Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Chức Vụ Và Ðời Sống
Các Linh Mục
(Presbyterorum Ordinis)
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X Đalạt
Chương II
Thừa Tác Vụ Của
Linh Mục
I. Chức Vụ Của Linh Mục
4. Linh Mục, thừa tác viên Lời Chúa. Dân Chúa được đoàn tụ trước hết
là nhờ lời Thiên Chúa hằng sống 1; lời này
phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các Linh Mục 2.
Thực vậy, không ai có thể được cứu rỗi nếu trước đó không có lòng tin 3 do đó các Linh Mục, vì là cộng sự viên của các Giám
Mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo cho mọi người Phúc Âm của Thiên Chúa 4, để khi thi hành mệnh lệnh của Chúa: "Các con
hãy đi khắp thế giới rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật" (Mc 16,15) 5, các ngài thiết lập Dân Chúa và làm cho Dân Chúa
càng ngày càng đông thêm. Thật thế, chính lời cứu rỗi khơi động đức tin trong
tâm hồn những người chưa tin và nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu;
chính đức tin này đã khai sinh và phát triển cộng đoàn tín hữu, như lời Thánh
Tông Ðồ: "đức tin do nghe nói, còn điều nghe nói thì bởi lời Chúa
Kitô" (Rm 10,17). Do đó, các Linh Mục mắc nợ với mọi người về việc thông
truyền cho họ chân lý Phúc Âm 6 mà các ngài
đã nhận được nơi Chúa. Vì thế, dù khi các ngài sống một đời sống tốt lành giữa
các dân ngoại để làm cho họ tôn vinh Thiên Chúa 7,
dù khi các ngài công khai giảng thuyết để loan truyền mầu nhiệm Chúa Kitô cho
những người chưa tin, dù khi dạy giáo lý Kitô giáo hay giải thích giáo thuyết
của Giáo Hội, dù khi chăm lo nghiên cứu những vấn đề thời đại dưới ánh sáng
Chúa Kitô: trong mọi trường hợp, phận sự của các ngài không phải là giảng dạy
sự thông biết của mình, nhưng là giảng dạy lời Chúa và phải khẩn thiết mời gọi
mọi người cải thiện và nên thánh 8. Nhưng
trong tình trạng thế giới ngày nay, lời giảng thuyết của Linh Mục thường gặp
rất nhiều khó khăn. Do đó để dễ lay chuyển tâm hồn thính giả, giảng thuyết
không phải chỉ là trình bày lời Chúa một cách tổng quát và trừu tượng, nhưng
phải áp dụng chân lý ngàn đời của Phúc Âm vào các hoàn cảnh cụ thể của đời
sống.
Như thế, có nhiều cách thi hành
chức vụ rao giảng tùy theo nhu cầu mỗi lúc mỗi khác của các thính giả và tùy
theo đặc sủng của các vị giảng thuyết. Nơi những miền hay những nhóm người chưa
theo Kitô giáo, chính nhờ nghe rao giảng Phúc Âm mà người ta đi tới đức tin và
lãnh nhận những Bí Tích ban ơn cứu rỗi 9. Còn
trong chính cộng đoàn Kitô giáo, nhất là đối với những người có vẻ ít hiểu và
ít tin những điều họ quen thực hành, cần phải rao giảng lời Chúa để dẫn họ đến
chịu các Bí Tích, vì đây là những Bí Tích đức tin, mà đức tin lại được phát
sinh và nuôi dưỡng bằng lời giảng dạy 10,
điều này đặc biệt thể hiện trong phần phụng vụ lời Chúa khi cử hành Thánh Lễ,
trong đó lời loan truyền việc Chúa chịu chết và sống lại liên kết chặt chẽ với
câu đáp của dân chúng đang nghe và với chính việc hiến dâng mà Chúa Kitô đã
dùng để củng cố Tân Ước trong Máu Người, cũng như các tín hữu thông công vào
việc hiến dâng đó bằng lời cầu nguyện và bằng việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể 11. 3*
5. Linh mục, thừa tác viên các bí tích
và bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa là Ðấng Thánh Thiện và là Ðấng Thánh Hóa duy nhất đã muốn nhận
loài người làm cộng sự viên và trợ tá để họ khiêm tốn giúp vào công việc thánh
hóa. Vậy qua tay Ðức Giám Mục, các Linh Mục được Thiên Chúa hiến thánh, để khi
đã tham dự đặc biệt vào chức Linh Mục của Chúa Kitô, thì trong lúc cử hành các
việc thánh, các ngài hành động như những thừa tác viên của Người, Ðấng không
ngừng thi hành Chức Vụ Linh Mục trong Phụng Vụ, nhờ Thánh Thần Người, để mưu
ích cho chúng ta 12. Thực vậy, nhờ Phép Rửa,
các ngài dẫn đưa người ta vào Dân Chúa; nhờ Bí Tích Cáo Giải, các ngài hòa giải
tội nhân với Thiên Chúa và Giáo Hội; nhờ dầu bệnh nhân, các ngài xoa dịu người
đau ốm; nhất là nhờ việc cử hành Thánh Lễ, các ngài hiến dâng Hy Tế của Chúa
Kitô cách bí tích. Như Thánh Ignatiô Tử Ðạo đã minh chứng ngay từ thời Giáo Hội
sơ khai 13, trong khi thi hành các Bí Tích,
các Linh Mục liên kết trong phẩm trật thánh với vị Giám Mục vì những lý do khác
nhau; và như thế các ngài nói lên được phần nào sự có mặt của Giám Mục trong
mỗi cộng đoàn tín hữu 14.
Tuy nhiên, cả những Bí Tích khác cũng như các thừa tác vụ trong Giáo Hội và
các hoạt động tông đồ đều gắn liền với Bí Tích Thánh Thể và qui hướng về đó 15. Thật vậy, Phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất
cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội 16, đó
chính là Chúa Kitô; Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta; Người là Bánh
Hằng Sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã được
sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống. Như thế, Người mời gọi
và dẫn đưa con người hiến dâng chính mình, dâng những vất vả của mình và mọi
tạo vật làm một với Người. Bởi vậy, Phép Thánh Thể là nguồn mạch và tuyệt đỉnh
của toàn thể công việc rao giảng Phúc Âm; vì các người dự tòng được dẫn đưa dần
dần đến việc tham dự Phép Thánh Thể; còn các tín hữu, những người đã mang ấn
tín Rửa Tội và Thêm Sức, sẽ được kết hợp trọn vẹn với Thân Thể Chúa Kitô nhờ
rước Thánh Thể.
Vì thế,
Tiệc Thánh Thể là trung tâm tụ họp của tín hữu mà vị Linh Mục là người chủ sự.
Như thế Hiến Tế Thánh Lễ, các Linh Mục dạy tín hữu biết dâng lên Chúa Cha lễ
vật chí thánh và hợp cùng của lễ đó hiến dâng lễ vật cuộc sống mình. Với tinh
thần của Chúa Kitô Chủ Chăn, các ngài dạy họ hết lòng thống hối xưng thú tội
lỗi mình với Giáo Hội qua Bí Tích Cáo Giải để càng ngày càng quay về gần Chúa
hơn khi nhớ lại lời Người: "Hãy hối cải vì Nước Trời đã đến gần" (Mt
4,17). Cũng thế, các ngài còn dạy họ tham dự những buổi cử hành Phụng Vụ Thánh,
để trong các nghi lễ đó họ biết cầu nguyện chân thành; tùy theo ân sủng và nhu
cầu của mỗi người các ngài hướng dẫn họ thực thi tinh thần cầu nguyện mỗi ngày
thêm hoàn hảo trong suốt đời sống; các ngài khuyến khích mọi người chu toàn
nhiệm vụ đấng bậc mình; còn đối với những ai hoàn thiện hơn, các ngài khích lệ
họ biết thực thi những lời khuyên Phúc Âm hợp với mỗi người. Cũng thế các ngài
dạy tín hữu biết dùng thánh thi và thánh ca mà chúc tụng Thiên Chúa trong lòng,
biết nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha
vì mọi ơn lành 17.
Những lời ca tụng và tạ ơn mà các
Linh Mục dâng lên, trong khi cử hành Thánh Lễ, chính các ngài còn kéo dài suốt
ngày trong các giờ Kinh Nhật Tụng, khi ấy các ngài nhân danh Giáo Hội khẩn cầu
cùng Thiên Chúa cho toàn dân đã được trao phó cho các ngài và cầu cho cả thế
giới nữa.
Nhà cầu nguyện, nơi để cử hành và
cất giữ Thánh Thể Chí Thánh cũng như để tín hữu tụ họp và gặp được sự nâng đỡ
ủi an trong khi tôn sùng sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc chúng
ta, Ðấng đã được hiến dâng vì chúng ta trên bàn tế lễ: nhà nầy cần phải sạch
sẽ, xứng hợp với việc cầu nguyện và những lễ nghi long trọng 18. Chính nơi đây, chủ chăn và tín hữu được mời đến,
để với lòng biết ơn, họ đáp lại ân huệ của Ðấng đã dùng Nhân Tính mà không
ngừng đổ tràn sự sống siêu nhiên vào các chi thể của Thân Thể Người 19. Các Linh Mục phải chăm lo trau dồi kiến thức và
nghệ thuật phụng vụ, để nhờ việc các ngài thi hành phụng vụ mà cộng đoàn Kitô
hữu được trao phó cho các ngài biết ca ngợi Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh
Thần mỗi ngày một hoàn hảo hơn. 4*
6. Linh
mục, thầy dạy của Dân Chúa. Thi hành chức vụ của Chúa Kitô là Ðầu và là Chủ Chăn theo
phận vụ mình, các Linh Mục nhân danh Giám Mục, tụ họp gia đình Thiên Chúa như
một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần các
ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha 20. Ðể thi
hành thừa tác vụ này cũng như các chức vụ khác, các Linh Mục được trao ban
quyền thiêng liêng để kiến thiết Giáo Hội 21.
Trong việc kiến thiết này, các Linh Mục phải theo gương Chúa mà đối xử rất nhân
đạo với hết mọi người. Tuy nhiên, khi dạy dỗ và khuyên bảo họ như những người
con rất yêu qúy 22, các ngài phải đối xử với
họ không phải theo sở thích loài người 23,
nhưng theo giáo thuyết và đời sống Kitô giáo đòi hỏi, như lời Thánh Tông Ðồ:
"Hãy nhấn mạnh khi thuận tiện cũng như khi bất tiện, hãy khiển trách, đe
dọa, khuyến khích, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ" (2Tm 4,2) 24.
Vì thế, với tư cách là những
người huấn luyện đức tin, các Linh Mục có nhiệm vụ, hoặc đích thân hoặc nhờ
người khác, lo cho mỗi tín hữu được hướng dẫn trong Chúa Thánh Thần để vun
trồng ơn gọi riêng của mình theo Phúc Âm, để có một đức ái chân thành và linh
hoạt, để được sự tự do mà Chúa Kitô đã dùng để giải thoát chúng ta 25. Những nghi lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát
triển rầm rộ cũng không có ích bao nhiêu, nếu chúng không hướng về việc giáo
dục con người đạt tới sự trưởng thành Kitô giáo 26.
Ðể đạt đến sự trưởng thành đó, các Linh Mục phải giúp họ sáng suốt nhận ra
chính các biến cố lớn nhỏ, đâu là việc phải làm, đâu là ý Chúa muốn. Các ngài
cũng phải dạy các Kitô hữu để họ không chỉ sống riêng cho mình, nhưng theo
những đòi hỏi của luật bác ái mới, mỗi người phải tùy ơn nhận được mà phục vụ
lẫn nhau 27; và như vậy, mọi người chu toàn
nhiệm vụ của mình theo tinh thần Kitô giáo trong cộng đoàn nhân loại.
Tuy mắc nợ với hết mọi người,
nhưng các Linh Mục phải đặc biệt săn sóc những người nghèo khổ và yếu đuối được
trao phó cho mình: vì chính Chúa đã tỏ ra là bạn hữu với họ 28 và coi việc rao giảng Phúc Âm cho họ là dấu hiệu
cho công cuộc cứu thế 29. Các Linh Mục cũng
phải đặc biệt tận tâm theo dõi các thanh thiếu niên, ngay cả những người đã có
đôi bạn và những bậc phụ huynh, để ước gì họ họp thành những nhóm bạn hữu biết
giúp đỡ nhau sống đời Kitô giáo một cách dễ dàng và đầy đủ hơn trong cuộc sống
đầy khó khăn. Các Linh Mục cũng đừng quên các tu sĩ nam nữ, vì họ là thành phần
ưu tú trong nhà Chúa, họ đáng được coi sóc đặc biệt để được tấn tới trong đàng
thiêng liêng hầu giúp ích cho toàn thể Giáo Hội. Sau hết, các ngài phải hết sức
ân cần chăm sóc những người yếu đau và hấp hối bằng cách thăm viếng và an ủi họ
trong Chúa 30.
Vì thế, nhiệm vụ của Chủ Chăn
không phải chỉ thu hẹp trong việc coi sóc từng cá nhân tín hữu, nhưng còn lan rộng
tới việc huấn luyện một cộng đoàn Kitô hữu đích thực. Muốn thế, tinh thần cộng
đoàn đích thực này phải bao gồm không những Giáo Hội địa phương mà cả Giáo Hội
phổ quát nữa. Vì thế, cộng đoàn địa phương không những phải lưu tâm đến việc
chăm sóc các tín hữu của mình, nhưng một khi đã thấm nhuần nhiệt tâm truyền
giáo còn phải dọn đường cho mọi người đến với Chúa Kitô. Tuy nhiên, cộng đoàn
đặc biệt chú trọng đến các dự tòng và các tân tòng, họ phải được giáo dục dần
dần để hiểu biết và sống đời Kitô hữu.
Không một
cộng đoàn Kitô hữu nào được thiết lập mà không đặt nền tảng và trọng tâm vào
việc cử hành Phép Thánh Thể Chí Thánh: cho nên mọi nền giáo dục về tinh thần
cộng đoàn phải bắt đầu từ đó 31. Nhưng việc
cử hành này muốn được chân thành đầy đủ, thì một đàng phải đưa đến những việc
bác ái và tương trợ lẫn nhau, đàng khác phải dẫn tới các hoạt động truyền giáo,
và cả những hình thức minh chứng Kitô giáo nữa.
Ngoài ra, nhờ bác ái, kinh
nguyện, gương lành và những việc sám hối, cộng đoàn Giáo Hội thực thi tình mẫu
tử chân thực đối với những linh hồn phải được đưa về với Chúa Kitô. Thực thế,
cộng đoàn Giáo Hội hợp thành một khí cụ hữu hiệu để chỉ dẫn hoặc mở đường cho
những kẻ chưa tìm đến cùng Chúa Kitô và Giáo Hội Người, cũng như để khích lệ,
dưỡng nuôi và củng cố các tín hữu trên đường chiến đấu thiêng liêng.
Trong
việc kiến thiết cộng đoàn Kitô hữu, các Linh Mục không bao giờ phục vụ cho một
chủ thuyết hay một đảng phái nhân loại nào, nhưng vì là những vị rao giảng Phúc
Âm và là chủ chăn của Giáo Hội, các ngài lo lắng theo đuổi việc phát triển
thiêng liêng của Thân Thể Chúa Kitô. 5*
II. Liên Lạc Giữa Linh Mục Với Những
Người Khác
7. Tương quan giữa Giám Mục và Linh Mục. Tất cả các Linh Mục, hiệp nhất
với các Giám Mục, đều tham dự cùng một chức Linh Mục và thừa tác vụ duy nhất
của Chúa Kitô; cho nên, chính tính cách duy nhất của việc tấn phong và sứ mệnh
đòi phải có sự hiệp thông phẩm trật giữa các ngài và hàng Giám Mục 32; đôi khi mối hiệp thông đó được biểu hiện một
cách rất cao đẹp trong việc cùng cử hành phụng vụ, và một cách minh nhiên trong
khi cử hành Tiệc Thánh Thể 33. Do đó, vì ơn
Chúa Thánh Thần ban cho các Linh Mục khi lãnh nhận Chức Thánh, các Giám Mục
phải coi các ngài như những trợ tá và cố vấn cần thiết trong thừa tác vụ, cũng
như trong chức vụ dạy dỗ, thánh hóa và chăn dắt dân Chúa 34. Ngay từ thời xa xưa của Giáo Hội, các văn kiện
phụng vụ đã mạnh dạn công bố điều đó khi long trọng cầu xin Chúa ban cho Linh
Mục sắp thụ phong "tinh thần ân sủng và khôn ngoan, để ngài giúp đỡ và
điều khiển dân chúng với một tâm hồn trong sạch" 35;
cũng như xưa trong sa mạc, tinh thần của Môisen đã lan truyền sang tâm trí của
bảy mươi người khôn ngoan 36 "để dùng
họ như những trợ tá, ông dễ dàng cai trị đám quần chúng đông đúc trong
dân" 37. Chính vì sự hiệp thông trong
cùng một chức Linh Mục và thừa tác vụ, các Giám Mục phải coi các Linh Mục như
anh em và bạn hữu 38, và hết sức lo lắng đến
phần ích vật chất và nhất là thiêng liêng của các ngài. Thực vậy, trước hết các
ngài gánh lấy trọng trách thánh hóa các Linh Mục của mình 39: do đó các ngài phải hết sức chú tâm đến việc đào
luyện liên tục các Linh Mục của mình 40. Các
Giám Mục phải sẵn sàng lắng nghe, hơn nữa phải hỏi han và đối thoại với các
Linh Mục về những vấn đề cần thiết cho công việc mục vụ và ích lợi cho giáo
phận. Nhưng để thực hiện điều đó, phải tùy theo phương thức thích hợp với những
hoàn cảnh và nhu cầu ngày nay 41, tùy hình
thức và tiêu chuẩn do quy luật ấn định, mà thành lập một hội đồng hay một
nguyên lão viện các Linh Mục 42, đại diện
cho Linh Mục Ðoàn, để có thể góp ý kiến giúp đỡ Giám Mục một cách hữu hiệu hơn
trong việc quản trị địa phận.
Phần các Linh Mục, nên nhớ rằng: các Giám Mục lãnh nhận sung mãn Bí Tích
Truyền Chức Thánh, nên phải tôn trọng nơi các Ngài quyền bính của Chúa Kitô,
Chủ Chăn tối cao. Vậy các Linh Mục phải kết hiệp với Giám Mục bằng tình thương
yêu chân thành và lòng vâng phục 43. Ðược
thấm nhuần tinh thần cộng tác, đức vâng phục của Linh Mục, đặt nền tảng trên
chính việc tham dự vào thừa tác vụ của Giám Mục, mà các Linh Mục đã lãnh nhận
khi chịu Bí Tích Truyền Chức Thánh và bài sai do Ðức Giám Mục trao 44.
Ngày
nay, sự hiệp nhất giữa các Linh Mục và các Giám Mục lại càng khẩn thiết hơn, vì
trong thời đại chúng ta, bởi nhiều lý do, các công cuộc tông đồ không những cần
phải mang rất nhiều hình thức khác nhau, nhưng thật ra còn cần phải vượt khỏi
giới hạn giáo xứ hay giáo phận. Vậy, không một Linh Mục nào có thể chu toàn đầy
đủ sứ mệnh của mình một cách lẻ loi và hầu như riêng rẽ, nhưng phải hợp với các
Linh Mục khác, dưới sự điều khiển của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội. 6*
8. Hiệp nhất và cộng tác huynh đệ giữa các Linh Mục. Khi gia nhập hàng Linh Mục nhờ
Bí Tích Truyền Chức Thánh, tất cả các Linh Mục liên kết với nhau bằng một tình
huynh đệ do bí tích; nhưng đặc biệt trong một giáo phận, khi được chỉ định phục
vụ dưới quyền Giám Mục của mình, các ngài hợp thành một Linh Mục Ðoàn duy nhất.
Thực vậy, tuy giữ những chức vụ khác nhau, nhưng các ngài vẫn thi hành một thừa
tác vụ Linh Mục duy nhất cho loài người. Thật thế, tất cả các Linh Mục đều được
sai đi để cùng cộng tác vào một công việc: hoặc thi hành thừa tác vụ ở giáo xứ
hay liên xứ, hoặc giúp vào công cuộc nghiên cứu khoa học hay dạy học, hoặc làm
việc chân tay khi được Giáo Quyền hữu trách chấp nhận và được coi là có lợi ích
để chia xẻ số phận của chính các công nhân, hoặc sau hết, chu toàn những công
việc tông đồ khác, hay những việc chuẩn bị cho công cuộc tông đồ. Nhưng tất cả
các Linh Mục đều phải hướng về mục đích duy nhất này là xây dựng Thân Thể Chúa
Kitô; việc này đòi hỏi rất nhiều phận vụ khác nhau cũng như nhiều thích nghi
mới mẻ, nhất là trong thời đại chúng ta. Bởi thế, điều rất quan trọng là tất cả
các Linh Mục, triều cũng như dòng, phải giúp đỡ nhau, để luôn luôn là những
cộng tác viên của chân lý 45. Vì vậy, mỗi vị
liên kết với những thành phần khác nhau của Linh Mục Ðoàn bằng những mối dây
đặc biệt của tình bác ái tông đồ, của thừa tác vụ và tình huynh đệ: điều này đã
được biểu hiện trong phụng vụ, ngay từ thời xa xưa, khi các Linh Mục hiện diện
được mời cùng với Giám Mục chủ phong đặt tay trên vị tiến chức, và khi các ngài
đồng tâm cùng cử hành Bí Tích Thánh Thể. Vậy, mỗi Linh Mục hiệp nhất với các
anh em Linh Mục khác bằng mối dây bác ái, cầu nguyện và cộng tác dưới mọi hình
thức, và như thế, thể hiện được sự hiệp nhất mà Chúa Kitô muốn cho các môn đệ
Người kết hợp nên một, để thế gian nhận biết Chúa Con đã được Chúa Cha sai 46.
Bởi vậy, những Linh Mục lớn tuổi
hãy thực sự đón nhận các Linh Mục trẻ như những người em và hãy giúp đỡ họ
trong những công tác cũng như những gánh nặng đầu tiên của thừa tác vụ; hơn
nữa, các ngài nên cố gắng tìm hiểu tâm trạng của họ, dù khác với tâm trạng
mình, và theo dõi các công việc của họ với lòng nhân hậu. Cũng thế, các Linh Mục
trẻ phải kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các vị lớn tuổi cũng như phải
bàn hỏi với các ngài về những vấn đề liên quan đến việc coi sóc các linh hồn và
sẵn lòng cộng tác với các ngài.
Trong tình thần huynh đệ đó, các
Linh Mục đừng quên lòng hiếu khách 47, phải
lo làm việc thiện và san sẻ của cải 48, nhất
là phải chú tâm đến những vị đau yếu, phiền muộn, lao lực, cô đơn, bị đày ải và
ngay cả những vị bị bách hại 49. Các ngài
cũng hãy sẵn lòng và vui vẻ họp nhau để tỉnh dưỡng tâm hồn, vì nhớ lại những
lời mà chính Chúa đã mời gọi các Tông Ðồ mệt mỏi: "Các con hãy đến nơi
thanh vắng và nghỉ ngơi một chút" (Mc 6,31). Ngoài ra, để giúp nhau vun
trồng đời sống thiêng liêng và tri thức, để có thể cộng tác với nhau đắc lực
hơn trong thừa tác vụ, và để tránh những nguy hiểm có thể xẩy ra do sự cô đơn,
các Linh Mục phải cổ võ một đời sống chung, hoặc một lối sống cộng đoàn nào đó.
Việc này có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau tùy những nhu cầu khác
biệt thuộc cá nhân hay mục vụ: như ở chung nơi nào có thể hoặc ăn chung, hoặc
ít là có những cuộc họp mặt thường xuyên và định kỳ. Cũng nên thành lập và
nhiệt liệt khuyến khích các hội Linh Mục mà nội quy đã được giáo quyền hữu
trách chuẩn nhận, những hội này cổ võ các Linh Mục nên thánh trong khi thi hành
thừa tác vụ bằng cách tổ chức một đời sống thích hợp đã cùng nhau chấp nhận và
bằng sự tương trợ huynh đệ; như vậy những hội đó hướng về việc phục vụ toàn thể
hàng Linh Mục.
Sau hết,
vì liên kết với nhau trong chức Linh Mục như thế, nên các ngài phải biết rằng
mình đặc biệt có trách nhiệm đối với những vị đang gặp những hoàn cảnh khó
khăn; các ngài phải kịp thời giúp đỡ, và nếu cần phải khuyên bảo một cách tế
nhị. Ðối với những vị khiếm khuyết về một vài vấn đề nào đó, các ngài phải luôn
lấy tình bác ái huynh đệ và quảng đại mà đối xử, lại phải cầu nguyện rất nhiều
với Chúa cho các vị đó, và phải luôn tỏ ra mình là anh em và bạn hữu đích thực
của họ 7*.
9. Tương quan giữa Linh Muụ và giáo dân. Các Linh Mục Tân Ước, tuy bởi
Bí Tích Truyền Chức Thánh, thi hành nhiệm vụ rất cao cả và cần thiết là làm Cha
và làm Thầy trong Dân Chúa và cho Dân Chúa, nhưng đồng thời cùng với mọi Kitô
hữu, các ngài cũng là môn đệ Chúa Kitô, được dự phần trong Nước Chúa nhờ ơn gọi
của Người 50. Thật vậy, cùng với tất cả
những ai được tái sinh trong suối nước Rửa Tội, các Linh Mục là những anh em
giữa các anh em 51, như chi thể của cùng một
Thân Thể duy nhất của Chúa Kitô mà mọi người có nhiệm vụ xây dựng 52.
Như vậy các Linh Mục phải lãnh
đạo làm sao để không tìm tư lợi, nhưng tìm lợi ích cho Chúa Giêsu Kitô 53; các ngài hợp tác với giáo dân và sống giữa môi
trường của họ theo gương Thầy, Ðấng đến ở giữa mọi người "không để được
phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình thay cho nhiều người" (Mt
20,28). Các Linh Mục phải thành thật nhìn nhận và khích lệ phẩm giá và vai trò
riêng của giáo dân trong sứ mệnh Giáo Hội. Các ngài cũng phải thành thật kính
trọng sự tự do chân chính mà mọi người có quyền được hưởng trong xã hội trần
gian. Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, cứu xét các nguyện vọng của họ
trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ
trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân sinh, để cùng với họ có thể
nhận biết những dấu chỉ của thời đại. Trong khi nghiệm xem các tinh thần có
phải từ Thiên Chúa đến hay không 54, các
ngài phải lấy tinh thần đức tin mà khám phá, vui mừng mà nhận biết, và chuyên
cần phát triển những đặc sủng muôn hình của giáo dân, từ đặc sủng nhỏ bé nhất
đến đặc sủng cao cả nhất. Trong những đặc ân mà Thiên Chúa ban tràn đầy trên
các tín hữu, phải đặc biệt lưu tâm đến ơn lôi kéo một số giáo dân tiến xa hơn
trên đường thiêng liêng. Cũng thế, các ngài phải tin tưởng trao phó nhiệm vụ
cho các giáo dân trong việc phục vụ Giáo Hội, để cho họ được tự do và có lãnh
vực hoạt động, hơn nữa lúc thuận tiện, phải khuyến khích họ tự ý đảm trách công
việc 55.
Sau cùng,
các Linh Mục được đặt giữa giáo dân để dẫn đưa mọi người về hiệp nhất trong đức
ái, hãy "thương yêu nhau với tình bác ái huynh đệ, thi đua tôn trọng lẫn
nhau" (Rm 12,10). Vậy các ngài phải tìm cách hòa hợp các tâm trạng khác
nhau, để không ai cảm thấy mình xa lạ trong cộng đoàn tín hữu. Các ngài là
những người bênh vực ích chung mà các ngài coi sóc nhân danh Giám Mục, và đồng
thời là những người can đảm bảo vệ chân lý để các tín hữu không bị lôi cuốn bởi
bất cứ luồng lý thuyết nào 56. Các ngài phải
đặc biệt lo lắng đến những kẻ đã xao lãng việc lãnh nhận các bí tích, và những
kẻ có lẽ đã mất đức tin; như những người chăn chiên nhân lành các ngài đừng
quên lui tới thăm nom họ.
Các ngài
phải lưu tâm đến những nguyên tắc về sự hiệp nhất 57
để đừng quên những anh em không được cùng chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Giáo
Hội.
Sau hết, các ngài phải đặc biệt
coi sóc tất cả những người chưa nhận biết Chúa Kitô là Ðấng Cứu Chuộc mình.
Nhưng chính các Kitô hữu phải ý thức rằng mình có trách
nhiệm đối với các Linh Mục của mình, và phải lấy lòng thảo hiếu mà đối xử với
các ngài như những chủ chăn và như là cha mình vậy; cũng thế, họ phải chia xẻ
những nỗi lo âu của các ngài, giúp đỡ các ngài bằng lời cầu nguyện và bằng việc
làm càng nhiều càng hay, để các ngài có thể thắng vượt những khó khăn một cách dễ
dàng hơn, và chu toàn trách vụ của mình một cách hữu hiệu hơn 58. 8*
III. Phân Phối Linh Mục Và Ơn Kêu Gọi
Linh Mục
10. Phân
phối Linh Mục để lo cho toàn thể Giáo Hội. Ân huệ thiêng liêng mà các Linh Mục đã nhận
lãnh trong khi chịu chức, chuẩn bị cho các ngài không phải cho một sứ mệnh giới
hạn và thu hẹp nào đó, nhưng cho một sứ mệnh cứu rỗi rất rộng lớn và bao quát
"đến tận cùng trái đất" (CvTđ 1,8), vì bất cứ thừa tác vụ linh mục
nào cũng tham gia vào sứ mệnh rộng lớn và bao quát mà Chúa Kitô đã trao phó cho
các Tông Ðồ. Thực vậy, chức Linh Mục của Chúa Kitô mà các Linh Mục được tham
dự, cần phải hướng về mọi dân nước và mọi thời đại, không bị hạn chế bởi một
ranh giới, một dân tộc hay một thời đại nào, như đã được tiêu biểu cách huyền
nhiệm trong hình ảnh Melchiseđê 59. Do đó
các Linh Mục phải để tâm lo lắng cho tất cả các giáo hội. Bởi thế các Linh Mục
thuộc các giáo phận giàu ơn gọi hơn, khi được Ðấng Bản Quyền cho phép hoặc
khích lệ, hãy hăm hở tỏ ra sẵn sàng thi hành thừa tác vụ mình trong các địa
hạt, trong các xứ truyền giáo, hay trong những hoạt động bị sa sút vì thiếu
Linh Mục.
Ngoài ra, những tiêu chuẩn về
việc xuất nhập giáo phận phải được duyệt lại thế nào để, dầu phải duy trì quy
chế đã có từ lâu đời, nhưng vẫn đáp ứng được với những nhu cầu mục vụ ngày nay
một cách tốt đẹp hơn. Vậy nơi nào hoàn cảnh tông đồ đòi hỏi, thì cần phải dễ
dãi hơn trong việc phân phối các Linh Mục một cách thích hợp, cũng như trong
những công việc mục vụ chuyên biệt dành cho những môi trường xã hội khác nhau
để những công việc đó được hoàn thành trong một miền, một quốc gia, hoặc trong
bất cứ phần đất nào trên thế giới. Vậy để đạt mục đích đó, điều hữu ích là có
thể thiết lập những chủng viện quốc tế, những giáo phận đặc biệt, hoặc những tổ
chức tương tự khác, trong đó các Linh Mục có thể được bổ dụng hoặc gia nhập để
mưu cầu công ích cho toàn thể Giáo Hội, tùy theo những cách thức được ấn định
cho từng tổ chức và bao giờ cũng tôn trọng quyền lợi các Ðấng Bản Quyền địa
phương.
Nhưng khi gửi các Linh Mục đến
một địa hạt mới, nhất là khi các ngài chưa biết rõ ngôn ngữ và phong tục của
địa hạt đó, thì hãy hết sức lo liệu làm sao để đừng sai họ đi từng người một,
nhưng theo gương các môn đệ của Chúa Kitô 60,
hãy cho đi ít là từng hai hay ba người, để nhờ đó họ có thể giúp đỡ lẫn nhau.
Cũng phải để tâm chăm sóc đời sống thiêng liêng, sức khỏe tinh thần và thể xác
của các ngài; và nếu có thể, chuẩn bị cho các ngài nơi ở và những điều kiện để
làm việc tùy hoàn cảnh cá biệt của mỗi người. Cũng phải tiên liệu hết sức cho
những vị đi đến một dân tộc mới, chẳng những học biết đầy đủ ngôn ngữ của miền
này và hơn nữa những đặc tính tâm lý và xã hội của dân tộc mà các ngài muốn
khiêm tốn phục vụ, để dễ dàng cảm thông được với họ, theo gương Thánh Phaolô
Tông Ðồ, Ðấng đã có thể nói về mình: "Thật vậy, mặc dầu tôi tự do đối với
mọi người, nhưng tôi phục vụ hết thảy hầu làm ích cho nhiều người. Và với người
Do Thái, tôi trở nên như Do Thái, cốt sinh lợi cho Do Thái..." (1Cor
9,19-20). 9*
11. Quan
tâm đến các ơn kêu gọi làm Linh Mục. Chúa Giêsu, vị Chủ Chăn và Giám Mục của linh hồn chúng
ta 61, khi thiết lập Giáo Hội Người, đã muốn
Dân mà Người đã chọn lựa và chuộc lại bằng máu mình 62,
phải luôn luôn có các Linh Mục cho đến tận thế, để các Kitô hữu không bao giờ giống
như những con chiên không có người chăn 63.
Hiểu biết ý muốn của Chúa Kitô như thế và được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, các
Tông Ðồ đã nhận thấy mình có nhiệm vụ chọn những thừa tác viên "có đủ khả
năng mà dạy lại cho người khác" (2Tm 2,2). Chắc chắn nhiệm vụ đó thuộc về
chính sứ mệnh Linh Mục, cho nên Linh Mục phải chia xẻ nỗi lo lắng của toàn thể
Giáo Hội, để Dân Chúa ở trần gian không bao giờ thiếu người làm việc. Nhưng vì
"thuyền trưởng và những khách đi tàu... cùng chung một số phận" 64, nên toàn dân Kitô giáo phải được dạy dỗ để biết
mình có nhiệm vụ phải cộng tác bằng nhiều cách khác nhau: bằng lời cầu nguyện
tha thiết cũng như bằng những phương thế khác mà họ sẵn có 65 ngõ hầu Giáo Hội lúc nào cũng có những Linh Mục
cần thiết để chu toàn sứ mệnh Chúa trao phó. Vậy trước hết các Linh Mục phải
hết sức để tâm trình bày cho các tín hữu sự cao quý và cần thiết của chức Linh
Mục; các ngài có thể làm cho họ hiểu điều ấy bằng lời giảng dạy và bằng chứng
tá đời sống, một đời sống bộc lộ rõ ràng tinh thần phục vụ và niềm vui phục
sinh đích thực; và sau khi thận trọng phán đoán những ai hoặc còn trẻ hoặc đã
trưởng thành, có đủ tư cách thi hành chức vụ cao cả này, các ngài đừng quản
ngại lo lắng và khó khăn mà giúp họ dọn mình xứng đáng, cho đến một ngày kia,
các Giám Mục có thể gọi họ mà họ vẫn hoàn toàn tự do cả bên trong lẫn bên
ngoài. Ðể đạt tới mục đích đó, phải chuyên cần và khôn ngoan hướng dẫn về mặt
thiêng liêng, vì đó là một điều ích lợi hơn cả. Các phụ huynh, giáo chức và tất
cả những ai tham gia một cách nào đó vào việc giáo dục thiếu nhi và thanh thiếu
niên, phải dạy chúng làm sao để một khi đã nhận biết mối bận tâm của Chúa đối
với đoàn chiên Người, cũng như khi nhìn đến những nhu cầu của Giáo Hội, họ sẵn
sàng quảng đại đáp lại lời Chúa gọi, như tiên tri xưa: "Này con đây, xin
hãy sai con" (Is 6,8). Nhưng tiếng Chúa gọi đây không tới tai các Linh Mục
tương lai một cách lạ thường như người ta tưởng. Thật vậy, đúng hơn tiếng gọi
đó phải được hiểu và nhận định qua những dấu hiệu mà hằng ngày Chúa muốn dùng
để tỏ ý Người cho các Kitô hữu khôn ngoan; các Linh Mục phải cẩn thận cứu xét
những dấu hiệu đó 66.
Do đó, hết sức khuyến khích các
ngài tham gia những hội cổ võ ơn kêu gọi trong giáo phận hay trong toàn quốc 67. Những bài giảng, những giờ giáo lý, những sách
báo phải nêu cho người ta biết rõ các nhu cầu của Giáo Hội địa phương cũng như
của Giáo Hội hoàn cầu; phải trình bày cách sống động ý nghĩa và sự cao quý của
chức vụ Linh Mục, vì đây là một chức vụ mang những trọng trách nặng nề nhưng
đồng thời cũng tràn đầy hoan lạc, và nhất là vì có thể chứng tỏ một bằng chứng
cao cả nhất về tình yêu đối với Chúa Kitô như các Giáo Phục dạy 68. 10*
Chú Thích:
1 Xem 1P 1,23; CvTđ 6,7; 12,24.
"Các Tông Ðồ đã rao giảng lời chân lý và đã khai sinh các Giáo Hội":
T. Augustinô, Enarr. in Ps. 44,23 : PL 36,508. (Trở lại
đầu trang)
2 Xem Mal 2,7; 1Tm 4,11-13; 2Tm
4,5; Tt 1,9. (Trở lại đầu trang)
3 Xem Mc 16,16. (Trở lại đầu trang)
4 Xem 2Cor 11,7. Những gì nói về các Giám
Mục cũng có giá trị cho các Linh Mục với tư cách là cộng tác viên của Giám Mục.
Xem Statuta Ecclesiae Antiqua, c.3 (x.b. Ch. Munier, Paris 1960 trg 79);
Decretum Gratiani, c. 6, D. 88 (x.b. Friedberg, I, 307); - CÐ Trentô Sắc lệnh
De Reform., khóa V, ch.2, số 9 (Conc. Oec. Decreta, x.b. Herder, Roma 1962, trg
645); khóa XXIV, ch.4, trg 739; - CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen
Gentium, 21-11-1964, số 25 : ASS 57 (1965), trg 29-31. (Trở lại đầu trang)
5 Xem Constitutiones Apostolorum, II,
26,7: "(Các Linh Mục) hãy trở nên những vị tiến sĩ thông thạo khoa học về
Thiên Chúa, vì chính Chúa đã truyền cho chúng ta khi Ngài phán: Các con hãy đi
giảng dạy v.v...": x.b. F.X. Funk, Didascalia et Constitutiones Apostolorum,
I, Paderborn, 1905, trg 105. - Sacramentarium Leonianum và những sách lễ nghi
khác cho tới Pontificale Romanum, Kinh Tiền Tụng lễ phong chức Linh Mục:
"Lạy Chúa, với sự quan phòng ấy, Chúa đã cho các Tông Ðồ của Con Chúa có
những người bạn tiến sĩ trong đức tin như những người trợ lực trong việc rao
giảng, để các Tông Ðồ gieo vãi Phúc Âm trên toàn thế giới". - Liber
Ordinum Liturgiae Mozarabicae, Kinh Tiền Tụng lễ phong chức Linh Mục: "Là
tiến sĩ của dân và thủ lãnh của giáo hữu, ước gì các ngài duy trì đức tin công
giáo trong trật tự và rao giảng ơn cứu rỗi chân thực cho mọi người": x.b.
M. Férotin, Le Liber Ordinum en usage dans l'Eglise Wisigothique et Mozarabe
d?Espagne: Monumenta Ecclesiae Liturgica, q.5, Paris 1904, cột 55, hàng 4-6. (Trở lại đầu trang)
6 Xem Gal 2,5. (Trở lại đầu trang)
7 Xem 1P 2,12. (Trở lại đầu trang)
8 Xem lễ nghi phong chức Linh Mục
trong Giáo Hội Giacobit ở Alexandria: "...hãy tập họp dân chúng ngươi đến
nghe lời giáo lý, như người mẹ nâng niu con cái mình": H. Denzinger, Ritus
Orientalium, bộ II, Wurzburg 1863, trg 14. (Trở lại đầu trang)
9 Xem Mt 28,19; Mc 16,16; -
Tertullianô, De Baptismo, 14,2 (Corpus Christianorum, Series latina, I, trg
289, 11-13); - T. Athanasiô, Adv. Arianos, 2 42 : PG 26, 237 A-B; - T.
Hieronymô, In Mt 28,19: PL 26, 226 D: "Trước hết các ngài dạy dỗ mọi dân
nước tiếp đến lấy nước rửa tội những kẻ đã được giáo huấn. Thật vậy, không thể
để cho thể xác nhận lãnh bí tích Rửa Tội khi linh hồn chưa nhận lãnh chân lý
đức tin"; - T. Tôma, Expositio primae Decretalis, 1: "khi sai các môn
đệ đi rao giảng, Ðấng Cứu Thế của chúng ta đã trao cho họ ba mệnh lệnh. Trước
nhất là giảng đức tin, thứ đến là ban các bí tích cho những kẻ có lòng
tin": x.b. Marietti, Opuscula Theologica, Taurini Roma 1954, 1138. (Trở lại đầu trang)
10 Xem CÐ. Vat. II, Hiến chế về Phụng
Vụ Thánh Sacrasanctum Concilium, 4-12-1963, số 35,2: A AS 56 (1964), trg 109. (Trở lại đầu trang)
11 Xem CÐ. Vat. II, Hiến chế về Phụng
Vụ Thánh Sacrasanctum Concilium, 4-12-1963, số 33, 35, 48, 52, trg 108-109,
113, 114. (Trở lại đầu trang)
3* Các linh mục phải hết sức quan tâm
tới lãnh vực xã hội và sự tiến hóa nơi môi trường hoạt động của các ngài để có
thể áp dụng hữu hiệu chân lý Phúc Âm vào những hoàn cảnh cụ thể của đời sống.
Các ngài truyền đạt đến mọi người giáo lý tinh tuyền của Giáo Hội, đặc biệt là
trong khi cử hành phụng vụ. (Trở lại đầu trang)
12 Xem n.t., số 7 (trg 100-101). - Piô
XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 230. (Trở lại đầu trang)
13 T. Ignatiô Tử đạo, Smyrn., 8, 1-2:
x.b. F.X. Funk 6, trg 240. - Constitutiones Apostolorum, VIII, 12,3: x.b. F.X.
Funk. 496; VIII, 29,2, n.t., trg 532. (Trở lại đầu trang)
14 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về
Giáo Hội Lumen Gentium, 21-11-1964, số 28: AAS 57 (1965), 33-36. (Trở lại đầu trang)
15 Bí Tích Thánh Thể là sự đúc kết tất
cả đời sống thiêng liêng và là cứu cánh của tất cả các bí tích khác: T. Tôma,
Summa Theol. III,
q.73, a.3 c : xem Summa Theol. III, q.65, a. 3. (Trở lại
đầu trang)
16 Xem T. Tôma, Summa Theol. III,
q. 65, a. 3, ad 1; q. 79, a. 1, c, và ad 1. (Trở lại đầu
trang)
17 Xem Eph 5,19-20. (Trở lại đầu trang)
18 Xem T. Hieronymô, Epist., 114,2:
"...chén thánh, khăn thánh và tất cả những gì liên quan đến việc tôn sùng
cuộc Tử Nạn của Chúa... vì được thông công với Mình và Máu Chúa, nên phải được
kính cẩn như chính Mình và Máu Người vậy": PL 22, 934. - Xem CÐ Vat. II,
Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, 4-12-1963, số 122-127: AAS 56 (1964), trg 130-132.
(Trở lại đầu trang)
19 "Hơn nữa, các tín hữu đừng
xao lãng việc năng viếng Mình Thánh Chúa; Mình Thánh Chúa phải được cất giữ
trong nhà thờ, tại một nơi xứng đáng nhất và hết sức vinh dự, theo luật phụng
vụ. Thực vậy, việc kính viếng Chúa Kitô hiện diện nơi đây là một dấu chỉ biết
ơn đối với Chúa Kitô, là bảo chứng tình yêu và là một việc tôn thờ thích
đáng": Phaolô VI, Tđ. Mysterium Fidei, 3-9-1965: AAS 57 (1965), trg 771. (Trở lại đầu trang)
4* Mọi cử hành phụng vụ Thánh Lễ
đều thuộc quyền Giám Mục (x. GH số 28) đó là lý do tại sao các linh mục một khi
đã được "tấn phong bởi Giám Mục" phải liên kết với chức Giám Mục theo
phẩm trật và phải nên như hiện thân của Giám Mục trong mỗi cộng đoàn Kitô hữu.
(Trở lại đầu trang)
20 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý
về Giáo Hội Lumen Gentium, 21-11-1964, số 28: AAS 57 (1965), trg 33-36. (Trở lại đầu trang)
21 Xem 2Cor 10,8 ; 13,10. (Trở lại đầu trang)
22 Xem 1Cor 4,14. (Trở lại đầu trang)
23 Xem Gal 1,10. (Trở lại đầu trang)
24 Xem Didascalia, II, 34,3; II, 46,6;
II 47, 1; - Constitutiones Apostolorum, II, 47, 1: x.b. F.X. Funk, Didascalia
et Constitutiones, I, trg 116, 142 và 143. (Trở lại đầu trang)
25 Xem Gal 4,3 ; 5,1 và 13. (Trở lại đầu trang)
26 Xem T. Hieronymô, Epist., 58,7:
"Thành quách chói sáng ngọc ngà nào có ích chi, nếu Chúa Kitô chết đói
trong thân phận một người nghèo khổ?": PL 22,584. (Trở lại đầu trang)
27 Xem 1P 4,10 tt. (Trở lại đầu trang)
28 Xem Mt 25,34-45. (Trở lại đầu trang)
29 Xem Lc 4,18. (Trở lại đầu trang)
30 Có thể kể những hạng người khác, ví
dụ những người di cư, những dân du mục v.v... Vấn đề này được đề cập đến trong
Sắc Lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội Christus Dominus,
28-10-1965. (Trở lại đầu trang)
31 Xem Didascalia, II, 59, 1-3:
"Khi dạy dỗ, hãy truyền bảo và khuyến dụ dân chúng năng đến nhà thờ, đừng
bao giờ vắng mặt, trái lại tụ họp nhau luôn, và đừng xa lánh, vì như thế khiến
Giáo Hội bị giảm thiểu và bớt mất một chi thể nơi Thân Thể Chúa Kitô... Vậy,
anh em là chi thể Chúa Kitô, chính anh em đừng phân tán xa Giáo Hội chỉ vì
không chịu hội hợp với nhau; anh em có Chúa Kitô là Ðầu, Người đang hiện diện
và thông hiệp với anh em theo như lời Người hứa; vì thế chính anh em đừng khinh
khi và khiến Ðấng Cứu Thế trở nên xa lạ với các chi thể Người, đừng chia rẽ và
phân tán Thân Thể Người..." :x.b. F.X. Funk, I, trg 170. - Phaolô VI, diễn
văn trước một số giáo sĩ Ý tham dự Ðại Hội XIII Di aggiornamento pastorale,
6-9-1963: AAS (1963), trg 750 tt. (Trở lại đầu trang)
5* Nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên phải
được coi như việc giáo dục đức tin và đức ái đối với mọi người, nhất là những
người yếu đuối cần giúp đỡ nhiều hơn. Ngoài ra còn mục đích kiến tạo cộng đoàn
Kitô hữu đích thực mà điều cốt yếu chính là tinh thần truyền giáo. (Trở lại đầu trang)
32 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về
Giáo Hội Lumen Gentium, 21-11-1964, số 28: AAS 57 (1965), trg 35. (Trở lại đầu trang)
33 Xem Constitutionem Ecclesiasticam
Apostolorum, XVIII: Các Linh Mục là những kẻ đồng tham dự các mầu nhiệm
(symmystai) và đồng chiến đấu (synepemachoi) của các Giám Mục: x.b. Th. Schermann,
Die allgemeine Kirchenordnung, I, Paderborn 1914, trg 26. - A. Harnack, Die
Quellen der sog. Apostolilschen Kirchenordnung, T.u. U. II, 5, trg 13, số 18 và
19. - Hieronymô Giả, De septem Ordinibus Ecclesiae: "...trong việc chúc
lành, họ là những người cùng với Giám Mục tham dự các mầu nhiệm": x.b. A.
W. Kalff, Wurzburg 1937, trg 45. - T. Isidorô Hispal, De Ecclesiasticis Officiis,
II, ch. VII: "Họ đứng đầu Giáo Hội của Chúa Kitô và tham dự với các Giám
Mục trong việc cử hành Bí Tích Thánh Thể, cũng như trong việc dạy dỗ dân và
trong phận vụ rao giảng": PL 83, 787. (Trở lại đầu trang)
34 Xem Didascalia, II, 28, 4: x.b.
F.X. Funk, trg 108. - Constitutiones Apostolorum, II, 28, 4; II, 34, 3 :
n.v.t., trg 109 và 117. (Trở lại đầu trang)
35 Const. Apost. VIII, 16, 4: x.b.
F.X. Funk, I, trg 523. - Xem Epistome Const. Apost., VI: n.v.t., II, trg 80,
3-4. - Testamentum Domini: "...Xin Chúa ban cho người này tinh thần ơn
thánh, ơn khuyến dụ, ơn đại độ, và tinh thần linh mục... hầu người này giúp đỡ
và cai trị dân Chúa trong việc làm với lòng kính sợ và tâm hồn trong trắng":
bản dịch Latinh của I.E. Rahmani, Moguntiae 1899, trg 69. Ý tưởng này cũng gặp
trong Trad. Apost.: x.b. B. Botte, La Tradition Apostolique de S. Hippolyte,
Munster i. W. 1963, trg 20. (Trở lại đầu trang)
36 Xem Ds 11, 16-25. (Trở lại đầu trang)
37 Pont. Rom. Kinh Tiền Tụng lễ
phong chức Linh Mục; những lời ấy đã có trong Sacramentarium Leonianum,
Sacramentarium Gelasianum và Sacramentarium Gregorianum. Cũng gặp những ý tưởng
tương tự trong Phụng vụ Ðông Phương: xem Trad. Apost.: "...Xin Chúa nhìn
đến tôi tớ Chúa đây và khấn ban tinh thần ơn thánh và ơn khuyến dụ, tinh thần
linh mục, để tôi tớ Chúa giúp đỡ và cai trị dân Chúa với một tâm hồn trong
trắng, như Chúa đã nhìn đến dân Chúa chọn và đã ra lệnh cho Môisen tuyển lựa
những bô lão mà Chúa đã đổ tràn Thánh Thần Chúa, Thánh Thần mà Chúa đã ban cho
tôi tớ Chúa": theo bản dịch Latinh Verona, x.b. B. Botte, La Tradition
Apostolique de S. Hippolyte. Essai de reconstruction, Munster i. W. 1963, trg
20. - Const. Apost. VIII, 16, 4 :x.b. F.X. Funk I, trg 522, 16-17. - Epist.
Const. Apost. VI: x.b. F.X. Funk II trg 20, 5-7. - Testamentum Domini: bản dịch
Latinh của I. E. Rahmani, Moguntiae 1899, trg 69. - Euchologium Serapionis,
XXVII: x.b. F.X. Funk, Didascalia et Constitutiones II, trg 190, hàng 1-7. -
Ritus Ordinationis in ritu Maronitarum: bản dịch H. Denzinger, Ritus
Orientalium, II, Wurzburg, 1863, trg 161; - Trong số các Giáo Phục, có thể kể:
Theodorô Mopsuestenô, In 1Tim. 3,8 : x.b. Swete, II, trg 119-121. - Theodoretô,
Questiones in numeros, XVIII: PG 80, 369C-372 B. (Trở lại
đầu trang)
38 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý
về Giáo Hội Lumen Gentium, 21-11-1964, số 28: AAS 57 (1965), trg 35. (Trở lại đầu trang)
39 Xem Gioan XXIII, Tđ. Sacerdotii
Nostri primordia, 1-8-1959: AAS 51 (1959) trg 576. - T. Piô X, huấn dụ giáo sĩ
Haerent Animo, 4-8-1908 : S. Pii X Acta, q. IV (1908), trg 237 tt. (Trở lại đầu trang)
40 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về
nhiệm vụ mục vụ của Giám Mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 28-10-1965, số 15
và 16. (Trở lại đầu trang)
41 Theo Giáo luật hiện hành, Kinh
sĩ hội Chính tòa như là "nguyên lão viện và ban cố vấn" của Giám Mục
(C.I.C., kh. 391) hoặc nếu không có, thì Hội đồng cố vấn giáo phận thay thế
(xem C.I.C., kh. 423-428). Tuy nhiên điều rất đáng mong ước là những tổ chức ấy
phải được chỉnh đốn lại cho thích hợp hơn với những hoàn cảnh và nhu cầu hiện
đại. Hội đồng Linh Mục dĩ nhiên khác Ủy Ban cố vấn mục vụ: về vấn đề này có nói
trong Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội Christus
Dominus, 28-10-1965, số 27, vì trong Ủy Ban cố vấn mục vụ có cả giáo dân, và
chỉ có thẩm quyền trong những gì liên quan đến hoạt động mục vụ. Về việc các
Linh Mục như là cố vấn của Giám Mục có thể xem Didascalia II, 28,4: x.b. F.X.
Funk, I, trg 108. - Const. Apost. II, 28,4: x.b. F.X. Funk, I, trg 109. - T.
Ignatiô Tử đạo, Magn. 6,1: x.b. F.X. Funk, trg 194; Trall., 3,1: x.b. F.X.
Funk, trg 204. Origenê, Contra Celsum III, 30: các Linh Mục là những cố vấn hay
là bouleytai: PG 11, 957D-960 A. (Trở lại đầu trang)
42 Ignatiô Tử đạo, Magn., 6,1:
"Cha van xin các con hãy chăm chú làm mọi sự trong bầu hòa khi của Thiên
Chúa, dưới quyền Giám Mục, Ðại diện Thiên Chúa, dưới quyền các vị linh mục, đại
diện hội đồng các Tông Ðồ, và dưới quyền các phó tế rất thân ái của cha, vì
những vị này được ủy thác phục vụ Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã ngự bên Thiên Chúa
từ trước khi có các thời đại, và đã xuất hiện vào cuối thời": x.b. F.X.
Funk, trg 195. - T. Ignatiô Tử đạo, Trall. 3,1: "Cũng vậy, mọi người hãy
kính trọng các vị phó tế như đối với Chúa Kitô, cũng như kính trọng Giám Mục là
hình ảnh Chúa Cha, các Linh Mục là nguyên lão viện của Thiên Chúa và là hội
đồng các Tông Ðồ: vì không có các đấng ấy, không thể nói đến Giáo Hội":
n.v.t., trg 204. - T. Hieronymô, In Isaiam, II, 3: PL 24,61 D: "Trong Giáo
Hội, chúng ta cũng có nguyên lão viện của chúng ta là hội đồng Linh Mục".
(Trở lại đầu trang)
43 Xem Phaolô VI, diễn văn tại đền
Sixtine cho các cha xứ và các linh mục giảng thuyết mùa chay ở Roma, 1-3-1965:
AAS 57 (1965), trg 326. (Trở lại đầu trang)
44 Xem Const. Apost. VIII, 47,39:
"Các linh mục... không được làm gì mà không hỏi ý kiến Giám Mục, vì chính
Giám Mục là người mà Dân Chúa đã được ủy thác và Ngài phải trả lẽ về những linh
hồn được các linh mục coi sóc": x.b. F.X. Funk, trg 577. (Trở lại đầu trang)
6* Sự duy nhất trong việc hiến
thánh và trong sứ mệnh là lý do sâu xa tạo nên cộng đoàn phẩm trật giữa Giám
Mục và các linh mục và quy định mọi liên lạc hỗ tương: đó là lòng quý trọng và
tín nhiệm về phía Giám Mục đối với các linh mục đoàn cũng như lòng thảo kính và
vâng lời nơi các linh mục đối với Giám Mục của các ngài. (Trở
lại đầu trang)
45 Xem 3Gio 8. (Trở lại đầu trang)
46 Xem Gio 17,23. (Trở lại đầu trang)
47 Xem Dth 13,1-2. (Trở lại đầu trang)
48 Xem Dth 13,16. (Trở lại đầu trang)
49 Xem Mt 5,10. (Trở lại đầu trang)
7* Nhờ Bí Tích Truyền Chức, các
linh mục trở nên anh em với nhau. Trong một giáo phận, tình đoàn kết huynh đệ
giữa các linh mục tạo thành "linh mục đoàn" của Giám Mục địa phương.
Dù "phận vụ" của các linh mục dòng và triều có sự khác biệt, nhưng
tất cả đều cùng chung một sứ mệnh, các ngài phải được nối kết với nhau trong
tình tương thân tương ái tông đồ. (Trở lại đầu trang)
50 Xem 1Th 2,12; Col 1,13. (Trở lại đầu trang)
51 Xem Mt 23,8. - "Muốn trở
thành chủ chăn, thành người cha và thầy của mọi người, chúng ta phải là anh em
của họ": Phaolô VI, Tđ. Ecclesiam suam, 6-8-1964: AAS 58 (1964), trg 647.
(Trở lại đầu trang)
52 Xem Eph 4,7 và 16. - Const.
Apost. VIII, 1,20: "Giám Mục không nên chống các phó tế hoặc linh mục,
cũng như các linh mục không nên chống dân chúng, vì cả hai đều làm thành một
cộng đoàn": x.b. F.X. Funk, I, trg 467. (Trở lại đầu
trang)
53 Xem Ph 2,21. (Trở lại đầu trang)
54 Xem 1Gio 4,1. (Trở lại đầu trang)
55 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý
về Giáo Hội Lumen Gentium 21-11-1964, số 37: AAS 57 (1965), trg 42-43. (Trở lại đầu trang)
56 Xem Eph 4,14. (Trở lại đầu trang)
57 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về Hiệp
Nhất Unitatis Redintegratio, 21-11-1964: AAS 57 (1965) trg 90 tt. (Trở lại đầu trang)
58 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý
về Giáo Hội Lumen Gentium, 21-11-1964, số 37 AAS 57 (1965), trg 42-43. (Trở lại đầu trang)
8* Nhờ Bí Tích Rửa Tội, các linh
mục được gia nhập Dân Chúa, trở nên người anh em "của các anh em".
Nhờ Bí Tích Truyền Chúa, các ngài lãnh trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn, nhưng
các ngài phải sống như nô bộc biết đón nhận, lắng nghe và nhận ra những đặc
sủng nơi các tín hữu mà các ngài giúp khám phá ra trách nhiệm riêng của họ. Các
linh mục cần phải nhận thức bổn phận mình là phải hoạt động chung với họ với
tinh thần Bác ái trong việc phục vụ Giáo Hội. (Trở lại
đầu trang)
59 Xem Dth 7,3. (Trở lại đầu trang)
60 Xem Lc 10,1. (Trở lại đầu trang)
9* Nền tảng giáo lý về sự tùng phục
hoàn toàn của các linh mục, nghĩ a là sẵn sàng đảm nhận bất cứ chức vụ gì ở bất
cứ nơi nào, hệ tại sự tham dự vào chức Linh Mục của Chúa Kitô, vào sứ mệnh phổ
quát mà Chúa đã ủy thác cho các Tông Ðồ. Trách nhiệm của các linh mục vì vậy
cũng mang một trương độ phổ quát. (Trở lại đầu trang)
61 Xem 1P 2,25. (Trở lại đầu trang)
62 Xem CvTđ 20,28. (Trở lại đầu trang)
63 Xem Mt 9,36. (Trở lại đầu trang)
64 Pont. Rom. Lễ phong chức Linh
Mục. (Trở lại đầu trang)
65 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về việc
Ðào Tạo Linh Mục Optatam Totius, 28-10-1965, số 2. (Trở
lại đầu trang)
66 "Tiếng Chúa gọi được biểu
hiện bằng hai cách khác nhau, nhưng đều tuyệt diệu và đồng quy: một là tiếng
nói bên trong, đó là tiếng nói của ơn thánh, của Chúa Thánh Thần, của một sức
lôi cuốn nội tâm khôn tả, một tiếng nói âm thầm và quyền năng của Chúa phát tỏa
trong thâm cung con người không thể đo lường được; tiếng nói khác từ bên ngoài,
có tính cách nhân loại, khả giác, xã hội, luật pháp cụ thể, đó là tiếng nói của
thừa tác viên Lời Chúa có đầy đủ phẩm cách, là tiếng nói của vị Tông Ðồ, của
Phẩm Trật, một dụng cụ cần thiết đã được Chúa Kitô thiết lập và muốn có như
trung gian diễn ngữ sứ điệp của Ngôi Lời và giới luật của Thiên Chúa. Về điều
này, giáo lý công giáo đã cùng với Thánh Phaolô dạy rằng: "Nếu không có
Người giảng thuyết thì nghe biết làm sao được?... Ðức tin do nghe nói (Rm 10,14
và 17)": Phaolô VI, huấn dụ ngày 5-5-1965: l'Osservatore Romano, 6-5-1965,
trg 1. (Trở lại đầu trang)
67 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về việc
Ðào Tạo Linh Mục Optatam Totius, 28-10-1965, số 2. (Trở
lại đầu trang)
68 Các Giáo Phụ dạy như thế khi chú
giải những lời Chúa Kitô nói với Phêrô: "Con có yêu mến Ta không?... Hãy
chăn các chiên mẹ của Ta" (Gio 21,17): chẳng hạn T. Gioan Kim Khẩu, De
Sacerdotio, II, 2: PG 48, 633; - T. Gregoriô Cả, Reg. Past. Liber: phần I, ch.
5: PL 77, 19A. (Trở lại đầu trang)
10* Các linh mục cộng tác vào ơn
thiên triệu linh mục mà Chúa đoái thương ban cho con người bằng gương sống bản
thân, bằng việc giáo huấn tín hữu và bằng cách nâng đỡ tinh thần đối với những
ứng viên ngưỡng vọng thiên chức linh mục. (Trở lại đầu
trang)