Chương 5
LƯU ĐÀY – HỒI HƯƠNG – DO THÁI GIÁO
I- LƯU ĐÀY
1- Mất nước
Các vua Israel và Giuđa đưa dân chúng vào con đường phản bội
lại Giao Ước với Thiên Chúa, thờ ngẫu tượng, luân lý suy đồi. Những lời Thiên
Chúa nhắc nhở, dạy dỗ qua các ngôn sứ đều vô ích. Cơn bệnh đã đến độ trầm trọng,
vì vậy mà cuối cùng Thiên Chúa phải dùng đến một ‘liều thuốc mạnh’ là cuộc lưu đày.
Năm -722 tcn, sau ba năm vây hãm, Vua Sargon II nước Assyri
đã chiếm được thủ đô Samari của Israel. Vua bắt những thành phần ưu tú của
Israel đi lưu đày, rồi lại đưa những dân khác đến cư ngụ. Họ sống chung với những
người Israel còn được ở lại, từ sinh hoạt chung đó phát sinh một thứ tôn giáo
pha trộn, không còn tinh tuyền nữa. Vì vậy mà sau này người Do thái rất ghét và
khinh bỉ người Samari, coi họ là dân lai căng và lạc đạo.
Tuy có chậm hơn nhưng rồi Miền Nam-Giuđa cũng không thoát
khỏi số phận Miền Bắc. Sau hơn ba trăm năn thống trị, đế quốc Assyri (Ninivê) cũng
đến ngày suy tàn để nhường chỗ cho một khuôn mặt mới là đế quốc Babylon của vua
Nabucôđônoso. Năm -598 tcn, Nabucôđônoso đã bắt vua Giuđa và một số người ưu tú
sang Babylon. Đến năm -587 tcn, Nabucôđônoso phá huỷ bình địa Giêrusalem và đền
thờ, bắt nhiều người đi lưu đày sang Babylon.
2- Thử thách
Khoảng 30 đến 50 ngàn người Giuđa phải đi lưu đày. Họ phải
chịu nhiều thử thách nặng nề :
§ Đau khổ thể xác : đi bộ cả ngàn cây số,
cuộc sống sống thiếu thốn và công việc cực nhọc nơi lưu đày …
§ Đau khổ tinh thần : họ bị thử thách về đức
tin. Hoàn cảnh đặt ra cho họ những câu hỏi nhức nhối : Có Chúa Giavê thật không
? Nếu có thì tại sao Ngài lại để đất nước, thành thánh Giêrusalem và Đền thờ bị
tàn phá như vậy ? Hay là thần Marduk của Babylon mạnh hơn Giavê ? Giavê có còn
nhớ Lời Hứa hay đã huỷ bỏ Giao Ước rồi ? …
Tuy nhiên, trong kế hoạch của Thiên Chúa thì cuộc lưu đày
không phải là ‘viên thuốc độc’ mà là ‘viên thuốc đắng’ mà Thiên Chúa phải dùng
đến để chữa trị ‘chứng bệnh nan y’ của
dân Người. Như thời các Thủ Lãnh, một lần nữa, khi lâm cảnh đau khổ và tai hoạ,
người ta mới nhận ra hậu quả ghê gớm do tội lỗi của họ đã gây ra. Tội đã xúc phạm
đến Thiên Chúa. Tội làm cho họ tách lìa khỏi tình yêu Thiên Chúa. Chính họ đã tự
đẩy mình ra xa khỏi Thiên Chúa, đánh mất hạnh phúc của mình.
3- Canh tân
Nhờ sống ở chốn lưu đày
mà dân Chúa đã học biết đổi mới đời sống :
4- Sự đóng góp của các ngôn sứ trong thời lưu đày
Trong thời gian lưu đày
Chúa đã dùng các ngôn sứ để thanh tẩy dân Chúa :
a- Ngôn sứ Êgiêkien là người nói lên những lời an ủi và giúp cho dân
giữ vững tinh thần. Ông nhấn mạnh đến 3 điểm :
j Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Người không bị ràng buộc chỉ ở Giêrusalem
mà thôi, Người luôn hiện diện ở giữa dân, ngay trên đất lưu đày (Êd 1) .
k Trách nhiệm cá nhân : mỗi người phải chịu trách nhiệm về công việc
mình làm, ai làm lành sẽ được thưởng, ai làm ác sẽ bị phạt. (Êd 18, 19-24).
Sẽ có một cuộc Xuất hành
mới.
Chính Chúa là Mục tử dẫn dân ra khỏi Babylon về quê hương (Êd 34) và dân Chúa được
phục hồi (Êd 36-37).
b- Ngôn sứ Isaia Đệ Nhị (Người môn đệ của
Isaia, x.Is 40-55)
Ngôn sứ Isaia đã chết
trước thời lưu đày (theo truyền thuyết thì Isaia đã bị vua Mơnassê đã cưa đôi),
người môn đệ của ông tiếp tục loan báo việc Thiên Chúa sẽ đổi mới và khôi phục
Israel để nâng đỡ tinh thần dân lưu đày. Vì vậy sách Is 40-55 được gọi là “Sách An Ủi”. Trong đó có 4 đoạn thơ nổi
tiếng có đầu đề : “Những bài ca của Người
Tôi Tớ” (Is 421-4, Is 491-6,
Is 504-9, Is 5213-5312) tiên báo về Đấng Cứu
Thế sẽ phải chịu nhiều đau khổ, chịu chết để xoá tội lỗi của dân và được Thiên
Chúa tôn vinh.
II. HỒI HƯƠNG
1- Chiếu chỉ của vua Kyrô
Sau thời Nabucôđônoso
(604-552), đế quốc Babylon bắt đầu suy thoái và tan rã, nhường chỗ cho đế quốc
Ba Tư của vua Kyrô. Năm -539 vua Kyrô chiếm được thành Babylon và sau đó mở rộng
đế quốc đến tận Ai Cập.
Vua Kyrô tôn trọng
phong tục của những dân mà ông đã chinh phục, ông có một chính sách rộng rãi về
mặt tôn giáo : công nhận và khuyến khích tôn giáo của các dân dưới quyền cai trị
của mình. Vì vậy mà năm -538 ông ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái ở Babylon được
hồi hương. Đồng thời vua cho trả lại những vật dụng quí giá mà Nabucôđônoso đã
lấy của Đền Thờ Giêrusalem và còn ra lệnh xuất tiền công khố để đài thọ phí tổn
xây lại Đền Thờ. Isaia Đệ Nhị đã không ngần ngại gọi Kyrô là “Đấng Được Xức Dầu Của Thiên Chúa” (451)
và là “Mục Tử Của Thiên Chúa” (4428),
là người được Chúa chọn để cứu Dân Chúa.
2- Tái thiết Giêrusalem (x.Ét-ra)
a- Xây Đền Thờ :
Năm 537tcn, người Do Thái trở về xứ Giuđa, lập
cư tại Giêrusalem và vùng phụ cận, xây cất nhà cửa và khởi công tái thiết Đền
Thờ. Họ đã gặp nhiều trở ngại do đời sống khó khăn thiếu thốn, thêm vào đó họ còn
bị người Samari gây cản trở và phá hoại. Sự kình địch giữa người Do Thái và người
Samari bắt đầu từ đây và còn kéo dài về sau mà chúng ta sẽ đọc thấy trong thời
Chúa Giêsu (Lc 9,51-55; Ga 4,9).
Phải đợi đến năm 520tcn (17 năm sau khi hồi
hương), nhờ có hai ngôn sứ Khácgai và Dacaria kêu gọi, khích lệ, dân chúng mới
lấy lại niềm phấn khởi đã mất để bắt tay vào việc xây dựng lại Đền Thờ dưới sự
chỉ huy của quan khâm sai Dơrôbaben (Dơ-rúp-ba-ven) và thượng tế Giôsua (x.Kg
1-2 và Dcr 1-8).
Năm năm sau đó (năm -515), Đền thờ được hoàn
tất theo hoạ đồ và kích thước của Đền Thờ mà Salomon đã xây. Tuy không còn Khám
Giao Ước nữa nhưng chắn chắn Thiên Chúa vẫn công nhận Đền Thờ này như là nhà của
Người ở trần thế để Dân Chúa có thể có nơi cử hành việc phụng thờ, gặp gỡ Người
qua việc tế lễ và cầu nguyện.
b- Xây tường thành Giêrusalem
Ông Nêhêmia là một người
Do Thái được làm quan trong triều đình vua Ba tư. Năm 445 tcn ông xin nhà vua
cho phép ông về Giêrusalem để xây lại tường thành. Chỉ trong vòng hai tháng người
Do Thái đã xây xong công trình này. Họ vừa phải làm việc vừa phải chiến đấu chống
lại những người Samari và Ammon đến quấy phá cản trở, vừa là thợ xây vừa là chiến
sĩ.
Ông Nêhêmia còn có công
cải tổ và củng cố việc điều hành tổ chức đời sống xã hội cho người Do Thái tốt đẹp
hơn.
c- Phục hồi về mặt tôn giáo :
Song song với với công cuộc phục hưng xứ sở
là việc nâng cao đời sống thiêng liêng. Là một người thuộc dòng dõi tư tế và thông
thạo lề luật, ông Ét-ra đã có công củng cố cộng đoàn về mặt tôn giáo :
III. DO THÁI GIÁO (x.Er
8-9)
1- Do Thái Giáo sau thời lưu đầy :
Sau thời lưu lưu đày,
người Do Thái chú ý đến việc học hỏi Sách Thánh : Lề Luật và lời các Ngôn sứ. (Sách Luật được gọi là Torah, tức là Ngũ Kinh : Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật.)
Luật Chúa không những hướng
dẫn đời sống đạo mà còn chi phối mọi sinh hoạt xã hội. Luật quốc gia lệ thuộc vào
luật đạo. Vì thế mà các luật sĩ và kinh sư (rabbi) có một vai trò quan trọng và
địa vị quan trọng trong xã hội Do Thái; các hội đường rất được kính trọng vì là
nơi giảng dạy Sách Thánh. Vị thượng tế ở Giêrusalem nắm quyền điều hành cả phần
đạo lẫn phần đời.
Như vậy, trên nguyên tắc
vua Ba Tư vẫn bổ nhiệm quan cai trị, nhưng trong thực tế vị Thượng tế mới là người
thay thế nhà vua nắm quyền điều khiển. Luật quốc gia và luật tôn giáo thống nhất
là một trong tay vị thượng tế. Hình thức này còn kéo dài cho đến khi dân Do Thái
lại một lần nữa bị mất nước (quân Rôma tiêu huỷ Giêrusalem năm 70 scn).
2- Lệ thuộc Hy Lạp và Rôma :
a- Thời Hy Lạp (336-63tcn)
Đế quốc Ba Tư suy tàn
nhường chỗ cho đế quốc Hy Lạp rộng lớn của Alexandre Đại Đế, vùng đất nhỏ bé Palestine
lại đổi chủ. Theo tinh thần của Aristote, Alexandre chủ trương một thế giới đại
đồng, mọi người đều là anh em, và ông đã quyết tâm thực hiện lý tưởng ấy. Đáng
tiếc là ông đã chết sớm vào năm 32 tuổi, triều đại của ông chỉ được 13 năm (336-324)).
Lý tưởng phổ quát của ông là một thuận lợi dọn đường cho việc phổ biến Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô sau này cho hết mọi người.
Thời các vua Ptôlêmê (301-198 tcn):
Khi Alexandre chết, các tướng lãnh của ông
phân chia đế quốc làm bốn phần. Dòng họ Ptôlêmê cai trị Vùng Ai Cập và Palestine
với một pháp luật hiền hoà, dân Do Thái vẫn được tự do tôn giáo. Trong thời kỳ
này một cộng đoàn người Do Thái ở Alexandria (Ai Cập) đã dịch Thánh Kinh Cựu Ước
từ tiếng Hipri ra tiếng Hy Lạp để dễ phổ biến cho các cộng đoàn dân Do Thái đang
sống trong môi trường văn hoá Hy Lạp. Bản văn này được gọi là bản “Thánh Kinh Bảy
Mươi” (tương truyền là do 70 vị Rabbi dịch
ra).
Thời các vua Sơlucô :
Năm 198 tcn., vua Antiôcô
III thuộc dòng họ Sơlucô (cai trị vùng Babylon) chiến thắng Ptôlêmê. Vua Antiôcô
IV (175-164) bắt dân Do Thái bỏ đạo để thờ các thần Hy Lạp, cuộc bách hại diễn
ra khắc nghiệt : huỷ bỏ luật Môsê, cấm tế lễ cho Chúa, cướp phá Đền Thờ Giêrusalem,
đem tượng thần Zéus của Hy Lạp đặt trên bàn thờ làm ô uế nơi thánh (năm 167).
Cuộc kháng chiến của anh em Macabê :
Một năm sau khi Đền Thờ
bị Antiôcô làm ô uế, tư tế Mat-ta-thy-a đứng lên khởi nghĩa. Người con trai thứ
ba của ông, vị tướng tài ba nổi tiếng nhất, tên là Giuđa và có biệt hiệu Macabê
(nghĩa là “Cái Búa”). Những chiến công của anh em Macabê được ghi lại trong hai
quyển sách mang tên Macabê. Sách Đaniel cũng được viết ra trong thời kỳ này để
nâng đỡ ý chí kháng chiến của người Do Thái. Cuộc khởi nghĩa đã thành công
nhanh chóng. Tháng 12 năm 165 tcn, ông Giuđa chiếm lại được Đền Thờ và tổ chức
lễ Hannukah, tức là lễ Ánh Sáng để Thanh Tẩy và Cung Hiến Đền thờ.
b- Thời lệ thuộc Rôma :
Nền độc lập của do Thái
không được lâu. Dòng họ Macabê lập nên triều đại Hasmônê, nhưng triều đại này
chỉ được năm đời. Năm 67 tcn., hai anh em là Hycarnô và Aristôbôlô tranh giành
quyền lực. Hycarnô đã cầu viện quân Roma. Chụp lấy thời cơ, tướng Pompê có lý
do để đem quân đến. Năm 63 tcn, Pompê đã chiếm được Giêrusalem và bắt dân Do Thái
phải làm chư hầu. Trong thời kỳ này đã xuất hiện những phong trào phản kháng :
Pharisiêu, Sađốc, Hassiđim, Essêni.
Năm 48 tcn, tướng Cêsar
thắng Pompê, Cêsar đặt Antipater làm tổng trấn xứ Giuđêa. Có nhiều tranh chấp đẫm
máu xảy ra nhưng cuối cùng người con của Antipater là Hêrôđê được hoàng đế Roma
(Antonius) đặt làm vua người Do Thái năm 41 tcn.
Năm 20 tcn, Hêrôđê muốn
lấy lòng người Do Thái nên đã đứng ra tu sửa Đền thờ Giêrusalem cho thật nguy
nga tráng lệ. Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh dưới thời vị vua độc ác này.
Tóm lược chương 5
1- Phục hưng :
Sau 50 năm lưu đầy ở
Babylon, năm 538 tcn, người Do Thái được hồi hương. Đời sống gặp nhiều khó khăn
nhưng họ đã xây lại được Đền Thờ và tường thành Giêrusalem.
Điều quan trọng hơn là
sự phục hưng về tôn giáo. Cuộc lưu đầy đã giúp cho họ được thanh tẩy, canh tân đời
sống, trở về với Chúa, chăm chú học hỏi Lề Luật và lời các tiên tri, sống đức
tin một cách trưởng thành hơn, bớt hình thức phô trương bên ngoài. Từ nay, Sách
Thánh có một vị trí nòng cốt trong sinh hoạt xã hội cũng như trong đạo Do Thái.
Hội đường là nơi qui tụ mọi người để học hỏi Sách Thánh và cầu nguyện. Những luật
sĩ có một địa vị quan trọng nhờ công việc nghiên cứu và giảng dạy lề luật.
2- Lịch sử biến động liên
tục :
Trong khoảng thời gian
dài hơn 5 thế kỷ, từ khi hồi hương đến khi Đấng Cứu Thế ra đời, lịch sử dân Do
Thái là một chuỗi dài những biến động chính trị :
§ Sau cuộc
hồi hương dân Do Thái vẫn chịu sự cai trị của Ba Tư.
§ Từ năm
332 tcn Do Thái chịu sự cai trị của người Hy Lạp. Các vua Ptôlêmê vẫn cho họ được
tự do tôn giáo (301-198tcn), nhưng các vua Sơlucô (198-165tcn) bách hại đạo Do
Thái.
§ Năm 165
tcn, cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Macabê thành công, giành lại độc lập, lập ra
triều đại Hasmônê, nhưng chỉ kéo dài được hơn 100 năm.
§ Từ năm 63
tcn đến thời Chúa Giêsu, Do Thái chịu ách thống trị của đế quốc Rôma.
Câu hỏi thảo luận chương
5
Cuộc lưu đầy có những ảnh
hưởng gì (tiêu cực cũng như tích cực)
đối với dân Do Thái ? Từ kinh nghiệm này chúng ta có thể nói gì về những đau khổ
thử thách xảy đến trong đời sống mỗi người chúng ta ?