CHƯƠNG IV
ĐỨC GIÊSU ĐẤNG CỨU
THẾ:
LOAN BÁO ƠN HUỆ
Vị trí Ưu Tiên của
Việc Loan Báo
19. Ở
ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, tiếng Đức Giêsu phục sinh lại vang dội trong tâm
hồn mỗi người Kitô hữu: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy
truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế"
(Mt 28,18-20). Xác tín vào sự giúp đỡ liên lỉ của chính Đức Giêsu cũng như sự
hiện diện và quyền năng của Thần khí của Người, các tông đồ ra đi tức khắc sau
lễ ngũ tuần để hoàn thành lệnh truyền này: "các Tông Đồ ra đi rao giảng
khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông" (Mc 16,20). Những gì các ông
loan báo có thể tóm tắt trong những lời Thánh Phaolô: "Bởi chúng tôi không
rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi,
chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu" (2 Cr 4,5). Được chúc
phúc với ơn đức tin, Giáo Hội, sau 2000 năm, tiếp tục ra đi gặp gỡ các dân tộc
của thế giới, để chia sẻ cho họ Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Giáo Hội là một
cộng đồng rực cháy sự hăng say truyền giáo, để làm cho Đức Giêsu được biết, yêu
mến và đi theo.
Không thể có Phúc Âm hoá thực sự mà không có loan
báo công khai về Đức Giêsu là Chúa. Để trả lời cho một sự lầm lẫn về bản tính
chân thật của sứ mạng Giáo Hội, thì Công Đồng Vatican II và huấn quyền từ đó,
đã luôn luôn nhấn mạnh vị trí ưu tiên của việc rao giảng về Đức Giêsu Kitô
trong mọi hoạt động Phúc Âm hoá. Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã minh nhiên
viết rằng "không thể có việc Phúc Âm hoá thật nếu danh xưng, lời giảng
dạy, sự sống, những lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm Đức Giêsu thành Nadareth,
Con Thiên Chúa, không được loan báo" (66). Đó là điều các thế hệ Kitô hữu
đã làm suốt bao thế kỷ. Với một sự hãnh diện có thể hiểu được, các Nghị Phụ Thượng
Hội Đồng nhắc lại rằng: "Nhiều cộng đoàn Kitô hữu tại Á Châu đã gìn giữ
đức tin của mình suốt bao thế kỷ dẫu trải qua những đau khổ lớn lao, và đã bám
trụ vào gia sản thiêng liêng này với sự kiên trì dũng cảm. Đối với họ, chia sẻ
kho tàng lớn lao này là một niềm vui lớn và cấp thiết" (67).
Đồng thời, các vị tham gia Hội nghị đặc biệt đã xác
nhận không biết bao nhiêu lần sự cần thiết tái dấn thân vào việc rao giảng Đức
Giêsu Kitô chính trên lục địa đã thấy khởi sự việc rao giảng này cách đây 2000
năm. Những lời thánh Phaolô Tông đồ lại càng trở nên nhức nhối hơn, bởi lẽ
nhiều người trên lục địa này chưa bao giờ gặp được con người Đức Giêsu cách rõ
ràng và ý thức: "Tất cả những ai kêu cầu Danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát.
Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ có thể tin Đấng họ
không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?" (Rm
10,13-14). Câu hỏi lớn mà Giáo Hội tại Á Châu đang giáp mặt là làm sao
chia sẻ với các anh chị em tại Á Châu về kho tàng chúng ta có, như là một ân
huệ chứa đựng tất cả các ân huệ khác, đó là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.
Loan Báo Đức Giêsu Kitô tại Á Châu
20. Giáo
Hội tại Á Châu tha thiết hơn với công tác rao giảng, vì biết rằng "nhờ
hoạt động của Thần Khí, đã có saün nơi các cá nhân và các dân tộc một sự mong
chờ, cho dầu vô ý thức, mong chờ được biết chân lý về Thiên Chúa, về con người,
và về cách thức thoát khỏi tội lỗi và sự chết" (68). Sự nhấn mạnh đến việc
rao giảng đó không bị thúc đẩy bởi áp lực các bè phái, cũng không phải bởi tinh
thần xúi nhập đạo, cũng không phải do ý thức tự tôn nào cả. Giáo Hội rao giảng
Tin Mừng vì vâng lời lệnh truyền của Đức Kitô, biết rằng mọi người có quyền
nghe Tin Mừng của Thiên Chúa, Đấng mạc khải và hiến mình trong Đức Kitô (69).
Làm chứng về Đức Giêsu Kitô là công việc phục vụ cao cả nhất mà Giáo Hội có thể
trao tặng cho các dân tộc Á Châu, bởi vì việc đó đáp ứng với sự ước mong sâu xa
của họ được gặp Đấng Tuyệt Đối, và nó cũng vén mở những chân lý và những giá
trị bảo đảm sự phát triển toàn diện con người.
Vì ý thức sâu xa đến tính phức tạp của rất nhiều
hoàn cảnh khác nhau tại Á Châu, và phải "nói sự thật trong tình bác
ái" (Ep 4,15), nên Giáo Hội loan báo Tin Mừng với lòng kính nể và tôn
trọng đầy yêu thương đối với thính giả của mình. Việc loan báo mà tôn trọng các
quyền của lương tâm thì không xúc phạm tự do, bởi vì đức tin luôn đòi hỏi một
sự đáp trả tự do về phía cá nhân (70). Tuy nhiên sự kính trọng không loại đi sự
cần thiết phải rao giảng công khai Tin Mừng trong sự toàn vẹn của nó. Cách
riêng trong bối cảnh nhiều nền văn hoá và tôn giáo tại Á Châu, phải nêu rõ rằng
"không phải sự kính nể và tôn trọng các tôn giáo này, cũng không phải tính
phức tạp của các vấn đề nẩy sinh, là một lời mời gọi Giáo Hội rút lui khỏi sự
rao giảng Đức Giêsu cho những người không Kitô hữu này" (71). Khi viếng
thăm Aán Độ năm 1986, tôi đã phát biểu rõ ràng rằng: "việc Giáo Hội tiếp
xúc với các tôn giáo khác là một tiếp xúc đầy kính trọng chân thành...Sự kính
trọng này có hai mặt: kính trọng đối với con người khi họ tìm câu trả lời cho
các vấn đề sâu xa nhất về cuộc sống của họ, và sự kính trọng đối với hoạt động
Thần Khí trong con người" (72). Thật vậy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng
saün sàng nhìn nhận hoạt động của Thần Khí trong các xã hội, văn hoá và tôn
giáo Á Châu, nhờ đó mà Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn cho các dân tộc Á Châu đón
nhận đầy đủ sự sống trong Đức Kitô (73).
Trong các cuộc thăm dò trước khi họp Thượng Hội
Đồng, nhiều Giám Mục Á Châu nhắc đến các khó khăn khi rao giảng Đức Giêsu
như Đấng Cứu độ duy nhất. Trong Hội Nghị, hoàn cảnh được diễn tả như vầy:
"Một số người theo các tôn giáo lớn tại Á Châu, không có vấn đề gì khi
chấp nhận Đức Giêsu như một hiển hình của Thần Thánh hay Đấng Tuyệt Đối, hay là
một minh chủ (enlightened one). Nhưng đối với họ thật khó mà công nhận Người
như một hiển hình duy nhất của Thiên Chúa" (74). Thật thế, nỗ lực chia sẻ
ơn huệ đức tin vào Đức Giêsu như Đấng Cứu Độ duy nhất, gặp đầy dẫy những khó
khăn về phương diện triết học, văn hoá và thần học, đặc biệt trong ánh sáng của
những niềm tin của các tôn giáo lớn tại Á Châu, đan kết sâu xa với các giá trị
văn hoá và những lối nhìn riêng biệt về thế giới.
Theo ý kiến của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, cái
khó là do sự kiện Đức Giêsu thường bị coi xa lạ với Á Châu. Điều nghịch lý là
phần lớn người Á Châu có khuynh hướng nhìn Đức Giêsu -sinh ra trong phần đất Á
Châu- như là một nhân vật Âu Châu hơn là Á Châu. Việc rao giảng Tin Mừng do các
nhà truyền giáo Âu Châu chịu ảnh hưởng bởi các nền văn hoá nơi các Ngài phát
xuất là điều không thể tránh được. Các nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã công nhận đó
là sự kiện không thể tránh được trong lịch sử truyền giáo. Đồng thời các Nghị
Phụ trong dịp này "bày tỏ cách hết sức đặc biệt lòng biết ơn của các ngài
đối với tất cả các vị thừa sai, nam cũng như nữ, tu sĩ cũng như giáo dân, ngoại
kiều hay bản xứ, đã mang đến sứ điệp của Đức Giêsu Kitô và ơn huệ đức tin. Một
lời cảm ơn đặc biệt nữa phải được biểu lộ đối với những Giáo Hội địa phương đã
sai và còn sai các vị thừa sai đến Á Châu" (75).
Những nhà truyền giáo có thể tin tưởng, dựa vào
kinh nghiệm của thánh Phaolô, vị đã lao mình vào cuộc đối thoại với những giá
trị mang tính triết học, văn hoá và tôn giáo của những thính giả (x. Cv 14,
13-17; 17, 22-31). Chính các công đồng chung của Giáo Hội, khi soạn thảo những
công thức đức tin của Giáo Hội, đã phải sử dụng những vốn ngôn ngữ, triết học,
văn hoá mà họ có trong tầm tay. Như vậy, những vốn đó trở thành một tài sản
chung của toàn thể Giáo Hội, có khả năng phát biểu học thuyết Kitô của mình một
cách xứng hợp và phổ quát. Chúng thuộc về gia tài đức tin, mà ta phải chiếm hữu
và không ngừng chia sẻ lại khi gặp gỡ với các nền văn hoá khác nhau (76). Như
vậy sứ vụ rao giảng Đức Giêsu theo một cách thức làm cho các dân tộc Á Châu
được đồng hoá với Người, đang khi vẫn trung thành với giáo thuyết thần học của
Giáo Hội và với những nguồn gốc Á Châu của mình, sứ vụ đó là một thách đố tột
bậc.
Việc trình bày Đức Giêsu Kitô là một Đấng Cứu Độ
duy nhất, cần phải theo một khoa sư phạm, từng bước dẫn đưa dân chúng
đến việc đón nhận trọn vẹn mầu nhiệm. Rõ ràng là việc loan báo Tin mừng lần đầu
tiên những người không kitô hữu, và việc rao giảng Đức Giêsu tiếp theo đó cho
những kẻ tin, phải khác nhau trong cách tiếp cận. Trong lần loan báo đầu tiên,
chẳng hạn, "có thể trình bày Đức Giêsu Kitô như sự hoàn thành những khát
vọng được diễn tả trong các thần thoại và văn học dân gian của các dân tộc Á
Châu" (77). Nói chung, phương pháp kể truyện, quen thuộc với văn hoá Á
Châu, thì đáng được dùng ưu tiên. Quả thực, việc rao giảng Đức Giêsu Kitô có
thể có hiệu quả nhất bằng cách kể lại câu chuyện về Người, như sách Phúc Âm
làm. Các khái niệm hữu thể học có liên quan, mà phải luôn luôn được hàm ý và
diễn tả khi đang trình bày về Đức Giêsu, có thể được bổ sung nhờ những viễn
tượng có tính cách tương quan, lịch sử và cả đến tính vũ trụ. Các Nghị Phụ lưu
ý, Giáo Hội phải cởi mở với những phương cách mới và gây ngạc nhiên, nhờ vậy mà
gương mặt Đức Giêsu có thể được trình bày tại Á Châu (78).
Thượng Hội Đồng khuyến cáo rằng việc dạy giáo lý
tiếp sau đó, phải theo "một khoa sư phạm có tính gợi ý, sử dụng những câu
truyện, những dụ ngôn và những biểu tượng rất đặc trưng của phương pháp giảng
dạy Á Châu" (79). Sứ vụ của chính Đức Giêsu cho thấy rõ giá trị của việc
tiếp xúc cá nhân, điều này đòi hỏi nhà truyền giáo phải lưu tâm đến hoàn cảnh
người nghe, để có thể cống hiến một sự loan báo tương xứng với trình độ trưởng
thành của người nghe, qua một hình thức và ngôn ngữ xứng hợp. Trong viễn tượng
này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhiều lần đã nhấn mạnh đến nhu cầu loan báo
Tin mừng bằng một cách thức có thể lôi cuốn tính nhạy cảm của người dân Á Châu,
và các ngài nêu lên những hình ảnh về Đức Giêsu có thể hiểu được theo tâm trí
và văn hoá Á Châu và đồng thời, trung thành với Kinh Thánh và truyền thống.
Trong những hình ảnh đó, có những hình ảnh "Đức Giêsu là Thầy dạy sự khôn
ngoan, Vị Lương y, Đấng Giải phóng, Vị Hướng dẫn đàng thiêng liêng, Minh chủ,
Người Bạn giàu lòng thương xót của kẻ nghèo, Người Samaritanô nhân hậu, Vị Mục
tử nhân lành, Đấng vâng phục" (80). Đức Giêsu có thể được trình bày như là
sự khôn ngoan nhập thể của Thiên Chúa. Ân sủng của Người mang lại hoa trái cho
"những hạt giống" của Đấng khôn Ngoan đã hiện diện trong cuộc sống,
tôn giáo và các dân tộc của Á Châu (81). Giữa nhiều đau khổ các dân tộc Á Châu
phải gánh chịu, Đức Giêsu có thể được rao giảng tốt nhất như là Đấng Cứu độ,
"Đấng có thể đem lại ý nghĩa cho những ai đang trải qua những đau khổ và
đau đớn không thể tả được" (82).
Đức tin mà Giáo Hội cống hiến như một ân huệ cho
con cái mình, không thể bị giam giữ bên trong những giới hạn của sự hiểu biết
và sự diễn tả riêng của một nền văn hoá nhân bản nào, bởi vì nó vượt lên trên
những giới hạn này và còn thách thức mọi nền văn hoá tiến lên những chiều cao
mới mẻ của sự hiểu biết và diễn tả. Nhưng đồng thời, các Nghị Phụ Thượng Hội
Đồng ý thức rõ về nhu cầu khẩn khiết của Giáo Hội tại Á Châu, muốn trình bày
mầu nhiệm Đức Kitô cho các dân tộc mình, theo những kiểu mẫu văn hoá và cách
suy nghĩ của họ. Các Ngài chỉ rõ rằng việc hội nhập đức tin như thế trên lục
địa các Ngài, gồm có việc tái khám phá khuôn mặt Á Châu của Đức Giêsu và việc
tìm ra những phương cách để các nền văn hoá Á Châu có thể nắm bắt ý nghĩa cứu
độ phổ quát của mầu nhiệm Đức Giêsu và Giáo Hội Người (83). Trong thời đại hôm
nay, cần làm sống lại sự hiểu biết sâu sắc về các dân tộc và văn hoá mà đã có
được một cách gương mẫu nơi những con người như Gioan Montecorvino, Matteo
Ricci và Roberto de Nobili, đây chỉ nhắc tới một ít người thôi.
Thách Đố của việc Hội Nhập Văn Hoá
21. Văn hoá
là không gian sống trong đó con người đến với Tin Mừng, mặt giáp mặt. Cũng như
văn hoá là thành quả của sự sống và hoạt động của một nhóm người, thì những con
người thuộc nhóm đó cũng được uốn nắn trong phạm vi rộng rãi bởi nền văn hoá
trong đó họ đang sống. Vì con người và xã hội thay đổi, nền văn hoá cũng bị
thay đổi theo. Vì văn hoá biến đổi nên con người và xã hội cũng biến đổi theo
nó. Từ viễn ảnh này, ta thấy rõ ràng hơn tại sao việc Phúc Âm hoá và hội nhập
văn hoá liên hệ với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tin Mừng và việc rao giảng
Tin Mừng chắc chắn không đồng nhất với văn hoá; chúng độc lập với văn hoá. Tuy
nhiên Nước Thiên Chúa đến với những con người gắn bó sâu xa với một nền văn
hoá, và việc xây dựng Vương Quốc không tránh khỏi mượn các yếu tố từ các nền
văn hoá nhân bản. Vì thế Đức Phaolô VI nói sự chia tách giữa Tin Mừng và văn
hoá là thảm trạng của thời đại chúng ta, với một tác động sâu xa trên cả việc
rao giảng Tin Mừng lẫn văn hoá (84).
Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hoá khác nhau
của thế giới, Giáo Hội không những truyền đạt các chân lý và những giá trị của
mình và đổi mới các nền văn hoá từ bên trong, nhưng Giáo Hội cũng tiếp thu từ
các nền văn hoá khác nhau, những yếu tố tích cực có saün trong các nền văn hoá
đó. Đó là con đường bắt buộc cho những nhà rao giảng Tin Mừng khi trình bày đức
tin Kitô giáo và làm cho nó trở nên một thành phần của di sản văn hoá của một
dân tộc. Về phần mình, khi các nền văn hoá khác nhau được hoàn thiện và canh
tân dưới ánh sáng của Tin mừng, chúng có thể trở nên những diễn tả đích thực
của đức tin kitô giáo duy nhất. "Nhờ hội nhập văn hoá mà Giáo Hội, về phần
mình, đã trở nên một dấu chỉ dễ hiểu hơn về bản tính của mình, và trở nên một
dụng cụ hữu hiệu hơn cho việc truyền giáo" (85). Sự giao kết đó với các
nền văn hoá đã luôn là thành phần cuộc hành trình của Giáo Hội qua lịch sử.
Nhưng ngày nay sự giao kết đó càng cấp bách cách đặc biệt trong cảnh huống
đa-dân-tộc, đa-tôn-giáo, đa-văn-hoá tại Á Châu, nơi mà Kitô giáo vẫn thường còn
bị coi là ngoại lai.
Tới đây, quả là tốt khi nhớ lại những gì thường
được lặp đi lặp lại trong Thượng Hội Đồng: Chúa Thánh Thần là tác nhân chính
của sự hội nhập văn hoá của đức tin Kitô giáo tại Á Châu (86). Cũng một Chúa
Thánh Thần, Đấng dẫn dắt chúng ta đến chân lý toàn diện, làm cho có thể thực
hiện được một cuộc đối thoại có hiệu quả với các giá trị văn hoá và tôn giáo
các dân tộc khác nhau. Người hiện diện giữa họ trong một mức độ nào đó, ban sức
mạnh cho các người nam nữ thành tâm thiện chí, để họ chiến thắng sự dữ và sự
lừa đảo của Thần Dữ, và ban tặng cho mỗi người khả năng thông dự vào mầu nhiệm
Phục Sinh, bằng cách nào đó Chúa biết (87). Sự hiện diện của Thần Khí bảo đảm
rằng sự đối thoại diễn ra trong chân lý, trong lương thiện, khiêm tốn và kính
trọng (88). "Khi ban tặng cho kẻ khác Tin Mừng cứu rỗi, Giáo Hội cố gắng
tìm hiểu nền văn hoá của họ. Giáo Hội tìm hiểu tâm trí kẻ nghe, các giá trị và
tập quán của họ, các vấn đề và những khó khăn của họ, những hy vọng và những
ước mơ của họ. Một khi Giáo Hội hiểu biết những khía cạnh văn hoá khác nhau đó,
thì bấy giờ Giáo Hội mới có thể bắt đầu cuộc đối thoại cứu rỗi; Giáo Hội có thể
trao tặng, cách kính cẩn nhưng rõ ràng và đầy xác tín, Tin Mừng cứu chuộc cho
những ai muốn nghe và tự do đáp trả" (89). Do đó, các dân tộc Á Châu nào, trong
tư cách là người Á Châu, mà muốn chiếm hữu đức tin Kitô giáo, thì có thể yên
tâm rằng những hy vọng, những trông đợi, những âu lo và đau khổ của họ không
những được Đức Giêsu ôm lấy, mà còn trở thành điểm đích thực để ân huệ đức tin
và quyền năng Thần Khí đi vào trong cốt lõi thâm sâu nhất của đời sống họ.
Nhiệm vụ của các vị Chủ Chăn, do đoàn sủng của các
ngài, là phải hướng dẫn cuộc đối thoại này cách sáng suốt. Cũng vậy, những
chuyên viên về các khoa học đạo và đời, đóng những vai trò quan trọng trong quá
trình hội nhập văn hoá. Nhưng quá trình phải bao gồm toàn thể dân Chúa,
bởi vì đời sống Giáo Hội như một toàn thể, phải tỏ bày đức tin đang được rao
giảng và được tiếp thu. Để bảo đảm cho việc này được thực hiện có chiều sâu,
các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xác định một vài lãnh vực đáng chú ý riêng - suy
tư thần học, phụng vụ, đào tạo các linh mục và tu sĩ, dạy giáo lý và tu đức
(90).
Những Lãnh Vực Chủ Chốt của Việc Hội
Nhập Văn Hoá
22. Thượng
Hội Đồng khích lệ các nhà thần học trong công tác tế nhị của họ làm phát
triển khoa thần học hội nhập (une théologie inculturée), cách riêng trong lãnh
vực Kitô học (91). Các ngài lưu ý rằng "việc suy tư thần học này phải được
thực hiện cách can đảm, trong sự trung thành với Kinh Thánh và truyền thống của
Giáo hội, trong sự gắn bó chân thành với Huấn Quyền và trong sự hiểu biết về
những thực tại mục vụ" (92). Tôi cũng thôi thúc các nhà thần học làm việc
trong tinh thần hợp nhất với các Chủ Chăn và dân chúng, những người- luôn hợp
nhất với nhau và không bao giờ chia tách nhau- "phản chiếu cảm thức đức
tin chân chính mà ta không bao giờ được thôi nhìn" (93). Công trình thần
học phải luôn luôn được hướng dẫn bởi sự kính trọng đối với những nhạy cảm của
người Kitô hữu, để nhờ sự tăng trưởng dần dần hướng về những hình thức hội nhập
biểu tỏ đức tin, dân chúng không bị hoang mang hay bị vấp phạm. Trong mọi
trường hợp, việc hội nhập văn hoá phải được hướng dẫn bởi sự tương hợp với Tin
Mừng và sự hiệp thông với đức tin của toàn thể Giáo Hội, trong sự thuận theo
hoàn toàn với truyền thống Giáo Hội và với mục đích làm cho đức tin dân chúng
nên vững mạnh (94). Trắc nghiệm của việc hội nhập văn hoá đích thực, là xem dân
chúng có trở nên gắn bó hơn với đức tin Ki tô giáo của mình hay không, bởi vì
họ thấy đức tin rõ hơn bằng cặp mắt thuộc về văn hoá của họ.
Phụng Vụ là nguồn gốc và là tuyệt đỉnh
của tất cả đời sống Kitô hữu và truyền giáo (95). Phụng Vụ là một phương tiện
quyết định của việc rao giảng Tin Mừng, nhất là tại Á Châu, nơi mà những người
theo đạo khác nhau rất ưa thích việc tế tự, những lễ hội tôn giáo và những việc
đạo đức bình dân (96). Phụng Vụ của các Giáo Hội Phương Đông phần lớn đã được
hội nhập văn hoá có kết quả sau bao thế kỷ tương tác với nền văn hoá xung
quanh, nhưng những Giáo Hội được thành lập mới đây cần làm sao để phụng vụ trở
nên nguồn mạch nuôi dưỡng hơn cho dân chúng, qua việc sử dụng khôn ngoan và
hiệu năng các yếu tố rút ra từ các nền văn hoá địa phương. Nhưng sự hội nhập
Phụng vụ đòi hỏi nhiều điều hơn là việc chú tâm vào những giá trị văn hoá truyền
thống, những biểu tượng và những nghi thức. Cũng cần lưu ý đến những thay đổi
trong ý thức và thái độ gây ra do sự xuất hiện của các nền văn hoá trần tục và
hưởng thụ đang ảnh hưởng đến cảm thức phụng tự và cầu nguyện của người Á Châu.
Cũng không được bỏ qua những nhu cầu riêng biệt của người nghèo, người di dân,
người tị nạn, giới trẻ và phụ nữ trong bất cứ việc hội nhập phụng vụ chân chính
nào tại Á Châu.
Các Hội Đồng Giám Mục quốc gia và miền, cần phải
làm việc chặt chẽ hơn với Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, trong việc tìm kiếm
những phương thức có hiệu năng để cổ võ những hình thức phụng tự thích hợp
trong bối cảnh Á Châu (97). Sự hợp tác này là cần thiết bởi vì Phụng vụ thánh
diễn tả và cử hành một đức tin được mọi người tuyên xưng và, bởi Phụng vụï
thánh là gia sản của toàn thể Giáo Hội, nên không thể do các Giáo Hội địa
phương định đoạt cách riêng rẽ khỏi Giáo Hội hoàn vũ.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh cách riêng
đến tầm quan trọng của Lời Kinh Thánh trong việc loan truyền sứ điệp cứu độ cho
các dân tộc Á Châu, nơi mà Lời được loan truyền có một vai trò quan trọng trong
việc giữ gìn và truyền đạt kinh nghiệm tôn giáo (98). Cho nên cần phát triển
một hình thức tông đồ hữu hiệu nhằm phổ biến kinh thánh, hầu có thể đảm bảo
rằng bản văn Kinh Thánh được phổ biến rộng rãi hơn và được sử dụng thường xuyên
và trong tinh thần cầu nguyện hơn giữa các phần tử Giáo Hội tại Á Châu. Các
nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng thật là cấp bách việc dùng Kinh Thánh
như là nền tảng cho tất cả mọi việc loan báo, dạy giáo lý, giảng thuyết và hình
thức linh đạo truyền giáo (99). Cần phải cổ động và nâng đỡ những cố gắng dịch
thuật Kinh Thánh ra tiếng địa phương. Đào tạo về Kinh Thánh phải được coi như
một phương tiện quan trọng để giáo dục đức tin cho dân chúng và chuẩn bị họ cho
công việc loan báo. Cần phải đưa vào chương trình đào tạo giáo sĩ, những người
sống đời thánh hiến và giáo dân những khoá học Kinh Thánh hướng về mục vụ, với
sự nhấn mạnh thích đáng về việc áp dụng huấn giáo Kinh Thánh vào những thực tại
phức tạp của đời sống Á Châu (100). Kinh Thánh cũng phải phổ biến giữa những
người theo các tôn giáo khác; Lời Chúa có một quyền lực nội tại đánh động tâm
hồn dân chúng, bởi vì qua Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần mạc khải kế hoạch cứu độ
của Thiên Chúa đối với thế gian. Hơn nữa những lối văn tường thuật gặp được
trong nhiều sách Kinh Thánh, có một quan hệ tương đồng với những bản văn tôn
giáo điển hình của Á Châu (101).
Một khía cạnh mấu chốt nữa của việc hội nhập văn
hoá, có ảnh hưởng phần lớn tới tương lai của tiến trình, đó là sự đào tạo
những người rao giảng Tin Mừng. Trong quá khứ, việc đào tạo thường theo
kiểu cách, phương pháp và chương trình du nhập từ phương Tây, và tuy đánh giá
cao ích lợi do phương pháp đào tạo đó mang lại, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng
nhìn nhận là một phát triển tích cực, các cố gắng thực hiện trong những thời
gian gần đây để thích nghi việc đào tạo những người rao giảng Tin Mừng với
những bối cảnh văn hoá tại Á Châu. Cùng với việc có được một nền tảng vững chắc
do sự học hỏi về Kinh Thánh và các Thánh Giáo Phụ, các chủng sinh phải nắm vững
cách chắc chắn và chi tiết gia sản thần học và triết học của Giáo Hội, như tôi
đã thúc giục trong Thông điệp Fides et Ratio (102). Trên nền tảng của sự
chuẩn bị đó, các chủng sinh mới thu nhiều ích lợi khi tiếp xúc với những truyền
thống triết học và tôn giáo tại Á Châu (103). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng
khích lệ các giáo sư và các cộng tác viên tìm hiểu cách sâu sắc những yếu tố
thuộc tu đức và cầu nguyện, thân thuộc với tâm hồn Á Châu, và dấn mình sâu hơn
nữa vào công cuộc tìm kiếm một đời sống trọn vẹn hơn của các dân tộc Á Châu
(104). Để đạt mục đích này, cần nhấn mạnh đến việc đào tạo thích đáng ban giáo
sư chủng viện (105). Thượng Hội Đồng cũng biểu lộ mối quan tâm về việc đào tạo
các tu sĩ nam nữ sống đời thánh hiến, bằng cách tuyên bố rõ ràng rằng linh đạo
và nếp sống của những người được thánh hiến, cần phải nhạy cảm với gia sản tôn
giáo và văn hoá của những người họ đang chung sống và đang phục vụ, với giả
định là cần phải phân biệt cái gì phù hợp với Tin Mừng, cái gì không (106). Hơn
nữa, bởi vì việc hội nhập văn hoá Tin Mừng dính dáng đến toàn thể dân Chúa, vai
trò người giáo dân có tầm quan trọng tột bậc. Chính họ là những người hơn ai
hết được kêu gọi biến đổi xã hội, trong sự hợp tác với các Giám mục, giáo sĩ và
tu sĩ, bằng cách làm cho "tinh thần Đức Kitô" thâm nhập vào trong não
trạng, tập quán, luật pháp và cấu trúc của thế giới trần tục nơi họ đang sống
(107). Một sự hội nhập văn hoá rộng rãi hơn cho Tin Mừng, ở mọi cấp bậc xã hội
tại Á Châu, phần lớn tuỳ thuộc vào sự đào tạo xứng hợp mà các Giáo Hội địa
phương dành cho giáo dân.
Đời Sống Kitô Hữu xét như là một lời
loan báo
23. Cộng
đồng Kitô hữu càng đâm rễ sâu trong kinh nghiệm về Thiên Chúa xuất phát từ một
đức tin sống động, thì càng khả tín về khả năng rao giảng cho kẻ khác biết sự
hoàn thành của Nước Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đó là kết quả của việc trung
thành nghe Lời Chúa, cầu nguyện và chiêm ngưỡng, cử hành mầu nhiệm Đức Giêsu
trong các bí tích, nhất là trong bí tích Thánh Thể, và nêu gương về sự hiệp
thông sự sống đích thật và yêu thương trọn vẹn. Trái tim của Giáo Hội địa
phương phải hướng về việc chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-làm-người, và
liên lỉ ra sức kết hiệp mật thiết hơn với Đấng mà mình tiếp tục sứ vụ. Việc
truyền giáo là hành động bằng chiêm ngưỡng và là sự chiêm ngưỡng bằng hành động.
Do đó một nhà truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa qua
kinh nguyện và chiêm ngưỡng, thì sẽ có ít ảnh hưởng thiêng liêng hay thành công
về mặt truyền giáo. Đây là một suy tư rút ra từ thừa tác vụ linh mục của riêng
tôi và, như tôi đã viết nơi khác, sự tiếp xúc của tôi với các đại diện những
truyền thống thiêng liêng không Kitô giáo, nhất là của Á Châu, đã củng cố tôi
trong xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào việc
chiêm ngưỡng (108). Tại Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá
nhân cũng như toàn thể dân chúng đang khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được
mời gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện, hoàn toàn thánh thiêng dù dấn thân
trong những mối quan tâm trực tiếp về mặt nhân bản và xã hội. Tất cả các Kitô
hữu cần một tu đức truyền giáo thật sự gồm có cầu nguyện và chiêm ngưỡng.
Một người có lòng đạo chân chính thì dễ dàng được
người ta kính trọng và đi theo tại Á Châu. Cầu nguyện, chay tịnh và những hình
thức khổ hạnh khác được coi trọng. Hy sinh, bỏ mình, khiêm tốn, đơn sơ và thinh
lặng được xem là những giá trị lớn đối với các tín đồ của mọi tôn giáo. Để sự
cầu nguyện không tách rời khỏi sự thăng tiến nhân bản, các Nghị Phụ Thượng Hội
Đồng nhấn mạnh rằng "các công việc của công bình, bác ái và lòng thương
xót thì có quan hệ với một đời sống cầu nguyện và chiêm ngưỡng đích thực, và
hơn nữa chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng
Tin Mừng của chúng ta" (109). Hoàn toàn xác tín về tầm quan trọng của các
chứng tá chân chính trong việc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng phát biểu: "Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được
rao giảng bởi những ai bị chiếm đoạt và được linh hứng bởi tình yêu của Chúa
Cha đối với con cái mình, tình yêu đó được tỏ bày nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Việc loan truyền này là một sứ vụ cần đến những con người nam nữ thánh thiện,
họ sẽ làm cho Đấng Cứu Thế được biết và được yêu suốt đời của họ. Một ngọn lửa
chỉ được cháy lên bằng cái gì đã bén lửa. Cũng vậy, việc loan truyền Tin Mừng
Cứu Độ mà có hiệu quả tại Á Châu, chỉ có thể xảy ra, nếu các Giám Mục, các hàng
Giáo Sĩ, những kẻ sống đời sống thánh hiến và giáo dân, cháy nóng bằng tình yêu
Đức Kitô và ao ước làm cho Người được biết cách rộng rãi hơn, được yêu cách sâu
xa hơn, và được theo cách gần gũi hơn" (110). Người Kitô hữu nói về Đức
Kitô, thì phải thấm nhuần sứ điệp mà họ rao giảng vào đời sống mình.
Về phương diện này, một hoàn cảnh đặc biệt trong
bối cảnh Á Châu đòi hỏi phải lưu ý. Giáo Hội nhận thức rằng chứng tá thầm
lặng của đời sống vẫn là con đường duy nhất để loan báo Nước Chúa trong
nhiều nơi tại Á Châu, mà việc rao giảng công khai bị ngăn cấm và sự tự do tôn
giáo bị chối từ hay bị hạn chế có hệ thống. Giáo Hội sống cách ý thức kiểu làm
chứng này, coi đó là một "việc vác thánh giá mình" (Lc 9, 23), đồng
thời kêu gọi và thúc bách các chính phủ nhìn nhận tự do tôn giáo như là quyền
lợi căn bản con người. Những lời của công đồng Vaticanô II đáng được lập lại ở
đây: "Con người có quyền tự do tôn giáo. Quyền tự do này hệ tại con người
không bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ quyền
bính trần gian nào khác; không một ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm
mình trong các việc tôn giáo, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương
tâm mình, dù cho đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với
người khác, trong những giới hạn chính đáng" (111). Trong một vài quốc gia
tại Á Châu, lời tuyên bố này vẫn cần được nhìn nhận và đem ra thi hành.
Như vậy, rõ ràng là việc loan báo về Đức Giêsu Kitô
tại Á Châu mang nhiều khía cạnh phức tạp, vừa trong nội dung vừa trong phương
cách. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng rất ý thức đến sự đa dạng chính đáng của
những phương thức rao giảng về Đức Giêsu, miễn là chính đức tin được tôn trọng
trong sự toàn vẹn của nó qua quá trình chiếm hữu hay chia sẻ đức tin. Thượng
Hội Đồng ghi nhận rằng "ngày nay việc Phúc âm hoá là một thực tại, vừa súc
tích vừa năng động. Nó gồm có nhiều khía cạnh và yếu tố: chứng tá, đối thoại,
rao giảng, dạy giáo lý, hoán cải, bí tích Rửa Tội, gia nhập vào cộng đoàn Giáo
Hội, thiết lập Giáo Hội, hội nhập văn hoá và thăng tiến toàn diện con người.
Một số yếu tố liên kết với nhau, đang khi một số khác là những bước hay những
giai đoạn kế tiếp nhau của toàn thể quá trình Phúc âm hoá" (112). Tuy
nhiên, trong mọi công cuộc Phúc âm hoá, phải loan báo trọn vẹn chân lý về Đức
Giêsu Kitô. Nhấn mạnh đến một vài khía cạnh của mầu nhiệm khôn dò của Đức
Giêsu, vừa là việc chính đáng vừa là cần thiết, để từ từ giới thiệu Đức Giêsu
cho một con người, nhưng việc làm đó không được phép làm tổn thương tính toàn
vẹn của đức tin. Sau cùng, sự chấp nhận đức tin của một con người phải được đặt
nền tảng trên một sự hiểu biết chắc chắn về con người Đức Giêsu, như Giáo Hội
trình bày mọi lúc mọi nơi, là Chúa của mọi người, Đấng "vẫn là một, hôm
qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời".