TÔNG HUẤN KITÔ HỮU GIÁO DÂN
VỀ ƠN GỌI VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO DÂN
TRONG GIÁO HỘI VÀ THẾ GIỚI
I. Diễn Tiến Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới (THÐGM)
Khóa VII.
Thượng Hội Ðồng GM đã diễn ra trong trọn tháng mười năm
1987, với chủ đề : Ơn gọi và sứ mạng của giáo dân trong GH.
Việc chuẩn bị được tiến hành như các THÐGM trước đây :
- Bản đề
cương (Lineamenta)
- Công cụ
làm việc (Instrumentum laboris)
Giai đoạn I : từ ngày
01 tháng 10 : các nghị phụ nghe báo cáo về những góp ý từ khắp nơi gửi về. Sau
đó các giám mục tham luận. Trong giai đoạn này, ngày 4/10 có lễ phong Á thánh
cho 3 giáo dân : Marcel Callo, Pierina Morosini và Antonia Mesina.
Giai đoạn II : Trong
suốt một tuần lễ, 214 nghị phụ và 60 giáo dân dự thính viên chia thành 12 nhóm
theo ngôn ngữ để thảo luận. Chính trong giai đoạn này, hai giám mục đại biểu
của Việt Nam mới tới : Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn và Ðức Cha Nguyễn Văn Sang.
Ngày 18/10 có lễ phong thánh cho 16 vị tử đạo tại Nhật Bản
vào thế kỷ 17.
Ngày 19/10 nghe thuyết trình của các nhóm và phát biểu về
các phúc trình của nhóm.
Giai đoạn III : từ
20/10 chuẩn bị các đề nghị, thảo luận về các đề nghị.
Giai
đoạn IV : từ 26/10 giai đoạn cuối cùng, các nghị phụ biểu quyết
từng điểm những đề nghị để trở thành bản chung kết sẽ được công bố trong ngày bế
mạc và soạn thảo sứ điệp gửi cho toàn dân Thiên Chúa.
Ngày 30/10 Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chủ tọa thánh lễ
trọng thể kết thúc THÐGM. Chúng tôi trích dịch một đoạn của bài giảng Ðức Giáo
Hoàng nói về phẩm giá tư tế của giáo dân :
1. Trong chiều kích "Giáo Hội mầu nhiệm"
Người tín hữu giáo dân, cùng với tất cả những ai đã được
thanh tẩy, đều là "Con Thiên Chúa" là "chân tay của nhiệm thể
Ðức Kitô" là "Ðền thờ của Chúa Thánh Thần" là "Chứng tá và
sứ giả của Tin Mừng cứu độ".
Chính trong mầu nhiệm phong phú đó, mà ta khám phá được
tất cả phẩm giá tư tế, tiên tri và vương đế của người giáo dân. Chính từ đó mà
người giáo dân mang ơn gọi nên thánh, ao ước mãnh liệt có một linh đạo đặc thù,
xứng hợp và khẩn thiết cần được đào tạo sâu sắc, trường kỳ, cần được nuôi dưỡng
bằng Thánh Thể, bí tích Hòa Giải và khao khát chiêm niệm hàng ngày.
Người tín hữu giáo dân trước hết là một "Kitô
hữu" chân chính. Muốn được như vậy, giáo dân nên nhớ là đã được chết trong
Ðức Kitô qua phép rửa, và như thánh Phaolô nói : "Sống đối với tôi là Ðức
Kitô" vì trong Ngài, người tín hữu hồi phục cách viên mãn mọi giá trị của
con người.
2. Trong chiều kích Giáo Hội hiệp thông.
Người tín hữu giáo dân là thành viên của Dân giao ước,
được gọi kết hiệp với Thiên Chúa qua Ðức Kitô, trong Thánh Thần, hiệp thông với
tất cả những người đã được thanh tẩy. Do đó, tín hữu không sống khép kín cho
mình, tách riêng khỏi cộng đoàn, mà luôn luôn phải trao đổi với kẻ khác, nhạy
cảm về tình huynh đệ, vui mừng được chia sẻ một phẩm giá, một vinh dự, trong nỗ
lực phát huy kho báu đã được trao làm di sản.
Thần Khí của Chúa ban cho giáo dân cũng như mọi Kitô hữu
nhiều đoàn sủng, mời họ tham gia nhiều thừa tác vụ và chức vụ khác nhau. Thánh
Thần nhắc nhở cùng mọi Kitô hữu rằng : nét đặc thù của giáo dân không phải là
để làm tăng phẩm giá, mà là khả năng đặc biệt và bổ sung cho linh mục để phục
vụ Giáo Hội.
Chính bí tích Thánh Thể là nguồn mạch, là đỉnh cao, là dấu
hiệu và cũng là hiện thực, là sự nhận định và tiên báo niềm hiệp thông kỳ diệu
của tính "đồng huyết nhục" (Consanguinité) trong đời sống của Ðức
Kitô phục sinh.
Quả thế, sự kết hiệp với Thánh Thể Ðức Kitô vừa biểu hiện
vừa tác thành, nghĩa là xây dựng sự hiệp thông mật thiết giữa mọi tín hữu trong
thân thể Ðức Kitô là chính Giáo Hội. Vậy thì những đoàn sủng, thừa tác vụ,
nhiệm vụ và dịch vụ của tín hữu giáo dân được thể hiện trong hiệp thông và để
xây dựng hiệp thông. Ðó là những ơn phong phú hỗ trợ cho linh mục, đem ích lợi
đến cho tất cả, dưới sự chỉ đạo khôn ngoan của các chủ chăn.
3. Trong chiều kích "Giáo Hội thừa sai".
Người tín hữu giáo dân không những tham gia trách nhiệm
thừa sai, mà còn mang nét đặc thù trong cách dấn thân loan báo nước Thiên Chúa.
Sau Công Ðồng, Ðức Phaolô VI đã nhắc lại rằng : Giáo Hội
có một chiều kích trần thế, gắn liền với bản chất và sứ mạng của mình, bắt
nguồn từ mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, mà các thành phần thể hiện với những cung
cách khác nhau. Nhưng công cuộc đó, mặc dầu là bao quát mọi tín hữu, được người
giáo dân thể hiện theo cung cách đặc thù của mình mà Công Ðồng gọi là
"tính trần thế".
Người tín hữu giáo dân giữa dòng nhân thế, lao mình vào
những bổn phận và công việc trần thế, trong khuôn khổ thường nhật được đan dệt
bằng đời sống gia đình và xã hội. Do đó mà người giáo dân cộng tác vào sứ mạng
toàn diện của Giáo Hội, không phải chỉ để mang sứ điệp và ân huệ của Ðức Kitô
đến cho loài người, mà còn để trật tự của các thực tại trần gian được thấm
nhuần tinh thần của Tin Mừng và đưa trật tự đó đến mức hoàn hảo.
Người tín hữu giáo dân được đặt vào tận biên thùy của lịch
sử : gia đình, văn hóa, thế giới lao động, kinh tế, chính trị, khoa học kỹ
thuật, truyền thông đại chúng ; những vấn đề lớn của sự sống, liên đới, hòa
bình, đạo đức nghiệp vụ, nhân quyền, giáo dục, tự do tôn giáo.
Thượng Hội Ðồng chưa thảo luận đủ về các chủ đề phức tạp
trên, nhưng cũng đã mô tả người giáo dân trong vai trò chiến sĩ Kitô giáo giữa
trần thế, chen vai sát cánh với các tín hữu khác là chủ chăn, là nam nữ tu sĩ,
với những nhiệm vụ khác nhau nhưng cùng một sứ mạng.
II. Nhập đề
Trong kiến nghị số 2, THÐGM viết : "Trong quá trình
xem xét nghiên cứu tất cả những vấn đề này, chúng tôi muốn đứng về quan điểm
mục vụ, mà đồng thời cũng là quan điểm linh đạo, thần học và truyền giáo, khi
nhìn vào những hoàn cảnh tình hình chính trị xã hội cụ thể. Vậy chúng tôi muốn
khiêm cung trình lên Ðức Thánh Cha một thỉnh nguyện là : trong tập tài liệu
người soạn thảo lúc thuận tiện, kính xin người mở đầu bằng một phần nhập đề
trình bày những vấn đề của thời đại chúng ta, sao cho các giáo dân tín hữu của
Chúa Kitô nhận diện ra thế giới ngày nay, trong đó họ phải hoàn thành sứ mạng
của mình. Sau hết, chúng tôi xin đề nghị là tập tài liệu đó có thể được soạn ra
dưới ánh sáng của quam điểm Giáo Hội là hiệp thông".
Ðề nghị trên đây của THÐGM đã
được Ðức Thánh Cha chấp thuận và đó là phần nhập đề của Tông huấn.
1. Nhập đề Tông Huấn.
Ðể dẫn vào Tông huấn, Ðức Thánh Cha khởi đầu suy tư của
ngài về dụ ngôn thợ làm vườn nho : "Dụ ngôn mở ra trước mắt chúng ta vườn
nho mênh mông của Chúa, và một đám đông con người, cả nam lẫn nữ, được Chúa mời
gọi và sai đi làm tại vườn nho. Vườn nho đó chính là Thế giới, phải được biến
đổi theo chương trình của Thiên Chúa, hướng tới ngày hoàn thành chung cuộc của
Nước Thiên Chúa".
Từ lời mời gọi của Chúa, Công Ðồng Vatican II đã cảm
nghiệm hơn về ơn gọi truyền giáo của mình, đã viết những trang thật tuyệt vời
về bản tính, phẩm giá, linh đạo, sứ mạng và trách nhiệm của giáo dân. Công Ðồng
mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hiệp với Chúa ngày một mật thiết hơn và
nhận thức được những gì của Chúa cũng là của chính mình họ. Họ hãy tham gia vào
sứ mạng cứu rỗi và một lần nữa Chúa sai họ đi tới các thành và những nơi Ngài
sẽ đến.
Thượng Hội Ðồng này theo hướng đi của Công Ðồng, dựa vào
các Thượng Hội Ðồng trước, dựa vào kinh nghiệm của toàn thể Giáo Hội cũng như
sự đóng góp kinh nghiệm của chính các giáo dân (60 đại biểu) đã nghiên cứu sâu
xa về ơn gọi và sứ mạng của giáo dân trong Giáo Hội và trong Thế giới 20 năm
sau Công Ðồng Vatican II.
Các nghị phụ nhận thấy rằng : ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp
tục đổi mới Giáo Hội với những năng lực thánh thiện mới mà đông đảo giáo dân
tham gia như :
- Cộng tác
giữa linh mục tu sĩ và giáo dân.
- Tham dự
tích cực vào phụng vụ, loan báo lời Chúa, huấn giáo.
- Giáo dân
đảm nhận nhiều dịch vụ và trách vụ rất tốt.
- Nở rộ
nhiều nhóm, hiệp hội, phong trào tu đức và dấn thân.
- Phụ nữ
tham gia rộng rãi và rõ nét hơn vào đời sống của Giáo Hội và phát triển của xã
hội.
Ðồng thời các ngài cũng nêu lên 2 nguy cơ :
·
Quá thiên về việc đạo mà sao lãng việc đời, việc bổn phận
chuyên môn của mình.
·
Quá thiên về việc đời mà tách biệt giữa đức tin và đời
sống, giữa Tin Mừng và các hoạt động trần thế.
Mục đích của Tông Huấn này là :
- Tham
chiếu Công Ðồng Vatican II để đề ra những thực hành cho xã hội ngày nay.
- Ðúc kết
công việc của Thượng Hội Ðồng một cách mạch lạc và trung thành.
- Khơi dậy
và nuôi dưỡng một ý thức rõ nét hơn về ân huệ và trách nhiệm của tất cả và của
từng giáo dân trong sự hiệp thông và trong sứ vụ của Giáo Hội.
2. Vườn nho ngày nay như thế nào ?
Tông Huấn nêu lên 3 cặp mâu thuẫn :
- Duy thế
tục và nhu cầu tôn giáo (số 4)
- Nhân bản
và phi nhân (5)
- Xung đột
và hòa bình (6)
a. Nhân
loại ngày nay say sưa vì những kết quả kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, muốn được
tự do hoàn toàn nên dửng dưng với tôn giáo, chỉ trú trọng đến đời mà không để ý
gì đến đạo. Hiện tượng này tác động nơi cá nhân mà còn tới nhiều cộng đồng.
· Tuy vậy,
khát vọng về tôn giáo không hoàn toàn bị mai một khi phải đương đầu với những
vấn đề quan trọng nhất của cuộc sống : ý nghĩa cuộc sống, đau khổ và chết .
· Con
người vẫn có khát vọng thức tỉnh tìm kiếm tôn giáo, trở về sự cầu nguyện, sự
thiêng thánh, một cái nhìn thiêng liêng và siêu việt về cuộc sống.
b. Xã hội
hiện nay đang xảy ra biết bao xúc phạm đến phẩm giá của con người :
·
Con người trở thành dụng cụ, thành nô lệ do các thế lực
sai khiến như : ý thức hệ, quyền lực kinh tế, hệ thống chính trị, quyền lực
khoa học, quyền lực thông tin tuyên truyền.
·
Những nhân quyền căn bản bị xúc phạm : Quyền được sống và
toàn vẹn thân thể, quyền có nhà ở và việc làm, quyền có gia đình và sinh sản
trách nhiệm, quyền tự do lương tâm và tự do tín ngưỡng .
·
Nhưng cũng từ những xúc phạm trên, xã hội lại ý thức mãnh
liệt về nhân phẩm, về tính cách thiêng thánh của con người. Thời đại này là
thời đại của những chủ thuyết nhân bản và nhu cầu đang lớn mạnh đó là nhu cầu
tham gia (Participation).
c. Xung
đột và hòa bình (Conflictualité et paix)
Xã hội ngày nay bị tác động và rung chuyển bởi những tình
huống xung đột : đối kháng tệ hại giữa các cá nhân, tầng lớp, các quốc gia, các
khối quốc gia, dân tộc với những hình thức bạo hành, khủng bố, chiến tranh .
Con người muốn phô trương sự toàn năng của mình nên sinh
ra hỗn loạn, đấu tranh, bạo loạn, vì vậy, gia đình nhân loại bị đảo lộn và xâu
xé.
Sống trong cảnh lo âu này, người ta lại rất khát khao hòa
bình và tham gia xây dựng hòa bình. Trên con đường này, một số đông giáo dân đã
dấn thân trong nhiều lãnh vực khác nhau và dưới nhiều hình thức rất khác nhau
trong các tổ chức, các hoạt động thiện chí, phục vụ các người nghèo, các nước
nghèo.
3. Kết luận.
Ðức Giêsu Kitô là niềm hy vọng của nhân loại.
Giáo Hội
được sai đến vườn nho như thế đó !
Các tình huống này có liên hệ đến Giáo Hội, chi phối Giáo
Hội. Những mâu thuẫn này, do những giới hạn của con người, do tội lỗi và thần
dữ, nhưng vẫn được giải đáp nhờ sự can thiệp của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng cứu chuộc
con người và thế giới.
Bất chấp chuyện gì đi nữa : Ðức Giêsu Kitô là niềm
hy vọng, là tin vui hoàn toàn mới mẻ, đem lại niềm vui mà Giáo Hội loan báo cho
chúng ta và làm chứng cho tất cả mọi người.
Trong việc loan báo và làm chứng này, các giáo dân
có một vị trí độc đáo và không thể thay thế được. Nhờ họ mà Giáo Hội Chúa Kitô
hiện diện trong mọi lãnh vực rất khác nhau của thế giới, như là dấu chỉ và
nguồn mạch của hy vọng và tình yêu.
III.
Vườn nho tại Giáo phận Ðàlạt như thế nào ?
Ba cặp mâu thuẫn mà tông Huấn
nói trên đây :
* Duy
thế tục và nhu cầu tôn giáo.
* Nhân
bản và phi nhân.
* Xung
đột và hòa bình.
đều là những hiện tượng xảy ra
lúc thì rõ nét, lúc thì âm ỷ nơi xã hội tỉnh Lâm Ðồng này.
Tuy nhiên, trước khi phân tích các mâu thuẫn này, chúng
tôi muốn nói đến một tính chất đặc biệt của cư dân Lâm Ðồng cũng như dân Công
giáo tại đây : đó là tính chất di dân. Ngoài những người dân tộc cư trú tại đây
từ lâu đời, tất cả những người Kinh chỉ bắt đầu tới sau khi Yersin tìm ra
Ðàlạt. Những người ở miền Lục tỉnh lên chỉ là một số ít và không thành từng
đợt, nên họ ở lẻ tẻ và không quy tụ thành một xã thôn.
Di dân từ miền Trung thì tới thành từng đợt, quây quần
thành làng xóm và vẫn giữ được những nét văn hóa riêng của mình như ấp Nghệ
Tĩnh.
Di dân từ miền Bắc, sau năm 1954 và 1975, là những đợt di
dân có tổ chức, có định cư và họ cứ bê nguyên xi nếp sống vào đây.
Người công giáo đến Lâm Ðồng bằng những con đường này. Chúng
ta có thể nêu ra những đặc tính sau đây :
·
Tới một miền xa lạ, cọp beo rắn rết, người ta phải sống
quy tụ để tự bảo vệ, tự phát triển. Người ta đặt tên cho nơi mới định cư theo
tên làng cũ của mình : ấp Hà Ðông, ấp Nghệ Tĩnh, Tân Bùi, Tân Phát, Tân Hà . và
bê nguyên xi sinh hoạt đạo đức tới đây : từ cha xứ đến giáo dân, từ sinh hoạt
Giáo xứ đến nếp sống văn hóa, cưới xin cũng như ma chay, cứ thế mỗi cộng đoàn
sống cạnh nhau, không cộng đoàn nào quá mạnh đến nỗi lấn át cộng đoàn kia.
·
Tuy là đạo gốc, nhưng giáo dân vẫn còn bị ảnh hưởng sâu
đậm của tôn giáo cổ truyền : đạo Ông bà, Nho, Phật, Lão. Việc thờ cúng ông bà
tổ tiên, tôn trọng gia phong lễ giáo, quý trọng việc thờ cúng lễ bái hội hè .
là những đặc tính mà Nước rửa tội cũng không thể rửa sạch được. Họ vẫn là một
giáo hữu đạo đức, tin tất cả mọi điều Hội Thánh dạy, nhưng họ vẫn đinh ninh
rằng có thờ có thiêng, có kiêng có lành và "ma soeur" vẫn đem áo cha
sở đến hỏi "Thầy" để biết cha sống hay chết.
·
Xã hội đó là một xã hội cổ truyền, xã hội khép kín (đóng)
nên người ta đoàn kết, tương trợ, xây dựng và phát triển cộng đồng. Xét về giáo
xứ, người ta sống trong một Giáo Hội cơ cấu, có ổn định và trật tự trên dưới,
từ giáo xứ đến giáo họ, giáo khu, từ ông trương đến ông trùm, nhất nhất đều do
cha quản xứ điều hành : "chính vì cái trật tự này mà giáo dân tuy tin theo
Công Ðồng Vatican II, họ không phản đối những cải tổ của Công Ðồng, nhưng họ
vẫn hờ hững với đổi mới vì sợ rằng sẽ phá vỡ cái trật tự ngàn đời kia.
·
Ðối với những cộng đoàn giáo dân đến sau năm 1975 như ở
huyện Lâm Hà, Ðạ Tẻh, Cát Tiên, Di Linh . họ cũng họp thành cộng đoàn, cũng
đoàn kết, cũng thương nhớ quê hương, nhưng họ vẫn cảm thấy lẻ loi, thấy mình
khác với người ta về nhiều sinh hoạt đạo đức, cảm thấy mình thua kém về nhiều
mặt, khó hội nhập với những cộng đoàn kia. Họ trở thành một cộng đoàn bên lề,
phụ thuộc, bị mặc cảm và vẫn cố gắng duy trì nếp sống đạo đức cũ của mình với
kinh kệ, ngắm nguyện càng nhiều càng tốt. Họ là giáo dân Giáo phận Ðàlạt, nhưng
vẫn đồng thời là giáo dân gốc Hà Nội hay Bùi Chu.
Nói tóm lại, tính chất di dân là một tính chất xuyên suốt
quá trình hình thành tỉnh Lâm Ðồng cũng như Giáo phận Ðàlạt. Ðã có một thời
người ta đặt vấn đề : địa phương hóa di cư hay di cư hóa địa phương ? chúng ta
không thể chỉ chọn một, mà phải chọn cả hai : địa phương này gồm toàn những di
dân, cũ cũng như mới. Muốn giải quyết các vấn đề của Giáo phận cũng như của xã
hội, chúng ta đều phải chú trọng đến tính chất di cư này. họ sống trong nền văn
hóa, văn hóa Công giáo và văn hóa cổ truyền Việt Nam, văn hóa Ðàlạt và văn hóa
gốc Hà Nội, Thanh Hóa, Vinh, Sàigòn . họ không thể chọn cái này mà bỏ cái kia,
vì vậy họ giữ cả hai.
Từ bối cảnh di dân trên đây, chúng ta thử phân tích 3 cặp
mâu thuẫn mà Tông Huấn nói tới.
* Duy thế tục và nhu cầu tôn giáo.
Ðối với
Âu Châu, một xã hội có nền văn hóa Kitô giáo từ lâu đời, văn hóa Kitô giáo là
văn hóa của xã hội, thì duy thế tục là bỏ nền văn hóa Kitô giáo, bỏ cái cội rễ
của Kitô giáo để có một hướng đi thế tục. Thế hệ người già thấm nhiễm đức tin
thì hoảng hốt vì cho rằng con cháu họ không còn một đức tin như họ đã từng có,
và thế là họ càng bảo thủ hơn. Trái lại, ở Việt Nam, xã hội chúng ta chưa thấm
nhiễm văn hóa Kitô giáo được là bao, mà còn mang nặng tôn giáo truyền thống. Vì
vậy, tính chất duy thế tục không phải là bỏ đạo, nhưng là hờ hững với đạo. Khi
sống tại quê hương, họ có một nếp sống đều đặn theo chương trình tôn giáo cố
định, có trật tự điều hòa, có cả một cộng đồng tham gia, ai không tham gia thì
bị coi là ở ngoài, là "dân ngoại". Nhưng khi tới miền đất mới, cái
chương trình điều hòa kia đã bị lệch lạc do việc làm lụng, do chưa hòa nhập với
hoàn cảnh mới, chưa có cái trật tự cộng đoàn, nên người ta có đi lễ mà vẫn
không tham gia vì chưa quen, đạo ai nấy giữ, rồi dần dần họ trở thành dửng dưng
với giáo xứ rồi dửng dưng luôn với đạo.
Ðối với
những người trẻ mới lớn, được giáo dục trong môi trường không tôn giáo, được
tiếp cận với xã hội kinh tế thị trường, thì điều quan trọng của họ là nghề
nghiệp, là vị trí xã hội, còn tôn giáo thì sẽ nghĩ đến sau.
Hiện
nay, nhà thờ vẫn đông giáo dân, các tòa giải tội vẫn đông người, các vệc đạo
đức bình dân cũng rất phong phú, nhưng đó là do nhu cầu tôn giáo của truyền
thống Việt Nam.
Ðối với
Tây phương thì tôn giáo hệ tại chữ Tín (tin) còn đối với Ðông phương thì tôn
giáo hệ tại chữ Lễ tức là cách cư xử "Tôi phải cư xử thế nào với các bậc
thần thánh cho phải đạo". Tôi là Phật tử, nhưng đối với Ðức Mẹ là một bậc
thánh thiêng hay ra tay cứu độ, thì tôi cũng thờ cúng Ðức Mẹ để được phúc lành.
Ðó là lẽ tự nhiên, không đối lập gì với niềm tin của một Phật tử. Giáo dân
chúng ta cũng có thái độ tương tự : tôi tin Chúa, nhưng tôi vẫn sợ xui, vì vậy
tôi kiêng là tốt hơn, khi chung quanh tôi đang tràn lan nếp sống văn hóa này.
Nhu cầu tôn giáo vẫn luôn luôn là nhu cầu của "thế
sinh" (từ của ông Trần Văn Ðoàn) : phúc và họa, may và rủi, sống và chết,
đời này và đời sau, kiếp này và kiếp sau, cõi dương và cõi âm . tuy xã hội là
kinh tế thị trường, là cõi trần ai, nhưng con người vẫn muốn cái cõi thiên
thai, vì cuộc đời này cũng chỉ là vô thường.
* Nhân bản và phi nhân.
Nhân bản
là giá trị của con người xét theo bản tính cũng như theo tương quan với nhau
trong xã hội và với thiên nhiên trong vũ trụ. Dùng trật tự xã hội của Tây
phương mà đánh giá nhân bản của Ðông phương thì thực là sai lầm. Chính vì thế,
có những nhà xã hội học thấy phụ nữ Việt Nam bị chồng đánh, phải rửa bát quét
nhà thì vội kết luận là phụ nữ Việt Nam bị đàn áp ! thực ra họ đâu biết đến
quyền hành của phụ nữ Việt Nam trong gia đình cũng như trong ảnh hưởng lớn lao
đối với con cái ! Xã hội Việt Nam có những hành vi phi nhân như : trọng nam
khinh nữ, người đàn bà không tham gia hàng xứ, không phát biểu nơi hội họp,
không đứng lên đòi quyền phụ nữ . nhưng trên thực tế, trong các gia đình cổ
truyền, thì chính người đàn bà mới là người gánh vác giang sơn nhà chồng. Những
quan niệm mà xã hội ngày nay gọi là nhân bản hay phi nhân thì đều do văn hóa
Tây phương đem lại. Chính khi tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, khi xã hội
cổ truyền đang thay đổi để tiến sang xã hội công nghiệp, xã hội kinh tế thị
trường thì nền luân lý gia đình bị chao đảo. Các tệ nạn phi nhân như : nô lệ vì
lao động, ly dị, phá thai, xì ke ma tuý . đang bắt đầu xuất hiện và có khuynh
hướng mỗi ngày một lan rộng hơn. Chính đây là một thực tế mà các giáo xứ chúng
ta đang phải đối diện.
Tuy
nhiên, gia đình chúng ta vẫn còn giữ được phần nào nếp sống gia phong, vẫn còn
rất quý trọng cái nhân bản của nền luân lý cổ truyền, vẫn coi các tệ nạn kia là
cái xấu, cái đáng chê ghét. Nói cách tổng quát, chúng ta vẫn còn "ý thức
về tội lỗi" (nói đúng hơn, các người trẻ đang mất dần ý thức này) đó là
cái thực trạng xã hội mà chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ.
* Xung đột hòa bình.
Cái thời Nghiêu Thuấn, cái thời Lão Tử cưỡi trâu du ngoạn
nay chỉ còn là mơ tưởng, vì chúng ta đang sống trong thế giới cạnh tranh sinh
tồn, trong nền kinh tế thị trường. Khi mà ngày nay các phương tiện truyền thông
đều thúc bách tăng năng xuất, khi mà xã hội nông nghiệp đang chuyển sang xã hội
công nghiệp, thì tất nhiên không thể né tránh vấn đề xung đột. Xung đột trong
cạnh tranh, tranh thủ trong công việc, phấn đấu trong đời sống khiến con người
không còn sống "vô vi" được nữa. Ðang sống trong tâm trạng này thì xã
hội ngày nay lại đầy tràn bạo lực (xin xem tổng kết tội phạm mỗi tuần trên báo
thanh niên), phim ảnh thì đề cao "hành động", ca nhạc thì "giật
gân", cư xử theo đạo lý thì bị coi là "quân tử Tầu". Chính khung
cảnh này thúc bách người ta phải sống vội vã, sống hối hả. Và đây là một căn
nguyên phá tan sự đầm ấm của gia đình. Vì công việc, gia đình không ăn cơm
chung nữa, không cùng giải trí trò chuyện với nhau, mỗi người có một việc làm
riêng biệt và một cuộc sống riêng biệt. Giới trẻ thì sớm tự lực mưu sinh và
thoát ly gia đình.
Chính
trong nếp sống cạnh tranh này mà con người cảm thấy cô đơn, nên người ta lại
khát khao cuộc sống xum họp trong gia đình, trong câu lạc bộ, trong đoàn thể .
Hành động điên rồ của một người khiến người ta phải đoàn kết để bảo vệ, để đấu
tranh cho hòa bình, để cuộc sống được bình an. Người nhàm chán với công vệc đều
đặn mỗi ngày thì muốn bước vào thế giới ảo tưởng của truyện kiếm hiệp, người
miệt mài bận rộn hoạt động thì khát khao weekend để trở về đồng quê, về với
thiên nhiên. Từ xưa, cha ông ta đã có cái mộng thiên thai rồi.
Nói tóm
lại, 3 cặp mâu thuẫn mà Tông Huấn nói đây, đều đang xẩy ra chung quanh ta khi
xã hội đổi mới để bước vào nền kinh tế thị trường. Thành phố là nơi bén nhạy sẽ
bị ảnh hưởng trước, rồi sau đó là nông thôn. Những cố gắng của chính phủ về bảo
tồn văn hóa cổ truyền, phát huy truyền thống dân tộc, đều nhằm mục đích lành
mạnh hóa xã hội, còn người Công giáo thì sao ? Ðó là vần đề Tông Huấn trình bày
cho chúng ta.