IV. LINH MỤC, THẦY DẠY CẦU NGUYỆN

 

I. Học cậy trông nhờ cầu nguyện

Là thầy dạy cậy trông vào Chúa, linh mục còn là thầy dạy cầu nguyện. Chính nhờ cầu nguyện, mà người kitô hữu học “cậy trông”. Chính nhờ cầu nguyện mà người kitô hữu quen đặt hy vọng vào Chúa, quen tin tưởng nơi Chúa.

1.

+ Như Đức Thánh Cha Benêđictô XVI viết : “Nếu không còn ai lắng nghe tôi nữa, thì vẫn còn Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện cùng Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp tôi” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 32).

+ Đức Thánh Cha đã trích dẫn trường hợp Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, với 13 năm tù, trong một hoàn cảnh gần như tuyệt vọng, nhờ cầu nguyện mà đã có thể lắng nghe Thiên Chúa và đàm đạo với Thiên Chúa. Điều đó đã làm cho lòng trông cậy của người trở nên mạnh mẽ; Người trở thành “chứng nhân hy vọng cho mọi người trên toàn thế giới” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 32).

2.

+ Theo thánh Augustinô, cầu nguyện làm cho trái tim của chúng ta “giản nở”. Cầu nguyện nuôi dưỡng lòng khao khát Chúa nơi chúng ta. Có khi Chúa chưa nhậm lời chúng ta, là để làm tăng thêm lòng khao khát của chúng ta. Chúa chưa vội nhậm lời để lòng trông cậy của chúng ta thêm mãnh liệt.

+ Khi ta cầu nguyện, Chúa cũng thanh tẩy tâm hồn ta. Người như gạn đục khơi trong cho dòng suối tâm hồn ta. Nhiều “dối trá” còn dấu ẩn nơi ta (tự lừa dối) được đưa ra ánh sáng. Lòng khao khát Chúa nơi chúng ta càng thêm tinh tuyền. Lòng ta càng ngày càng hướng về Chúa như là tương lai cuối cùng của cuộc đời ta, như là Thiên Đàng đích thực của chúng ta.

+ Cầu nguyện còn mở lòng ta ra với tha nhân. Cầu nguyện là đưa “mọi sự và mọi người” vào tâm hồn ta, để tất cả được xuất hiện dưới ánh sáng của Chúa. Khi cầu nguyện, ta không chỉ trông cậy Chúa cho ta, mà cho mọi người có quan hệ với ta. Tương quan cá nhân với Chúa, tương quan cộng đoàn với Chúa xen kẻ nhau trong đời sống cầu nguyện của ta.

+ Khi cầu nguyện, lòng ta vừa cởi mở với Chúa, vừa cởi mở với thế giới. Cầu nguyện nhiều, chúng ta dần dần trở nên “những con người hy vọng” (cho xã hội, cho thế giới), có khả năng hy vọng và có thể trở thành thầy dạy hy vọng cho những người khác.

3.

+ Linh mục dạy cho giáo dân cầu nguyện là tập cho giáo dân đặt niềm hy vọng vào Chúa, trông cậy vào Chúa, tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa. Tập cho giáo dân hướng về Chúa và khẩn cầu Chúa, chờ đợi Chúa nhậm lời.

+ Hoàn cảnh càng khó khăn bao nhiêu, lời cầu nguyện càng tha thiết, và lòng trông cậy càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Và nhờ tin tưởng Chúa mà lòng trông cậy vào Chúa trở nên vững vàng. Linh mục là thầy dạy đức tin, cũng là thầy dạy cầu nguyện, thầy dạy trông cậy vào Chúa.

II. Linh mục, thầy dạy cầu nguyện, cũng là thầy dạy đón nhận và đáp trả ơn Chúa

1.

+ Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng : cầu nguyện là một hồng ân, vì cầu nguyện Kitô giáo không là một hành vi tự nhiên, mà là một hành vi siêu nhiên. Tự sức mình, ta không thể cầu nguyện đựơc. Ta cầu nguyện được là do Chúa ban ơn cho ta. Chính những lúc khô khan, càng làm cho ta xác tín, cầu nguyện là một hồng ân như Chúa Giêsu đã nói : “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65).

+ Linh mục hãy dạy cho giáo dân biết cầu nguyện là một hồng ân, để giáo dân biết quý trọng sự cầu nguyện, và không ngã lòng nản chí gặp lúc khô khan, mà cần ý thức mạnh mẽ hơn nữa : cầu nguyện là một ơn huệ của Chúa và hãy nài xin cho được ân huệ đó (Xin dạy con cầu nguyện).

Kiên trì trong đời sống cầu nguyện cũng là một bài học “đức cậy”. Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng : “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22).

2.

+ Thánh Tôma định nghĩa “cầu nguyện là cầu xin Thiên Chúa những điều phải lẽ”. Nhưng theo thánh Phaolô : “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta” (Rm 8,26). Chúa Thánh Thần điều chỉnh tâm tình và tư tưởng của chúng ta rập theo thánh ý của Thiên Chúa khi chúng ta cầu nguyện (lúc Chúa Thánh Thần hành động). Cầu nguyện là môi trường giáo dục đức tin, đức cậy, đức mến rất tốt.

+ Chính vì thế trước hết, bản thân linh mục hãy biết để dành thì giờ cho việc cầu nguyện để không ngừng được Thiên Chúa giáo dục, không ngừng là môn sinh của Thiên Chúa (như lời tiên tri Isaia). Bấy giờ linh mục mới có thể dạy bảo giáo dân cầu nguyện. Một số đông linh mục không còn dạy giáo dân cầu nguyện nữa, dù đó là một nghĩa vụ quan trọng nhất của linh mục đối với giáo dân.

3.

+ Linh mục là “thầy dạy tiếp xúc với Chúa”. Mà nếu linh mục không có tiếp xúc với Chúa, thì làm sao mà dạy giáo dân tiếp xúc với Chúa được. Dĩ nhiên, “dạy cầu nguyện là một điều rất khó, nên nhiều linh mục e ngại, không muốn làm. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể dạy ta cầu nguyện, nên linh mục chỉ có thể dạy cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần. Nếu linh mục chỉ có thể rao giảng và làm chứng cho Đức Kitô cùng với Chúa Thánh Thần và trong Chúa Thánh Thần, thì linh mục cũng chỉ có thể dạy giáo dân cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần và cùng với Chúa Thánh Thần.

+ Linh mục có thể dùng Thánh Kinh, thánh ca, thánh vịnh để tập cho giáo dân cầu nguyện. Nhưng trước hết linh mục phải dạy cho giáo dân biết cầu nguyện là gì. Đôi khi linh mục chỉ biết một vài định nghĩa lý thuyết về cầu nguyện, mà trong thực tế không cầu nguyện hay ít cầu nguyện, nên không có kinh nghiệm về cầu nguyện, và không thể dạy lại cho giáo dân.

+ Nhưng dầu sao, đó là một bổn phận không thể bỏ qua, nên linh mục cứ phải dạy cho giáo dân cầu nguyện. Chính linh mục, khi đã ý thức nghĩa vụ phải dạy cho giáo dân cầu nguyện, thì sẽ tha thiết nài xin Thiên Chúa ban cho chính mình “ơn biết cầu nguyện”. Linh mục cùng với giáo dân tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban ơn cầu nguyện, thì chắc chắn Ngài sẽ ban cho. Linh mục hãy xác tín rằng không khi nào Thiên Chúa không nhậm lời. Ngài luôn nhậm lời và ban cho ta còn hơn điều ta xin : “Ngài sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài” (Lc 11,13). Linh mục cũng phải tập cho giáo dân dần dần xác tín như thế.

+ Linh mục hãy dạy cho giáo dân “biết thuận theo Chúa Thánh Thần”, nhờ đó họ mới có một đời sống thiêng liêng, đời sống nội tâm đích thực, vì đời sống nội tâm là đời sống thuận theo Chúa Thánh Thần. Linh mục hãy tập cho giáo dân cởi mở tâm hồn ra với Chúa, biết đón nhận ơn Chúa, để cho ơn Chúa tác động biến đổi mình.

+ Ta có được sự cầu nguyện là vì Chúa đến với ta. Chúa dùng nhiều cách để mở cửa tâm hồn ta. Chúa khơi dậy tình yêu nơi ta, khơi dậy lòng khao khát nơi ta. Ta có được sự cầu nguyện là vì “Chúa khao khát ta”. Chúa biểu lộ điều đó tại bờ giếng Giacóp và trên thập giá : “Ta khát” (Ga 19,28). Theo Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, cầu nguyện là sự gặp gỡ giữa hai sự khao khát (la rencontre des deux soifs) : Chúa khao khát ta và ta khao khát Chúa (x. GLHTCG, số 2560). Đó là sự gặp gỡ giữa hai trái tim, hai tình yêu. Cầu nguyện là tình yêu được Tình Yêu khơi dậy (tình yêu đáp trả lại Tình Yêu). Do đó dạy cầu nguyện chính là dạy yêu Chúa (Ví dụ : người mẹ dạy con cầu nguyện), dạy đón nhận và đáp trả tình yêu của Chúa, dạy đón nhận và đáp trả ơn Chúa.

III. Linh mục là thầy dạy nội tâm hóa giao ước bằng cầu nguyện

1.

+ Khi nói cầu nguyện là “tiếp xúc với Chúa”, chúng ta phải nói tới ý nghĩa của Giao Ước. Lịch sử của Giao Ứơc vừa là lịch sử của Mạc Khải, vừa là lịch sử của cầu nguyện (đáp trả).

+ Cầu nguyện giúp hình thành và triển nở Giao Ước khắc ghi trong trái tim. Cầu nguyện là thiết lập tương giao với Chúa, gặp gỡ Chúa trong tâm hồn. Tương giao này không bắt đầu từ chúng ta, mà bắt đầu từ Thiên Chúa. Thiên Chúa thiết lập tương giao trước. Thiên Chúa yêu chúng ta trước. Người mời gọi và lôi kéo chúng ta vào trong tình yêu của Ngài, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.

2.

+ Đạo của chúng ta là “đạo của Giao Ước Mới”. Giống như các tiên tri trong Cựu Ước, các linh mục là người giáo dục Dân Chúa sống Giao Ước và thực hành Giao Ước. Linh mục giúp cho giáo dân “nội tâm hóa” Giao Ước. Cơ bản của Giao Ước là “đồng ý thuộc về nhau”. Thiên Chúa thuộc về chúng ta, vì Ngài tự hiến cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô (khi ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta). Chúng ta thuộc về Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.

+ Chính Đức Giêsu Kitô là Giao Ước Mới ghi khắc trong tim mỗi tín hữu. Cầu nguyện là làm cho Đức Giêsu Kitô tỏ hiện trong tâm hồn ta, là gặp gỡ Chúa trong tâm hồn.

+ Trong Giao Ước nội tâm này, Danh Xưng quan trọng nhất là “Chúa” (Κύριος) và “Giêsu-Kitô” (Ιησούς Χριστος). Cầu nguyện là ghi khắc danh Chúa trong trái tim, để không bao giờ quên nữa. Linh mục phải dạy cho giáo dân biết kêu cầu danh Chúa để được cứu rỗi : “Vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,13).

+ Giao Ước không là giao kèo bằng chữ chết, nhưng là một giao kèo sống động, một đối thoại không ngừng giữa Thiên Chúa với chúng ta. Do đó có một định nghĩa khác về việc cầu nguyện cũng rất gần gũi và thực tế : “Cầu nguyện là chuyện vãn với Chúa”. Linh mục hãy tập cho giáo dân nói chuyện với Chúa, lắng nghe lời Chúa và đáp trả lời Chúa. Trong khi đáp trả, chúng ta tâm sự với Chúa, kêu xin Chúa, cảm tạ Chúa, ngợi khen và chúc tụng Chúa, bày tỏ tình yêu đối với Chúa. Tương quan giữa chúng ta với Chúa là tương quan giữa người bạn với người bạn (tương quan bằng hữu). Đấng thiết lập tương quan bằng hữu là Chúa Thánh Thần.

IV. Linh mục là thầy dạy kết hợp với Chúa, nên một với Chúa trong cầu nguyện

1.

+ Một định nghĩa khác về cầu nguyện cũng rất sâu xa, nhưng cũng dễ hiểu : “Cầu nguyện là kết hợp với Chúa, gắn bó với Chúa, và nên một với Ngài”. Chúng ta chỉ có thể kết hợp với Chúa trong Chúa Thánh Thần và nhờ Chúa Thánh Thần.

+ Linh mục phải dạy cho giáo dân “sống kết hợp với Chúa, vì kết hợp với Chúa là “cốt lõi” của đời sống nội tâm của người kitô hữu (Ví dụ : cành nho - thân nho, cành nào lìa cây sẽ khô héo liền). Chỉ khi nào kết hợp với Chúa, gắn bó với Chúa và nên một với Ngài, người kitô hữu mới được thông phần vào sự sống của Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Chúng ta chỉ có thể kết hợp với Chúa trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần.

2.

+ Cầu nguyện là một sự hiệp thông, mà Chúa Thánh Thần là ơn thông hiệp. Hạnh phúc và niềm vui của ta nẩy sinh từ việc ta kết hợp với Chúa, nên một với Chúa, ở trong lòng Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là thiên đàng của chúng ta. Cầu nguyện, theo một nghĩa nào đó, là ở “trong thiên đàng”, vì đạt tới mục tiêu của đời sống kitô hữu.

+ Dĩ nhiên, sự kết hợp với Chúa, hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa là “cầu nguyện ở trình độ rất cao, mà linh mục ít khi đạt tới trình độ ấy, nhưng linh mục vẫn phải giải thích cho giáo dân biết về ý nghĩa sâu xa ấy của việc cầu nguyện. Nếu không thực hiện, linh mục thực sự lỗi bổn phận trong chức vụ linh mục. Linh mục nên xác tín rằng Chúa Thánh Thần vẫn có thể làm việc qua con người bất xứng của mình như một dụng cụ trong tay Ngài, để giúp người kitô hữu kết hợp với Đức Kitô và nên một với Người.

3.

+ Hiệp thông cũng có thể là chia sẻ. Chúng ta được thông phần, được chia sẻ sự sống của Chúa, tình yêu của Chúa, chương trình của Chúa, lương thực của Chúa. Vì cầu nguyện là hiệp thông, nên cầu nguyện đích thực luôn hướng về hiệp thông bí tích trong mầu nhiệm Thánh Thể. Hiệp thông là đón rước Chúa vào trong tâm hồn, trong cuộc sống, để Chúa sống trong ta. Hiệp thông trọn vẹn sẽ đưa đến trạng thái như thánh Phaolô đề cập : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

 


Mục Lục