Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Khóa VII Ngày 28 tháng 10 Năm 1965
Phaolô Giám
Mục
Tôi Tớ Các
Tôi Tớ Thiên Chúa
Hiệp Nhất
Với Các Nghị Phụ Của Thánh Công Ðồng
Ðể Muôn Ðời
Ghi Nhớ
Sắc Lệnh
về Ðào Tạo Linh Mục
(Optatam Totius)
Bản dịch
Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Đalạt
Sắc Lệnh 1*
về Ðào Tạo
Linh Mục 2*
Lời Mở Ðầu
Mọi người
mong ước canh tân toàn thể Giáo Hội, Thánh Công Ðồng ý thức rõ ràng như thế, và
công cuộc canh tân này phần lớn tùy thuộc việc thi hành chức vụ Linh Mục 1 đã được Thần Linh Chúa Kitô thúc đẩy 3*, do đó Thánh Công
Ðồng tuyên bố việc Ðào Tạo Linh Mục là việc vô cùng quan trọng và nêu ra một
vài nguyên tắc căn bản: các nguyên tắc này xác quyết những qui luật đã được
kinh nghiệm ngàn năm 4*
chấp nhận và thêm vào đó những nguyên tắc mới cho hợp với các Hiến chế và Sắc
lệnh của Thánh Công Ðồng này cũng như với những biến chuyển của thời đại. Vì
tính cách duy nhất của chức Linh Mục Công Giáo, nên việc đào tạo Linh Mục là
cần thiết cho tất cả các Linh Mục dòng cũng như triều, thuộc bất cứ lễ chế nào.
Do đó, những chỉ thị sau đây, tùy trực tiếp nhằm cho hàng Giáo sĩ triều, nhưng
cũng phải tùy nghi thích ứng cho tất cả.
I. Phương
Thức Ðào Tạo Linh Mục
Áp Dụng Cho
Từng Dân Tộc
1. Việc đào tạo phải phù hợp với địa
phương. Vì có quá nhiều dân tộc và địa phương khác nhau, nên
chỉ có thể nêu ra những qui luật tổng quát. Do đó, mỗi dân tộc hay mỗi lễ chế
phải áp dụng một "Phương thức đào tạo Linh Mục" riêng, được Hội Ðồng
Giám Mục ấn định 2, kiểm
nghiệm sau một thời gian và được Tông Tòa phê chuẩn 5*. Nhờ vậy những quy luật phổ quát sẽ được
thích nghi với những hoàn cảnh riêng của địa phương và thời đại, để việc đào
tạo Linh Mục luôn luôn đáp ứng những nhu cầu mục vụ địa phương, nơi mà các Linh
Mục phải thi hành chức vụ.
II. Ân Cần
Cổ Võ Ơn Thiên Triệu Linh Mục
2. Trách
nhiệm của toàn dân Thiên Chúa. Toàn thể cộng đoàn Kitô hữu có bổn
phận cổ võ các ơn thiên triệu 3, mà trước
hết phải tiến hành nghĩa vụ ấy bằng một đời sống Kitô hữu trọn vẹn; các gia
đình sống tinh thần đức tin, đức mến và đạo hạnh trở nên như chủng viện sơ khởi
6*, còn
những giáo xứ là nơi các thanh niên tham dự vào đời sống phong phú của mình.
Các giáo chức và tất cả những ai, bằng bất cứ cách nào, lo việc giáo dục thiếu
nhi và thanh niên, nhất là những Hội Ðoàn công giáo phải chú tâm đào luyện các
thanh thiếu niên được ủy thác cho mình để họ có thể nhận ra ơn thiên triệu và
sẵn lòng bước theo. Mọi Linh Mục phải hết sức nêu cao lòng nhiệt thành tông đồ
để khích lệ các ơn thiên triệu và lôi cuốn tâm hồn các thanh thiếu niên đến
chức Linh Mục, bằng chính đời sống cá nhân khiêm nhượng, cần mẫn, vui tươi,
cũng như bằng tình tương thân tương ái và cộng tác huynh đệ giữa các Linh Mục 7*.
Các Giám Mục có nhiệm vụ thúc đẩy đoàn chiên mình cổ võ
ơn thiên triệu 8*,
và phải lo phối hợp chặt chẽ mọi năng lực cũng như mọi cố gắng. Thực vậy, các
ngài phải lấy tình cha con, không quản ngại hy sinh để giúp đỡ những người
chính các ngài xét là được gọi làm sản nghiệp Chúa.
Như thế, việc toàn dân Thiên Chúa hăng say hiệp lực cổ võ
các ơn thiên triệu sẽ đáp ứng hành động của Chúa Quan Phòng 9*. Chính Ngài ban
những ơn thích hợp cho những ai được Ngài tuyển chọn để tham dự chức Linh Mục
phẩm trật của Chúa Kitô và Ngài giúp đỡ họ bằng ân sủng, đồng thời còn ủy nhiệm
cho các thừa tác viên hợp pháp của Giáo Hội quyền được gọi những ứng sinh mà
các ngài nhận thấy có đủ khả năng, đã được thử thách, có ý ngay lành và hoàn
toàn tự do xin thi hành chức vụ cao cả này; các ngài còn được quyền thánh hiến
họ bằng ấn tích Chúa Thánh Thần để họ phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ Giáo Hội 4.
Thánh Công Ðồng trước tiên đề nghị những phương thế hỗ
trợ theo truyền thống, thí dụ: thiết tha cầu nguyện, sám hối theo tinh thần
Kitô giáo, kể cả việc cung ứng cho các Kitô hữu một kiến thức mỗi ngày mỗi thêm
sâu rộng hoặc bằng giảng thuyết và giáo lý, hoặc bằng những phương tiện truyền
thống xã hội, để làm sáng tỏ mức khẩn thiết, bản chất và sự cao qúy của ơn
thiên triệu Linh Mục 10*.
Hơn nữa, Công Ðồng yêu cầu các Hội Cổ Võ ơn thiên triệu đã có hoặc sẽ phải
thành lập trong mỗi giáo phận, mỗi miền hoặc mỗi quốc gia theo như các văn kiện
của các Ðức Giáo Hoàng, phải tổ chức có phương pháp và hệ thống, lại phải vừa
thận trọng vừa hăng say đẩy mạnh toàn thể hoạt động mục vụ nhằm cổ võ ơn thiên
triệu, đồng thời đừng bỏ qua những trợ lực hữu ích và thích hợp do khoa tâm lý
và xã hội học hiện đại cung cấp 5.
Nhưng công cuộc cổ võ ơn thiên triệu phải rộng rãi vượt
khỏi ranh giới của từng giáo phận, quốc gia, dòng tu hoặc lễ chế và lưu tâm đến
nhu cầu của toàn thể Giáo Hội 11* để nhất
thiết trợ giúp những miền đang khẩn cấp cần đến những thợ làm vườn nho Chúa.
3. Huấn luyện đức dục và trí dục trong
các tiểu chủng viện. Trong các Tiểu Chủng Viện 12* được thiết lập để vun trồng những mầm non
ơn thiên triệu 13*, các chủng sinh phải được chuẩn bị bước theo Chúa Kitô Cứu Chuộc 14* với tinh thần quảng đại và tâm hồn
trong trắng, nhờ một nền giáo dục tôn giáo đặc biệt, nhất là 15* sự linh hướng thích hợp. Với sự dìu
dắt đầy tình phụ tử của các Bề Trên và với sự cộng tác thuận lợi của các phụ
huynh, chủng sinh phải sống một đời xứng hợp với lứa tuổi, với tinh thần mà mức
độ phát triển của con người thiếu niên và hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn tâm
lý lành mạnh 16*, cũng đừng
để họ thiếu kinh nghiệm trường đời và thiếu liên lạc với 17* gia đình họ 6. Ngoài ra, các tiêu chuẩn sau đây được
quy định cho các Ðại Chủng Viện cũng được thích nghi cho các Tiểu Chủng Viện,
còn về học vấn chủng sinh phải theo đuổi, nên tổ chức thế nào để họ có thể tiếp
tục dễ dàng ở nơi khác nếu họ chọn một bậc sống khác 18*.
Cũng phải tùy hoàn cảnh địa phương để
ân cần cổ võ các mần non ơn thiên triệu nơi thanh thiếu niên trong các Cơ Sở
giáo dục 19* cùng theo
đuổi một mục đích như các Tiểu Chủng Viện, và cả nơi những kẻ đang thụ huấn
trong các trường khác hoặc đang theo đuổi những phương thức giáo dục khác, ước
gì mọi người lưu tâm cổ võ những Cơ Sở giáo dục và các tổ chức tương tự khả dĩ
giúp những người lớn tuổi 20* bước theo
ơn thiên triệu.
III. Tổ
Chức Các Ðại Chủng Viện
4. Huấn
luyện với ý hướng mục vụ. Các Ðại Chủng Viện cần thiết 21* để đào tạo các Linh Mục. Việc giáo dục
toàn diện chủng sinh phải nhằm huấn luyện cho họ thực sự trờ thành những vị chăn
dắt các linh hồn 22*, theo
gương Chúa giêsu Kitô là Thầy, là Linh Mục và là Chủ Chăn 7. Vậy họ phải được chuẩn bị chu toàn chức
vụ rao giảng lời Chúa để mỗi ngày mỗi hiểu lời Mạc Khải của Chúa hơn, để được
thấm nhuần lời Chúa nhờ suy gẫm và diễn tả trong lời nói cùng cách sống. Họ
phải được chuẩn bị chu toàn tác vụ phụng vụ và thánh hóa: để thi hành công cuộc
cứu rỗi qua Hy Tế Thánh Thể và các Bí Tích, bằng lời cầu nguyện và nghiêm chỉnh
cử hành các nghi lễ phụng vụ. Họ phải được chuẩn bị thi hành chức vụ chủ chăn 23*, để họ biết làm cho mọi người thấy
Chúa Kitô hiển hiện như Ðấng "không đến để cho người ta phục vụ nhưng để
phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc thiên hạ" (Mc 10,46; x. Gio
13,12-17) và để họ trở nên tôi tớ mọi người hầu cứu được nhiều người hơn. (x.
1Cor 9,19).
Vì thế, mọi
phương thức huấn luyện tu đức, học vấn, kỷ luật phải cùng qui hướng về mục đích
mục vụ này, đồng thời, các vị giám đốc và giáo sư phải nhiệt thành và nhất trí
hành động trong khi trung thành vâng phục quyền Giám Mục mà theo đuổi mục đích
đó.
5. Tuyển
chọn bề trên và ban giảng huấn. Việc đào tạo chủng sinh không những
tùy thuộc qui luật sáng suốt mà nhất là còn tùy thuộc khả năng của các nhà giáo
dục. Do đó, các giám đốc 24* và giáo sư
Chủng Viện phải được chọn lựa trong số những vị ưu tú nhất 8. 25* Các vị đó
phải được chuẩn bị chu đáo trước 26* với một nền học thuyết vững chắc, một
kinh nghiệm mục vụ thích đáng và được huấn luyện đặc biệt về tu đức và sư phạm.
Vì thế, để đạt mục đích này, cần cổ võ mở những học viện hay ít là mở những lớp
tổ chức theo một qui chế thích hợp cũng như những cuộc hội thảo định kỳ cho các
vị Giảng Huấn Chủng Viện.
Các vị
trong ban giảng huấn 27* phải xác
tín rằng kết quả việc đào tạo chủng sinh lệ thuộc phần lớn ở tư cách tư tưởng
và hành động 28* của chính
mình, dưới quyền hướng dẫn của vị Giám Ðốc, các ngài phải cộng tác thật chặt
chẽ trong tinh thần và hành động, và giữa các ngài với nhau, cũng như giữa các
ngài và các chủng sinh chỉ còn là một gia đình phù hợp với lời nguyện của Chúa
"Xin cho chúng nên một" (Gio 17,11) và để nuôi dưỡng nơi chủng sinh
niềm vui ơn thiên triệu của họ. Ðức Giám Mục phải kiên tâm và ưu ái nung đúc
tinh thần những người làm việc trong Chủng Viện và phải cư xử với các chủng
sinh như một người Cha đích thực trong Chúa Kitô. Sau hết tất cả các Linh Mục
phải coi chủng viện như con tim của giáo phận và phải sẵn lòng góp công giúp đỡ
9.
6. Ðiều tra về ý ngay lành. Phải tùy
theo lứa tuổi và trình độ của mỗi ứng sinh 29* mà điều
tra cẩn thận về ý ngay lành và ý chí tự do 30*, về khả
năng đạo đức, luân lý và học vấn, về sức khỏe thể lý và tâm lý xứng hợp, đồng
thời cũng cần để ý đến những khuynh hướng có thể là do gia truyền. Cũng phải
cân nhắc khả năng đảm đương các chức vụ Linh Mục và thi hành những phận sự mục
vụ 31* của họ sau
này 10.
Trong tất cả công việc tuyển lựa chủng sinh và việc thử
thách cần thiết, phải luôn luôn vững tâm 32* dù phải
buồn lòng chịu thiếu linh mục 11,
Thiên Chúa không để Giáo Hội Ngài thiếu thừa tác viên, nên nếu chỉ cho những kẻ
xứng đáng tiến chức, thì phải lấy tình cha con kịp thời hướng dẫn những người
không đủ tư cách tìm kiếm những chức vụ khác và giúp họ ý thức về ơn gọi Kitô
hữu của mình để hăng say dấn thân trong việc tông đồ giáo dân.
7. Chủng viện liên giáo phận. Khi nào
mỗi giáo phận không thể tổ chức một Chủng Viện riêng cách thích đáng, phải
thiết lập và cổ võ các Chủng Viện chung 33* cho nhiều
giáo phận, cho toàn miền hoặc cho toàn quốc để chú tâm vào việc thận trọng đào
tạo các chủng sinh cách hữu hiệu hơn vì việc đào tạo phải được coi là qui luật
tối thượng trong vấn đề này. Những Chủng Viện toàn miền hay toàn quốc ấy phải
được quản trị theo qui chế do các Giám Mục liên hệ ấn định 12 và được Tòa Thánh
phê chuẩn.
Trong các Chủng Viện đông chủng sinh, phải phân chia các
chủng sinh thành từng nhóm nhỏ tương xứng để cho việc huấn luyện cá nhân của
từng người được tốt đẹp hơn 34*. Tuy nhiên
vẫn phải duy trì sự thống nhất về qui chế và chương trình học vấn.
IV. Phải Chú Trọng Ðến Việc Huấn Luyện Tu Ðức 35*
8. Một đời
sống thiêng liêng sâu sắc. Việc huấn luyện tu đức phải liên kết chặt
chẽ với việc trau dồi học vấn và huấn luyện mục vụ, nhất là phải được thực hiện
nhờ sự trợ giúp của cha Linh Hướng 13, 36* sao cho các chủng sinh tập biết luôn
sống kết hợp mật thiết với Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô Con Người và trong
Chúa Thánh Thần. Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô
Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen
sống kết hợp với Người như bạn hữu 14. Họ phải
sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho
đoàn chiên sẽ được giao phó. Phải dạy họ biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc
trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí
thánh của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ 15. Cũng phải dạy cho họ biết tìm gặp
Chúa Kitô trong Ðức Giám Mục, Ðấng sai họ đi và trong những người mà họ được
sai đến, nhất là trong các kẻ nghèo khó, hèn mọn, đau yếu, tội lỗi và cả những
kẻ vô tín ngưỡng. Họ phải lấy lòng tin cậy như con thảo mà tôn kính và yêu mến
Ðức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, Ðấng mà Chúa Kitô khi hấp hối trên Thánh Giá đã
trối ban làm mẹ người môn đệ.
Phải hết
sức cố gắng cổ võ việc đạo đức 37* đã được
tập quán đáng kính của Giáo Hội khuyên làm, nhưng phải lưu tâm đừng để việc
huấn luyện tu đức chỉ hệ tại những việc đạo đức ấy hay chỉ là một nỗ lực tạo ra
thứ đạo đức tình cảm. Các chủng sinh phải học sống theo Phúc Âm, đứng vững
trong đức Tin, Cậy, Mến 38*, để trong
việc trau dồi các nhân đức ấy, họ đem lại cho mình một tinh thần cầu nguyện 16, họ củng cố bảo vệ ơn thiên triệu của
mình, họ kiên cường các nhân đức khác và lớn lên trong nhiệt tâm chinh phục mọi
người về cho Chúa Kitô.
9. Ý thức về Giáo Hội và đức vâng lời. Các chủng
sinh phải thấm nhuần Mầu Nhiệm Giáo Hội đã được Thánh Công Ðồng này đặc biệt
khai sáng, để có thể làm chứng sự hiệp nhất đang thu hút mọi người về với Chúa
Kitô 17 bằng cách
thảo hiếu và khiêm tốn hiệp nhất với vị Ðại Diện Chúa Kitô, và một khi đã lãnh
nhận chức Linh Mục, họ luôn liên kết với Giám Mục của mình như những cộng tác
viên tín cẩn và tiếp tay cộng tác với các anh em Linh Mục khác 39*. Phải dạy cho họ biết mở rộng tâm hồn
tham gia cuộc sống của toàn thể Giáo Hội 40* như lời
Thánh Augustinô: "Kẻ nào càng yêu mến Giáo Hội Chúa Kitô càng có Chúa
Thánh Thần" 18. Chủng
sinh phải thấu hiểu thật rõ ràng là cuộc đời họ không phải để thống trị hay
được danh giá, nhưng để hết mình phụng sự Thiên Chúa và chu toàn bổn phận mục
vụ 41*. Phải đặc
biệt lo lắng tập sống đức vâng lời linh mục 42*, đời sống
khó nghèo 43* và tinh
thần xả kỷ 19 sao cho họ
quen mau mắn từ bỏ ngay cả những gì được phép nhưng không thích đáng và trở nên
giống Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Phải cho
các chủng sinh biết về gánh nặng họ phải đảm đương và không giấu diếm họ một
khó khăn nào của đời Linh Mục. Tuy nhiên, đừng vì đó mà làm cho họ hầu như chỉ
nhìn thấy khía cạnh nguy hiểm trong gánh nặng mai ngày, trái lại, tốt hơn phải
vì đó huấn luyện cho họ biết dùng chính hoạt động mục vụ của họ để kiện cường
đời sống tu đức cho thật vững mạnh.
10. Ðời
trinh khiết. Các chủng sinh theo truyền thống đáng kính mà sống bặc
độc thân linh mục đúng với qui luật thánh thiện bền bỉ của lễ chế mình, phải
được cẩn thận hướng dẫn sống bậc sống ấy 44*. Một khi
khước từ đời hôn nhân vì Nước Trời (x. Mt 19,20), họ kết hợp với Chúa bằng một
tình yêu không san sẻ 20 phù hợp
mật thiết với Giao Ước mới, họ làm chứng cho sự sống lại đời sau (x. Lc 20,36) 21 và thâu lượm được một trợ lực thích
hợp nhất để luôn mãi thi hành đức ái hoàn hảo, nhờ đó, họ có thể trở nên mọi sự
cho mọi người trong chức vụ Linh Mục 22. Họ cần
thâm tín rằng: bậc sống ấy đáng hân hoan đón nhận không phải chỉ như một mệnh
lệnh do Giáo Luật, nhưng như là một ân huệ quý giá của Thiên Chúa mà họ phải
khiêm tốn cầu xin, và phải mau mắn đáp ứng với tự do và quảng đại, nhờ ơn Chúa
Thánh Thần thúc đẩy và giúp đỡ.
Các chủng sinh phải hiểu biết đúng mức về những bổn phận
và phẩm giá của hôn nhân công giáo, biểu tượng tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo
Hội (x. Eph 5,22-33). Ðàng khác, họ cũng phải thâu hiểu nét ưu việt của đức
trinh khiết dâng hiến cho Chúa Kitô 23, để vì thế
tận hiến trọn hồn xác cho Chúa bằng một quyết định đã được cân nhắc chín chắn 45* và đại lượng.
Phải cho họ biết những hiểm nguy đang đe dọa đức khiết
tịnh của họ, nhất là trong xã hội hiện thời 24; với những
trợ lực thích ứng của Thiên Chúa và loài người, họ phải biết dung nạp sự từ
khước đời sống hôn nhân, sao cho cuộc đời và công việc của họ không những không
bị thiệt thòi gì do bậc độc thân gây ra, nhưng hơn thế nữa, họ làm chủ được hồn
xác, phát triển được sự trưởng thành trọn vẹn hơn 46*, và đạt được hạnh phúc Phúc Âm cách
toàn hảo hơn.
11. Ðức tự
chủ. Các tiêu chuẩn giáo dục Kitô giáo phải được nghiêm
chỉnh tuân hành và bổ túc các thích đáng nhờ việc sử dụng các phát minh mới mẻ
của khoa tâm lý và khoa sư phạm lành mạnh. Vì thế, một nền giáo dục khéo tổ
chức cũng phải nhằm huấn luyện cho các chủng sinh đạt được mức trưởng thành
nhân bản cần thiết 47*, nhất là
mức trưởng thành đã được kiểm nghiệm trong một đức tính cương nghị, trong khả
năng quyết định chín chắn, và một óc phê phán xác đáng về con người và về các
biến cố. Các chủng sinh phải tập cho quen điều hòa thích hợp cá tính mình, họ
phải được huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, và nói chung, phải biết quý
chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng và không thể thiếu nơi các
thừa tác viên của Chúa Kitô 25, thí dụ
như lòng thành thực, chuyên lo giữ đức công bình, đức tín trung, cư xử lịch
thiệp, khiêm tốn và bác ái trong ngôn từ 48*.
Không những phải coi kỷ luật trong đời sống Chủng Viện
như một trợ lực vững chãi của đời sống cộng đoàn và bác ái, mà hơn nữa, còn như
một thành phần thiết yếu trong tất cả công cuộc huấn luyện để đạt được tinh
thần tự chủ, phát triển được sự trưởng thành vững chắc về nhân cách, rèn luyện
được những tư cách khác giúp ích rất nhiều cho hoạt động của Giáo Hội được quy
củ và kết quả. Nhưng, phải áp dụng kỷ luật ấy sao cho các chủng sinh tự thâm
tâm sẵn sàng chấp nhận quyền hành của Bề Trên và thâm tín, vì lương tâm (x. Rm
13,5) và vì những lý do siêu nhiên. Phải áp dụng những tiêu chuẩn kỷ luật ấy
tùy theo từng lứa tuổi, để trong khi tập sống tự lập dần dần, các chủng sinh
biết sử dụng tự do một cách khôn ngoan, hành động một cách tự phát, nhiệt thành
26 và quen
hợp tác được với anh em đồng nghiệp cũng như với giáo dân.
Một khi được thấm nhuần lòng ham mộ đạo đức, sự thinh
lặng và mối bận tâm giúp đỡ lẫn nhau, tất cả cuộc sống trong chủng viện phải
được tổ chức thế nào để các chủng sinh như bắt đầu tập sự đời linh mục mai ngày
49*.
12. Thực
tập mục vụ. Ðể cho việc huấn luyện tu đức có căn bản vững chắc hơn
và để các chủng sinh quyết chí theo đuổi ơn thiên triệu với sự chấp nhận đã cân
nhắc chín chắn, các Giám Mục có bổn phận ấn định một thời gian thích hợp cho
việc huấn luyện tu đức sâu rộng hơn 50*. Các ngài
phải xét coi, nếu thuận tiện, thì gián đoạn việc học trong một thời gian hoặc
tổ chức kỳ thực tập mục vụ thích ứng để trắc nghiệm các ứng sinh Linh Mục cách
đầy đủ hơn. Các Giám Mục cũng phải tùy theo hoàn cảnh từng miền để quy định
nâng cao mức tuổi 51* chịu chức
Thánh do luật chung hiện thời ấn định, cũng như quyết định có nên cho các chủng
sinh, sau khi mãn ban Thần Học, thi hành chức vụ Phó tế trong một thời gian
thích hợp, trước khi được thụ phong Linh Mục 52*.
V. Duyệt
Lại Các Môn Học Của Giáo Hội
13. Giáo
dục về nhân bản. Trước khi học các môn học riêng của Giáo Hội, các đại
chủng sinh phải có một nền giáo dục về nhân bản và khoa học mà các thanh niên
trong quốc gia họ phải đạt tới mới có thể theo học các bậc cao đẳng 53*, ngoài ra, họ phải thâu thập một vốn
liếng La ngữ để có thể thấu hiểu và sử dụng những nguồn khoa học và tài liệu
của Giáo Hội 27. Việc học
ngôn ngữ phụng vụ riêng của từng lễ chế phải được coi là cần thiết, lại phải
hết sức cổ động cho chủng sinh học hỏi đầy đủ về các ngôn ngữ dùng trong Thánh
Kinh và Thánh Truyền. 54*
14. Lớp dự bị. Việc duyệt lại các môn học của Giáo
Hội trước hết phải nhằm làm cho các môn triết và thần học được phối trí cách
thích hợp hơn và cùng chung đường lối góp phần mỗi ngày mở rộng tâm trí chủng
sinh đón nhận Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm liên hệ đến toàn thể lịch sử
nhân loại không ngừng ảnh hưởng trên Giáo Hội, và nhất là không ngừng hoạt động
qua chức Linh Mục 28.
Ðể các chủng sinh có được cái nhìn ấy, ngay từ bước đầu
của cuộc đời tu luyện, trước khi học các môn của Giáo Hội, họ phải qua một lớp
dự bị kéo dài trong một thời gian thích hợp. Lớp nhập môn này 55* sẽ trình bày Mầu Nhiệm Cứu Rỗi sao cho
các chủng sinh nhận thức được ý nghĩa, chương trình và mục đích mục vụ của
những môn học của Giáo Hội, đồng thời giúp họ lấy đức tin đặt nền móng và thấm
nhuần cả cuộc đời mình, lại làm cho họ vững tâm theo đuổi ơn thiên triệu bằng
một tâm hồn hân hoan tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình.
15. Các môn
triết học. Phải dạy các bộ môn triết học thế nào để trước hết có
thể dìu dắt các chủng sinh thâu thập được một kiến thức chắc chắn và có hệ
thống về con người, về thế giới và về Thiên Chúa. Hãy lấy di sản triết học giá
trị ngàn đời 56* làm điểm
tựa, 29 đồng thời
hãy sử dụng những công trình biên khảo triết học hiện đại, nhất là những chiếu
hướng triết học đang ảnh hưởng mạnh nhất trong quốc gia mình 57* cũng như những tiến bộ khoa học mới
nhất. Ðược chuẩn bị đầy đủ như thế chủng sinh sẽ hiểu đúng được tâm thức của
thời đại để đối thoại được với người đương thời. 30
Phải dạy môn triết sử sao cho các chủng sinh nắm được các
nguyên lý tối hậu của các triết thuyết khác nhau, biết giữ lại những gì được
chứng minh là chân thật, có thể khám phá và luận bác các căn nguyên sai lầm. 58*
Trong cách thức giảng dạy, phải kích thích nơi chủng sinh
lòng hâm mộ quyết liệt tìm kiếm, khảo sát và minh chứng chân lý, 59* đồng thời cũng nhận chân những giới
hạn của trí óc con người. Phải cẩn thận quan tâm đến mối liên lạc giữa triết
học và những vấn đề nhân sinh đích thực cũng như các thắc mắc làm giao động tâm
trí chủng sinh, phải giúp họ nhận ra các mối liên hệ giữa các lý luận triết học
và mầu nhiệm cứu rỗi mà họ sẽ khảo sát trong ánh sáng đức tin khi học thần học.
16. Các môn thần học. Phải dạy
các môn thần học 60* trong ánh
sáng đức tin 61* và dưới sự
hướng dẫn của Giáo Hội 31 để các chủng sinh chăm chú múc lấy học thuyết Công Giáo từ nguồn Mạc Khải
của Chúa, thấu triệt rồi biến thành lương thực nuôi đời tu đức của họ 32, 62* lại có thể
rao giảng, trình bày cũng như bảo toàn 63* học thuyết
ấy trong khi thi hành chức vụ Linh Mục.
Phải đặc
biệt chuyên lo dạy Thánh Kinh cho các chủng sinh, vì Thánh Kinh 64* phải như linh hồn của toàn thể khoa
thần học 33; sau phần
nhập môn thích hợp, phải cẩn thận khai sáng cho họ phương pháp chú giải, cho họ
thấu triệt các đại đề của Mạc Khải, cho họ có hứng thú đọc và suy gẫm Thánh
Kinh hằng ngày làm của nuôi dưỡng 34.
Môn tín lý thần học phải được phân phối theo thứ tự này:
trước hết, trình bày chính các chủ đề Thánh Kinh. Phải tỏ cho các chủng sinh
thấy các Giáo Phụ Ðồng và Tây Phương, cũng như diễn tiến lịch sử tín lý đã đóng
góp gì trong việc trung thành lưu truyền và minh giải từng chân lý Mạc Khải,
đồng thời cũng xét đến mối liên lạc của nó với lịch sử Giáo Hội tổng quát 35. Thứ đến, để khai sáng các mầu nhiệm
cứu rỗi cách thật đầy đủ, các chủng sinh phải học đào sâu và nhận thức được mối
liên hệ giữa các mầu nhiệm đó nhờ công việc suy tư với thánh Tôma 36 là một tôn
sư 65*. Họ phải
học hỏi cho thấy các mầu nhiệm ấy luôn luôn hiện diện và tác động trong các
nghi thức Phụng Vụ 37 và trong
toàn thể đời sống Giáo Hội. Họ phải học cho biết cách giải đáp các vấn đề nhân
sinh theo ánh sáng Mạc Khải, biết áp dụng những chân lý Mạc Khải vĩnh cửu vào
hoàn cảnh đổi thay của những thực tại nhân loại và biết thông truyền các chân
lý ấy cho thích hợp với con người thời đại 38.
Những bộ môn thần học khác cũng phải được canh tân nhờ
tiếp xúc linh động hơn Mầu Nhiệm Chúa Kitô và lịch sử cứu rỗi. Phải đặc biệt
chú ý cải thiện môn luân lý thần học 66*, với lối
trình bày có khoa học và thấm nhuần giáo lý Thánh Kinh nhiều hơn, nó sẽ minh
giải vẻ cao đẹp của ơn thiên triệu tín hữu trong Chúa Kitô cũng như nhiệm vụ của
họ phải mưu cầu lợi ích cho đời sống thế giới trong đức ái. Cũng vậy, phải
trình bày Giáo Luật và dạy Giáo Sử 67*, cho liên
lạc với Mầu Nhiệm Giáo Hội, theo Hiến Chế tín lý "về Giáo Hội" do
Thánh Công Ðồng này tuyên bố. Môn Phụng Vụ 68* phải được
coi là nguồn mạch thiết yếu số một của tinh thần Kitô giáo đích thực, nên phải
được giảng dạy đúng theo tinh thần các khoản 15 và 16 của Hiến Chế về Phụng Vụ 39.
Tùy theo hoàn cảnh từng miền, các chủng sinh phải được
hướng dẫn để biết đầy đủ hơn về những Giáo Hội và những Cộng Ðoàn Giáo Hội ly
khai khỏi Tông Tòa Roma, để có thể góp phần xúc tiến việc tái lập hiệp nhất 69* giữa toàn thể Kitô hữu theo các chỉ
thị của Thánh Công Ðồng này 40.
Hơn nữa, phải mở đường cho họ hiểu biết các tôn giáo khác
hiện đang quảng bá trong mỗi miền 70*, để họ
nhận thấy rõ hơn những gì tốt lành và chân thật do Thiên Chúa an bài, đang tiềm
tàng nơi các tôn giáo ấy, để họ biết luận bác những sai lầm và để có thể thông
truyền ánh sáng chân lý đầy đủ cho những kẻ chưa được đón nhận ánh sáng ấy.
17. Duyệt xét lại phương pháp giáo dục. Việc huấn
luyện học thuyết không chỉ nhằm thông truyền một số khái niệm, nhưng phải nhằm
huấn luyện chủng sinh cách đích thực và sâu xa, vì thế phải duyệt các phương
pháp giáo dục 71* về cách
giảng dạy, thực tập, thảo luận, cũng như về việc khích lệ chủng sinh làm việc
riêng rẽ hay từng nhóm. Phải liệu sao cho toàn thể chương trình huấn luyện được
duy nhất và vững chắc; tránh gia tăng qua đáng các môn và giờ học, lại phải
loại bỏ những vấn đề không còn quan trọng mấy, hoặc là những vân đề phải dành
cho các bậc cao đẳng nghiên cứu sâu rộng hơn.
18. Các môn học cao đẳng. Các Giám
Mục có nhiệm vụ gửi các chủng sinh có tư cách 72*, nhân đức và trí thông minh tới học
tại những Học Viện chuyên biệt, tại các Phân Khoa hay Ðại Học, để chuẩn bị cho
có những Linh Mục được học hành cao hơn và uyên thâm hơn về các khoa học đạo
cũng như các khoa học đời xem ra thích hợp, khả dĩ có thể đáp ứng những nhu cầu
tông đồ khác nhau; nhưng khong bao giờ được xao lãng việc huấn luyện tu đức và
mục vụ, nhất là khi họ chưa chịu chức Linh Mục.
VI. Cổ Võ Việc Huấn Luyện Mục Vụ 73*
19. Tập đối thoại. Mối quan tâm về mục vụ phải chi phối
tất cả việc đào tạo chủng sinh 41, nên cũng
đòi hỏi các chủng sinh phải được cẩn thận giáo huấn về những gì đặc biệt liên
quan đến chức vụ Thánh, nhất là việc dạy giáo lý và giảng thuyết 74*, việc phụng tự 75* và ban phát các bí tích, về các công
cuộc bác ái 76*, nghĩa vụ
tìm đến với các chiên lạc và những người vô tín ngưỡng, cùng những công tác mục
vụ khác. Phải chăm lo dạy họ nghệ thuật dìu dắt cac linh hồn 77*, nhờ vậy họ có thể đào tạo mọi con cái
của Giáo Hội, trước hết biết hoàn toàn ý thức sống đời Kitô hữu và có tinh thần
tông đồ, thứ đến biết chu toàn bổn phận của bậc sống mình. Chủng sinh cũng phải
lưu tâm học cho biết cách giúp đỡ cac tu sĩ nam nữ 78* bền đỗ trong ơn gọi riêng và tiên đức
theo tinh thần của Hội Dòng 42.
Cách chung, phải làm phát triển nơi các Chủng sinh những
khả năng thích hợp rất cần thiết để đối thoại 79* được với mọi người, thí dụ: biết lắng
nghe người khác, biết lưu tâm đến những hoàn cảnh khác nhau của thân phận con
người trong tinh thần bác ái 43.
20. Tập hoạt động tông đồ. Cũng phải
dạy họ biết sử dụng những phương thế mà các khoa sư phạm, tâm lý cũng như xã
hội 44 có thể
cung cấp cho 80*, theo
những phươnh pháp đúng đắn và các tiêu chuẩn do Giáo Quyền ấn định. Phải lo
giáo huấn họ biết khích lệ và nâng đỡ hoạt động tông đồ giáo dân 81*, 45 cũng như
biết khởi xướng nhiều hình thức hoạt động tông đồ khác nhau cho hữu hiệu hơn.
Họ phải được thấm nhuần tinh thần Công Giáo đích thực, để biết quen vượt khỏi
những ranh giới địa phận, quốc gia hoặc lễ chế riêng hầu hỗ trợ các nhu cầu của
toàn thể Giáo Hội 82* và sẵn
sàng đi rao giảng Phúc Âm ở bất cứ nơi nào 46.
21. Tập hoạt động ngoài chủng viện. Vì các
chủng sinh phải học nghệ thuật hoạt động tông đồ 83* không những trên lý thuyết nhưng trên
thực hành nữa, và còn phải có khả năng thi hành công tác với tinh thần trách nhiệm
cá nhân hay tập đoàn, nên trong kỳ học cũng như kỳ nghỉ, phải cho họ tập sự mục
vụ bằng những công tác thực tập thích đáng. Phải tùy theo tuổi của chủng sinh,
tùy theo hoàn cảnh địa phương và sự xét đoán khôn ngoan của các Giám Mục mà
thực hiện các hoạt động ấy cho có phương pháp với sự hướng dẫn của những vị
giàu kinh nghiệm mục vụ, đồng thời cũng đừng quên sức hiệu nghiệm của những
phương thế hỗ trợ siêu nhiên 47.
VII. Bổ Túc
Việc Huấn Luyện Sau Khi Mãn Trường
22. Phải được tiêp tục bồi dưỡng về lý
thuyết và thực hành. Nhất là vì hoàn cảnh xã hội tân tiến nên việc huấn
luyện Linh Mục phải được tiếp tục và kiện toàn, cả sau khi kết thúc chu trình
học vấn 84* trong
chủng viện 48,
do đó các Hội Ðồng Giám Mục 85* phải liệu
tìm trong mỗi quốc gia những phương thế thích hợp, thí dụ như thiết lập những
Học Viện Mục Vụ hợp tác với những họ đạo đã tùy nghi chọn lựa, tổ chức những cuộc
hội thảo định kỳ, những khóa thực tập chuyên biệt 86*, nhờ đó lớp Giáo Sĩ còn non trẻ về
phương diện tu đức, trí thức và mục vụ được dẫn dần đưa dẫn vào đời sống Linh
Mục và hoạt động tông đồ, và họ có thể càng ngày càng cải tiến và phát triển 87* các hoạt động ấy hơn nữa.
Kết Luận 88*
Tiếp tục
công trình do Công Ðồng triđen khởi xướng, và trong khi tin tưởng trao phó cho
các vị Giám Ðốc và Giáo Sư Chủng Viện nhiệm vụ đào tạo các Linh Mục tương lai
của Chúa Kitô trong tinh thần canh tân do Thánh Công Ðồng này cổ võ, toàn thể
Nghị Phụ của Thánh Công Ðồng này tha thiết khuyến dụ những người đang dọn mình
nhận lãnh chức Linh Mục hãy cảm thức niềm kỳ vọng của Giáo Hội và phần rỗi các
linh hồn đã được trao phó cho họ, để một khi hân hoan đón nhận những tiêu chuẩn
ghi trong Sắc Lệnh này, họ sẽ thâu lượm được nhiều kết quả mỹ mãn và trường
tồn.
Tất cả và
từng điều đã được ban bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công
Ðồng chấp thuận. Và dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị
Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết
nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố
cho Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại
Ðền Thánh Phêrô, ngày 28 tháng 10 năm 1965.
Tôi, Phaolô
Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo
là chữ ký của các Nghị Phụ.
Chú Thích:
1* Ðược gọi là "Sắc Lệnh" khi
bản văn đề cập tới việc tổ chức thực tế các chủng viện và những phương thế huấn
luyện. Có 47 Nghị Phụ đã yêu cầu gọi bản văn này là "Hiến Chế" vì nó
nặng về giáo thuyết. Nhưng Công Ðồng đã giữ lại danh hiệu Sắc Lệnh. (Trở lại đầu trang)
2* "Ðào tạo", La ngữ là
"Institutio", được sử dụng từ tháng 11-1963, bao gồm ý nghĩa đào tạo
và dạy dỗ như trong bản văn Sedes Sapientiae (31-5-1965) của Ðức Piô XII về
việc đào tạo các tu sĩ. Công Ðồng Triđen, đã dùng hai động từ: dạy dỗ (đào tạo
luân lý) trong sắc lệnh về các Chủng Viện (x. CÐ Triđen, khóa XXIII, De
Reformatione, ch. 18). (Trở lại
đầu trang)
1 Chính Chúa Kitô đã muốn cho công việc
phát triển toàn Dân Chúa tùy thuộc rất nhiều vào việc thi hành chức vụ Linh
Mục. Ðiều này thấy rõ trong lời Chúa phán khi đặt các Tông Ðồ như những kẻ kế
vị và cộng tác với Người làm người rao giảng Phúc Âm, làm thủ lãnh dân tộc mới
đã được tuyển chọn, và làm quản lý phân phát các mầu nhiệm Thiên Chúa; hơn nữa
những ngôn từ của các Giáo Phụ, các Thánh, và những tài liệu được nhắc đi nhắc
lại nhiều lần của các Ðức Giáo Hoàng đều xác quyết như thế. - Xem, nhất là: T.
Piô X. Huấn dụ cho giáo sĩ Hoerent animo, 4-8-1908: S. Pii X Acta IV, trg
237-264; Piô XI, Tđ Ad catholici Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 28 (1936) nhất là
trg 37-52; Piô XII, Tông huấn Menti nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg
657-702; Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri primodia, 1-8-1959: AAS 51 (1959),
trg 545-579; Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963),
trg 979-995. (Trở lại
đầu trang)
3* Những chữ này được thêm vào do lời yêu
cầu của các Nghị Phụ khi thấy phần vào đề quá pháp lý và khô khan: không phải
việc gì cũng canh tân được Giáo Hội, nhưng chỉ có công việc bắt nguồn từ chức Linh
Mục đích thực của Chúa Kitô. Ghi chú 1 còn mang một lý do thần học giá trị nữa,
Ðể tra cứu ta có thể thêm những tài liệu của Công Ðồng Vat II trong: GH 28 và
LM 7. (Trở lại đầu trang)
4* Giáo Hội qua mọi thời không thiếu lo
lắng đối với các vấn đề sôi động này. Cũng vậy, vì muốn cởi mở với thế giới
hiện tại. Sắc Lệnh đã tìm vào nguồn phong phú trong kho tàng giáo huấn quá khứ.
Cho rằng việc đào tạo linh mục ngày nay như là một công việc hoàn toàn mới mẽ
và theo những nguyên tắc thuần xã hội là tước bỏ sự khôn ngoan hai ngàn năm qua
của Giáo Hội. Ta còn cần ghi chú rằng phần lớn những tra cứu về Giáo Huấn trong
Sắc Lệnh này đều do những bản văn thuộc thế kỷ này: 106 trên 108 ghi chú thuộc
thời gian từ 1893-1965. Ðức Piô XII được trích dẫn nhiều nhất (44 lần), chứng
tỏ Công Ðồng kính trọng rõ rệt sự sáng suốt và lòng nhiệt thành của ngài đối
với các Linh Mục. Mười lăm trích dẫn ở các văn kiện khác của Công Ðồng Vat. II
bảo đảm sự hiệp nhất trong giáo thuyết của tài liệu này đối với Công Ðồng. (Trở lại đầu trang)
2 Tất cả việc đào tạo Linh Mục, nghĩa là
việc tổ chức chủng viện, huấn luyện đời sống thiêng liêng, phương thức học
hành, đời sống chung và kỷ luật của chủng sinh, thực tập mục vụ, đều phải thích
nghi với hoàn cảnh khác nhau của địa phương. Những điểm chính yếu trong việc
thích nghi này phải được làm theo những quy tắc chung: do Hội Ðồng Giám Mục, để
áp dụng cho giáo sĩ triều, và tùy lý do thích hợp, áp dụng cho giáo sĩ dòng do
các vị Bề Trên có thẩm quyền (Xem Thánh Bộ Dòng Tu, Tông hiến Sedes Sapientae
và bản đính phụ Statula Generalia tiết mục 19, x.b. lần 2, Roma (1957), trg 38
tt. (Trở lại đầu trang)
5* Ðể giúp đỡ những cố gắng của các Hội
Ðồng Giám Mục trong việc thiết lập một phương thức đào tạo Linh Mục riêng,
Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đã ban hành ngày 6-1-1970 một "Lý thuyết căn
bản đào tạo Linh Mục". (Trở lại đầu trang)
3 Một trong những mối lo âu chính yếu
của Giáo Hội ngày nay là hầu như khắp nơi đều thấy số ơn thiên triệu giảm sút
quá nhiều. - Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: "... Ở các miền Công
giáo cũng như nơi các xứ truyền giáo, con số Linh Mục hầu như luôn không đủ để
đáp ứng những nhu cầu càng ngày càng tăng": AAS 42 (1950), trg 682. -
Gioan XXIII: "Vấn đề ơn thiên triệu giáo sĩ và tu sĩ là mối lo âu hằng
ngày của Giáo Hoàng... đó là tiếng khẩn cầu của Giáo Hoàng trong khi cầu
nguyện, là ước vọng mãnh liệt trong tâm hồn Giáo Hoàng". (Trích Huấn từ cho
Ðại Hội Quốc Tế 1 về ơn gọi tiến tới Bậc Trọn Lành, 16-12-1961: AAS 54 (1962),
trg 33). (Trở lại đầu trang)
6* Ðáng ca tụng thay lòng quí trọng của
các gia đình Việt Nam đối với ơn kêu gọi làm Linh Mục, sự nâng đỡ của các giáo
xứ đối với những người đang hướng về chức Linh Mục và lòng nhiệt thành của bao
Linh Mục nhằm bảo đảm cho có người nối tiếp. (Trở lại đầu trang)
7* Lược đồ F chỉ nói về "mẫu
gương" linh mục; 20 Nghị Phụ đã đưa ra đề nghị tu chỉnh về "chứng
tích của linh mục là nguồn ơn kêu gọi" và lược đồ G đã chỉ rõ 5 đặc tính:
bác ái, vui tươi, hòa hợp, khiêm nhường và làm việc. Trước kia, chính Ðức Piô
XII đã nói rằng: "Mỗi linh mục phải tìm thấy và chuẩn bị nơi mình một
người kế vị". (Menti Nostrae, số 75) Sắc Lệnh LM đề cập lại ở số 11a. (Trở lại đầu trang)
8* Ðức Hồng Y Garrone đưa ra những đề
nghị thực tiển vơí các Giám Mục trong tạp chí Vocation số 238 (4/1967), trg
167-173. (Trở lại đầu trang)
9* Ủy Ban đã xác quyết rằng Công Ðồng
không có ý định giải quyết vấn đề về bản chất ơn kêu gọi đã được bàn cãi vào
thời kinh sĩ Lahitton, cha Branchereau v.v... khoảng năm 1910. Ở đây Công Ðồng
chỉ thống nhất và định rõ vai trò: trước hết là Chúa kêu gọi cách nhưng không
và ban ơn hộ giúp, thứ đến Giáo Hội, qua những vị có trách nhiệm hợp pháp, xét
đoán về sự xứng hợp và gọi đến lãnh Bí Tích Truyền Chức. Những người được kêu
gọi phải đáp lại cách quảng đại, với ý hướng ngay thẳng và tự do hoàn toàn.
Những yếu tố đó cần thiết cho tất cả những ơn kêu gọi đúng nghĩa. (Trở lại đầu trang)
4 Piô XII, Tông hiến Sedes Sapientiae,
31-5-1956: AAS 48 (1956), trg 357. - Phaolo VI, Tông thư Summi Dei erbum,
4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 984 tt. (Trở lại đầu trang)
10* Lý Thuyết
Căn Bản (LTCB) lập lại ý nghĩa và sự quan trọng của "Ngày thế giới cầu cho
ơn thiên triệu". "Ngày" này được thiết lập ngày 23-1-1964 và
được ấn định cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba mùa Phục Sinh. Thật là một việc thức
thời tuyệt hảo nhằm tăng triển các ơn kêu gọi. (Trở lại đầu trang)
5 Xem nhất là, Piô XII. Tự sắc Cum Nobis
"Về việc thành lập Giáo Hoàng Hiệp Hội Cổ võ Ơn Thiên Triệu Linh mục tại
Thánh bộ chủng viện và đại học", ngày 4-11-1941: AAS 33 (1941), trg 479,
với các Ðiều Lệ và Nội Quy cũng do Thánh bộ này phổ biến ngày 8-9-1943. tự sắc
Cum Supremae "Về Giáo Hoàng Tổng Hội cổ võ ơn Thiên Triệu tu dòng",
ngày 11-2-1955: AAS 47 (1955), trg 266, với các Ðiều Lệà Nội Quy do Thánh bộ Tu dòng phổ biến (n.t. trg 298-301). - CÐ Vat. II,
Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống Dòng tu Perfectae Caritatis, số
24; Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội Christus
Dominus, số 15. (Trở lại
đầu trang)
11* Sắc lệnh
về Hoạt Ðộng Truyền Giáo (số 16a) nhắc lại rằng ơn kêu gọi làm linh mục trong
những miền truyền giáo là một dấu hiệu chắc chắn và hứa hẹn nhiều cho sự thành
lập Giáo Hội giữa các dân tộc này. (Trở lại đầu trang)
12* tại Công
Ðồng trước tình trạng sa ngã của một số linh mục nhiều Nghị Phụ tán dương việc
bắt buộc thiết lập chủng viện cho tuổi trẻ như Giáo Luật số 1354, 2 đòi hỏi: 68
vị khác lại khẩn thiết yêu cầu đừng bắt buộc như thế. Cuối cùng, ý thức về
những hoàn cảnh khác biệt giữa các quốc gia, Thánh Công Ðồng đã không đòi hỏi
điều đó. Tuy nhiên Giáo Hội cũng không thể quên tất cả những gì mà Giáo Hội đã
được hưởng nhờ qua những thể chế đã có từ Công Ðồng Triđen. Giáo Hội cũng nhắc
lại ở đây là những nơi còn giữ lại các thể chế ấy phải theo chiều hướng và dùng
các phương thế sao cho thích hợp hơn với thời đại tân tiến này. (Trở lại đầu trang)
13* Như thế là
Giáo Hội ý thức về thực tại của ơn gọi nơi trẻ em. LTCB nói rõ về điểm thường
ít được biết tới là: ơn kêu gọi này biểu hiệu bằng nhiều cách với những lứa
tuổi khác nhau trong đời sống con người, nơi các thiếu niên, nơi những người
lớn tuổi hơn; và như kinh nghiệm vững chắc của Giáo Hội chứng nhận, ơn kêu gọi
nơi các trẻ em là như một hột giống. Ơn kêu gọi thường liên kết chặt chẽ với
nếp sống đạo đức, với tính mến nồng nhiệt đối với Thiên Chúa và tha nhân, với
tấm lòng hướng về việc tông đồ (LTCB số 7).
Ở việt Nam, Giáo Hội viết rõ tất cả những gì phải làm cho các chủng viện
của tuổi trẻ; ước muốn Giáo Hội là không ngừng cải thiện (xem Lý Thuyết Quốc
Gia về việc đào tạo linh mục số 1-18, ấn bản La ngữ, tháng 7 năm 1971). (Trở lại đầu trang)
14* Bản văn
nói "Chúa Kitô Cứu Chuộc" chứ không nói "Chúa Giêsu Linh
Mục" như khi nói về các đại chủng sinh. Một câu trả lời minh nhiên của Ủy
Ban nhấn mạnh điều đó: "Một sự đào tạo thiêng liêng căn bản, đặt trên tính
cách thiêng liêng của phép Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể sẽ liên kết với Chúa
Kitô Cứu Chộc những người trẻ muốn hiến mình cho công cuộc cứu rỗi thế giới với
một lòng quảng đại, trong sạch, nhiệt tâm yêu mến Chúa Kitô. Công Ðồng đã chấp
nhận đề nghị tu chỉnh về sự trong sạch tâm hồn, trong khi bày tỏ nhu cầu cho
các thiếu niên sống giữa thế giới đầy lôi kéo về thú vui giác quan, phải biết
vững mạnh bảo vệ sự tinh khiết cho Chúa và cho những người cần được cứu vớt. (Trở lại đầu trang)
15* Bản văn nói:
"Nhất là..." chính là nhắc lại vai trò quan trọng của một sự hướng
dẫn thiêng liêng thật sự trong sự xét định, triển nở và chín mùi của ơn thiên
triệu (xem LTCB số 14). (Trở
lại đầu trang)
16* Sự đào tạo
thích ứng và phù hợp hơn với tâm lý các thiếu niên thúc giục việc xét lại nhiều
cách sử dụng hay những luật lệ có khuynh hướng muốn làm cho các thiếu niên
thành những "giáo sĩ trẻ", những thầy dòng quá sớm, khiến sự tự nhiên
và sức sống dồi dào của họ không được tôn trọng, với mối nguy hiểm đưa tới
thoái hóa tâm lý hay mặc cảm tiếm đoạt sẽ biểu lộ ra sau này bằng sự phẫn nộ,
bất mãn và chống đối. (Trở lại
đầu trang)
17* Hơn nữa
những liên lạc gia đình (những ngày nghỉ, thăm viếng, thư tín...) cần thiết để
tình thương được cân bằng. Kinh nghiệm trường đời sẽ được thâu lượm dần dần
trong những giao tiếp với xã hội và Giáo Hội địa phương: những cuộc thăm viếng
các xưởng máy và trường chuyên nghiệp, những buổi thuyết trình về các vấn đề xã
hội và tôn giáo, những phim ảnh được chọn lựa cẩn thận và được thảo luận dưới
sự hướng dẫn của giáo sư có khả năng, một thư viện với đầy đủ các sách hữu ích
về nhiều đề tài khác nhau, sự sử dụng hợp lý máy thâu thanh, truyền hình, báo
chí, tranh ảnh, tranh giải thể thao... (xem LTCB số 12). (Trở lại đầu trang)
6 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae,
23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 685. (Trở lại đầu trang)
18* Ở đây Giáo
Hội tỏ ra rất thực tế: có nhiều thiếu niên giữa đường thú nhận là không thích
hợp, nhiều người khác do dự hoặc muốn tự do chọn một hướng đi khác. Tất cả
những người đó sẽ không bị một dày vò nào khi họ từ giã chủng viện, nơi mà
người ta học các môn theo chương trình của quốc gia. Ðiều đó còn làm cho những
ai kiên trì hướng về chức linh mục có được trình độ học vấn của các thiếu niên
cùng tuổi với họ và được thích nghi vơí nền văn hóa quốc gia của thời đại họ
(LTCB số 13). LTCB còn nhắc thêm rằng: cần thêm vào chương trình những môn học
thích hợp, trực tiếp hướng về chức Linh Mục: Nhập môn Tân Ước, Giáo Sử, La Ngữ
(số 13). (Trở lại đầu trang)
19* Ở đây có
lẽ Sắc Lệnh muốn nhắc về những công trình tương tự như: những trường tông đồ,
đệ tử viện, trường thử: Sắc Lệnh cũng như muốn báo hiệu xa hơn nữa về những môi
trường giáo dục: trung học, văn đàn, học viện, nơi mà những thiếu niên có ước
vọng hướng tới chức linh mục có thể tiếp xúc và đáng được chăm sóc đặc biệt. (Trở lại đầu trang)
20* Sự nhắc
nhở về "những ơn gọi lớn tuổi" (kiểu nói "tu muộn" cần phải
đổi, nhất là ở nước ta, vì phần lớn các ơn gọi đó chưa qua khỏi tuổi 20) chứng
tỏ thái độ của Giáo Hội muốn nâng đỡ tất cả những ai Chúa có thể gọi. LTCB số
19 cũng đòi phải thiết lập những học viện để nâng đỡ họ. Số 3 này chưa hoàn
toàn thỏa mãn ước nguyện của một số đông Giám Mục ao ước có được những hướng
dẫn đầy đủ hơn cho vấn đề quan trọng đó. LTCB đề cập lại với nhiều cho tiết hơn
trong các số 11-19. (Trở lại
đầu trang)
21* Dầu một
thiểu số gồm 4 Nghị Phụ đã hủy bỏ một trào lưu nhất quyết chống lại các chủng
viện và muốn một loại học viện khác mới mẻ hơn, nhưng Công Ðồng đã muốn duy trì
các chủng viện vì biết rõ sự quan trọng và cần thiết phải đào tạo các linh mục.
(Trở lại đầu trang)
22* Ngày từ
đầu Công Ðồng đã xác quyết chủ đích mục vụ cho tất cả vấn đề đao tạo linh mục
và lại xác quyết mạnh mẽ hơn ở cuối số này. Ðiều đó sẽ trở lại như một chủ đề
trong suốt Sắc Lệnh. (Trở lại
đầu trang)
7 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về
Giáo Hội Lumen Gentium, số 28: AAS 57 (1965), trg 34. (Trở lại đầu trang)
23* Khơi dậy
chức vụ chủ chăn, Công Ðồng chỉ nhắc lại tinh thần phục vụ khiêm tốn và toàn
vẹn theo gương mẫu. Ðấng Chăn Chiên Lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên.
Giáo Hội chờ mong nơi các Linh Mục tinh thần phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi.
Công Ðồng không ngừng trở lại điểm này như một đòi hỏi tiên quyết của Linh Mục thời
đại mới, phải bỏ hẳn thái độ quan liêu và phô trương, thái độ đã làm cho Giáo
Hội phải chịu bao tổn hại trong quá khứ, Linh Mục, một Kitô khác, cũng sẽ là
một đầy tớ khác của Jahvê (xem Is 42,2-4, 6-8; 49,5-6). (Trở lại đầu trang)
24* Tiếng
"các Giám Ðốc" ở đây hiểu là các vị hữu trách, chính LTCB định rõ:
"Mỗi chủng viện có những bề trên hữu trách: giám đốc, phó giám đốc, một
hay nhiều linh hướng, giám học, vị phụ trách về sinh hoạt mục vụ, về trật tự
trong chủng viện, quản lý, quản thủ thư viện... trách vụ được chỉ định rõ ràng
và trả công chính đáng" (số 27). (Trở lại đầu trang)
8 Xem Piô XI, Tđ Ad Catholici
Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 28 (1936), trg 37: "Trước hết, mối ưu tư lớn lao
nhất là lựa ban Giám Ðốc và giáo sư... Hãy bổ nhiệm vào chủng viện những Linh
Mục ưu tú nhất, đừng tiếc mà dành họ lại cho bất cứ chức vụ nào khác, kể cả
những chức vụ có vẻ danh giá mà thực sự lại không thể sánh được với sứ mệnh
thiết yếu và không thể thay thế được kia" - Ðức Piô XII cũng đã đề cập đến
nguyên tắc phải chọn những vị ưu tú nhất trong Tông Thư gởi các Ðấng bản quyền
Brasiliae, 23-4-1947. Discorsi e
Radio-messagi IX, trg 579-580. (Trở lại đầu trang)
25* Hai đề nghị tu chỉnh giải thích
tiếng "những người ưu tú" về nhân đức và hiểu biết và tiếng
"không loại trừ giáo dân" x. M 59/6, 7. (xem LTCB, số 30). (Trở lại đầu trang)
26* Xem LTCB số 30 và ghi chú 86. Vấn
đề này được trình bày trong những lược đồ đầu tiên theo đòi hỏi minh nhiên của
nhiều Giám Mục, nó gồm 3 số trong lược đồ B. Ủy ban hữu trách đã tuyên cáo:
"Thật là quan trọng khi Công Ðồng Vat. II chăm sóc đặc biệt việc chuẩn bị
các Giám Ðốc và Giáo Sư cho các chủng viện". (Trở
lại đầu trang)
27* Xem LTCB số 32-38. (Trở lại đầu trang)
28* Bầu khí thuận lợi được bảo đảm do
các đặc điểm sau: tùy thuộc bề trên tôn trọng lẫn nhau, hợp nhất tâm tình và
hành động, tinh thần gia đình giữa họ với các chủng sinh. Những dòng này được
thêm vào lược đồ G theo lời yêu cầu của 17 Nghị Phụ Công Ðồng (M 57/1). (Trở
lại đầu trang)
9 Về bổn phận giúp đỡ Chủng Viện, xem
Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 984. (Trở lại đầu trang)
29* Xem LTCB số 39. (Trở lại đầu trang)
30* Trước hết phải tìm hiểu lý do và sự
tự ý của ứng viên. Những lầm lẫn về lãnh vực này sẽ dẫn tới các thảm họa mai
sau (x. thêm LTCB số 39). (Trở lại đầu trang)
31* Theo các để nghị tu chỉnh, các
trách vụ linh mục phải hiểu đặc biệt về sự độc thân, các bổn phận mục vụ như có
thể nghe, hiểu, đối thoại và hướng dẫn người khác. (Trở lại đầu trang)
10 Xem Piô XII, Tông huấn Menti
nostri, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 684 và xem Thánh Bộ Bí Tích, thư luân lưu
gởi các Ðấng bản quyền Magna Equidem, 27-12-1935, số 10. - Các tu sĩ, xem
Statua neneralia đính phụ Tông hiến Sedes Sapientiae, 31-5-1956, tiết mục 33. -
Phaolô VI, tông thư Summi Dei Verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 987 tt. (Trở lại đầu trang)
32* Xem LTCB số 40 và 41. (Trở lại đầu trang)
11 Xem Piô XI, Tđ Ad Catholici
Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 55 (1963), trg 41. (Trở lại đầu trang)
33* Từ thời
Công Ðồng Triđen, và theo Giáo Luật (kh 2354) mỗi giáo phận phải tổ chức chủng
viện riêng của mình, nhưng những đòi hỏi hiện tại đòi phải thiết lập những
chủng viện chung để có đủ số học sinh và nhật là để có nhiều người được đủ tư
cách hơn. Sắc Lệnh tiên liệu những chủng viện chung cho nhiều giáo phận, cho
một miền hoặc một quốc gia, tùy theo các Giám Mục. Như vậy khoản giáo luật
1357, 4 bị hủy bỏ (xem LTCB số 21). (Trở lại đầu trang)
12 Ðể các Giám Mục liên hệ có thể tham
gia việc dự thảo quy chế cho các chủng viện miền hay quốc gia khoản Giáo Luật
1357, 4 bị hủy bỏ. (Trở lại
đầu trang)
34* Xem LTCB
số 23. (Trở lại đầu trang)
35* Chương này
đề cập tới yếu tố quan trọng nhất trong việc đào tạo linh mục. Ðây là kết quả của
một việc làm lâu dài với nhiều thảo luận và biên soạn. (Trở lại đầu trang)
13 Xem Piô XII, Tông hiến Menti Nostrae,
23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 675. - Thánh Bộ Chủng Viện và Ðại Học, La
Formazione spirituale del candidato al sacerdozio, Cita del Vaticano, 1965. (Trở lại đầu trang)
36* Ai cũng
biết sự quan trọng của việc hướng dẫn thiêng liêng để nhận thức và trưởng thành
trong ơn thiên triệu, và Sắc Lệnh cũng đã đề cập cách minh nhiên ngay từ đầu
chương nói về việc đào tạo thiêng liêng. Nhưng một vấn nạn có thể đặt ra: Công
Ðồng muốn chỉ có một vị linh hướng trong chủng viện, hay có thể được tự do chọn
lựa trong tất cả các linh mục ở chủng viện theo sở thích mỗi người? LTCB số 27
viết: Giữa các vị hữu trách của chủng viện, người ta đề cử một hay nhiều vị
linh hướng. Số 45 lập lại rằng việc đào tạo thiêng liêng là do ở các ngài. Số
23 khi nói về những nhóm nhỏ, có thêm rằng phải giữ được sự đào tạo kiến thức
khoa học. Khi bàn về bí tích Giải Tội và tinh thần sám hối, số 55 nói: mỗi
người phải có một vị linh hướng riêng để cởi mở tâm hồn với ngài, với lòng tin
tưởng và khiêm tốn, để được hướng dẫn chắc chắn trên con đường của Chúa. Chủng
sinh sẽ tự do chọn vị linh hướng và vị giải tội cho mình trong số các linh mục
mà Giám Mục đã chỉ định như là những vị có thẩm quyền về trách vụ này. Vậy còn
vài mập mờ: một đàng thì đồng nhất trong việc hướng dẫn, đàng khác thì tự do
lựa chọn. (Trở lại đầu trang)
14 Xem Thánh Piô X, Huấn dụ hàng Giáo sĩ
Hacrent animo, 4-8-1908: S Pii X Acta, IV, trg 242-244. - Piô XII Tông huấn
Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 659-661. - Gioan XXIII, Tđ
Sacerdotii Nostri Primodia, 1-8-1959: AAS 51 (1959), trg 550 tt. (Trở lại đầu trang)
15 Xem Piô XII, Tđ Mediator Dei,
20-11-1947: AAS 39 (1947), trg 547 tt và 572 tt. - Gioan XXIII, Tông huấn
Sacrae Laudis, 6-1-1962: AAS 54 (1962), trg 69. - CÐ vat. II, De sacra
Liturgia, s61 16 và 17: AAS 56 (1964), trg 104 tt. - Thánh Bộ Nghi Lễ
Instructio ad executionem Constitutionis de sacra liturgia recte ordinandam,
26-9-1964, số 14-17: AAS 56 (1964), trg 880 tt. (Trở lại đầu trang)
37* Sau khi đề
ra chiều hướng giáo thuyết, Công Ðồng trở lại những yếu tố thực tế phát xuất từ
đó. Ðức Piô XII trong "Menti nostrae" lập lại những điều Giáo luật
qui định (kh 1367): nguyện gẫm, lần hạt, cầu nguyện, viếng Thánh Thể xét mình
xưng tội thường xuyên, việc linh hướng, tĩnh tâm. (Trở lại đầu trang)
38* Ta có thể
đối chiếu cả chương này với những bản văn tương tự ở GH 28: PV. 5-7, 16-17, 47,
61, 90: LM 13, 18; MV. 43, 5,6: tinh thần các bản văn rõ ràng dựa theo Thánh
Kinh, tập trung vào Chúa Kitô và tuân phục Giáo Quyền. (Trở lại đầu trang)
16 Xem Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri
Primordia: AAS 51 (1959), trg 556 tt. (Trở lại đầu trang)
17 Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo
Hội Lumen Gentium, số 28: AAS 57 (1965), trg 35 tt. (Trở lại đầu trang)
39* Xem LTCB
số 46-47. (Trở lại đầu trang)
40* Ðây là chủ
đề thông thường của Vat II, sự cởi mở với toàn thể Giáo Hội này phải được ghi khắc
trong lòng các linh mục tương lai: như Chúa Kitô, lòng họ phải biết chấp nhận
mọi người, mọi ngôn ngữ, chủng tộc và mọi quốc gia. (Trở lại đầu trang)
18 Thánh Augustinô, In Joanem tract 32:
PL 35, 1946. (Trở lại
đầu trang)
41* Câu này
nói về tinh thần phục vụ (đã được nhắc nhở trong các đoạn văn của Mc 10,45; Gio
13,12-17; 1Cor 9,10, và trong bản tóm kết chức vụ chủ chăn của Linh Mục, số 4
của Sắc Lệnh này) nhằm chống lại tính khoa trương và đề cao giáo sĩ. Ðó chính
là ý lực đã được Công Ðồng lập đi lập lại mỗi khi đề cập về Giáo Hội (xem GH 3,
2) về giám Mục (GH 27) hay về Linh Mục (LM 15). (Trở lại đầu trang)
42* Chủ đề này
sẽ trở lại trong số 11. Không phải sự vâng lời giản dị của tín hữu, nhưng của
linh mục. Sự vâng lời của linh mục đã được long trọng tuyên hứa trong bí tích
Truyền Chức, không phải chỉ để cho việc hoạt động tông đồ hữu hiệu, nhưng là để
sát nhập với Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết để cứu chuộc thế gian, LTCB số
49 đã đề cập tới vấn đề này. (Trở lại đầu trang)
43* Việc đòi
hỏi linh mục phải phục vụ lại được LTCB, số 50 nhắc lại: "Ước gì họ tập
luyện, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng việc làm, tinh thần nghèo khó đang
được Giáo Hội khẩn thiết kêu gọi và rất cần thiết để chu toàn thánh vụ tông đồ.
Ước gì họ biết dựa vào sụ quan phòng của Thiên Chúa Cha và theo gương Thánh
Phaolô giữ cho tâm hồn bình thản trong lúc dư dật cũng như khi bị khốn cùng (Ph
4,12)". (Trở lại
đầu trang)
19 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae:
AAS 42 (1950), trg 662 tt, 685, 690. - Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri
Primordia: AAS 51 (1959), trg 551-553-556. - Phaolô VI, tđ Ecclesiam Suam,
6-8-1964: AAS 56 (1964), trg 634 tt. - CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội
Lumen Gentium, nhất là số 8: AAS 57 (1965), trg 12. (Trở lại đầu trang)
44* Cần đọc để
bổ túc số này: GH 42; LM 16 và DT 5,12. Cũng không thề bỏ qua Thông điệp
"Sacerdotalis Caelibatus" của Ðức Phaolô VI, ngày 24-6-1967. LTCB số
48 lập lại những phương thế bảo đảm: nhận biết đời sống độc thân là một đặc ân
Chúa ban và chấp nhận. Nhờ đời sống tràn đầy lời nguyện và kết hợp vơí Chúa
Kitô và nhờ tình yêu huynh đệ chân thành, họ sẽ tạo được những điều kiện cho
phép họ có thể bảo đảm đời sống đó trong niềm hoan lạc tâm hồn và quyết tâm
trung thành với lễ dâng đã một lần tự hiến. (Trở lại đầu trang)
20 Xem Piô XII, Tđ Sacra Virinitas,
25-3-1954: AAS 46 (1954), trg 165 tt. (Trở lại đầu trang)
21 Xem T. Cyprianô, De habitu virginum,
22: PL 4, 475. - T. Ambrosiô, De Virginibus I. 8,52: PL 16, 202 tt. (Trở lại đầu trang)
22 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae:
AAS 42 (1950), trg 663. (Trở lại
đầu trang)
23 Xem Piô XII, Tđ Sacra virginitas,
n.v.t. trg 170-174. (Trở lại
đầu trang)
45* Vậy họ
phải "biết sử dụng sự tự do tâm lý trong cũng như ngoài, đạt được mức độ
trưởng thành tình cảm cần thiết để có thể chứng minh và sống đời độc thân như
một sự triển nở của nhân cách" (LTCB số 48). (Trở lại đầu trang)
24 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae,
n.v.t. trg 664 và 690 tt. (Trở lại
đầu trang)
46* Theo bản
văn này, sự trưởng thành "trọn vẹn hơn" dường như hệ tại "một
tình yêu chân thành, nhân loại, bằng hữu, cá nhân, và có thể hy sinh theo gương
Chúa Kitô, đối với tất cả mọi người và từng người. Trái lại phải tránh những
liên lạc "quá lố và kéo dài đối với mọi người khác phái". Sau cùng
cần phải dựa trên sự hộ giúp của Chúa và thực tập việc hãm mình, bảo vệ giác
quan. (Trở lại đầu trang)
47* Sự trưởng
thành cần thiết hướng tới một nhân cách hoàn toàn. (Trở lại đầu trang)
25 Xem Phaolô VI, Tông thư Summi Dei
verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 991. (Trở lại đầu trang)
48* Ðối với
những đức tính tự nhiên nhằm chuẩn bị vị tông đồ tương lai. LTCB còn thêm:
luyện tập cách ý thức và cần mẫn một đức công bình, một đức tin thiện hảo và
giữa những đổi thay biết thận trọng hòa hợp với đức ái, tinh thần phục vụ huynh
đệ, nhiệt thành sống động, khả năng cộng tác với người khác... Ðể mang Phúc Âm
cho hết mọi người, họ phải tạo được khả năng giao tiếp với hết mọi người trong
mọi hoàn cảnh (x. LTCB số 51). (Trở lại đầu trang)
26 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae,
n.v.t. trg 686. (Trở lại đầu
trang)
49* Từ những
đòi hỏi thiêng liêng của những hoạt động trong đời sống linh mục. LTCB số 54
phác họa một mẫu sống cá nhân mà các linh mục tương lai phải sống ngay khi còn
ở Chủng Viện. Ðây những nét chính: sống thân mật và cần mẫn với Chúa, tôn kính
Lời Chúa, thích tiếp xúc với Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể và tìm
thấy nơi đó nguồn vui; sốt sắng yêu mến Giáo Hội và Ðấng Ðồng Công Cứu Thế;
nhiệt thành tìm hiểu các Giáo Phụ và các Thánh; tập quen thành thực tự vấn
lương tâm và nhận thức các lý do thúc đẩy. (Trở lại đầu trang)
50* Công Ðồng
đổi mới ở chỗ này khi đề ra bốn phương cách khác nhau giúp cho sự trưởng thành
thiêng liêng và ơn kêu gọi: thời kỳ chuẩn bị gắt gao, thực tập mục vụ, hạng
tuổi cao hơn để lãnh chức và thực thi chức vụ phó tế. Theo lược đồ C (số 17),
thời kỳ chuẩn bị gắt gao nhằm huấn luyện thiêng liêng có thể thực hiện hoặc
trước khi vào thần học, hoặc ngay trước khi lãnh chức. Nơi nào triết học và
thần học cùng dạy chung tại một chủng viện, tốt nhất là nên ấn định thời kỳ này
vào lúc bắt đầu học triết. LTCB (số 42a) đề nghị như vậy và nhận định rằng nó
có thể trùng hợp với những bài học dẫn vào mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm Cứu
Chuộc, như số 14 của Sắc Lệnh ấn định: một thời gian dành riêng cho việc cầu
nguyện cá nhân, tăng gấp việc đào sâu thần học và Thánh Kinh về những nền tảng
đời sống thiêng liêng, cũng như việc học tập và dấn thân ý thức hơn, chọn lựa
ơn kêu gọi cách hữu lý hơn. (Trở lại đầu trang)
51* Cho tới
nay để lãnh các chức Thánh, Giáo luật đòi hỏi phải có số tuổi 21, 22 và 24 chẵn
(kh 975). Các tâm lý gia đồng ý nhận định rằng trong thế giới ngày nay, sự
trưởng thành tâm lý rõ ràng chậm hơn sự trưởng thành thể lý và lý trí; hầu như
khắp nơi người ta thấy cần phải hoãn các chức lại vào lứa tuổi lớn hơn. Các
Giám Mục hữu trách các chủng viện sẽ theo các điều kiện địa phương mà xác định
số tuổi tối thiểu. Người ta còn thấy rằng chính các thanh thiếu niên cũng cảm
thấy chưa đủ chín mùi để dấn thân hoàn toàn và thường xin hoãn việc chịu chức.
(Trở lại đầu trang)
52* Việc thi hành
chức vụ phó tế không bắt buộc nhưng chỉ là yêu cầu (M 84/5 và 4). Theo thuyết
trình viên của ủy ban việc thi hành có bốn lợi điểm sau đây: chuyển tiếp thích
hợp tới chức vụ linh mục dưới sự hướng dẫn của một linh mục được chọn lựa kỹ
lưỡng; ơn gọi được chín mùi và tăng triển; khi trở về chủng viện biết lợi dụng
các môn học cách thích đáng hơn và biết bổ túc việc huấn luyện mục vụ; khả năng
của ứng viên được nhận biết rõ ràng hơn. (Trở lại đầu trang)
53* Sắc Lệnh
định rõ những kiến thức cần thiết trước khi theo học những môn học kinh viện;
trau dồi văn chương và khoa học của quốc gia. Nhưng Công Ðồng không nói về bằng
cấp quốc gia vì tại một vài nước, chương trình quốc gia khó dung hòa với sự đào
tạo Kitô giáo hoàn toàn cho các ứng viên muốn tới chức linh mục. Một đề nghị tu
chỉnh (M 33; 84-85/1) đã nói: "Một vài chính phủ đòi hỏi những điều không
chính đáng". LTCB số 65 muốn "họ phải được đào luyện cho xứng với
tước hiệu". (Trở lại
đầu trang)
27 Xem Phaolô VI, Tông thư Summi Dei
Verbum, n.v.t. trg 993. (Trở lại
đầu trang)
54* Ðây là một
lời khẩn khoản dầu không bắt buộc mọi người, 66 Nghị Phụ đã yêu cầu phải bắt
buộc biết tiếng Hy Lạp; nhưng Công Ðồng chỉ khuyên nhủ, vì các hoàn cảnh khác
nhau trong toàn Giáo Hội (xem LTCB số 80).
Sau khi nói về các ngôn ngữ cần thiết, LTCB (số 67) đã thêm một đoạn về
việc khai tâm đối với các phương tiện truyền thông xã hội (xem TT số 67 và 16).
(Trở lại đầu trang)
28 Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo
Hội Lumen Gentium, số 7 và 28: AAS 57 (1965), trg 9-11; 33. (Trở lại đầu trang)
55* LTCB nói
lớp nhập môn này "có mục đích rút ra ý nghĩa chiều hướng và mục đích của
những môn học kinh viện ngoài ra nó còn phải giúp bảo đảm những nền tảng của
đức tin, giúp hiểu sâu xa hơn rằng ơn thiên triệu linh mục phải được gìn giữ
bằng một hành động có suy xét hơn" (LTCB số 62). Chỉ có một Nghị Phụ không
đồng ý về sự cần thiết của lớp nhập môn này. (Trở lại đầu trang)
56* Xem LTCB
số 71. Khi giới thiệu "di sản triết học ngàn đời", Ủy Ban đã muốn ta
phải hiểu là các nguyên tắc của Thánh Tôma (xem Laplante, sd 153-156). (Trở lại đầu trang)
29 Xem Piô XII, Tđ Humani Generis,
12-8-1950: AAS 42 (1950), trg 571-575. (Trở lại đầu trang)
57* Công Ðồng
không hề quên khía cạnh mục vụ đã là khởi hứng và là mục đích của tất cả việc
đào tạo linh mục. Cũng thế, bản văn thường nhắc đến nỗi lo lắng chuẩn bị cho họ
đối thoại với những người đồng hương và đương thời; xem LTCB số 64; đối với các
xứ truyền giáo; xem TG 16, 4. (Trở lại đầu trang)
30 Xem Phaolô VI, Tđ Eccleiam Suam, 6-8-1964:
AAS 56 (1964) trg 637 tt. (Trở lại
đầu trang)
58* Ðoạn này
được thêm vào lược đồ G, theo nhiều đề nghị tu chỉnh. (Trở lại đầu trang)
59* Những từ
ngữ đã được lựa chọn "tìm kiếm, khảo sát, minh chứng" nói lên bổn
phận phải trau dồi chính xác, từ bỏ cái mơ hồ, nghiêm chỉnh với các lý chứng,
trong công việc tìm kiếm và chuyển thông tư tưởng. Cần xem thêm LTCB, ghi chú
150 cho số 71 về sự quan trọng của các môn triết học. (Trở lại đầu trang)
60* Theo Giáo
Luật (kh 1365, 2), LTCB lập lại rằng thần học phải kéo dài ít nhất là 4 năm
(LTCB số 60 và 76).
Số này dài nhất trong Sắc Lệnh và đặc sắc nhất, đã được tất cả các Nghị Phụ
đồng ý. (Trở lại đầu trang)
61* Ở đây đưa
ra những hướng dẫn tổng quát về việc khảo cứu thần học: "trong ánh sáng
đức tin". "Tất cả cuộc khảo cứu thần học, dầu theo ngữ học, triết học
hay sử học, đều phải phát khởi từ ánh sáng nội tâm của đức tin". (Ðề nghị
tu chỉnh 96/1). - "Dưới sự hướng dẫn của Giáo Quyền". Ðức Piô XII
trong Tđ Humani genesis: "các nhà thần học phải tùy thuộc Giáo Quyền trong
vấn đề về đức tin, phong hóa, luật trực tiếp hay phổ quát về chân lý, vì Chúa
Kitô Chúa chúng ta đã ủy thác cho Giáo Quyền toàn bộ kho tàng đức tin".
Ghi chú 31 của Sắc Lệnh lấy lại Hiến chế tín lý về Giáo Hội số 25 nơi đòi phải
có sự "qui thuận tôn giáo trong cả ý chí lẫn lý trí đối với Quyền Giáo
Huấn chính đáng của Ðức Thánh Cha, cả khi ngài không tuyên bố long trọng
"ex cathedra". Ta còn có thể kể thêm đoạn văn của Hiến chế tín lý về
Mạc Khải sô 10: "Nhiệm vụ chú giải chính thức Lời Chúa, thành văn hay
truyền tụng, chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn sống động của Giáo Hội mà uy
quyền hành sự nhân danh Chúa Giêsu Kitô". (Trở lại đầu trang)
31 Xem Piô XII, Tđ Humani Genesis,
128-1950: AAS 42 (1950), trg 567-569. Diễn văn Si Diligis, 31-5-1954: AAS 46
(1954), trg 314 tt. - Phaolô VI, diễn văn đọc tại Ðại Học Gregoriô, 12-3-1964:
AAS 56 (1964), trg 364. - CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium,
số 25: AAS 57 (1965), trg 29-31. (Trở lại đầu trang)
32 Xem T. Bonaventura, Itinerarium mentis
in Deum, Prol số 4: "Ước gì đừng ai tự phụ rằng mình chỉ cần đọc qua mà
không cần thấm nhiễm, chỉ cần thuyết lý mà không cần sùng kính, chỉ cần khảo
cứu mà không cần khâm phục, chỉ cần chú tâm mà không cần hoan lạc, chỉ cần khéo
léo mà không cần đạo hạnh, chỉ cần kiến thức mà không cần yêu đương, chỉ cần
hiểu biết mà không cần khiêm tốn, chỉ cần chuyên chăm mà không cần ơn Thánh,
chỉ cần ánh sáng mà không cần đức khôn ngoan thần linh" (S. Bonaventura,
Opera Omnia, V. Quaracchi 1891, trg 296). (Trở lại đầu trang)
62* Có thể xem
thêm Truhlar (Việc dạy thần học trogn đời sống thiêng liêng), trong Seminarium
1968, số 4. (Trở lại đầu trang)
63* Xem những
khai triển về vai trò của các giáo sư thần học trong LTCB số 86-89. (Trở lại đầu trang)
64* Sắc Lệnh
đặt Thánh Kinh vào tâm điểm thần học và cách nói "như hồn của toàn thể
khoa thần học" đã được xử dụng trong Hiấn chế tín lý về Mạc Khải, số 24.
Các nói đó đã được Ðức Lêô XIII dùng trong thông điệp Providentissimus Deus,
1893, về những môn học Thánh Kinh. (Trở lại đầu trang)
33 Xem Leô XIII, Tđ Providentissimus
Deus, 18-11-1893: AAS 26 (1893-1894), trg 283. (Trở lại đầu trang)
34 Xem Ủy ban giáo hoàng về Thánh
Kinh, Instructio de Sacra Scriptura recte docenda, 13-5-1950: AAS 42 (1950),
trg 502. (Trở lại đầu trang)
35 Xem Piô XII, Tđ Humani generis,
12-8-1950: AAS 42 (1950) trg 568 tt: "Nhờ khảo cứu các nguồn gốc mà khoa
thần học luôn trẻ trung, trong khi đó, sự thuyết lý không chịu đào sâu vào kho
tàng Mạc Khải chỉ là sự thuyết lý khô cằn, như kinh nghiệm đã minh chứng".
(Trở lại đầu trang)
36 Xem Piô XII, bài giảng cho các
chủng sinh, 24-6-1939: AAS 31 (1939), trg 247: "Khuyến khích học thuyết
của Thánh Tôma không có nghĩa là bóp nghẹt, nhưng là thúc đẩy và vững vàng
hướng dẫn những cuộc thi đua khảo cứu và quảng bá chân lý". Phaolô VI,
Diễn văn đọc tại Ðại Học Gregoriô, 12-3-1964: AAS 56 (1964), trg 365. "Các
Giáo sư sẽ kính cẩn lưu tâm đến học thuyết của các Ðấng Tiến Sĩ trong Giáo Hội,
và đặc biệt là Thánh Tôma Aquinô. Quả thật, nơi vị Tiến Sĩ Thiên Thần này, có
một trí năng sâu sắc, một lòng yêu chân lý trung thực, một sự khôn ngoan phi
thường khi đào sâu, tổng hợp và trình bày những chân lý cao sâu nhất, đến nỗi
học thuyết của ngài đã thành khí cụ hiệu nghiệm nhất, không những để xây nền
vững chắc cho đức tin mà còn để thu lượm một cách chắc chắn và hiệu nghiệm
những kết quả của một bước tiến lành mạnh"; xem diễn văn đọc trước Ðại Hội
Quốc Tế kỳ VI của học thuyết Tôma, 10-9-1965: AAS 57 (1965), trg 788-792. (Trở lại đầu trang)
65* Vấn đề này đã được tranh luận như
sau: 161 Nghị Phụ muốn dùng từ ngữ "như mẫu mực"; 31 Nghị Phụ đề
nghị: "và của các tôn sư khác", hay "nhất là Thánh Tôma";
46 Nghị Phụ muốn nói tổng quát: "các thánh tiến sĩ". Nhưng có 459
Nghị Phụ muốn bảo vệ bản văn của lược đồ nên ủy ban đã để nguyên như lược đồ F:
"với thánh Tôma là một tôn sư"; 1,500 Nghị Phụ khác mặc nhiên chấp
thuận. (xem 1189, đề nghị tu chỉnh 11, 12, 13, 14). (Trở lại đầu trang)
37 Xem CÐ Vat II, Hiến chế về Phụng Vụ
Thánh Sacrasanctum Concilium số 7 và 16: AAS 56 (1964), trg 100 tt và 104 tt. (Trở lại đầu trang)
38 Xem Phaolô VI, Tđ Ecclesiam Suam,
6-8-1964: AAS 56 (1964), trg 640 tt. (Trở lại đầu trang)
66* Cả đoạn này hoàn toàn mới mẻ: các
lược đồ từ A tới F không có. Xem vài ghi nhận trong LTCB số 79. (Trở
lại đầu trang)
67* Giáo sử cần trình bày sự phát triển
của giáo thuyết, những điều kiện xã hội, sự cộng tác kỳ diệu giữa hành động
thần linh và hoạt động con người để những người thụ huấn có được "một cảm
giác chân thực của Giáo Hội và của Truyền Thống". Ngoài ra còn phải chú ý
tới lịch sử của mỗi miền (xem LTCB số 79). (Trở lại đầu
trang)
68* Môn phụng vụ phải được coi như
"một trong những môn học chính" (môn quan trọng trong các Ðại chủng
viện và chính yếu trong các phân khoa thần học). Phụng vụ phải được dạy dưới
khía cạnh thần học, lịch sử, thiêng liêng và mục vụ (xem LTCB số 79). (Trở lại đầu trang)
39 CÐ Vat II, Hiến chế về Phụng Vụ
Thánh (Sacrasanctum Concilium, số 10, 14, 15, 16. Thánh bộ Nghi lễ Instructio
ad exsecutionem Constitutionis de Sacra Liturgia recte ordinandam, 26-9-1964,
số 11 và 12: AAS 56 (1964), trg 879 tt. (Trở lại đầu trang)
69* Niềm lo âu tìm về hiệp nhất này như
một dấu chỉ thời đại, sẽ giúp tìm thấy nhiều lợi ích qua việc học hỏi những
nguyên tắc hướng dẫn việc hiệp nhất (Spiritus Dominus, do Văn Ph2ng Thư Ký về
Hiệp Nhất xuất bản ngày 16-4-1970: trích dẫn Doc. Cath. 18-6-67 và 7-6-70),
nhất là phần thứ hai; xem thêm những Sắc Lệnh về Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương
và về Hiệp Nhất với các chú thích.
Tiếng "các Giáo Hội" có ý
chỉ Giáo Hội Chính Thống, Hy Lạp, Anh Giáo v.v... và tiếng "các Cộng Ðoàn
Giáo Hội" (do Ðức Hồng Y Koening đề ra) chỉ các Giáo Hội nhỏ. Sắc Lệnh về
hoạt động Truyền Giáo nhấn mạnh đặc biệt tới tinh thần cộng đoàn này trong các
xứ truyền giáo: số 15, 5. (Trở lại đầu trang)
40 CÐ Vat II, Săc Lệnh về Hiệp Nhất
Unitatis Redintegratio, số 1, 9, 10: AAS 57 (1965), trg 90 và 98 tt. (Trở
lại đầu trang)
70* Ðoạn này đặc biệt quan trọng đối
với linh mục tương lai trong những miền đa số không phải là Kitô hữu. Sắc lệnh
về hoạt động Truyền Giáo cũng nhấn mạnh tới điểm đó: "Họ phải được chuẩn
bị để thích hợp cho cuộc đối thoại huynh đệ với những người ngoài Kitô
giáo" (TG số 16 và NK). (Trở lại đầu trang)
71* LTCB số 90-93 thêm những lời khuyên
thực tế: đừng vội tăng thêm những môn học mới, nhưng nên đưa vào những vấn đề
mới trong giáo huấn cổ truyền: đó không phải là nhiều khoa nhưng chỉ một khoa
là khoa đức tin và Phúc Âm. (Trở lại đầu trang)
72* Ðoạn này xuất hiện lần đầu trong
lược đồ E, vào tháng 4 năm 1965 và đã được nhuận chính nhiều lần. Vấn đề liên
hệ nhiều tới các xứ truyền giáo. Lần can thiệp đầu tiên là do Ðức Cha Sani
người Nam Dương. Nhiều vấn đề tiềm ẩn trong số này: một nhu cầu thực tế cho
nhiều giáo phận là phải chuẩn bị các linh mục cho những trách vụ cao hơn, và
các Giám Mục có nhiệm vụ phải chọn lựa. Cũng phải đọc thêm số 16, 4 và 7 của
Sắc Lệnh TG. Xem thêm những yêu cầu của LTCB số 83-84. (Trở lại đầu trang)
73* Lược đồ tiên khởi do Ðức Cha
Carraro dọn đã được nghiên cứu lâu dài và được sửa đổi. Sau khi đề cập tới việc
đào tạo về các nhiệm vụ khác nhau, lược đồ đã nhấn mạnh tới việc đào tạo tinh
thần đối thoại, hợp lực với giáo dân trong các hoạt động thực tế nhắm việc tông
đồ. Một ghi chú dài của LTCB (196) nhấn mạnh đến việc đào tạo tinh thần mục vụ
này nơi các linh mục tương lai. Ðiều này trước hết giả thiết những tiếp xúc
thích hợp giữa chủng viện và xã hội: học viện không phải là một thế giới đóng
kín chỉ biết cách trừu tượng về điều kiện chân thực của con người và sự việc,
nhưng cũng không phải là một thế giới cởi mở đến nỗi đón nhận mọi kinh nghiệm.
(Trở lại đầu trang)
41 Có thể tách lấy để xây đắp hình ảnh
một chủ chăn khuôn mẫu nhờ những tài liệu của các Ðức Giáo Hoàng mới đây. Ðó là
những tài liệu bàn về đời sống các đức tính và công cuộc đào tạo các Linh Mục,
đặc biệt là các tài liệu của:
- T. Piô X, Tông huấn cho hàng Giáo
sĩ Hacrent Animo: S. Pio X Acta IV, trg 237 tt.
- Piô XI, TÐ Ad Catholici
Sacerdotii: AAS 28 (1936), trg 5 tt. - Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: AAS 42
(1950), trg 657 tt. - Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primordia: AAS 51
(1959), trg 545 tt. - Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum: AAS 55 (1963), trg
979 tt. Những ý tưởng về đào tạo Linh Mục còn thấy rải rác trong các thông
điệp: Mystici Corporis Sanctae Diciplina (1955). Princeps pastorum (1959) và
Tông hiến cho các tu sĩ Sedes Sapientiae (1956).
Ðức Piô XII, Gioan XXIII và Phaolô
VI đã nhiều lần phác họa hình ảnh của vị chủ chăn tốt lành trong các diễn từ
dành cho chủng sinh và linh mục. (Trở lại đầu trang)
74* Về vấn đề quan trọng này, hãy xem
những nhắc nhở của Công Ðồng MK 24; PV 24, 35, 52, 109; LM 4; GH 25; GM 12. (Trở lại đầu trang)
75* Ở đây hiểu ngầm sự đào tạo về thánh
nghệ và thánh nhạc (M 114/4) theo những chỉ dẫn của Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh
(PV 115, 129). Một đề nghị tu chỉnh có 10 Nghị Phụ ký tên đòi hỏi rằng Phụng Vụ
phải là "chủ yếu đời sống, làm sống động mọi công cuộc huấn luyện ở chủng
viện" (M 114/4c). (Trở lại đầu trang)
76* Ðiểm này được thêm vào lược đồ F,
tháng 10 năm 1964, theo lời yêu cầu của nhiều Nghị Phụ. (Trở
lại đầu trang)
77* Nghệ thuật phức tạp này đòi hỏi
phải có một căn bản thần học vững chắc, hiểu biết tường tận các khoa tâm lý và
một số nhận thức thiêng liêng đã được luyện tập. Sắc lệnh nói về sự hướng dẫn
để đào tạo mọi con cái Giáo Hội để nâng đỡ mọi người đến một đời sống ý thức,
tươi sáng, đủ quảng đại hiến mình vào việc tông đồ (xem GH số 38), và giúp mỗi
tín hữu chu toàn những nhiệm vụ thuộc bậc sống để mưu ích cho mọi người. Sự
hướng dẫn này cần thiết để giúp các thiếu niên định hướng tương lai của họ.
LTCB còn nói thêm về sự chuẩn bị của các linh mục "trong những liên lạc
đứng đắn và lành mạnh đối với phụ nữ". (Trở lại đầu
trang)
78* Thường các tu sĩ nam nữ than phiền
là không tìm thấy một linh mục có thể giúp đỡ đúng mức đời sống thiêng liêng
của họ. Vì thế Công Ðồng đòi hỏi các linh mục tương lai phải biết rõ về sự quan
trọng và những đòi hỏi cuộc đời tu dòng (ghi chú 42). (Trở lại đầu trang)
42 Về giá trị của bậc sống khấn giữ những
lời khuyên Phúc Âm, xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium,
ch VI: AAS 57 (1965), trg 49-53; Sắc Lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống
Dòng Tu Perfectae Caritatis. (Trở lại đầu trang)
79* Ðây là lần thứ nhì Sắc Lệnh này
công khai lập lại nhu cầu phải huấn luyện để đối thoại (xem số 15). Ðoạn này
được thêm vào vì nhiều can thiệp của các Nghị Phụ (vd. Ðức Hồng Y Doepfner và
Léger, ÐGM Savage v.v...). Cũng cần lập lại ở đây thái độ căn bản của đối thoại:
biết nghe người khác; đó là điều kiện cần thiết để hiểu người khác. 61 Nghị Phụ
đã đòi hỏi như vậy cho số 6 (M 63-8), và 18 Nghị Phụ đã đòi hỏi các giáo hữu
phải như vậy (M 117-2).
Chính trong viễn tượng này mà Công
Ðồng yêu cầu phải học các khoa tâm lý, sư phạm và xã hội để hiểu biết con người
và hoàn cảnh hơn: xem số 20. (Trở lại đầu trang)
43 Xem Phaolô VI, Tđ Ecclesiam Suam,
6-8-1964: AAS 56 (1964), nhất là trg 635 tt và 640 tt. (Trở lại đầu trang)
44 Nhất là xem Gioan XXIII, Tđ Mater
Magistra, 15-3-1961: AAS 53 (1961), trg 401 tt. (Trở lại đầu trang)
80* Sự góp phần của các khoa học nhân
văn có thể giúp đỡ nhiều cho việc thích ứng mục vụ với nhu cầu ngày nay và canh
tân các phương pháp. (Trở lại đầu trang)
81* Công Ðồng đã nhấn mạnh nhiều về các
liên hệ giữa giáo dân và linh mục; vd GH 33, 37; TÐ 28, 32; ÐT 8, 16; LM 14; TG
21; MV 44... Vì là "người cổ võ giáo dân", "người giáo huấn giáo
dân", linh mục pah3i tập cộng tác rộng rãi với họ. (Trở lại đầu trang)
45 Ðặc biệt xem CÐ Vat II, Hiến chế
tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 33: AAS 57 (1965), trg 39. (Trở lại đầu trang)
82* Tinh thần truyền giáo cởi mở này đã
nhuần thấm Công Ðồng; vd GH 17; TG nhất là số 16, 36-39; LM 10. Chính Sắc Lệnh
này cũng nhấn mạnh rằng phải dạy cho chủng sinh biết nhu cầu của toàn thể Giáo
Hội, những vấn đề trầm trọng đang đè nặng trên từng phần của Giáo Hội, những
bước tiến trong việc Phúc Âm hóa thế giới... (Trở lại đầu
trang)
46 Xem n.v.t. số 17: AAS 57 (1965),
trg 20 tt. (Trở lại đầu trang)
83* Bản văn gọi việc tông đồ là một
nghệ thuật. Nghệ thuật bao gồm hiểu biết và thực hành. Nhận xét đó rất có giá
trị. LTCB nhắc lại rằng phải thể hiện việc tông đồ "suốt kỳ học tập, trong
năm cũng như kỷ nghỉ" (LTCB số 97). (Trở lại đầu
trang)
47 Nhiều văn kiện của các Ðức Giáo
Hoàng nêu rõ nguy cơ xao lãng mục đích siêu nhiên trong hoạt động mục vụ hoặc
thực tế coi rẻ việc trợ giúp siêu nhiên, đặc biệt xem những văn kiện ghi trong
chú thích 41. (Trở lại đầu trang)
84* Ðược dự liệu từ lược đồ B, chất
liệu trong chương này đã được rút gọn nhưng vẫn giữ được tất cả những gì là
ca7n bản về sự chuyển tiếp giữa đời sống ở chủng viện sang cuộc sống thi hành
chức vụ đầy khó khăn. (Trở lại đầu trang)
48 Nhiều văn kiện mới đây của Tòa
Thánh thiết tha yêu cầu đặc biệt săn sóc các linh mục mới chịu chức. Có thể kể
những văn kiện chính: Piô XII, Tự Sắc Quadoquidem, 2-4-1949: AAS 41 (1949), trg
165-167; Tông huấn Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950); Tông hiến cho tu sĩ
Sedes Sapientiae, 31-5-1956 và quy chế tổng quát đính kèm; Diễn văn cho các
Linh mục "Convictus Barcionensis", 14-6-1957: Discorsi e
Radiomessagi, XIX, trg 271-273. - Phaolô VI, Diễn văn đọc trước các Linh Mục
học viện "Gian Matteo Giberti", giáo phận Verona, 11-3-1964:
L'Osservatore Romano, 13-3-1964. (Trở lại đầu trang)
85* Lo lắng tổ chức chương trình và
phương thế đào tạo sau khi rời chủng viện không những là trách nhiệm của mỗi
Giám Mục riêng rẽ, nhưng cũng là của cả Hội Ðồng Giám Mục, và theo bản đề nghị
tu chỉnh 1 (M 120) trách nhiệm này có nghĩa bắt buộc. (Trở lại đầu trang)
86* Xem những chỉ dẫn của LTCB số 101.
(Trở lại đầu trang)
87* Phải xem lại thư của Thánh Bộ phụ
trách hàng giáo sĩ biên soạn sau bản điều tra gửi cho các Hội Ðồng Giám Mục,
hỏi về việc đào luyện thường xuyên cho hàng giáo sĩ ngày 4 tháng 11 năm 1969
(xem Doc. cath. 1-3-70) trong đó sau những cân nhắc tổng quát quan trọng Thánh
Bộ đã đề ra những phương thế cụ thể để đào luyện thường xuyên hàng giáo sĩ như:
năm mục vụ, khảo hạch từng ba năm một, những nhóm họp tìm hoàn thiện, những
nhóm họp nghiên cứu, đại hội linh mục, tổ chức thư viện, nghỉ ngơi để học tập
v.v... xem thêm TG số 20, 5). (Trở lại đầu trang)
88* Các lược đồ B, C và D kết thúc bằng
một lời hứa Thiên Chúa trả công cho những người đào tạo hàng gaío sĩ. Lời kết
luận chúng ta có đây là theo lời yêu cầu của một Nghị Phụ duy nhất về "vài
lời nói hoàn toàn mục vụ với các chủng sinh hiện tại và tương lai" (M
121/6). Ðây là một việc làm tốt đẹp nói lên niềm tin tưởng của Giáo Hội nơi các
vị hữu trách lo đào tạo linh mục và nơi các chủng sinh, và sau cũng là lời
khuyên đem thực hành Sắc Lệnh.
Văn kiện này sẽ ảnh hưởng lớn lao
đến việc canh tân Giáo Hội, chính vì tin tưởng vào các linh mục hôm nay và ngày
mai, nên Giáo Hội thực hiện việc canh tâm cho toàn thể Giáo Hội. Xin Chúa cảm
ứng cho các bậc thầy và môn sinh để họ ghi tâm những trách vụ nặng nề trước
những gì vừa được ban hành "cho Danh Chúa cả sáng". (Trở lại đầu trang)