Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Chức Vụ Và Ðời
Sống Các Linh Mục
(Presbyterorum Ordinis)
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X Đalạt
Chương
III
Ðời Sống Linh Mục
I. Các Linh Mục Ðược Mời Gọi Nên Hoàn
Thiện
12. Nghĩa vụ sống thánh thiện. Nhờ Bí Tích Truyền Chức Thánh, các Linh Mục nên giống
Chúa Kitô Linh Mục, để như là thừa tác viên của Ðầu Nhiệm Thể và như những cộng
tác viên của hàng Giám Mục, các ngài xây dựng và kiến thiết toàn Thân Người là
Giáo Hội. Ðành rằng ngay từ khi được thánh hiến nhờ phép Rửa Tội, như mọi Kitô
hữu, các ngài đã lãnh nhận dấu tích và ân huệ của ơn gọi và ơn sủng cao trọng,
dù bản tính nhân loại yếu hèn 1,
các ngài vẫn có thể theo đuổi và phải theo đuổi sự hoàn thiện, đúng như lời
Chúa phán: "Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời là Ðấng
Hoàn Thiện" (Mt 5,48). Nhưng các Linh Mục còn có lý do đặc biệt phải đạt
tới sự hoàn thiện này, vì khi lãnh nhận Chức Thánh là các ngài được thánh hiến
cho Thiên Chúa theo một cách thức mới: các ngài trở nên những khí cụ sống động
của Chúa Kitô Linh Mục Ðời Ðời, để qua các thời đại, các ngài có thể tiếp tục
công việc kỳ diệu của Ðấng đã lấy quyền năng cao cả mà tái lập toàn thể xã hội
con người 2.
Do đó, khi đóng vai trò của chính Chúa Kitô theo cách của mình, mỗi Linh Mục
cũng nhận được những ơn riêng để trong khi phục vụ dân được trao phó cho ngài
và phục vụ toàn thể dân Chúa, ngài có thể dễ dàng theo đuổi sự hoàn thiện của
đời sống của Ðấng mà mình đóng vai, và để sự yếu đuối của xác thịt loài người
được lành mạnh nhờ sự thánh thiện của Ðấng vì chúng ta đã trở nên Linh Mục
Thượng Phẩm "thánh thiện, trong sạch, vô tội, tách biệt khỏi kẻ có
tội" (Dth 7,26).
Chúa Kitô, Ðấng Chúa Cha đã thánh hóa, thánh hiến và sai
xuống trần gian 3
"đã hiến thân cho chúng ta hầu cứu chúng ta khỏi mọi tội ác và thanh tẩy
một dân đáng được Ngài chấp nhận và nhiệt thành với mọi việc lành" (Tit
2,14), và như thế qua cuộc khổ nạn mà vào vinh quang 4.
Các Linh Mục cũng vậy, sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hiến bởi việc xức dầu
và được Chúa Kitô sai đi, các ngài hãm dẹp những việc của xác thịt nơi chính
bản thân và hoàn toàn tận tâm phục vụ nhân loại; nhờ thế các ngài có thể tiến
tới trên đường thánh thiện mà các ngài đã được tô điểm trong Chúa Kitô, để
thành con người hoàn toàn 5.
Bởi đó, khi
thi hành thừa tác vụ của Chúa Thánh Thần và của sự công chính 6,
các ngài được vững mạnh trong đời sống thiêng liêng, miễn là các ngài ngoan
ngoãn theo Thánh Thần Chúa Kitô, Ðấng ban sự sống và dẫn dắt các ngài. Thực
vậy, chính các ngài được kêu gọi đạt tới một đời sống hoàn thiện nhờ chính
những công việc thánh thiện hằng ngày, cũng như nhờ thi hành trọn vẹn thừa tác
vụ khi các ngài thông hiệp với Giám Mục và các Linh Mục khác. Vả lại, chính sự
thánh thiện của Linh Mục giúp các ngài rất nhiều trong việc chu toàn thừa tác
vụ của mình một cách hữu hiệu: thật vậy, dù ơn Chúa có thể hoàn tất công trình
cứu rỗi qua những thừa tác viên bất xứng, nhưng thường tình Thiên Chúa muốn tỏ
ra những việc lạ lùng của Ngài qua những vị sẵn sàng nghe theo sự thúc giục và
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần hơn, bằng kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và
bằng một đời sống thánh thiện, để có thể nói như thánh Tông Ðồ rằng: "dù
tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà thực ra Chúa Kitô sống trong
tôi" (Gal 2,20).
Vì thế, để đạt tới những mục đích mục vụ trong việc canh
tân bên trong Giáo Hội, để truyền bá Phúc Âm cho tất cả thế giới cũng như để
đối thoại với thế giới ngày nay, Thánh Công Ðồng này tha thiết khuyên tất cả
các Linh Mục hãy dùng mọi phương tiện thích hợp mà Giáo Hội ban cho 7
để luôn luôn nỗ lực tiến cao hơn trên đường thánh thiện, nhờ đó các ngài trở
nên những khí cụ ngày càng thích hợp hơn cho việc phục vụ toàn thể Dân Chúa 11*.
13. Việc thi hành 3 nhiệm vụ Linh Mục
đòi buộc và khuyến khích sự thánh thiện. Thành tâm và kiên nhẫn thi hành chức vụ của mình trong
tinh thần Chúa Kitô là phương pháp riêng giúp các Linh Mục theo đuổi sự thánh
thiện.
Vì là thừa
tác viên lời Chúa nên hằng ngày các ngài đọc và nghe lời Chúa mà các ngài sẽ
phải dạy lại cho người khác; vì nếu một khi tâm hồn các ngài đã cố gắng đón
nhận lời Chúa, thì càng ngày các ngài trở nên môn đệ hoàn thiện hơn của Chúa
Kitô, như lời Thánh Phaolô Tông Ðồ mới nói với Timotheô: "Con hãy tự giữ
mình và hãy chăm lo lời mình dạy: hãy cương quyết như vậy, điều đó sẽ khiến con
tự cứu rỗi con và cả những ai nghe lời con nữa" (1Tm 4,15-16). Thật vậy,
khi tìm những cách thích hợp nhất để có thể thông ban cho kẻ khác những điều
mình đã chiêm niệm 8,
các ngài mới nếm được một cách ý vị hơn "những sự phong phú không thể khám
phá hết được của Chúa Kitô" (Eph 3,8) và sự khôn ngoan muôn mặt của Thiên
Chúa 9.
Nhớ rằng chính Chúa là Ðấng mở lòng 10
và sự cao cả không do các ngài nhưng đến từ quyền năng Thiên Chúa 11,
các ngài liên kết mật thiết hơn với Chúa Kitô là Thầy và được hướng dẫn bởi
Thánh Thần Người trong chính hành động trao ban lời Chúa. Như vậy, thông hiệp
với Chúa Kitô, các ngài thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa mà mầu nhiệm
tình yêu đó đã giấu kín từ lâu đời 12
nay được mạc khải trong Chúa Kitô.
Như thừa tác viên của những Việc
Thánh, nhất là trong Hiến Tế Thánh Lễ, các Linh Mục đặc biệt đóng vai Chúa
Kitô, Ðấng đã tự hiến chính mình làm lễ vật thánh hóa nhân loại; và như thế các
ngài được mời gọi bắt chước điều các ngài đang thi hành, vì khi cử hành mầu
nhiệm Chúa chịu chết, các ngài phải lo khắc chế chi thể mình khỏi tật xấu và
dục vọng 13.
Công việc cứu chuộc chúng ta được liên tục 14
thực hiện trong mầu nhiệm Hiến Tế Thánh Lễ, trong đó các linh mục chu toàn chức
vụ trọng yếu nhất của mình; do đó, hết sức khuyến khích việc cử hành Thánh Lễ
hằng ngày dù các tín hữu không thể tới dự, vì đó là hành động của Chúa Kitô và
của Giáo Hội 15.
Như vậy, trong khi liên kết với hành động của Chúa Kitô Linh Mục, hằng ngày các
Linh Mục tự hiến toàn thân cho Chúa, và trong khi được Mình Chúa Kitô nuôi
dưỡng, tự thâm tâm mình, các ngài tham dự vào tình yêu của Ðấng đã tự hiến làm
lương thực nuôi các tín hữu. Trong khi thi hành các Bí Tích, các ngài cũng hiệp
nhất với ý muốn và tình yêu của Chúa Kitô; và các ngài thể hiện sự hiệp nhất đó
một cách đặc biệt, khi tỏ ra hoàn toàn và luôn luôn sẵn sàng ban Bí Tích Cáo
Giải mỗi khi các giáo hữu thỉnh cầu một cách hợp lý. Trong khi các ngài đọc
Kinh Nhật Tụng, Giáo Hội mượn tiếng của các ngài để không ngừng cầu nguyện nhân
danh toàn thể nhân loại, và để kết hợp với Chúa Kitô, Ðấng "luôn luôn sống
để cầu bầu cho chúng ta" (Dth 7,25).
Là những vị cai quản và chăn dắt Dân Chúa, các ngài được
tình yêu của Chúa Chiên nhân lành thúc đẩy hiến mạng sống cho con chiên 16,
và sẵn sàng hy sinh đến tột bậc, theo gương của nhiều Linh Mục, ngay cả trong
thời hiện đại, không quản ngại hiến mạng sống mình. Là những nhà giáo dục trong
đức tin và "được lòng can đảm bước vào nơi chí thánh nhờ Máu Chúa
Kitô" (Dth 10,19), các ngài tới gần Thiên Chúa "với một tấm lòng chân
thành tràn đầy đức tin" (Dth 10,22); các ngài gây niềm hy vọng vững vàng
cho các tín hữu của mình 17,
để nhờ chính sự khích lệ mà Thiên Chúa đã khích lệ các ngài, các ngài có thể an
ủi ho trong mọi cơn thử thách 18,
là những vị hướng dẫn cộng đoàn, các ngài thực hành việc khổ chế riêng biệt của
vị chăn dắt các linh hồn: từ bỏ những tiện nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi
nhưng tìm lợi ích cho nhiều người, để họ được cứu rỗi 19,
luôn tiến bộ hơn trong việc chu toàn hoạt động mục vụ cách hoàn hảo hơn và khi
cần, các ngài sẵn sàng đi vào những con đường mục vụ mới mẻ, dưới sự hướng dẫn
của Thánh Thần tình yêu, Ðấng thổi nơi nào Ngài muốn 20.
12*
14. Ðời
sống Linh Mục thống nhất và hòa hợp. Trong thế giới ngày nay, vì con người phải đối phó với
biết bao công việc và phải khổ tâm vì biết bao vấn đề khác nhau, lắm khi cần
phải được giải quyết cấp tốc, nên hay có tình trạng con người bị chi phối bởi
nhiều vấn đề khác nhau. Còn các Linh Mục, vì bị vướng mắc và phân tán bởi nhiều
trách nhiệm của chức vụ, nên không khỏi lo lắng tìm phương cách nào để có thể
phối hợp đời sống nội tâm của mình với những đòi hỏi của hoạt động bên ngoài.
Việc thống nhất đời sống này không thể được thực hiện nguyên bằng cách tổ chức
hoàn toàn bên ngoài các công việc của chức vụ hoặc bằng cách thực thi những
việc đạo đức này, tuy những việc này giúp phát triển sự thống nhất đời sống
Linh Mục. Nhưng các Linh Mục có thể kiến tạo sự thống nhất đời sống khi các
ngài theo gương Chúa Kitô trong việc chu toàn chức vụ: lương thực của Người là
làm theo ý muốn của Ðấng đã sai Người, để Người hoàn thành công việc của mình 21.
Thực ra, Chúa Kitô hành động qua các thừa tác viên của Người để luôn luôn
dùng Giáo Hội thi hành ý muốn của Chúa Cha trên trần gian, và vì vậy Người vẫn
là nguyên lý và nguồn mạch sự thống nhất đời sống của các ngài. Vậy, các linh
mục phải thực hiện việc thống nhất đời sống của mình bằng cách kết hợp với Chúa
Kitô trong sự nhận biết ý Chúa Cha và trong sự hiến thân cho đoàn chiên đã trao
phó cho các ngài 22.
Như thế, nhờ thi hành những nhiệm vụ của Chúa Chiên nhân lành, và trong chính
khi thực thi bác ái mục vụ, các ngài tìm thấy mối dây hoàn thiện của Linh Mục
ràng buộc đời sống và hoạt động của mình làm một. Thật thế, bác ái mục vụ này 23
trước hết phát xuất từ Hiến Tế Thánh Lễ, do đó Hiến Tế Thánh Lễ là trung tâm và
là cội rễ của toàn thể đời sống Linh Mục, cho nên Linh Mục phải cố gắng thực
hiện trong tâm tư điều mình đã làm trên bàn tế lễ. Nhưng điều đó chỉ có thể
thực hiện được, khi chính các Linh Mục nhờ cầu nguyện, luôn luôn đi sâu mãi vào
mầu nhiệm Chúa Kitô.
Ðể có thể kiểm soát sự thống nhất
đời sống cả trong những hoàn cảnh cụ thể, các ngài phải xét đoán mọi hoạt động
của mình cho biết rõ đâu là ý muốn của Thiên Chúa 24,
nghĩa là biết rõ những hoạt động đó có thích hợp với những tiêu chuẩn của sứ
mệnh Phúc Âm của Giáo Hội hay không. Thực vậy, ai trung thành với Chúa Kitô
không thể không trung thành với Giáo Hội. Do đó, đức bác ái mục vụ đòi hỏi các
Linh Mục không được chạy theo hư vô 25,
nhưng phải luôn luôn làm việc trong mối hiệp thông với các Giám Mục và với những
anh em linh mục khác. Có làm như thế, các Linh Mục mới tìm được sự thống nhất
đời sống của mình trong chính sứ mệnh duy nhất của Giáo Hội, và như vậy các
ngài mới hiệp nhất với Chúa, và qua Người, với Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần,
để có thể tràn đầy an ủi và dư thừa hoan lạc 26.
13*
II. Những Ðòi Hỏi Thiêng Liêng
Ðặc Biệt Trong Ðời Linh Mục
15. Khiêm tốn và vâng phục. Trong những đức tính cần thiết
hơn cả cho chức vụ Linh Mục, phải kể đến tâm trạng này, là bao giờ cũng sẵn
sàng tìm ý muốn Ðấng đã sai mình chứ không phải tìm ý riêng 27.
Thực ra công việc của Thiên Chúa mà Chúa Thánh Thần tuyển chọn 28
các ngài để hoàn thành, vượt quá mọi năng lực và tầm mức khôn ngoan nhân loại;
vì "Thiên Chúa đã lựa chọn những gì yếu hèn trong thế gian để bêu xấu
những gì mạnh mẽ" (1Cor 1,27). Vậy ý thức những sự yếu hèn của mình, thừa
tác viên đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn làm việc trong khi tìm xem điều gì
đẹp lòng Thiên Chúa 29
và như bị ràng buộc bởi Thánh Thần 30,
trong mọi sự ngài đều tuân theo ý của Ðấng muốn cho mọi người được cứu rỗi.
Ngài có thể khám phá và tuân theo ý muốn này trong những sự kiện hàng ngày bằng
cách khiêm tốn phục vụ cho mọi người được Thiên Chúa ủy thác cho mình qua các
nhiệm vụ riêng của mình cũng như qua những biến cố của đời sống.
Nhưng vì chức vụ Linh Mục là chức vụ của chính Giáo Hội, nên chức vụ đó chỉ
có thể được chu toàn trong sự thông công phẩm trật của toàn thân thể. Vậy đức
bác ái mục vụ thôi thúc các Linh Mục đang hoạt động trong mối thông hiệp này
biết hy sinh ý riêng mình, qua việc vâng lời phục vụ Chúa và anh em, bằng cách
lấy tinh thần đức tin mà lãnh nhận và tuân theo những gì được Ðức Giáo Hoàng,
Ðức Giám Mục của mình, cũng như các Bề Trên khác truyền dạy và khuyên bảo, bằng
cách hoàn toàn sẵn lòng tự hiến và tự hiến hết mức 31
trong bất cứ chức vụ nào đã được trao phó cho mình dù là thấp kém và nghèo hèn.
Thật vậy, nhờ cách đó, các ngài duy trì củng cố sự hiệp nhất cần thiết với các
anh em ngài trong thừa tác vụ, và nhất là với những vị được Thiên Chúa đặt làm
nhà lãnh đạo hữu hình của Giáo Hội; nhờ thế, các ngài cộng tác vào việc xây
dựng Thân Thể Chúa Kitô, Thân Thể được lớn lên "bằng mọi mối khớp tương
trợ" 32.
Sự vâng phục này đưa con cái Thiên Chúa tới sự tự do trưởng thành hơn: trong
khi vì bác ái thúc đẩy và để chu toàn chức vụ, các Linh Mục khôn ngoan tìm tòi
những con đường mới mẻ mưu ích hơn cho Giáo Hội, thì chính sự vâng phục đó tự
bản tính cũng còn đòi buộc các ngài phải tin tưởng đưa ra những sáng kiến, phải
tha thiết trình bày những nhu cầu của đoàn chiên được trao phó và luôn luôn sẵn
sàng tùng phục phán đoán của những vị thi hành các phận vụ chính yếu trong việc
điều khiển Giáo Hội Chúa.
Nhờ tự
ý khiêm nhượng và vâng phục trong tinh thần trách nhiệm mà các Linh Mục nên
giống Chúa Kitô và có những cảm thức như Chúa Giêsu Kitô, Ðấng "tự hủy
mình khi nhận lấy thân phận tôi tớ... đã vâng lời cho đến chết" (Ph
2,7-8). Nhờ sự vâng phục này Người đã chiến thắng và chuộc lại sự bất phục tùng
của Adam, như Thánh Tông Ðồ đã minh chứng: "vì một người không vâng phục
mà muôn người hóa thành tội nhân, thì cũng thế, vì một Ðấng phục tùng mà nhiều
người được trở nên công chính" (Rm 5,19). 14*
16. Chọn lựa và kính trọng đời sống độc
thân như một ân sủng. Sự chế dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời đã được Chúa Kitô khuyến
khích 33,
mà qua các thời đại và ngay cả ngày nay vẫn được một số đông Kitô hữu sẵn lòng
chấp nhận và tuân giữ một cách đáng khâm phục, thì hiện thời vẫn luôn được Giáo
Hội hết sức quý trọng trong đời sống Linh Mục. Thực vậy, nó là dấu chứng và
đồng thời là niềm khích lệ đức bác ái mục vụ và là nguồn mạch đặc biệt làm phát
sinh đời sống thiêng liêng phong phú trên thế giới 34.
Thực ra tự bản tính của chức Linh Mục không đòi buộc điều đó như đã thấy thực
hành trong Giáo Hội sơ khai 35
và trong truyền thống của Giáo Hội Ðông Phương. Trong các Giáo Hội đó, ngoài
những vị cùng với tất cả các Giám Mục, nhờ ơn thánh, đã giữ bậc độc thân, cũng
còn có những Linh Mục rất xứng đáng đã lập gia đình; thực vậy, khi khuyến khích
bậc độc thân Linh Mục, Thánh Công Ðồng này không hề có ý định thay đổi tập quán
khác biệt đang thịnh hành một cách chính đáng trong Giáo Hội Ðông Phương, và
thân ái khuyên nhủ tất cả những ai đã nhận lãnh chức Linh Mục và hiện đang sống
đời đôi bạn, hãy bền chí trong ơn gọi thánh và hoàn toàn quảng đại tiếp tục hy
sinh đời sống mình cho đoàn chiên được trao phó 36.
Nhưng bậc
độc thân có rất nhiều thuận tiện cho chức Linh Mục. Thật vậy, sứ mệnh toàn diện
của Linh Mục là tận hiến để phục vụ một nhân loại mới, mà Chúa Kitô Ðấng chiến
thắng sự chết đã phục hồi trong thế gian nhờ Thánh Thần Người và là một nhân
loại đã được sinh ra "không bởi khí huyết, không bởi ý muốn xác thịt,
không bởi ý muốn của nam nhân, nhưng bởi Thiên Chúa". (Gio 1,13). Nhờ đức
trinh khiết hay là bậc độc thân vì Nước Trời 37
các Linh Mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một lý do mới mẻ và tuyệt hảo
được kết hợp cách dễ dàng hơn với Người bằng một trái tim không chia xẻ 38,
tận hiến cách tự do hơn trong Người và nhờ Người để phục vụ Thiên Chúa và loài
người, sẵn sàng hơn trong việc phục vụ Nước Chúa và việc tái sinh siêu nhiên;
như thế các ngài càng thích đáng lãnh nhận một cách bao quát hơn chức vụ làm
cha trong Chúa Kitô. Chính nhờ đó, các ngài tuyên bố trước mặt mọi người rằng
mình muốn tận hiến trọn vẹn cho công việc đã được trao phó, nghĩa là muốn đính
ước các tín hữu với một người bạn độc nhất và hiến dâng họ cho Chúa Kitô như
một trinh nữ thanh sạch 39;
như thế các ngài nhắc lại cuộc hôn nhân mầu nhiệm đã được Thiên Chúa thiết lập
và sẽ được tỏ lộ đầy đủ ở đời sau. Cuộc hôn nhân trong đó Giáo Hội chỉ có một
vị Hôn Phu duy nhất là Chúa Kitô 40.
Ngoài ra, các ngài còn trở nên dấu chỉ sống động về thế giới mai sau, mà ngày
nay đã hiện diện qua đức tin và đức ái, trong đó con cái sự sống lại không còn
dựng vợ gả chồng nữa 41.
Vì những lý do đặt nền tảng trên mầu nhiệm Chúa Kitô và
sứ mệnh của Người nên việc sống độc thân trước tiên được khuyến khích cho các
Linh Mục, rồi sau đã trở nên luật buộc trong Giáo Hội Latinh cho tất cả những
ai muốn chịu Chức Thánh. Thánh Công Ðồng này phê chuẩn và xác định luật này một
lần nữa đối với những ai muốn chịu chức Linh Mục, vì Công Ðồng tin tưởng vào
Chúa Thánh Thần là ơn độc thân, ơn rất thích hợp với chức Linh Mục Tân Ước, sẽ
được Chúa Cha rộng tay ban phát, miễn là những người tham dự chức Linh Mục của
Chúa Kitô qua Bí Tích Truyền Chúc cũng như toàn thể Giáo Hội phải khiêm tốn và
khẩn khoản nài xin. Thánh Công Ðồng này cũng khuyên mọi Linh Mục vì tin tưởng
vào ơn Chúa đã tự do và tự ý chấp nhận bậc độc thân thánh thiện theo gương Chúa
Kitô, hãy sống gắn bó với bậc đó bằng một tâm hồn quảng đại và với tất cả con
tim của mình. Xin họ hãy kiên nhẫn trung thành trong bậc này và hãy nhìn nhận
đó là ơn rất trọng đại mà Chúa Cha đã ban cho mình và Chúa Con đã công khai tán
thưởng, cũng như hãy nhớ đến 42
những mầu nhiệm cao cả được biểu lộ và thực hiện qua ơn độc thân. Chắc hẳn nếu
càng có nhiều người trong thế giới ngày nay nghĩ rằng sự chế dục hoàn toàn
không thể có được, thì các Linh Mục càng phải hiệp cùng với Giáo Hội mà khiêm
nhượng và kiên nhẫn hơn nữa để cầu xin ơn trung thành, vì Chúa không bao giờ từ
chối những người kêu xin. Ðồng thời các ngài lại phải luôn dùng mọi phương thế
siêu nhiên và tự nhiên mà mọi người sẵn có, nhất là các ngài hãy tuân giữ những
luật lệ khổ hạnh đã được kinh nghiệm của Giáo Hội chuẩn nhận và không kém cần
thiết trong thế giới ngày nay. Vì vậy Thánh Công Ðồng này không những yêu cầu các
Linh Mục mà còn kêu gọi tất cả các tín hữu hãy quý trọng ơn độc thân Linh Mục
cao quý này và hãy cầu xin cùng Chúa để chính Ngài luôn rộng tay ban phát dồi
dào ơn này cho Giáo Hội Ngài 15*.
17. Thái độ đối với trần thế cũng như của cải vật chất và tình nguyện sống
khó nghèo.
Nhờ đời sống thân hữu và huynh đệ giữa các Linh Mục với nhau và với những người
khác, các ngài có thể biết cách thẩm định và vun trồng những giá trị nhân bản
và quý mến các tạo vật tốt lành như những ơn phúc của Thiên Chúa. Tuy sống giữa
thế gian nhưng các ngài phải luôn biết rằng mình không thuộc về thế gian, như
lời Chúa là Thầy chúng ta đã phán dạy 43.
Vậy xử dụng trần gian như không xử dụng 44,
các ngài được tự do, sự tự do giải thoát các ngài khỏi mọi lo lắng hỗn loạn và
làm cho các ngài ngoan ngoãn nghe theo tiếng Chúa trong đời sống hằng ngày. Từ
sự tự do và ngoan ngoãn đó sẽ nảy sinh khả năng phân biệt thiêng liêng để nhờ
đó tìm ra thái độ đứng đắn đối với thế gian và của cải trần thế. Thực vậy, thái
độ đó rất quan trọng đối với các Linh Mục vì sứ mệnh Giáo Hội được hoàn tất
giữa trần gian và vì những của cải được tạo dựng lại rất cần thiết cho sự tiến
bộ bản thân của con người. Vậy các ngài phải cảm tạ Chúa Cha trên trời vì tất
cả những gì Ngài rộng ban cho để được sống xứng đáng. Tuy vậy, các ngài phải
phân biệt dưới ánh sáng đức tin tất cả những gì các ngài gặp thấy để một đàng
biết xử dụng một cách thích đáng những của cải theo ý muốn của Thiên Chúa, đàng
khác biết gạt bỏ những gì phương hại đến sứ mệnh của mình.
Thật vậy, vì Chúa là "phần
và là gia nghiệp" của mình (Ds 18,20), nên các Linh Mục chỉ được xử dụng
những của cải trần gian vào những mục đích mà giáo lý Chúa Kitô và quy luật của
Giáo Hội ấn định.
Về những của cải của Giáo Hội nói
riêng, các Linh Mục phải quản trị chúng theo bản chất chúng đúng như tiêu chuẩn
của giáo luật, với sự giúp đỡ của những giáo dân thông thạo khi có thể, và các
ngài phải luôn luôn nhằm xử dụng chúng vào những mục đích mà Giáo Hội phải theo
đuổi khi Giáo Hội làm chủ những của cải trần gian, nghĩa là nhằm vào việc thờ
phượng Chúa, cung cấp một mức sống xứng đáng cho hàng giáo sĩ, cũng như thi
hành những công cuộc tông đồ thánh thiện, hay những việc bác ái, nhất là đối
với những người nghèo túng 45.
Còn những của cải có được nhân dịp thi hành một vài nhiệm vụ nào đó của Giáo
Hội, trừ khi có luật ấn định cách khác 46,
các Linh Mục cũng như các Giám Mục trước hết phải dùng vào việc cấp dưỡng xứng
đáng cho mình và việc chu toàn những phận sự của đấng bậc mình, phần còn lại,
các ngài hãy dùng vào việc gây ích lợi cho Giáo Hội hoặc cho những công cuộc
bác ái. Bởi thế, các ngài không được coi chức vụ của Giáo Hội như một mối lợi,
cũng không được dùng những lợi tức để làm giàu cho gia đình mình 47.
Bởi vậy các Linh Mục không bao giờ được để tâm hồn dính bén của cải 48
nhưng phải luôn luôn tránh mọi tham lam và xa lánh mọi hình thức thương mại.
Hơn nữa, các ngài được mời gọi
tình nguyện sống nghèo khó để nên giống Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn và tận
tụy hơn với chức vụ thánh. Thật vậy, dù giàu có, Chúa Kitô đã trở nên nghèo hèn
vì chúng ta để nhờ sự nghèo khó của Người mà chúng ta trở nên giàu có 49.
Cũng thế, chính các Tông Ðồ đã làm gương chứng minh rằng: đã lãnh nhận ơn cách
nhưng không thì cũng phải ban phát cách nhưng không 50,
và các ngài đã biết sống khi được sung túc cũng như khi phải túng thiếu 51.
Việc xử dụng tài sản như thế theo gương đóng góp tài sản làm của chung đã được
tán thưởng trong lịch sử Giáo Hội sơ khai 52,
có thể mở một con đường dẫn tới bác ái mục vụ một cách tuyệt hảo và nhờ cách
sống này các Linh Mục có thể thực hiện một cách đáng khen ngợi tinh thần nghèo
khó đã được Chúa Kitô khuyến khích.
Vì thế, các Linh Mục cũng như Giám Mục, được hướng dẫn
bởi Chúa Thánh Thần, Ðấng đã xức dầu cho Chúa Cứu Thế và sai đi giảng Phúc Âm
cho người nghèo khó 53,
phải tránh tất cả những gì bằng cách này hay cách khác có thể làm xa cách người
nghèo khó, và hơn các môn đệ khác Chúa Kitô các ngài phải loại bỏ mọi thứ khoe
khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài phải xếp đặt chỗ ở thế nào để không
ai coi đó là nơi bất khả xâm phạm, và để không ai dù nghèo hèn đến đâu phải sợ
hãi không bao giờ dám lui tới 16*.
III. Những Phương Tiện Giúp Ðời Sống
Linh Mục
18. Phương thế nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Ðể có thể sống kết hiệp mật
thiết hơn với Chúa Kitô trong mọi cảnh ngộ cuộc đời, ngoài việc thực hành một
cách ý thức thừa tác vụ của mình, các Linh Mục còn hưởng nhờ những phương tiện
chung và riêng, mới và cũ mà Chúa Thánh Thần không bao giờ ngừng khơi dậy trong
Dân Chúa và Giáo Hội hằng khuyến khích đôi khi còn buộc dùng, để thánh hóa các
chi thể mình 54.
Trong tất cả các phương thế thiêng liêng, quan trọng hơn cả là những hoạt động
giúp các Kitô hữu được nuôi dưỡng bằng Ngôi Lời nơi Bàn Thánh Kinh và Bàn Thánh
Thể 55;
ai cũng biết rằng việc siêng năng lui tới bàn thánh quan trọng chừng nào cho
việc thánh hóa bản thân các Linh Mục.
Các thừa
tác viên của ân sủng bí tích kết hợp mật thiết với Chúa Kitô là Ðấng Cứu Thế và
là Chúa Chiên nhờ chịu các phép Bí Tích cách hiệu quả, nhất là trong việc năng
chịu Bí Tích Cáo Giải, được chuẩn bị bằng sự xét mình hàng ngày, vì nó sẽ giúp
nhiều cho việc thật lòng trở về với tình yêu của Cha từ bị. Dưới ánh sáng đức
tin được nuôi dưỡng bằng việc đọc Sách Thánh, các ngài có thể tận tâm tìm kiếm
những dấu hiệu của thánh ý Chúa và những thúc đẩy của ơn thánh Ngài trong những
biến cố khác nhau của đời sống, và như thế ngày càng trở nên dễ dàng vâng phục
sứ mệnh đã nhận lãnh trong Chúa Thánh Thần hơn. Các ngài luôn tìm thấy gương
mẫu lạ lùng về sự dễ vâng phục đó nơi Ðức Trinh Nữ Maria, Người được Chúa Thánh
Thần dẫn dắt đã hiến toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc loài người 56;
các Linh Mục phải lấy lòng con thảo thành kính tôn sùng và mến yêu Ðức Trinh Nữ
Maria là Mẹ của Linh Mục Thượng Phẩm vĩnh viễn, là Nữ Vương các Tông Ðồ và là
Ðấng bảo trợ thừa tác vụ Linh Mục.
Ðể
trung thành chu toàn thừa tác vụ của mình, các ngài phải chuyên tâm đàm đạo
hằng ngày với Chúa Kitô trong lúc viếng Mình Thánh Chúa và trong việc cá nhân
tôn sùng phép Thánh Thể Chí Thánh; các ngài hãy tự ý chăm lo việc tĩnh tâm
thiêng liêng và mến chuộng việc linh hướng. Bằng nhiều cách, nhất là bằng tâm
nguyện vẫn được thực hành trong Giáo Hội và bằng những hình thức kinh nguyện
khác nhau tùy các ngài tự ý lựa chọn, các Linh Mục tự luyện và cố tâm khẩn cầu
Chúa ban cho mình một tinh thần thờ phượng đích thực, nhờ đó các ngài cùng với
dân được trao phó sẽ kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô là Ðấng Trung Gian của
Giao Ước Mới, và như thế, họ có thể kêu lên như những nghĩa tử "Abba,
Cha" (Rm 8,15). 17*
19. Học hỏi và hiểu biết về mục vụ. Trong nghi lễ truyền chức, Ðức Giám Mục khuyên bảo các
Linh Mục hãy "trưởng thành trong sự hiểu biết" và lời giáo huấn của
các ngài phải là "linh dược thiêng liêng cho Dân Chúa" 57.
Nhưng kiến thức của các thừa tác viên thánh cũng phải thánh vì nó phát xuất từ
nguồn mạch thánh và quy hướng về cùng đích thánh. Vì vậy, kiến thức đó trước
hết được rút ra từ việc đọc và suy gẫm Sách Thánh 58,
nhưng nó cũng được nuôi dưỡng hữu hiệu bằng việc nghiên cứu những tài liệu của
các Giáo Phụ, các Thánh Tiến Sĩ và các tài liệu khác của Thánh Truyền. Ngoài
ra, để trả lời thỏa đáng những vấn đề do người thời nay nêu lên, các Linh Mục
phải hiểu biết cho thấu đáo những tài liệu của Quyền Giáo Huấn, nhất là của các
Công Ðồng và của các Ðức Giáo Hoàng, cũng như phải tham khảo những tác giả thần
học thời danh nhất và đã được thừa nhận.
Thực ra, trong thời đại chúng ta,
văn hóa nhân loại và ngay đến những khoa học thánh cũng tiến thêm một bước mới,
nên khuyên các Linh Mục hãy hoàn bị kiến thức của mình về Thiên Chúa và về nhân
loại một cách thích hợp và liên tục, và như thế, các ngài tự chuẩn bị để đối
thoại với những người đương thời một cách thích hợp hơn.
Ðể các Linh Mục nghiên cứu dễ dàng hơn cũng như để học hỏi những phương
pháp rao giảng Phúc Âm và làm việc tông đồ một cách hiệu quả hơn, phải hết sức
lo cho các ngài có những phương tiện thích hợp, như tổ chức những khóa học tập
hay những khóa hội thảo tùy hoàn cảnh chung của từng địa hạt, thiết lập những
trung tâm học hỏi mục vụ, thành lập những thư viện và cắt đặt thích ứng những
người có khả năng điều khiển công việc học tập. Ngoài ra mỗi Giám Mục riêng
biệt hay nhiều Giám Mục hợp lại, phải cân nhắc để tìm ra phương cách thích hợp
nhất, hầu tất cả các Linh Mục của mình có thể lui tới khóa học, vào thời gian
ấn định, nhất là một vài năm sau khi chịu chức 59;
nhờ vậy, các ngài có dịp vừa để thâu nhận thêm những kiến thức đầy đủ hơn về
phương pháp mục vụ và khoa thần học, vừa để củng cố đời sống thiêng liêng và để
cùng trao đổi với anh em những kinh nghiệm tông đồ 60.
Cũng nên dùng những phương tiện này và những phương tiện thích nghi khác để đặc
biệt giúp đỡ những cha sở mới và những vị đã được chỉ định cho một công cuộc
mục vụ mới, hoặc những vị được sai đến một giáo phận hay một quốc gia khác.
Sau
hết, các Giám Mục nên lo liệu cho một số Linh Mục chuyên về các khoa học thánh
để không bao giờ thiếu các giáo sư đầy đủ khả năng đào tạo hàng Linh Mục, để
giúp các Linh Mục khác và các tín hữu lãnh nhận được nền giáo thuyết cần thiết,
và để khuyến khích sự tiến triển lành mạnh trong các môn học thánh, vì sự tiến
triển đó rất cần thiết cho Giáo Hội. 18*
20. Thù
lao cân xứng. Nhờ hiến thân phụng sự Thiên Chúa trong việc chu toàn nhiệm vụ được trao
phó, các Linh Mục được lãnh một số thù lao cân xứng vì "thợ đáng ăn lương
của mình" (Lc 10,7) 61
và "Chúa đã định liệu những ai rao giảng Phúc Âm được sống bởi Phúc
Âm" (1Cor 9,14). Bởi thế, nơi nào không có sẵn thù lao cân xứng cho các
Linh Mục, thì chính các tín hữu phải nhận lấy trách nhiệm lo cho các ngài được
những điều cần thiết hầu có một mức sống thích hợp và xứng đáng, bởi chính vì
lợi ích các tín hữu mà các ngài hy sinh hoạt động. Còn các Giám Mục phải nhớ
nhắc cho các tín hữu trách nhiệm này và phải lo liệu - hoặc vị nào cho giáo
phận nấy, hoặc tiện hơn là nhiều vị chung nhau cho một vùng - lập ra những quy
luật giúp bảo đảm đúng mức một số trợ cấp xứng đáng cho những vị đang thi hành
hay đã thi hành một vài chức vụ trong việc phục vụ Dân Chúa. Phần thù lao cấp
phát cho mỗi vị phải được ấn định hoặc tùy theo bản chất của chức vụ hoặc tùy
theo hoàn cảnh địa phương và thời gian. Nhưng phần thù lao căn bản phải đồng
đều cho tất cả các vị có cùng một hoàn cảnh, phải xứng hợp với hoàn cảnh của
các ngài, và hơn nữa phải giúp các ngài chẳng những có thể cấp một phần thù lao
cân xứng cho những kẻ hy sinh giúp việc các ngài, nhưng còn có thể tự mình giúp
đỡ những kẻ thiếu thốn vì một lý do nào đó; thực vậy, việc phục vụ kẻ nghèo khó
ngay từ thuở ban đầu đã được Giáo Hội luôn luôn nhiệt liệt tán thưởng. Ngoài
ra, cũng phải lo liệu làm sao cho phần thù lao này có thể giúp các Linh Mục
hằng năm có một thời gian nghỉ ngơi thích đáng và đầy đủ; các Giám Mục phải lo
cho các Linh Mục có thể có thời gian nghỉ ngơi đó.
Tuy nhiên, phải dành tầm quan
trọng bậc nhất cho chức vụ do các thừa tác viên thi hành. Vì thế, hệ thống mệnh
danh là "ân bổng" phải được bãi bỏ, hoặc ít ra phải được cải tổ thể
nào để phần ân bổng, nghĩa là quyền thụ hưởng những lợi tức bởi chức vụ, được
coi như chuyện phụ thuộc, và theo luật, phải nhường địa vị chính yếu cho chính
chức vụ của Giáo Hội, chức vụ mà từ nay phải được hiểu là bất cứ nhiệm vụ nào
được trao phó cách lâu bền để thi hành nhằm mục đích thiêng liêng.
21. Quỹ
chung và bảo hiểm xã hội. Phải luôn luôn nhớ đến gương mẫu của các tín hữu thời
Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem đã đặt "mọi sự làm của chung" (CvTđ
4,32) và "phân phát cho mỗi người tùy nhu cầu" (CvTđ 4,35). Vì vậy,
ít ra trong những miền mà sự cấp dưỡng cho giáo sĩ tùy thuộc hoàn toàn hoặc
phần lớn vào việc dâng cúng của các tín hữu, thì rất nên có một tổ chức giáo
phận nào đó thu góp những của dâng cúng nhằm mục đích này; tổ chức này do Giám
Mục điều khiển với sự trợ giúp của những Linh Mục được ủy nhiệm, cũng như của
cả những giáo dân thông thạo trong lãnh vực kinh tế nếu thấy là hữu ích. Ngoài
ra, cũng ước mong rằng nếu có thể nên thành lập một công quỹ trong mỗi giáo
phận hay mỗi miền để nhờ đó các Giám Mục có thể thỏa mãn các bổn phận khác đối
với những người phục vụ Giáo Hội, và trợ giúp những nhu cầu khác nhau trong
giáo phận, và cũng nhờ đó các giáo phận giàu hơn có thể giúp đỡ các giáo phận
nghèo hơn để sự dư dật của giáo phận này bù đắp cho sự thiếu thốn của giáo phận
khác 62.
Công quỹ này phải được thiết lập trước hết do những của cải các tín hữu dâng
cúng, nhưng cũng còn do những nguồn lợi khác như đã được qui chế ấn định.
Ngoài ra,
trong các quốc gia mà sự bảo hiểm xã hội cho hàng giáo sĩ chưa được tổ chức
cách thích hợp, các Hội Ðồng Giám Mục hãy lưu ý đến giáo luật và dân luật mà lo
liệu cho có những tổ chức trong các giáo phận - và có thể liên kết những tổ
chức với nhau - hoặc những tổ chức được thiết lập cho nhiều giáo phận khác nhau,
hoặc một hội được thành lập cho toàn vùng; nhờ những tổ chức này và dưới sự
chăm sóc của Hàng Giáo Phẩm, việc bảo hiểm xã hội được dự liệu đầy đủ cho tổ
chức mà người ta thường gọi là tổ chức y tế dự phòng và cứu trợ, và dự liệu
việc trợ cấp cân xứng cho các Linh Mục bệnh tật, tàn phế và già yếu. Các Linh
Mục phải giúp đỡ các tổ chức được thành lập như thế với một tinh thần liên đới
với anh em mình và thông cảm những nỗi khổ tâm của họ 63.
Ðồng thời, chính vì không phải bận tâm đến tương lai, các ngài có thể hoàn toàn
tận hiến cho phần rỗi các linh hồn và thực hành đức khó nghèo trong tinh thần
Phúc Âm một cách hăng say hơn. Những vị có trách nhiệm phải cố gắng liên kết
các tổ chức như thế thuộc các quốc gia khác nhau để chúng thêm vững chắc và
được phổ biến rộng rãi hơn.
Kết Luận Và Khuyên Nhủ
22. Kết luận. Thánh Công Ðồng này khi nhớ đến
những hoan lạc của đời sống Linh Mục không thể quên được những khó khăn mà các
Linh Mục phải chịu trong những hoàn cảnh của đời sống hiện tại. Thánh Công Ðồng
cũng biết rằng tình trạng kinh tế, xã hội và ngay cả những phong tục của con
người đang thay đổi rất nhiều và bậc thang giá trị cũng đang đảo lộn không ít
trong trí phán đoán của con người; do đó, các thừa tác viên của Giáo Hội và đôi
khi ngay cả các Kitô hữu đều cảm thấy mình như xa lạ trong thế giới này và áy
náy tìm kiếm không biết phải dùng phương pháp, lời nói nào thích hợp để có thể
giao thiệp với đời. Thật vậy, những chướng ngại mới cho đức tin, những việc làm
bề ngoài xem ra vô ích, cũng như sự cô đơn cay đắng đã từng trải, có thể dẫn
các ngài đến chỗ nguy hiểm là làm cho các ngài chán ngán.
Nhưng thế giới ngày nay được trao
phó cho tình yêu và thừa tác vụ của các vị Chủ Chăn trong Giáo Hội là thế giới
mà Thiên Chúa hết sức yêu thương đến nỗi đã trao ban Con Một của Ngài 64.
Thực ra, tuy bị nhiều tội lỗi chế ngự, thế giới ngày nay vẫn còn có những khả
năng lớn lao để hiến cho Giáo Hội những viên đá sống động 65
hầu cùng nhau xây dựng đền thờ Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần 66.
Khi Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội mở những con đường mới dẫn đến thế giới
ngày nay, thì chính Ngài cũng khởi xướng và khuyến khích những cải tổ thích hợp
cho chức vụ Linh Mục.
Các Linh Mục phải nhớ rằng không
bao giờ các ngài lẻ loi trong khi thi hành bổn phận, nhưng dựa vào sức mạnh của
Thiên Chúa toàn năng và tin tưởng vào Chúa Kitô, Ðấng đã mời gọi các ngài đến
thông phần vào chức Linh Mục của mình, các ngài phải hết lòng tin tưởng mà hiến
thân cho chức vụ mình, vì biết rằng Thiên Chúa toàn năng có thể ban cho các
ngài thêm tình yêu 67.
Các ngài cũng phải nhớ rằng các anh em trong chức Linh Mục và ngay cả những tín
hữu trên toàn thế giới cũng là bạn hữu của mình. Thực vậy, mọi Linh Mục đều
cộng tác để chu toàn ý định cứu rỗi của Thiên Chúa - nghĩa là mầu nhiệm Chúa
Kitô hay là bí tích từ muôn đời đã được giấu kín trong Thiên Chúa 68
- ý định đó chỉ được thực hiện dần dần nhờ liên kết nhiều chức vụ khác nhau
trong việc xây dựng Thân Thể Chúa Kitô cho đến khi Thân Thể hoàn toàn triển nở.
Và tất cả những điều đó, vì được giấu kín với Chúa Kitô trong Thiên Chúa 69,
nên nhờ đức tin mà có thể nhận biết được rõ ràng. Thật vậy, các vị lãnh đạo Dân
Chúa phải bước đi trong đức tin, theo gương của Abraham trung thành, là người
đã lấy đức tin "vâng lời đi đến nơi mà mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: ngài đã
ra đi mà chẳng biết mình sẽ đi đâu" (Dth 11,8). Thực ra, người phân phát
các mầu nhiệm của Thiên Chúa có thể sánh với người gieo giống trong ruộng mà
Chúa đã nói "và người ấy ngủ hay thức, đêm cũng như ngày, hạt giống nảy
mầm và lớn lên, trong khi người ấy chẳng hay biết gì" (Mc 4,27). Hơn nữa,
Chúa Kitô đã nói "các con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian" (Gio
16,33); qua lời này, Người không hứa cho Giáo Hội Người một cuộc toàn thắng ở
trần gian này. Vậy Thánh Công Ðồng vui mừng vì mặt đất đã được hạt giống Phúc
Âm gieo vãi, nay đang sinh hoa kết quả ở nhiều nơi dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần, Ðấng lấp đầy cả trái đất và khởi xướng trong tâm hồn nhiều Linh Mục
và tín hữu tinh thần truyền giáo đích thực. Về tất cả những điều đó, Thánh Công
Ðồng rất thân ái cám ơn mọi Linh Mục trên hoàn cầu: "Chúc tụng Ðấng Quyền
Năng làm được mọi sự cách phong phú hơn điều ta cầu xin hay hiểu biết, tùy theo
quyền phép mà Ngài thực hiện nơi chúng ta: chúc tụng vinh quang Ngài trong Giáo
Hội và trong Chúa Giêsu Kitô" (Eph 3,20-21). 19*.
Tất cả và từng điều đã được ban
bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và,
dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong
Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã
được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả
sáng.
Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 7
tháng 12 năm 1965.
Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội
Công Giáo.
Tiếp theo là chữ ký của các Nghị
Phụ.
Chú Thích:
1 Xem 2Cor 12,9. (Trở
lại đầu trang)
2 Xem Piô XI, Tđ. Ad catholici
sacerdoitii, 20-12-1935 AAS: 28 (1936), trg 10. (Trở
lại đầu trang)
3 Xem Gio 10,36. (Trở
lại đầu trang)
4 Xem Lc 24,26. (Trở
lại đầu trang)
5 Xem Eph 4,13. (Trở
lại đầu trang)
6 Xem 2Cor 3,8-9. (Trở lại đầu trang)
7 Xem các văn kiện: T. Piô X, Huấn dụ
giáo sĩ Haerent animo, 4-8-1908: S. Pii X Acta, q. IV (1908), trg 237 tt. - Piô
XI, Tđ. Ad catholici sacerdotii, 20-12-1935: AAS 28 (1936), trg 5 tt. - Piô
XII, Tông huấn Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 657 tt. - Gioan
XXIII, Tđ. Sacerdotii Nostri primordia, 1-8-1959, AAS 51 (1959), trg 545 tt. (Trở lại đầu trang)
11* Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Truyền
Chức là nền tảng của bậc trọn lành linh mục. Các linh mục được mời gọi để trở
thành những dụng cụ sống động của Chúa Kitô. Theo gương Chúa Kitô chết và sống
lại, các ngài cũng phải chết cho chính mình để sống trọn vẹn cho tha nhân. Biết
sống theo tinh thần của Chúa Kitô, các ngài có thể thánh hóa bản thân trong
chính chức vụ của mình. (Trở lại đầu trang)
8 Xem T. Tôma, Summa Theol. II-II, q.
188, a7. (Trở lại đầu trang)
9 Xem Eph 3,9-10. (Trở lại đầu trang)
10 Xem CvTđ 16,14. (Trở lại đầu trang)
11 Xem 2Cor 4,7. (Trở lại đầu trang)
12 Xem Eph 3,9. (Trở lại đầu trang)
13 Xem Pont. Rom. Lễ phong chức Linh
Mục. (Trở lại đầu trang)
14 Xem Missale Romanum, Lời nguyện
trên lễ vật Chúa Nhật IX sau Hiện Xuống. (Trở lại đầu trang)
15 "Bất cứ Thánh Lễ nào, dù Linh
Mục cử hành một mình cũng không mang tính cách riêng tư, nhưng đều là hành động
của Chúa Kitô và của Giáo Hội; thực vậy, Giáo Hội đã học biết hiến dâng chính
mình trong hy lễ mà Giáo Hội dâng như của lễ phổ quát và ứng dụng sự cứu rỗi
độc nhất và vô cùng của hy lễ Thánh Giá cho phần rỗi của toàn thể thế giới. Mỗi
một Thánh Lễ được cử hành, không phải chỉ dâng lên vì phần rỗi một vài người
nhưng còn cho toàn thế giới (...) Vậy Ta lấy tình cha con tha thiết nhắn nhủ
các Linh Mục là niềm vui lớn lao nhất và triều thiên của Ta trong Chúa... các
ngài hãy cử hành Thánh Lễ hàng ngày một cách xứng đáng và thành kính":
Phaolô VI, Tđ. Mysterium Fidei, 3-9-1965: AAS 57 (1965), trg 761-762. - Xem CÐ
Vat. II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh Saceosanctum Concilium, 4-12-1963, số 26 và
27: AAS 56 (1964), trg 107. (Trở lại đầu trang)
16 Xem Gio 10,11. (Trở lại đầu trang)
17 Xem 2Cor 1,7. (Trở lại đầu trang)
18 Xem 2Cor 1,4. (Trở lại đầu trang)
19 Xem 1Cor 10,33. (Trở lại đầu trang)
20 Xem Gio 3,8. (Trở lại đầu trang)
12* Trong khi thi hành chức vụ, các
linh mục được mời gọi kết hiệp với hoạt động của chính Chúa Kitô, mà qua các
ngài, Chúa hoàn thành sứ mệnh của chính Người là "Thầy dạy": khi các
linh mục biết đón nhận lời Chúa và truyền đạt cho tha nhân; là "Chủ
Tế": khi các ngài tự hiến toàn thân trong lúc cử hành Thánh Lễ; là
"Chủ Chăn": khi các ngài sống khổ hạnh theo đường lối riêng của đấng
bậc hướng dẫn các linh hồn, là những người sẵn sàng hy sinh cả đến mạng sống
mình. (Trở lại đầu trang)
21 Xem Gio 4,34. (Trở lại đầu trang)
22 Xem 1Gio 3,16. (Trở lại đầu trang)
23 "Chăn dắt đoàn chiên của Chúa
là chứng minh tình yêu của mình": T. Augustinô, Tract. in Jo., 123,5 : PL
35, 1967. (Trở lại đầu trang)
24 Xem Rm 12,2. (Trở lại đầu trang)
25 Xem Gal 2,2. (Trở lại đầu trang)
26 Xem 2Cor 7,4. (Trở lại đầu trang)
13* Nguyên tắc thống nhất đời sống linh
mục là chính Chúa Kitô, Ðấng hoạt động qua các thừa tác viên của Người để hoàn
thành Thánh Ý Chúa Cha. Các linh mục được mời gọi kết hiệp với Chúa trong việc
tìm Thánh Ý Chúa Cha, các ngài phải luôn phản tỉnh trong hoạt động để tìm biết
đâu là ý Chúa (x. Rm 12,2). (Trở lại đầu trang)
27 Xem Gio 4,34; 5,30; 6,38. (Trở lại đầu trang)
28 Xem CvTđ 13,2. (Trở lại đầu trang)
29 Xem Eph 5,10. (Trở lại đầu trang)
30 Xem CvTđ 20,22. (Trở lại đầu trang)
31 Xem 2Cor 12,15. (Trở lại đầu trang)
32 Xem Eph 4,11-16. (Trở lại đầu trang)
14* Các linh mục được mời gọi để có tâm
hồn luôn sẵn sàng và khiêm nhường đối với thánh ý Chúa. Là thừa tác viên đích
thực của Chúa Kitô, các ngài phải ý thức được sự yếu hèn của mình, phải nhận rõ
sự cần thiết phải vâng lời để củng cố sự hiệp nhất với anh em và với các vị thủ
lãnh hữu hình của Giáo Hội, để cộng tác trong việc xây dựng Nhiệm Thể Chúa
Kitô. (Trở lại đầu trang)
33 Xem Mt 19,12. (Trở lại đầu trang)
34 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về
Giáo Hội Lumen Gentium, số 42: AAS 57 (1965), trg 47-49. (Trở lại đầu trang)
35 Xem 1Tm 3,2-5; Tit 1,6. (Trở lại đầu trang)
36 Xem Piô XI, Tđ. Ad catholici
Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 28 (1936), trg 28. (Trở
lại đầu trang)
37 Xem Mt 19,12. (Trở
lại đầu trang)
38 Xem 1Cor 7,32-34. (Trở lại đầu trang)
39 Xem 2Cor 11,2. (Trở lại đầu trang)
40 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về
Giáo Hội Lumen Gentium, số 42 và 44: AAS 57 (1965), trg 47-49 và 50-51. - Sắc
lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống Dòng Tu Perfectae Caritatis, số 12. (Trở lại đầu trang)
41 Xem Lc 20,35-36. - Piô XI, Tđ. Ad
Catholici Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 28 (1936), trg 24-28; - Tđ. Sacra
Virginitas, 25-3-1954: AAS 46 (1954), trg 169-172. (Trở lại đầu trang)
42 Xem Mt 19,11. (Trở lại đầu trang)
15* Các Nghị Phụ Công Ðồng chuẩn y và
xác nhận luật độc thân của hàng giáo sĩ như một ân huệ Chúa ban cho Giáo Hội
Latinh. Ðời sống độc thân của giáo sĩ biểu lộ những động lực đặt nền tảng trên
mầu nhiệm Chúa Kitô và sứ mệnh của Người. (Trở lại đầu trang)
43 Xem Gio 17,14-16. (Trở lại đầu trang)
44 Xem 1Cor 7,31. (Trở lại đầu trang)
45 Xem CÐ Antioch, đ.th., 25: Mansi 2,
1327-1328. - Decretum Gratiani, c. 23, C. 12, q. 1: x.b. Friedberg I, trg
684-685. (Trở lại đầu trang)
46 Ở đây, trước tiên hiểu về những
quyền lợi và tập quán hiện có nơi các Giáo Hội Ðông Phương. (Trở lại đầu trang)
47 CÐ Paris, năm 829, đ.th. 15: M.G.H,
Legum Sact. III, Concilia, q. 2, trg 662. - CÐ Trentô, khóa 25, De
Reform. ch., 1: Conc. Oec. Decreta, x.b. Herder, Roma 1962, trg 760-761. (Trở lại đầu trang)
48 Xem Tv 62,11 (bản Phổ Thông 61). (Trở lại đầu trang)
49 Xem 2Cor 8,9. (Trở lại đầu trang)
50 Xem CvTđ 8,18-25. (Trở lại đầu trang)
51 Xem Ph 4,12. (Trở lại đầu trang)
52 Xem CvTđ 2,42-47. (Trở lại đầu trang)
53 Xem Lc 4,18. (Trở
lại đầu trang)
16* Ðoạn này nói về thái độ đứng đắn
của linh mục về các giá trị nhân bản và những thực tại trần thế, về việc xử
dụng tài sản của Giáo Hội và về giá trị của đức khó nghèo theo gương Chúa Kitô
và các Tông Ðồ. (Trở
lại đầu trang)
54 Xem C.I.C, kh 125 tt. (Trở
lại đầu trang)
55 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về canh
tân thích nghi đời sống Dòng Tu Perfectae Caritatis, số 7; - Hiến chế tín lý về
Mạc Khải Dei Verbum, số 21. (Trở
lại đầu trang)
56 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý
về Giáo Hội Lumen Gentium, số 65: AAS 57 (1965), trg 64-65. (Trở
lại đầu trang)
17* Công Ðồng đan cử những phương
thế chung và riêng thích hợp với chức vụ mục vụ của các Linh Mục. Bằng những
phương thế khác nhau, các Linh Mục có thể thánh hóa bản thân chính khi thi hành
chức vụ mình và có thể kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian của
Tân Ước. (Trở
lại đầu trang)
57 Pontificale Romanum, Lễ phong
chức Linh Mục. (Trở
lại đầu trang)
58 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý
về Mạc Khải Dei Verbum, số 25. (Trở
lại đầu trang)
59 Khóa học này khác với khóa mục
vụ phải tổ chức ngay sau khi thụ phong, đã nói trong Sắc lệnh về việc Ðào Tạo
Linh Mục Optatam Totius, số 22. (Trở
lại đầu trang)
60 Xem CÐ Vat II, Sắc lệnh về nhiệm
vụ mục vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội Christus Dominus, số 17. (Trở
lại đầu trang)
18* Ðối với các linh mục, việc học
hỏi thêm, việc trao đổi liên tục về kiến thức và văn hóa phổ thông rất cần
thiết trong thời đại chúng ta. Thiếu tinh thần ấy, chức vụ của các ngài không
thể đáp ứng đúng với những đòi hỏi của thời đại trong việc rao truyền Phúc Âm.
(Trở
lại đầu trang)
61 Xem Mt 10,10; 1Cor 9,7; 1Tm
5,18. (Trở
lại đầu trang)
62 Xem 2Cor 8,14. (Trở lại đầu trang)
63 Xem Ph 4,14. (Trở lại đầu trang)
64 Xem Gio 3,16. (Trở lại đầu trang)
65 Xem 1P 2,5. (Trở lại đầu trang)
66 Xem Eph 2,22. (Trở lại đầu trang)
67 Xem Pont. Rom., Lễ phong chức Linh
Mục. (Trở lại đầu trang)
68 Xem Eph 3,9. (Trở lại đầu trang)
69 Xem Col 3,3. (Trở lại đầu trang)
19* Toàn thể nội dung của Sắc Lệnh về
Chức Vụ và Ðời Sống Linh Mục là một trợ giúp được cống hiến cho các Linh Mục
trong những hoàn cảnh cụ thể chi phối chức vụ của các ngài. Chúa Thánh Thần
luôn thúc đẩy Giáo Hội khai mở những con đường mới và qua hoạt động mục vụ,
Ngài gợi lên những thích nghi cần thiết phải có.
(Trong
chiều hướng này, tham khảo thêm Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày
nay). (Trở
lại đầu trang)