CHƯƠNG II
THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI
: MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
“Bằng một quyết định hoàn toàn tự
do, Thiên Chúa tự mạc khải và ban chính mình cho con người” (GLHTCG 50).
Lý trí có thể nhận biết
Thiên Chúa.Nhưng chỉ với ánh sáng của lý trí,con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc nhận biết Thiên Chúa.Vì thế,Thiên Chúa đã muốn soi dẫn con người bằng
các Mạc khải.
Mạc khải của Thiên Chúa
chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh truyền.
I.THÁNH TRUYỀN
“Thánh truyền chứa đựng lời Thiên
Chúa mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ, và lưu truyền
toàn vẹn cho những người kế nhiệm các ngài, để nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng,
họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng” (GLHTCG 81).
Thiên Chúa muốn
cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý(x.1Tm 2,4)tức là nhận biết Đức
Kitô. Sứ mạng của Hội Thánh là rao giảng Tin Mừng cho mọi người (x. DV 7, GLHTCG
75). Việc rao giảng này được thực hiện bằng hai cách: truyền khẩu và văn tự. Cách
rao giảng bằng truyền khẩu gọi là Thánh truyền.
Nội dung của Thánh Truyền gồm những gì các Tông đồ đã học được từ
miệng Đức Kitô, thấy người xử sự hoặc những điều các ngài đã được Thánh Thần gợi
hứng mà các ngài truyền lại qua lời rao giảng, gương mẫu và các định chế.
Thánh truyền và Thánh
Kinh liên kết mật thiết với nhau vì cả hai phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất là Thiên Chúa, cả hai đều làm cho mầu nhiệm Đức
Kitô được hiện diện và sinh hoa trái trong Hội thánh. Do đó, “cả Thánh Kinh lẫn Thánh truyền đều phải được
đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình yêu mến và kính trọng như nhau” (DV
9 ; GLHTCG 82)
II. THÁNH KINH
“Các sách Thánh Kinh chứa đựng lời Thiên
Chúa và vì được linh hứng, nên thực sự là Lời Chúa”(DV24 ; GLHTCG 135)
Thiên Chúa đã mạc
khải mình và chương trình của Ngài cho
loài người qua những con người cụ thể và các biến cố thời Cựu Ước, cuối cùng Ngài
đã mạc khải trọn vẹn mình nơi Chúa Giêsu Kitô,Con Một của Ngài làm người. Mạc
khải của Ngài đạt tới đỉnh cao qua các giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô được ghi lại
trong Tân ước. Qua các thế kỷ, Hội Thánh đã và đang khám phá ra những hiểu biết
mới qua các giáo huấn của Chúa Giêsu.
Các giáo huấn của Hội
Thánh có nền tảng trong Thánh Kinh. Điều này được minh chứng tại Công đồng
Vatican II, khi mỗi ngày, sách Thánh Kinh được đọc cách trang trọng trước các
nghị phụ Công đồng, ngay lúc bắt đầu các cuộc thảo luận. Vào lúc kết thúc buổi
họp cuối cùng, Công đồng tổng kết sự tùy thuộc của Hội Thánh vào Thánh Kinh như
sau:
“Giáo hội luôn tôn kính Thánh
Kinh như chính thân thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ thánh, Giáo hội không ngừng
lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để
ban phát cho những tín hữu. Cùng với Thánh truyền, Thánh Kinh đã và đang được
Giáo hội xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin…Bởi vậy, mọi lời giảng dạy
trong Giáo hội cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng
và hướng dẫn. (HCMK 21).
a. Thánh Kinh được gọi là Lời của Thiên Chúa.
- Thánh Kinh được Thiên Chúa
linh hứng
Chính Thiên
Chúa đã hướng dẫn tác giả nhân loại đến nỗi họ đã viết những gì Ngài muốn. Mặc
dù tác giả nhân loại không ý thức sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nhưng những gì họ
viết ra đều là điều Ngài muốn họ viết. Vì vậy, Thánh Kinh là cuốn sách chứa đựng
Lời của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa biểu lộ mình
qua Thánh Kinh.
Qua Thánh
Kinh, Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài cho chúng ta. Cũng như chúng ta cho người
khác biết về mình qua lời nói của chúng ta thì Thiên Chúa cũng cho chúng ta biết
về Ngài qua Lời của Ngài là Thánh Kinh.
Ngôi Hai Thiên
Chúa là Lời tối cao, biểu lộ trọn vẹn Thiên Chúa. Thánh Kinh là lời tạo dựng của
Thiên Chúa, Ngài biểu lộ mình qua Thánh Kinh. Lời mạc khải xác phàm và lời Thánh
Kinh được nối kết với nhau cách huyền nhiệm.
Thần học
ngày nay luôn nói về tính linh thánh của Thánh Kinh vì qua Thánh Kinh, con người
được trao ban một cơ hội để gặp gỡ Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
b. Thánh Kinh cũng là lời của con người.
Các tác giả nhân
loại không chỉ là những dụng cụ thụ động của Thiên Chúa. Họ đã viết cách tự do,
dùng ngôn ngữ và kiểu văn của thời đại và văn hóa của mình để truyền đạt sứ điệp
theo cách thế thích hợp nhất đối với họ. Các tác giả nhân loại là những người
giống như chúng ta: tội lỗi và dễ sai lầm. Đôi khi họ không trình bày đầy đủ Mạc
khải của Thiên Chúa.
Một người viết nhật
ký viết lại một biến cố quan trọng trong cuộc sống của mình liền ngay khi nó xảy
ra. Ít năm sau mở ra đọc lại, người ấy cảm thấy biến cố trước kia vẫn tác động
cách sâu xa nơi họ.
Cũng vậy, tác giả nhân loại đã ghi lại Mạc khải
của Thiên Chúa ngay lúc được Ngài mạc khải. Khi đọc lại những Mạc khải này chúng
ta cảm thấy các lời nói, việc làm của Chúa rất gần chúng ta và giúp chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa đang hoạt động trong cuộc
sống của chúng ta hôm nay.
Hơn nữa, Thiên Chúa
luôn hướng dẫn Hội Thánh hiểu Thánh Kinh, vì Ngài muốn chúng ta có những giáo
huấn của Ngài trong hình thức hiện tại qua những gì Ngài đã ban ngày xưa, khi
những biến cố vĩ đại của ơn cứu độ còn mới
mẻ trong tâm trí con người.
Thánh Kinh phải được
hiểu như chính Thiên Chúa và các tác giả nhân loại muốn nói. Để truyền đạt Mạc
khải cho người khác, tác giả nhân loại đã sử dụng hình thức văn chương của thời
đại ông. Thiên Chúa đã mạc khải qua nhiều thời đại khác nhau, nên Thánh Kinh chứa
đựng nhiều kiểu văn, nhiều hình thức văn chương khác nhau như thi ca, dụ ngôn,
trào phúng, khải huyền, lịch sử…mỗi loại văn trình bày chân lý theo cách thế riêng,
vì thế để hiểu được Mạc khải, chúng ta phải dựa vào thể văn được sử dụng. Hiến
chế Mạc Khải viết: “Vì trong Thánh Kinh,
Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy, nên dễ
cảm thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh kinh
phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử
thực sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn ta qua lời của họ”
(Số 12).
-Khung cảnh lịch sử
của Thánh Kinh là đáng tin cậy. Các tìm kiếm của khoa khảo cổ học hiện đại minh
chứng điều đó. Thật vậy, trong khi các trường phái Kitô giáo nhận ra tầm quan
trọng của việc hiểu biết các hình thức văn chương của Thánh Kinh thì khoa khảo
cổ hiện đại đã xác quyết tính cổ xưa và đích thực về yếu tố lịch sử của Thánh
Kinh.
-Việc khám phá các
thủ bản Thánh Kinh: Vào năm 1947, “cuộc khám phá thủ bản vĩ đại nhất” đã xảy ra
khi người ta tìm thấy, lần đầu tiên, các cuộn sách cũ trong một cái hang gần Biển
Chết. Từ đó, mười cái hang khác trong một phạm vi vài dặm ở Qumran đã cung cấp
nhiều tài liệu hơn nữa. Người ta tiếp tục khám phá ra hơn 600 bản thảo bao gồm
hàng chục cuộn sách đầy đủ và hàng ngàn đoạn văn khác có từ thế kỷ thứ III TCN tới các thập niên đầu tiên
của Kitô giáo: một phần tư các bản văn Thánh Kinh Hy lạp bao gồm một cuộn sách
Isaia được giữ gìn cẩn thận; các bản thảo của mỗi quyển Cựu Ước trừ sách
Esther, các sách Đệ nhị luật; các đoạn văn của sách Tôbia, Huấn ca và thư của
Giêrêmia. Những bản văn cổ xưa này đã được những người Essseniens, một giáo phái
Do thái tách riêng ra sống thành một cộng đoàn tu viện ở
Những khám phá
tình cờ này đã cung cấp cho chúng ta nhiều sách Cựu Ước của bản văn Hy lạp cũ xưa
hơn 1000 năm so với các bản văn đã có trước đây. Các tài liệu thần học và luật
lệ của phái Esssenien cũng đã soi sáng phần nào trong việc tìm hiểu Tân ước. Có
người cho rằng Chúa Giêsu chịu ảnh hưởng của phái Esssenien ở
Năm 1945, người ta cũng
đã khám phá ở Nag Hammaradi, Ai cập nhiều bản văn Kitô giáo của các Kitô hữu phái
ngộ đạo như tin mừng của thánh Tôma, của Philipphê, của Maria Madalena…Các bản
văn này cho chúng ta nhiều thông tin về sự phát triển của Kitô giáo thuở ban đầu
và đặc biệt của nhóm ngộ đạo đã biến mất sau thế kỷ II.
Một khám phá nổi tiếng
gần đây là tập giấy
Nhiều khám phá khác
về thủ bản và các chỉ thảo ở Trung Đông đã và đang làm sáng tỏ hơn về thời gian
của Thánh Kinh. Khoa khảo cổ Thánh Kinh, một môn học mới đang giúp gia tăng sự
hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc và ý nghĩa của các bản văn Thánh Kinh.
-Vấn đề nguyên bản
Không một nguyên bản
nào của các sách Cựu Ước và Tân Ước còn lại tới ngày nay, nhưng các bản sao chép
thì cũ xưa hơn và nhiều hơn bất cứ cuốn sách nào của thời đại đó. Các bản sao
chép lớn nhất của Horace được ghi 900 năm sau khi ông ta chết, của triết gia
Platon gần 1300 năm sau. Chúng ta có các bản sao chép hoàn hảo của các Tin mừng
vào 250 năm sau nguyên bản của nó.So với hàng chục bản sao chép cổ, chúng ta sở
hữu những tác phẩm kinh điển được giữ giøn tốt nhất,khoảng vài ngàn bản văn Thánh
Kinh. Hơn nữa, trong các tác phẩm của các tác giả Kitô giáo vào những thế kỷ đầu
tiên của Kitô giáo,chúng ta tìm thấy hàng ngàn câu trích dẫn Thánh Kinh, đặc biệt
từ Tân ước. Tất cả chứng minh cho tính xác thực của Thánh Kinh .
Các tác giả Thánh
Kinh đã không viết một lịch sử chi tiết, khoa học theo nghĩa của thời đại chúng
ta, nên một vài nhà phê bình đã nói rằng chúng ta không thể có một bức tranh
trung thực về Đức Kitô lịch sử. Họ nói rằng, điều chúng ta có trong Tân ước chỉ
là những chứng từ đức tin của người viết và các trình thuật thì rời rạc và
hoang đường. Tuy nhiên, đa số các trường phái Kitô giáo một mặt đồng ý là đức
tin của cộng đồng kitô hữu hình thành bản văn Tân ước và có sử dụng một vài huyền
thoại, nhưng mặt khác xác quyết rằng nền tảng của các trình thuật Tin Mừng là
con người thật, Chúa Giêsu Kitô, đã nói và đã làm một số việc cụ thể và rõ ràng.
Các tác giả Tin Mừng sống trong cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi là những chứng nhân
bằng mắt hoặc những người đã biết các chứng nhân bằng mắt. Nếu Đức Kitô được miêu
tả sinh động trong các Tin Mừng là không thật thì chẳng có cộng đoàn Kitô hữu đầu
tiên và cũng không có các tín hữu sống đức tin cách can đảm và dám chết vì niềm
tin ấy.
a. Bản văn Cựu Ước “Bảy Mươi”:
Bản Thánh Kinh được
các tông đồ và các tín hữu đầu tiên sử dụng là bản dịch Hi lạp Cựu Ước, gọi là
bản Bảy Mươi. Bản dịch này có từ thế kỷ thứ III TCN tại Alexandria, Ai cập, dành
cho những người Do thái phân tán, là những người sống ở ngoại quốc ngoài
Palestine và Đền Thờ. Một bản văn thánh khác đã được thêm vào bản dịch nguyên
thủy này, một thế kỷ rưỡi sau đó: một vài thánh vịnh, sách Daniel, Esther, Tôbia
Judith, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Baruc và 1,2 Macabê. Khi Hội Thánh phát triển vượt
ra ngoài Palestine và bắt đầu Phúc âm hóa thế giới Hi-La, bản Thánh Kinh Hi lạp
này được sử dụng với đầy thiện cảm, nó trở thành cuốn Thánh Kinh của Hội Thánh
trong suốt thế hệ đầu tiên.
b. Quy điển Tân ước.
Các bản văn Tân
Ước được nhìn nhận là Lời linh hứng của Thiên Chúa phát triển rất chậm chạp.
Ban đầu, Hội Thánh tiên khởi không quan tâm tới việc ghi lại các bản văn cho thế
hệ sau, vì tin rằng ngày Đức Kitô đến lần thứ hai sắp xảy ra. Với niềm tin này,
những cố gắng truyền giáo qui về việc rao giảng Tin mừng bằng miệng. Tới khi hầu
hết các kitô hữu thế hệ đầu tiên chết đi thì các Tông đồ và những tín hữu khác
là chứng nhân đời sống công khai, tử nạn và phục sinh của Đức Kitô bắt đầu quan
tâm tới việc gìn giữ Tin mừng cho các thế
hệ sau.
Vào hậu bán thế
kỷ I, văn chương Kitô giáo bắt đầu phát triển. Lá thư đầu tiên của thánh Phaolô
gửi tín hữu Thessalonica là bản văn đầu tiên của toàn bộ bản văn Tân Ước được
truyền lại cho chúng ta dưới hình thức nguyên bản. Nó được viết ở Conrintô vào
năm 50 SCN. Thánh nhân tiếp tục viết cho các cộng đoàn khác nữa. Các thư của thánh
nhân có mục đích khuyến khích, dạy dỗ, khuyên nhủ và khiển trách các cộng đoàn.
Cuốn Tin Mừng sớm
nhất mà chúng ta có trong hình thức nguyên thủy là Tin Mừng theo Thánh Marcô. Sách
này được viết vào khoảng năm 64 SCN. Nó có tầm mức quan trọng nhất so với các sách
Tin Mừng khác vì là nền tảng của hầu hết sách Tin Mừng theo Thánh Mathêu, Luca
và cơ sở cho cuốn Tin Mừng theo Thánh Gioan.
Thánh Irênê, cuối
thế kỷ thứ II, nói rằng: “Sau khi Thánh
Phêrô và thánh Phaolô qua đời, thánh Marcô là môn đệ và là người thông ngôn của
thánh Phêrô đã viết lại lời rao giảng của thánh Phêrô” (x. Harper Bible
dictionnary).
Từ đó đã có sự tăng
triển các tác phẩm Kitô giáo. Ba cuốn Tin Mừng khác là Tin Mừng theo Thánh Matthêu,Thánh
Luca, Thánh Gioan đã được viết trong vài thập niên sau. Nhiều tác phẩm khác được
các Giáo hội địa phương nhìn nhận và đánh giá cao như thư Thánh Clementê,
Didache…nhưng chỉ những sách nào có nguồn gốc tông đồ mới được coi là có giá trị.
Giữa những năm 150 và 200 SCN, các sách Tân Ước hiện nay của chúng ta đã được
thế giới Kitô giáo chấp nhận, mặc dù một vài cuốn không được sử dụng rộng rãi.
Tư tưởng thần học
nơi các sách Tân Ước này cũng đã có sự tiến triển. Từ cuốn sách đầu tiên, thư gửi
tín hữu Thessalonica của thánh Phaolô, cho tới thư thứ hai của thánh Phêrô, cuốn
sách được viết cuối cùng của Tân ước, đã có sự tiến triển rõ rệt trong việc hiểu
biết Đức Kitô và giáo huấn của Người. Dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đầu tiên đã hiểu và viết thành văn điều
Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Kitô.
c. Quy điển hay danh
sách các sách Cựu Ước và Tân Ước đã được hình thành vào thế kỷ thứ IV.
Một số giáo phụ, học
giả những thế kỷ đầu, thường là các giám mục như Thánh Clementê thành
a. Hội Thánh thích
nghi cách diễn đạt giáo huấn của Chúa hợp với não trạng từng thời đại
Đức Kitô không
để lại cho các môn đệ của mình một tôn giáo hoàn hảo, một chân lý hoàn toàn rõ
ràng. Giáo huấn của Người được hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần và chịu sự phát triển
theo dòng thời gian. Người đã trao ban cho nhân loại trọn vẹn mạc khải của Thiên Chúa, nhưng những
người được mạc khải và cả chúng ta hôm nay không thể nào hiểu hết được. Để giúp
mỗi thời đại hiểu giáo huấn của Đức Kitô, Hội Thánh phải thích nghi cách diễn đạt
cho não trạng từng thời đại. Giáo huấn của Chúa vẫn luôn là một, nhưng chúng ta
sẽ từ từ hiểu cách đầy đủ và chính xác hơn. Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn mỗi thế
hệ, hiểu biết hơn giáo huấn của Đức Kitô.
b. Cần phải tìm
kiếm thêm để biết sứ điệp đích thực
Các Tông đồ đã
không ngồi xuống viết một thủ bản đức tin Kitô giáo hoàn toàn đầy đủ. Những gì
các ngài truyền lại cho chúng ta cần phải tìm kiếm thêm, lớn lên trong việc hiểu
biết sứ điệp đích thực của Đức Kitô, đôi khi qua những tranh cãi đau đớn như
trong cuộc tranh luận với người Do thái, những người đã cố giữ Kitô giáo theo đức
tin Do thái giáo.
c. Hội Thánh chỉ
có được một định nghĩa rõ ràng về các chân lý đức tin cách tiệm tiến
Hội Thánh tiên
khởi đã phát triển nhờ việc truyền đạt Tin mừng bằng miệng của các tông đồ và
những chứng nhân khác về cuộc đời Đức Kitô. Quả thật, người ta đã đặt nền đức
tin của họ hầu như chỉ trên lời rao giảng bằng miệng của Hội Thánh cho tới gần
cuối thế kỷ thứ II và Hội Thánh chỉ đạt được một định nghĩa rõ ràng về các chân
lý đức tin cách từ từ.
Một ví dụ về
sự phát triển Mạc khải có thể thấy trong biểu thức Phép Rửa. Biểu thức Phép Rửa
sớm nhất được ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ là người ta phải được rửa tội “nhân
danh Chúa Giêsu Kitô” (Cv 2,38; 8,16). Khi hiểu sâu xa hơn đức tin được mạc khải
thì biểu thức Phép Rửa được đổi thành “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần” (Mt 28,19).
d.Thánh Kinh đến từ
một cộng đoàn sống động
Cựu Ước phát
xuất từ một cộng đoàn sống động của dân Thiên Chúa và Tân Ước đến từ cộng đoàn Hội
Thánh sống động do Đức Kitô thiết lập, dân
e.Truyền thống đến
từ nhiều cách
Truyền thống
đến từ niềm tin của Hội Thánh, các ghi nhận việc thực hành phụng vụ, các bản văn
của các trường phái, những hướng dẫn của Hội Thánh, các sắc lệnh của các Đức Giáo
Hoàng và các Công đồng, các lời cầu nguyện của dân chúng trong Hội Thánh… Hội
Thánh chú ý cách đặc biệt tới truyền thống đến từ Hội Thánh tiên khởi, gọi là “Truyền
Thống các Tông đồ”. Truyền thống này được tìm thấy trong các bản văn phụng vụ,
các bản văn của các giáo phụ đầu tiên, các tranh ảnh, những câu được khắc trên những
tấm bia cổ nhất…
f.Truyền thống vẫn
còn đang tiếp tục và phát triển
Ngày nay,
truyền thống vẫn tiếp tục phát triển qua các bản văn của các trường phái, các hướng
dẫn của giáo quyền, các thực hành phụng vụ, các việc đạo đức của giáo dân…,vì
Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn Hội Thánh.Chính các Ngài đang
hình thành truyền thống này.
g.Truyền thống là
phương thế để hiểu Thánh Kinh
Truyền
thống của Hội Thánh giải thích các giáo huấn của Chúa trong Thánh Kinh cho chúng
ta. Để hiểu các giáo huấn của Đức Kitô, chúng ta phải nhìn vào cả hai: Thánh Kinh cho “LỜI” và truyền thống
cho “THÁNH THẦN”. Việc giải thích Thánh kinh như nhìn vào một ngôi nhà từ bên
ngoài và từ bên trong. Cả hai đều cần thiết cho việc nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa.
Do đó, các cố gắng giải thích Thánh Kinh mà không có sự trợ giúp của truyền thống
Kitô giáo thì cũng như cố gắng giải thích hiến pháp của một quốc gia mà không
biết gì đến các vấn đề liên quan như các giải thích hiến pháp của tòa án, các
phê bình của các trường phái luật.
Thật vậy,
không một tác giả Thánh Kinh nào có ý tưởng viết một cuốn sách chứa đựng tất cả
các Mạc khải của Thiên Chúa. Thánh Gioan đã viết cuốn Tin Mừng dài nhất và muộn
nhất đã nói ở cuối sách rằng: “Còn có nhiều
điều khác Đức Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế
giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21,25). Thánh Phaolô viết
: “Vậy thưa anh em, anh em hãy đứng vững
và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em bằng lời nói hay bằng
thư từ” (2 Tx2,15). Chúng ta cũng đã biết rằng Kitô giáo đã hiện diện gần
200 năm trước khi các tác phẩm Kitô giáo được cả thế giới biết đến và ngay cả
sau đó, những cuốn này được thẩm quyền Hội Thánh thông qua.
Vì thế,
chúng ta không thể sử dụng các bản văn Thánh Kinh cách tùy tiện để “minh chứng”một
giáo huấn mà không tham chiếu với Truyền thống của Hội Thánh.
a.Danh mục các sách Cựu Ước
Cựu Ước nói với
chúng ta các Mạc khải của Thiên Chúa về chính Ngài và về chương trình chuẩn bị cho
Đấng Cứu Thế đến của Ngài. Cựu Ước gồm 46 cuốn được viết bởi nhiều tác giả
trong một thời gian rất dài.
-Ngũ thư gồm 5
cuốn: Sáng thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số và Đệ nhị luật.
Ngũ thư bắt đầu
với lịch sử đầu tiên của loài người, tiếp theo là việc Thiên Chúa tuyển chọn Dân
Ngài. Cao điểm của Ngũ thư là việc ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài.
Ngũ thư cũng bao gồm các luật lệ tôn giáo là cách sống của dân Chúa chọn.
-Các sách lịch sử:
Giosuê, Thủ lãnh, Rút, 1 và 2 Samuen, 1 và 2 Các Vua, 1 và 2 Sử ký, Êdơra và Nơkhemia,
Tôbia, Giuđitha, Étte, 1 và 2 Macabê. Những sách này cho ta biết lịch sử tổng
quát của dân Israel: chinh phục Canaan, sự phát triển vương quốc Israel thời Đavit
và Salomon, đất nước bị chia đôi: Israel và Giuđa, sự suy tàn của hai miền, dân
bị lưu đầy ở Babilon, cuộc trở về từ Babilon, xây dựng lại Giêrusalem và Đền thờ.
-Các sách khôn
ngoan : Gióp, Thánh vịnh, Châm ngôn, Giảng viên, Diễm ca, Khôn ngoan, Huấn ca. Các
sách này tổng hợp nhiều lời khôn ngoan và bao gồm thi ca, cầu nguyện, phụng vụ
và những bài tình ca.
-Các sách Tiên Tri
: Isaia, Giêrêmia, Ai ca, Baruc, Edêkien, Daniel,Hôsê, Gioen, Amos, Ovadia, Giôna,
Mikha, Nakhum,Khabacuc, Sophônia, Khácgai, Giosuê, Dacaria, Malakhi. Các tiên
tri là những người của Thiên Chúa không chỉ ở thời đại cổ xưa mà còn trong toàn
bộ lịch sử văn chương của thế giới. Công việc của họ không do con người nhưng
do Thiên Chúa. Họ là những người tiên báo tương lai, quan tâm chính yếu của họ
là tình trạng hiện hành của Dân Chúa. Họ là những người khích lệ, tạo cảm hứng và cố gắng cải tạo Dân Chúa
vào những thời kỳ khủng hoảng nhất.
b.Danh mục các sách
Tân ước
Tân ước cho chúng
ta biết cái nhìn của Hội Thánh tiên khởi về đời sống và các giáo huấn của Đức Kitô.
Tân ước gồm 27 cuốn, được viết từ năm 50 tới những năm đầu thế kỷ II:
-Các sách Phúc Âm
Có bốn sách PhúcÂm: Matthêu, Marcô, Luca và
Gioan.Ba quyển đầu (Mt,Mc,Lc) được gọi là các “Tin Mừng nhất lãm”. Từ “nhất lãm”
có gốc ở tiếng Hi lạp, nghĩa là “cùng nhìn sự vật theo một kiểu”. Ba quyển này
giống nhau về nhiều phương diện: nhiều lời nói giống nhau của Chúa Giêsu, kể
nhiều câu truyện giống nhau về Chúa Giêsu, giống nhau về từ ngữ. Có thể là do cả
3 tác giả dựa vào một nguồn tài liệu là
nguồn Q (Q có nghĩa là nguồn) hoặc Mathêu và Luca lấy chất liệu của Phúc Âm
theo Marcô. Tuy nhiên, mỗi tác giả có sự xắp xếp và mục đích riêng của mình. Còn
Phúc Âm theo thánh Gioan thì khác với Phúc Âm Nhất lãm. Phúc Âm theo thánh
Gioan có rất ít lời nói và câu chuyện mà chúng ta gặp trong các Tin Mừng Nhất lãm.
Thánh Gioan cho chúng ta một hình ảnh khác về Chúa Giêsu.
- Phúc Âm theo thánh Matthêu
Phúc Âm theo Thánh
Matthêu trình bày Đức Kitô là Đấng Mêsia, là Môsê mới. Quyển này nhấn mạnh việc
Chúa Giêsu Kitô đã làm trọn lời các tiên tri đã loan báo, Người là thầy dạy luật
mới: luật yêu thương và Người quan tâm đến thái độ bên trong của cá nhân người
ta hơn là những hành động bên ngoài . Có lẽ sách này được viết ở
- Phúc Âm theo thánh
Marcô
Đây là cuốn Phúc
Âm ngắn nhất và cổ nhất,được viết vào khoảng cuối thập niên 60 hay đầu thập niên
70. Có lẽ sách này được viết ở Rôma và nhắm vào các Kitô hữu gốc dân ngoại, Thánh
Marcô trình bày Thiên Chúa đã đến và cứu chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô mà cao điểm
là cuộc Khổ nạn, Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và tột điểm là lời tuyên
xưng của viên đại đội trưởng dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15,39). Như vậy, Phúc Âm
theo Thánh Marcô nhấn mạnh rằng sức mạnh, tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả
nơi việc Chúa Giêsu đảm nhận khổ đau của con người trên thập giá và cũng nhấn mạnh
rằng làm môn đệ của Chúa Giêsu có nghĩa là đồng hóa với Người trong sứ vụ diễn
tả sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa bằng cách đảm nhận lấy đau khổ của con
người.
- Phúc Âm theo Thánh
Luca
Thánh Luca được
mô tả như là một y sĩ và môn đệ của thánh Phaolô. Phúc Âm theo Thánh Luca nhấn
mạnh tới việc Chúa Giêsu là bạn của những người bị loại bỏ: người nghèo, người
tội lỗi, người đau khổ và các phụ nữ. Đối với Luca, Chúa Giêsu là vị lãnh đạo công
chính và vô tội, một tiên tri đến để đem Tin mừng cho những kẻ bị loại trừ. Sách
này có lẽ được viết tại Rôma và cùng thời
với sách Phúc Âm theo Thánh Matthêu. Sách này nhắm tới các độc giả Kitô hữu gốc
dân ngoại.
- Phúc Âm theo thánh
Gioan
Sách Phúc Âm theo
Thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu là người Con vĩnh cửu của Thiên Chúa đã xuống thế
làm người để đem lại cho loài người sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa qua cái
chết và sự sống lại của Người. Có lẽ sách này được viết vào thập niên cuối cùng
của thế kỷ I.
- Sách Tông Đồ Công Vụ
Thánh Luca, tác giả sách Phúc Âm thứ ba đã
viết sách này. Sách này cho ta thấy sinh hoạt của Hội Thánh tiên khởi sau cuộc Phục
sinh và Lên trời của Chúa Giêsu. Sách này tập chú hầu như vào Thánh Phêrô và Thánh
Phaolô so với các tông đồ khác. Thánh Phêrô được mô tả là người mang sứ điệp
Tin mừng đến cho người Do thái. Thánh Phaolô có sứ mạng rao giảng Tin mừng cho
dân ngoại.
- 14 thư của thánh Phaolô
Thánh Phaolô đã viết các lá thư này gửi cho các
cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi hoặc cá nhân. Nội dung của các lá thư này là nhằm
củng cố đức tin của các tín hữu và sửa chữa những sai lỗi của họ. Thánh Phaolô đã
viết 13 lá còn thư gửi tín hữu Do thái là do một môn đệ của thánh nhân viết dựa
vào lời giảng dạy của ngài. Các lá thư này là một bản tóm lược thần học Kitô giáo
được trình bày do vị Tông đồ dân ngoại lừng danh. Người đọc sẽ nhận thức được
những hiểu biết sâu sắc được linh hứng của thánh Phaolô về Đức Giêsu, Người con
vĩnh cửu của Thiên Chúa.
- 7 thư chung
Thuật ngữ “chung”
ở đây có nghĩa là phổ quát. Có 7 thư chung: Giacôbê, 1 và 2 Phêrô, 1,2 và 3
Gioan, và Giuđa. Chúng ta biết tương đối ít về tác giả, thời gian và nơi biên
soạn của các thư này. Các thư Giacôbê, 1 Phêrô, 1 Gioan là những thư quan trọng
nhất trong các thư chung này.
- Sách Khải huyền
Sách Khải huyền được
xếp vào loại “khải huyền” là một loại văn viết về mạc khải các Mầu nhiệm thiêng
liêng của Thiên Chúa, thường dưới dạng những thị kiến ly kỳ kèm với những nhân
vật lạ lùng trên trời hay dưới địa ngục. Do đó, khi đọc sách Khải huyền, ta thấy
hàng loạt các thị kiến với những ngôn ngữ biểu tượng và huyền bí. Những gì sách
trình bày liên quan tới thời gian, từ ngày Chúa Giêsu lên Trời tới ngày Người
trở lại,tức là ngày tận thế, nhằm an ủi các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu đang bị
đế quốc Rôma bách hại.
III.THÁNH KINH TRONG PHỤNG VỤ
Thánh Kinh hình thành
nền tảng của Phụng vụ. Trái tim của Thánh lễ là Thánh Kinh. Hầu hết các lời
nguyện của Thánh lễ, các bí tích, kinh nguyện hằng ngày của linh mục, tu sĩ được
lấy từ Thánh Kinh.
Phương cách tốt nhất
để đón nhận Lời Chúa là khi Thánh Kinh được đọc trong Thánh lễ. Phần đầu của Thánh
lễ được gọi là phần Phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này, Thiên Chúa nói Lời của
Ngài cho dân chúng. Tại núi Sinai, dân Chúa chọn tập hợp lại để nghe Lời Chúa. Họ đồng ý với Lời Ngài và giao ước được
thiết lập giữa Ngài và họ bằng một hy tế. Ngày nay, dân chúng tụ họp trong Thánh
lễ để nghe Lời Chúa và sau đó chấp nhận Lời Ngài qua việc tham dự hy tế giao ước
mới của Đức Kitô.
Vì vậy, Thánh Kinh
là trái tim của Thánh lễ. Khi chúng ta đón nhận Đức Kitô trong Bí tích Thánh thể
cũng là lúc chúng ta đón nhận Đức Kitô trong “Lời”. Thánh lễ Chúa nhật có 3 bài
đọc. Bài đầu tiên là bài Cựu Ước được chọn
phù hợp với bài Tin mừng, nhấn mạnh tới sự duy nhất giữa Cựu Ước và Tân ước. Bài
đọc 2 là những đoạn liên tiếp nhau của các thư Phaolô và Giacôbê. Bài Tin mừng được
chọn theo chủ đề của mùa phụng vụ. Các bài đọc Thánh Kinh được sử dụng trong thánh
lễ gồm các đoạn Thánh Kinh khác nhau được sắp xếp theo một chu kỳ 3 năm.
IV.ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY
- Thánh
Kinh trong đời ta.
Khi
chúng ta cầm trí đọc Thánh Kinh và cố gắng áp dụng lời Thánh Kinh vào cuộc sống
của chúng ta, Thiên Chúa sẽ hiệp thông với chúng ta. Ngài giúp chúng ta biết điều
phải làm và ban ơn để ta làm điều đó. Lời Thiên Chúa nói với chính chúng ta. Những
việc Chúa làm được ghi trong Thánh Kinh có ý cho chúng ta biết Thiên Chúa vẫn
tiếp tục hiện diện giữa dân Ngài, Ngài vẫn hoạt động để giúp chúng ta ở đây và
ngay lúc này như Ngài đã giúp họ xưa kia.
-
Một vài đề nghị về việc đọc Thánh Kinh :
Mỗi ngày chúng ta nên
đọc một đoạn Thánh Kinh. Chúng ta xin Chúa Thánh Thần khai mở tâm trí chúng ta
khi đọc Thánh Kinh.
Dưới đây là những đoạn
Thánh Kinh chúng ta có thể đọc khi rơi vào một số hoàn cảnh đặc biệt. Khi đọc
những đoạn Thánh Kinh được đề nghị này, chúng ta hãy tự hỏi mình: Thiên Chúa nói
gì với tôi lúc này?
TÓM LƯỢC
(Trích Bản Toát Yếu sách
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo)
1.H. Thiên Chúa mạc khải cho con người điều gì?
T. Với lòng nhân hậu và khôn
ngoan,Thiên Chúa tự mạc khải chính mình cho con người.Qua các biến cố và lời nói,Thiên
Chúa tự mạc khải chính Ngài cũng như ý định của lòng nhân hậu,mà Ngài đã hoạch định
tự muôn đời trong Đức Kitô cho phần phúc của con người.Ý định này nhằm đón nhận
tất cả mọi người trở thành nghĩa tử trong Người Con duy nhất của Ngài nhờ ân sủng
của Chúa Thánh Thần và cho họ tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
2.H. Giai đoạn mạc khải trọn vẹn và dứt khoát của Thiên Chúa là gì?
T. Giai đoạn mạc khải trọn
vẹn và dứt khoát của Thiên Chúa được thực hiện nơi Ngôi Lời nhập thể,là Đức Giêsu
Kitô,Đấng trung gian và viên mãn của Mạc khải.Chúa Giêsu,Con duy nhất của Thiên
Chúa,đã làm người,là lời hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha.Mạc khải đã được hoàn
tất cách trọn vẹn qua việc Thiên Chúa Cha sai Con Ngài và ban tặng Thánh Thần,mặc
dù đức tin của Hội Thánh phải dần dần trải qua bao thế kỷ mới nhận biết ý nghĩa
đầy đủ của Mạc khải.
3.H. Tại sao phải lưu truyền Mạc khải và lưu truyền bằng cách nào?
T. Thiên Chúa “muốn cho mọi
người được cứu độ và nhận biết chân lý”(1 Tm 2,4),nghĩa là nhận biết Đức Giêsu
Kitô.Vì thế,phải rao giảng Đức Kitô cho mọi người,như chính lời Người dạy: “Hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”(Mt 28,19).Điều này đã được thực hiện bởi
Truyền thống các Tông đồ,gọi tắt là Truyền thống Tông đồ.
4.H. Truyền thống Tông đồ là gì?
T. Truyền thống Tông đồ là
việc chuyển đạt sứ điệp của Đức Kitô,đã được hoàn tất ngay từ lúckhởi đầu Kitô
giáo,qua việc rao giảng,làm chứng,các cơ chế,phụng tự,và các sách được linh ứng.Các
Tông đồ đã chuyển đạt mọi điều các ngài đã lãnh nhận từ Đức Kitô và học hỏi từ
Chúa Thánh Thần cho những người kế nhiệm các ngài,là các giám mục,và qua họ,cho
mọi thế hệ đến tận thế.
5.H. Truyền thống Tông đồ được thực hiện như thế nào?
T. Truyền thống Tông đồ được
thực hiện bằng hai cách : qua việc chuyển đạt sống động Lời Chúa (được gọi đơn
sơ là Thánh Truyền) và qua Thánh Kinh,trong đó cùng một lời rao giảng ơn cứu độ
được ghi lại bằng chữ viết.
6.H. Tương quan giữa Thánh Truyền và Thánh Kinh như thế nào?
T. Thánh Truyền và Thánh
Kinh liên kết và giao lưu mật thiết với nhau.Thật vậy,cả hai làm cho mầu nhiệm Đức
Kitô được hiện diện và sung mãn trong Hội Thánh vì cả hai cùng xuất phát từ một
cội nguồn là Thiên Chúa.Cả hai làm nên một kho tàng đức tin duy nhất,nơi Hội Thánh
nhận được sự đảm bảo chắc chắn vế tất cả chân lý được mạc khải.
7.H. Ai có thẩm quyền để giải nghĩa kho tàng đức tin?
T. Chỉ có Huấn quyền sinh động
của Hội Thánh,nghĩa là vị kế nhiệm thánh Phêrô làm giám mục Rôma và các giám mục
hiệp thông với ngài,mới có đủ thẩm quyền giải thích kho tàng đức tin.Huấn quyền,trong
phục vụ Lời Chúa,được hưởng đặc sủng chắc chắn về chân lý,có trách nhiệm xác định
các tín điều,nghĩa là những công thức trình bày các chân lý chứa đựng trong Mạc
khải của Thiên Chúa;thẩm quyền này cũng áp dụng trên các chân lý có liên hệ thiết
yếu với Mạc khải.
CÂU HỎI ĐỂ SUY NGHĨ VÀ THẢO LUẬN.
1.Bạn hãy phác họa tiến trình dẫn đến sự hình thành qui điển Thánh
Kinh: Cựu Ước và Tân ước
2.Hãy nêu hai đặc điểm
riêng của mỗi sách Tin mừng
3.Phần nào của sách Thánh Kinh giầu ý
nghĩa nhất đối với bạn?