Thiên
Chúa
Sự ước
muốn vinh phúc đích thật giúp con người thoát khỏi tình cảm vô độ đối với của
cải trần gian. Người có lòng ước muốn vinh phúc đích thật nói: “Tôi muốn nhìn thấy Thiên Chúa”. Thật
vậy,con người chỉ có thể tìm được hạnh phúc đích thực và trọn vẹn trong sự
hưởng kiến và hạnh phúc nơi Đấng đã dựng nên họ vì tình yêu và cũng là Đấng lôi
kéo họ về với Ngài trong tình yêu vô tận. Thánh Grêgôriô thành Nyssênô viết: “Ai thấy
Thiên Chúa thì đã đạt được mọi phúc lộc mà người ta có thể nghĩ tưởng ra
được”.
BÀI TÁM
ĐIỀU RĂN
THỨ TÁM
NGƯƠI
KHÔNG ĐƯỢC
LÀM
CHỨNG GIAN
(Chớ làm chứng dối)
(x. SGLHTCG 2464 – 2513)
“Ngươi
không được làm chứng gian hại người”(Xh 20,16).
“Anh em còn nghe luật xưa dạy rằng: “Chớ bội
thề, nhưng hãy trọn lời thề với Chúa” (Mt
5.33).
Điều răn thứ tám cấm xuyên tạc
chân lý trong tương quan với tha nhân. Chỉ thị luân lý này xuất phát từ ơn gọi
của Dân Thánh, là làm chứng cho Thiên Chúa của mình, Đấng là chân lý và muốn
chân lý. Những xúc phạm đến chân lý, bằng lời nói hay hành động, đều là từ chối
dấn thân theo sự ngay thẳng về luân lý. Những sự xúc phạm đó là những bất trung
căn bản đối với Thiên Chúa, đồng thời hủy hoại các nền tảng của Giao Ước.
I.
SỐNG TRONG SỰ THẬT
Con người không thể sống với nhau nếu
không tin tưởng lẫn nhau và thành thật với nhau. Không có sự thành thật, cuộc sống chung sẽ rất nặng nề, vì người ta phải thường xuyên cảnh giác và lo sợ. Vì
thế, sự thành thật là một đức tính rất cần thiết trong đời sống cộng đoàn.
Đối với người Kitô hữu, lời mời gọi
sống theo sự thật được bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Cựu Ước xác quyết rằng
Thiên Chúa là nguồn mọi sự thật nên dân của Ngài được mời gọi sống trong sự
thật (x. Rm 3,4).
Toàn bộ chân lý của Thiên Chúa được
tỏ bày nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là chân lý (x.Ga 14,6) đến trong thế gian
để làm ánh sáng cho con người. Bước theo Đức Giêsu là sống trong Thánh Thần
chân lý, Đấng dẫn đưa chúng ta vào tất cả sự thật (x.Ga 16,13).
Vì thế, người môn đệ của Đức Giêsu phải là người
yêu mến sự thật, “có thì nói có, không
thì nói không” (Mt 5,33), tránh lối sống hai mặt, dối trá va giả hình.
II.
LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Không những sống
trong sự thật, người Kitô hữu còn phải làm chứng cho sự thật, theo gương Đức
Giêsu, Đấng “đã đến trong thế gian để làm
chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Vì Chúa Giêsu Kitô chính là sự thật, nên làm
chứng cho sự thật cũng là làm chứng cho Chúa, cho niềm tin vào Người, cho Tin
Mừng của Người. Thánh Phaolô viết: “Đừng
hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta” (2Tm 1,8).
Người Kitô hữu
được mời gọi làm chứng cho chân lý Tin Mừng trong mọi lãnh vực của hoạt động
công khai và riêng tư, dù phải hy sinh mạng sống mình, nếu cần thiết. Tử đạo là
chứng từ cao nhất cho chân lý đức tin. Các Thánh Tử Đạo là những mẫu chứng nhân tuyệt vời. Các ngài đã làm chứng cho Chúa
Kitô đã chết và sống lại, cho chân lý đức tin bằng chính mạng sống mình.
III. NHỮNG TỘI
NGHỊCH VỚI ĐIỀU RĂN THỨ TÁM
1. Làm chứng dối và thề gian
Mức độ nặng nhẹ căn cứ trên sự sai
lệch của sự thật, trên những hoàn cảnh, trên những ý hướng của kẻ nói dối và
mức độ thiệt hại mà các nạn nhân phải gánh chịu.
2. Phán đoán hồ đồ, nói xấu,
vu khống, bôi nhọ
Đây là những tội làm giảm hay phá
hoại uy tín và danh dự mà mỗi người có quyền hưởng.
3. Nịnh hót, tâng bốc và xu
nịnh
Là nói sai sự thật để làm cho người
ta hài lòng và có cảm tình với mình hay thuận theo ý mình. Những tội này sẽ trở
nên trầm trọng khi nhằm mục đích bao che việc phạm tội trọng hay thủ lợi bất
chính.
4. Khoe khoang, khoác lác, mỉa
mai
Khoe khoang, khoác lác là lỗi phạm
nghịch với sự thật. Về tội châm biếm, khi có ý làm mất uy tín một ai đó, bằng
cách diễu cợt, với ý xấu, một điều gì trong cách hành động của người đó.
5. Nói dối
Nói dối là sự
xúc phạm trực tiếp đến chân lý. Nói dối là nói hay hành động nghịch với chân lý
để dẫn đến sự sai lầm. Nói dối, vì làm hại cho tương quan của con người với
chân lý và với người lân cận, nên xúc phạm đến tương quan nền tảng giữa con
người và lời nói của con người với Chúa. Tội nói dối nặng nhẹ tùy ở tác hại của
nó gây ra cho người khác. Nhiều khi nói dối bên ngoài xem ra có vẻ nhẹ, nhưng
lại trở thành sự xúc phạm nặng đối với đức công bình và bác ái.
v
Tất cả các tội phạm nghịch với sự
thật buộc phải đền bù lại nếu gây tai hại cho kẻ khác.
IV.
TÔN TRỌNG SỰ THẬT
Điều răn thứ tám đòi buộc chúng ta phải
tôn trọng sự thật, kèm theo sự tế nhị của đức ái. Đức ái đòi buộc ta phải cẩn
trọng xem xét có nên nói sự thật cho người khác không, vì có thể dẫn đến những
hậu quả không tốt. Ngoài ra, còn phải bảo vệ các bí mật nghề nghiệp. Ta chỉ
được phép nói ra vì những lý do nghiêm trọng và cân xứng, hoặc vì tai nạn có
thể xảy ra nếu không nói. Cũng phải tôn trọng những chuyện tâm sự mà chúng ta
đã hứa giữ bí mật.
Ø
Tôn
trọng sự thật khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Thông tin
bằng các phương tiện truyền thông phải phục vụ lợi ích chung. Về nội dung, thông
tin phải luôn đúng sự thật và trong giới hạn của công lý và bác ái, phải mang
tính chất toàn vẹn. Mặt khác, thông tin phải được diễn tả cách chân thật và
thích hợp, cẩn thận tuân giữ các luật luân lý, các quyền lợi chính đáng và phẩm
giá con người.
Ø
Tôn
trọng sự thật trong mỹ thuật,chủ yếu là nghệ thuật thánh: Sự thật
hay Chân lý tự bản chất là vẻ đẹp. Chân lý bao gồm sự huy hoàng của vẻ đẹp tinh
thần. Ngoài lời nói, còn có nhiều cách diễn tả chân lý, đặc biệt là các tác
phẩm nghệ thuật. Xuất phát từ tài năng được Thiên Chúa trao ban và cố gắng của
con người, nghệ thuật là một hình thức của sự khôn ngoan thực tiễn, kết hợp với
kiến thức, với tài khéo léo, để tạo hình thể cho chân lý của một thực tại, bằng
thứ ngôn ngữ có thể cảm nhận được bằng mắt thấy và tai nghe. Như vậy, nghệ
thuật bao hàm một sự tương tự nào đó với hoạt động của Thiên Chúa trong công
trình tạo dựng, theo mức độ nghệ thuật được gợi hứng bởi chân lý về vạn vật và
lòng yêu mến vạn vật. Cũng như bất cứ hành động nào khác của con người, nghệ
thuật không có mục đích tuyệt đối nơi chính nó, nhưng được quy hướng về con
người, và trở nên cao quý nhờ mục đích tối hậu là con người.
Đặc biệt, nghệ thuật thánh “tự bản chất nhằm diễn tả vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, được cảm nghiệm
cách nào đó qua những tác phẩm của con người; nghệ thuật thánh càng làm cho
Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn ,một khi những tác phẩm đó không nhằm
chủ đích nào khác ,ngoài sự góp phần tối đa để quy hướng tâm trí con người về
cùng Thiên Chúa” (HCPV 122). Nghệ thuật thánh được xem là chân thật và đẹp
đẽ, phải gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Kitô,
phải dẫn đến tình yêu Thiên Chúa và thờ lạy Ngài là Đấng Sáng Tạo và Cứu Độ, là
Vẻ Đẹp tối cao của Chân Lý và Tình Yêu.
MỤC LỤC
DẪN NHẬP.............................................................. 03
CHƯƠNG I:
NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA,
THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI 09
Bài 1 : Điều răn thứ nhất....................................... 10
Bài 2 : Điều răn thứ hai ........................................ 17
Bài 3 : Điều răn thứ ba ......................................... 20
CHƯƠNG II: NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN
CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH 24
Bài 4 :
Điều răn thứ tư .......................................... 25
Bài 5 :
Điều răn thứ năm........................................ 32
Bài 6 :
Điều răn thứ sáu và thứ chín...................... 39
Bài 7 :
Điều răn thứ bảy và thứ mười...................
49
Bài 8: Điều
răn thứ tám.......................................... 58