PHẨM GIÁ CỦA KITÔ HỮU GIÁO DÂN
Ðức Gioan Phaolô đã suy tư về "căn
tính" (identité) và "phẩm giá" (dignité)
của người Kitô hữu giáo dân từ trong lòng mầu nhiệm Giáo Hội xét
như là mầu nhiệm hiệp thông. Ngài nhấn mạnh rằng chỉ với cái nhìn đức tin này,
chúng ta mới hiểu đúng ơn gọi và sứ mạng của người Kitô hữu giáo dân trong Giáo
Hội và trong thế giới.
Khởi đi từ hình ảnh cây nho trong truyền
thống Thánh Kinh với nhiều ý nghĩa khác nhau, Ðức Gioan Phaolô II đã dặc biệt lưu
ý đến ý nghĩa giáo hội học : cây nho
diễn tả mầu nhiệm Dân Thiên Chúa. Trong cái nhìn này, người giáo dân không chỉ
là những người thợ làm vườn nho, nhưng còn là thành phần của cây nho, như Ðức
Giêsu đã nói : "Thầy là cây nho, anh em là cành" (Ga 15, 5).
Ðức Thánh Cha bắt đầu suy tư về hình ảnh
cây nho từ truyền thống các ngôn sứ trong Cựu Ước : cây nho là hình ảnh và biểu
tượng về dân được tuyển chọn. Israel là cây nho của Thiên Chúa, công trình của
Chúa, niềm vui của Người : "Ta đã trồng ngươi như cây nho hảo hạng, cây
nho thuần chủng" (Gr 2, 21) ; "Mẹ ngươi giống cây nho được trồng bên
dòng nước, quả trĩu nặng, lá sum suê, nhờ mạch nước dồi dào" (Ed 19, 10) ;
"Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình.
Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất, nhặt
đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn, anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp
nho" (Is 5, 1-2).
Từ hình ảnh về cây nho trong truyền
thống ngôn sứ, Ðức Gioan Phaolô đưa ta trở lại với Phúc âm. Ðức Giêsu cũng sử
dụng hình ảnh cây nho để mạc khải một số nét về Nước Thiên Chúa : "Có
người kia trồng được một vườn nho ; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho
và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa" (Mc 12, 1
; x. Mt 21, 28).
Tin mừng thứ tư còn mời gọi ta đi sâu
hơn vào chính mầu nhiệm của cây nho : nó không chỉ là biểu tượng và hình ảnh
của Dân Thiên Chúa, nhưng còn của chính Ðức Giêsu. Ðức Giêsu là thân nho, các
môn đệ là cành nho ; Ðức Giêsu là "cây nho thật" đem lại sức sống cho
các cành nào gắn với cây nho (x. Ga 15, 1tt).
Trong bức tranh nhiều mầu sắc diễn tả
bản chất Giáo Hội, Công Ðồng Vatican II đã lấy lại hình ảnh cây nho và cành nho
: "Chúa Kitô là cây nho đích thực. Người ban sức sống và hoa trái cho các
cành là chúng ta. Nhờ Giáo Hội, chúng ta ở trong Người, và không có Người,
chúng ta không thể làm gì được (x. Ga 15, 1-5)[1]
Chính
Giáo Hội là vườn nho được Phúc âm nói đến. Giáo Hội là một mầu nhiệm phát xuất
từ Thiên Chúa Ba Ngôi (Ecclesia de Trinitate). Theo cha Bernard Sesboué,
khi suy nghĩ về căn tính và phẩm giá của
người giáo dân trong lòng Giáo Hội mầu nhiệm xét như mầu nhiệm hiệp
thông, Tông huấn "người Kitô hữu giáo dân" đã làm rõ nét một
số bản văn Công Ðồng Vatican II mà nó trích dẫn 89 lần, đôi khi rất dài [2].
Ðiều này cho thấy hướng đi của Tông Huấn là khai triển giáo hội học hiệp thông
của Vatican II được xây dựng trên mầu nhiệm vô cùng thâm sâu của Ba Ngôi Thiên
Chúa.
1.
Kitô hữu giáo dân là ai ?
Các nghị phụ của Thượng Hội Ðồng đã đề
nghị cần thiết phải có một cách diễn tả tích cực về ơn gọi
và sứ mạng của người Kitô hữu giáo dân, nhờ vào việc đào sâu giáo lý của Công
Ðồng Vatican II, dưới ánh sáng của các văn kiện mới đây của Huấn Quyền và kinh
nghiệm sống của Giáo Hội dưói sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. [3]
Ðể trả
lời câu hỏi "Kitô hữu giáo dân là ai ?", Tông Huấn "Kitô hữu
giáo dân" (s. 9) đã lấy lại "định nghĩa" của Vatican II trong
Hiến chế Lumen gentium với một cái nhìn rất tích cực về
người giáo dân khi xác quyết rằng người giáo dân hoàn toàn thuộc về Giáo Hội và
mầu nhiệm Giáo Hội, rằng nét đặc thù của ơn gọi và sứ mạng của họ là "tìm
kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý
Thiên Chúa" (x. LG 31, đ. 2).
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội đã định
nghĩa chữ "giáo dân" như sau :
"Danh
hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ
và bậc tu trì được Giáo Hội công nhận, nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp
nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa và
tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức
của họ ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong
Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình. Tính cách trần thế là
tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân" (LG 31).
Ðiều ta
cần lưu ý là các văn kiện này đã loại bỏ định nghĩa người giáo dân cách tiêu
cực, nhưng đưa ra một "mô tả tích cực" về người giáo dân. Kitô hữu
giáo dân không chỉ được định nghĩa một cách đơn giản như không phải là giáo sĩ,
nhưng tiên vàn phải được nhìn nhận là thuộc trọn vẹn về Dân Thiên Chúa.
Dựa theo
hình ảnh cây nho trong Kinh Thánh, Kitô hữu giáo dân cũng như mọi thành phần
trong Giáo Hội, tất cả đều là cành nho gắn liền với Ðức
Kitô, "cây nho thật". "Laikos" (người dân) là
thành phần của "Laos" (đoàn dân), nghĩa là thuộc Dân
của Thiên Chúa, một dân tư tế. Tông Huấn còn trích dẫn câu nói rất mạnh của Ðức
Piô XII : "Giáo dân phải luôn luôn có một ý thức rõ ràng rằng họ không chỉ
thuộc về Giáo Hội, nhưng còn là Giáo Hội" (non seulement
dappartenir à lEglise, mais dêtre lEglise) [4].
Hướng đi của Công Ðồng Vatican II và tiếp theo là của Tông Huấn rất phù hợp với
tư tưởng giáo phụ. Vào đầu thế kỷ thứ ba, giáo phụ Tertulianô cũng đã nói rất
mạnh như thế : "Ở đâu có ba tín hữu, ở đó có một Giáo Hội, ngay cả khi họ
là những giáo dân" [5]
"Ðịnh
nghĩa" trên đây của Hiến Chế Lumen gentium có hai điểm rất quan
trọng về thần học :
- Thứ nhất, việc tháp
nhập vào Ðức Kitô nhờ đức tin và các Bí tích gia nhập Kitô giáo (Phép Rử, Thêm
Sức và Thánh Thể) là nền tảng đầu tiên làm nên thân phận mới mẻ của người Kitô
hữu trong mầu nhiệm Giáo Hội, tạo nên bản chất thâm sâu nhất và nền tảng cho
mọi ơn gọi và sứ mạng của Kitô hữu giáo dân, bởi vì trong Chúa Kitô tử nạn và
phục sinh, người lãnh nhận Phép Rửa trở nên một "tạo vật mới" (x. Gl
6, 15 ; 2Cr 5, 17).
- Thứ hai, lãnh vực trần
thế là lãnh vực riêng biệt của người Kitô hữu giáo dân, người giáo dân có ơn
gọi "chu toàn các việc trần thế".
Cái nhìn
thần học về "người giáo dân thuộc trọn vẹn về Dân Thiên Chúa", hay
nói khác đi "người giáo dân là Giáo Hội" của Tông Huấn "Kitô hữu
giáo dân" đã tiếp nối truyền thống rất xa xưa, chẳng hạn tác phẩm Constitutions
apostoliques (Hiến Chế tông đồ) vào thế kỷ IV, đã có những lời lẽ như sau :
"Hãy
lắng nghe điều này, cả anh em nữa, hỡi các giáo dân, Giáo Hội được Thiên Chúa
tuyển chọn, vì đoàn dân từ xa xưa đã được gọi là dân của Thiên Chúa và là dân
tộc thánh. Phần anh em, anh em là Giáo Hội của Thiên Chúa, thánh
thiện và đã được thánh hiến, đã được ghi trên trời, là tư tế hoàng vương, dân
tộc thánh, dân được sở hữu". [6]
Trong văn chương Kitô giáo, thánh
Clêmentê giáo hoàng (88-97) là người đầu tiên dùng từ "lac"(giáo
dân), khi nói về trật tự tốt đẹp trong Giáo Hội bằng cách đưa ra tấm gương của
dân giao ước cũ. Sau khi phân biệt vai trò của các tư tế và các thầy Lêvi, ngài
kết luận : "Người nào là giáo dân thì người ấy bị ràng buộc với các giới
luật riêng biệt của người giáo dân". [7]
A. Faivre đã giải thích câu này một cách chí lý rằng điều quan trọng nhất
"không phải là thánh Clêmentê đã đặt người giáo dân hoàn toàn ở dưới hàng
giáo phẩm, nhưng đúng hơn là ngài đã không quên đề cập đến người giáo
dân". [8]
2. Chức tư
tế của các Kitô hữu giáo dân.
Công Ðồng Vatican II đã làm sáng tỏ về phương diện
thần học chức tư tế chung của người Kitô hữu và chức tư tế thừa tác. Quá khứ
của cuộc tranh luận về chức tư tế còn ghi đậm nét trên thần học Tin Lành và
Công giáo. Phong trào Cải cách trong khi đề cao chức tư tế chung của người Kitô
hữu đã đi đến việc phủ nhận chức tư tế thừa tác. Phản ứng của Công giáo đi
ngược lại : đề cao chức tư tế thừa tác đến nỗi phủ nhận chức tư tế chung của
người Kitô hữu.
Các bản
văn của Vatican II không chỉ nhìn nhận cùng lúc chức tư tế chung và chức tư tế
thừa tác, nhưng còn rõ ràng cho thấy là ta chỉ có thể giải thích chức tư tế
thừa tác trên nền tảng của chức tư tế cộng đồng của Dân Thiên Chúa. Hiến chế
tín lý về Giáo Hội đã trích dẫn tư tưởng của thánh Augustinô để giải thích rằng
chức tư tế thừa tác là để phục vụ chức tư tế cộng đồng :
"Làm
giám mục cho anh em, tôi rất sợ ; làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Giám
mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là danh hiệu nguy hiểm,
tín hữu là danh hiệu đem ơn cứu độ" [9]
(LG 32, đ. 4).
Khi phác
họa "chân dung" của người Kitô hữu giáo dân, Tông Huấn nhắc lại giáo
lý của Vatican II. Theo Hiến chế Tin lý về Giáo Hội, nền tảng thần học đầu tiên
của căn tính, ơn gọi và sứ mạng người giáo dân là, nhờ Phép Rửa,
họ được tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Ðức Kitô, theo
cách thức riêng của họ. Phép Rửa là nền tảng khai tâm Kitô giáo và là
nền tảng cho mọi Bí Tích của đời sống Kitô mà người giáo dân phải sống.
Tông
Huấn đã phác họa "chân dung" của người Kitô hữu giáo dân bằng những
nét chính sau đây :
-
Phép Rửa tái sinh người tín hữu sống ơn gọi làm con cái
Thiên Chúa ;
-
Phép Rửa liên kết người tín hữu với Ðức Kitô và với Thân
Thể của Người là Giáo Hội ;
-
Phép Rửa cho chúng ta được xức dầu trong Thánh Thần để làm
nên những đền thờ thiêng liêng.
Tông
Huấn lần lượt khai triển những nét chính thuộc thần học làm nên "chân
dung" người Kitô hữu giáo dân.
A. Trước hết, Tông Huấn
nói đến Phép Rửa là một sự tái sinh Nhờ Phép Rửa, chúng ta trở thành con cái
Thiên Chúa trong Con duy nhất của Người là Ðức Giêsu Kitô (Filii in Filio),
được liên kết với Con Một yêu quý, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,
4-7) và người em của Ðức Kitô. Và như thế, ý định cứu độ của Thiên Chúa được
thực hiện trong lịch sử của mỗi người Kitô hữu : "Vì những ai Người đã
biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con
của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc" (Rm 8,
29).
Ðược làm
con cái Thiên Chúa, Phép Rửa đưa người tín hữu vào trong Dân Thiên Chúa. Phép
Rửa đem lại phẩm giá bình đẳng căn bản nơi tất cả các Kitô hữu
(x. LG 32). Tất cả đều có cùng một
phẩm giá, phẩm giá làm con Thiên Chúa, có cùng một sự tự do do Chúa Thánh Thần
ban, có cùng một lề luật, luật yêu thương, cùng một ơn gọi là đáp trả lại lời
mời gọi nên thánh, cùng một hướng đi về Nước Trời. Tính đồng trách nhiệm của
các phần tử thuộc Giáo Hội bén rễ trong sự tập họp và trong sứ mạng của Dân
Thiên Chúa (x. 1 Pr 2,9). Tất cả mọi tín hữu đều tham dự vào chức tư tế, vương
giả và tiên tri của Chúa Kitô (x. LG 10,
11, 12).
Như vậy,
thực tại đầu tiên của Dân Thiên Chúa không hệ tại trong những khác biệt về chức
vụ nhưng trong chính cái "chúng-tôi-giáo-hội" (le nous ecclésial) được tạo thành bởi tất cả mọi tín hữu và tất cả
mọi chức vụ đều nhằm xây dựng thân thể Giáo Hội.
B. Thứ
đến, chính ChúaThánh Thần, Ðấng làm cho những người lãnh nhận Phép Rửa trở nên
con cái Thiên Chúa, cũng làm cho họ trở nên các chi thể của Ðức Kitô. Phaolô đã
nhắc lại điều này cho các tín hữu Côrintô : "Thật thế, tất cả chúng ta,
dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép Rửa trong
cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" (1Cr 12, 13) để rồi ngài có thể
nói với các tín hữu giáo dân của ngài : "Vậy anh em, anh em là thân thể
Ðức Kitô, và mỗi người là một bộ phận" (1Cr 12, 27).
Vì được tái sinh làm
"con cái Thiên Chúa trong người Con" (filii in Filio),
người tín hữu trở nên một thân thể trong Ðức Kitô : "Chúng ta tuy nhiều,
nhưng chỉ là một thân thể trong Ðức Kitô" (Rm 12, 5). Phép Rửa tạo nên một
sự tháp nhập huyền nhiệm, nhưng thực sự vào Thân Thể Ðức Kitô chịu đóng đinh và
Phục sinh. Nhờ Phép Rửa, người tín hữu được liên kết với sự chết và sự sống lại
của Ðức Kitô (x. Rm 6, 3-5), được cởi bỏ "con người cũ" và mặc lấy
"con người mới" là chính Ðức Kitô : "Bất cứ ai trong anh em được
thanh tẩy để thuộc về Ðức Kitô, đều mặc lấy Ðức Kitô" (Gl 3, 27 ; x. Ep 4,
22-24 ; Cl 3, 9-10).
Dựa trên hình ảnh cây nho
và cành nho (x. Ga 15, 5), ta có thể nói rằng hình ảnh này không những nói lên
mối liên hệ sâu xa giữa Ðức Giêsu và các môn đệ, nhưng còn nói lên sự hiệp
thông sinh động giữa các môn đệ với nhau, bởi vì tất cả đều là cành của một cây nho
duy nhất.
Sự kết hiệp đời sống các
Kitô hữu trong Chúa Kitô được xây dựng trên tính đa dạng của các chi thể, chứ
không phải trên sự phân chia của chúng (1 Cr 12,12). Từ những dữ kiện Kinh
Thánh, Hiến chế tín lý về Giáo Hội [10],
và tiếp theo là Tông Huấn "người Kitô hữu giáo dân" đã rút ra nguyên
lý là trong Thân Thể Chúa Kitô, tất cả vừa khác biệt vừa bổ túc
cho nhau "Vậy anh em, anh
em là Thân Thể Ðức Kitô, và mỗi người là một bộ phận" (1 Cr
12,27).
C. Sau cùng, dựa trên
hình ảnh "tòa nhà" mà Phêrô đã dùng để nói về người tín hữu như những
"viên đá sống động" được xây dựng trên nền tảng là Ðức Kitô,
"viên đá góc" làm thành "ngôi Ðền Thờ thiêng liêng" (1Pr 2,
5tt), Tông Huấn trở lại với giáo lý của Vatican II : "Thật vậy, những
người đã lãnh phép Thanh Tẩy, nhờ sự tái sinh và xức dầu trong Thánh Thần, được
hiến dâng để trở thành chỗ ở thiêng liêng" (LG 10, đ 1).
Trong bản văn thư thứ
nhất của Phêrô được Hiến chế Lumen gentium trích dẫn, các Kitô hữu được
giới thiệu như một "tòa nhà thiêng
liêng" được xây dựng trong và nhờ Chúa Thánh Thần Ngôi nhà được nói là
"thiêng liêng" ở đây được hiểu theo nghĩa mạnh của từ ngữ như một tòa
nhà "cụ thể" được chính Thánh Thần dựng lên. Việc xây dựng này bao
gồm những thành viên làm thành "hàng tư tế thánh". Như vậy, Chúa
Thánh Thần là nguồn mạch của chiều kích tư tế của Dân Thiên Chúa "Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ
yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải" (Rm
8,26).
Trong thực tại năng động
mang chiều kích Ba Ngôi của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần là nguồn cội vừa của các
cộng đoàn tín hữu vừa của các chức vụ, và giữ cho tất cả liên hệ với nhau. Hồng
Ân Thánh Thần cho mỗi thành phần trong Dân Thiên Chúa tạo nên nền tảng cho trách
nhiệm chung của mọi tín hữu vì "chính
Thần Khí duy nhất làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi
cách, tùy theo ý của Người" (1 Cr 12,11) và Người "ban những ân sủng
khác nhau để làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Ngài và tùy nhu cầu của
công việc" (LG 7).
Tính đa dạng của ân sủng
Thánh Thần kêu mời một sự liên đới trách nhiệm và sự cộng
tác trong Giáo Hội. Không ai chiếm hữu độc quyền Thánh Thần và mỗi
người có thể nhận được một cái gì đó từ người khác. Không ai là "tất
cả" trong một Giáo Hội xét như là mầu nhiệm hiệp thông. Không có sức mạnh
nhân loại nào có thể trói buộc tự do của Thánh Thần hoạt động trong lịch sử và
trong lòng con người.
Chúa Thánh Thần "xức
dầu" người lãnh nhận Phép Rửa, ghi trên họ một "ấn tín không hề
phai" (x. 2Cr 1, 21. 22), làm cho họ trở nên đền thờ thiêng liêng, nơi
Thiên Chúa hiện diện, nhờ vào việc liên kết và nên đồng hình đồng dạng với Ðức
Kitô. Cũng như Ðức Kitô được Thánh Thần xức dầu và sai đi rao giảng Tin mừng
cho người nghèo (x. Lc 4, 18-19 ; Is 61, 1-2), người Kitô hữu tham dự vào sứ
mạng của Ðức Kitô, Ðấng Cứu Ðộ, nhờ các Bí tích khai tâm Kitô giáo (Phép
Rửa,Thêm Sức, Thánh Thể).
3. Kitô hữu
giáo dân tham dự vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương giả của Ðức Kitô.
Tông Huấn trình bày người
Kitô hữu tham dự vào ba chức năng tư tế, ngôn sứ và vương giả của Ðức Kitô bằng
việc trích dẫn bản văn truyền thống nói về chức tư tế cộng đồng của dân Thiên
Chúa trong thư 1 Phêrô :
"Anh em hãy tiến lại gần Ðức Kitô, viên đá sống động
bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy
để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Ðền Thờ
thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những
lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Ðức Giêsu Kitô.
[.] Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là
hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền
những kỳ công của Người, Ðấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh
sáng diệu huyền. Xưa anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là dân của
Thiên Chúa, xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót, nay anh em đã được xót
thương" (1Pr 2, 4-5. 9-10).
Qua bản văn này, chúng ta
thấy một nét mới mẻ khác của ân huệ Phép Rửa : người Kitô hữu giáo dân, về phần
mình, tham dự vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương giả của Ðức Kitô. Việc tham
dự này là một ân huệ hoàn toàn nhưng không. Vinh dự này không do con người,
nhưng hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa. Các Kitô hữu được mời gọi
đến gần Chúa Kitô, để hội nhập vào toà nhà thiêng liêng đang được xây dựng.
"Ðến gần" diễn tả một hành trình thiêng liêng của người tín hữu. Sự
kết hiệp với Ðức Kitô làm cho các Kitô hữu nên một "hàng tư tế". Hàng
tư tế này thi hành chức năng tế lễ nhờ trung gian của Ðức Giêsu Kitô.
Ở đây, Ðức Gioan Phaolô
II nhắc lại giáo lý của Vatican II rằng tất cả mọi người trong dân Thiên Chúa
đều tham dự vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương giả của Ðức Kitô (x. LG
11 ; 12 ; 34 ; 35 ; 36). Ðồng thời ngài mời gọi người Kitô hữu giáo dân đọc
lại, suy niệm và hấp thụ giáo lý rất phong phú này của Công Ðồng với tình yêu
và sự hiểu biết (x. CFL 14, đ. 3-4).
Ðức Thánh Cha đã tóm tắt
giáo lý của Công Ðồng trong những nét chính sau đây :
A. Chức
năng tư tế.
Khi nói về người Kitô hữu
giáo dân tham dự vào chức năng này, Tông Huấn đã theo sát giáo lý của Công Ðồng
Vatican II bằng việc trích dẫn đoạn văn của Hiến chế Lumen gentium
:
"Thực vậy, mọi hành
động, kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn
việc làm hàng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong
Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận,
thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu
Kitô" (x. 1Pr 2, 5). [11]
Người Kitô hữu giáo dân
tham dự vào chức năng tư tế của Ðức Kitô, theo cách thức riêng
của mình, là chiếu tỏa sự thánh thiện và thánh hiến con người cho Thiên Chúa
Cha trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ngang qua đời sống gia đình và xã hội,
chính trị và nghề nghiệp. Qua nếp sống thường nhật, họ liên kết với Ðức Kitô
trong mầu nhiệm hiến dâng. Tất cả cuộc đời của Ðức Giêsu là hiến dâng, phục vụ
cho Thiên Chúa và con người. Cuộc đời người Kitô hữu phải diễn tả tư cách làm
con và làm tư tế của Thiên Chúa theo gương Ðức Giêsu qua các hành động cụ thể.
Như vậy, với việc tham dự
vào chức năng tư tế của Ðức Kitô, cuộc sống thường nhật của người tín hữu giáo
dân được thánh hoá, và nhờ đó, họ dâng hiến thế giới này cho Thiên Chúa.
B. Chức
năng ngôn sứ.
Nhờ tham dự vào chức năng
ngôn sứ của Ðức Kitô, Ðấng đã loan báo Nước Thiên Chúa bằng chứng tá cuộc sống
và sức mạnh của lời loan báo, người tín hữu giáo dân dấn thân làm chứng cho Tin
mừng bằng lời nói và hành động.
Liên kết với Ðức Kitô, vị
ngôn sứ cao cả (x. Lc 7, 16), được Thánh Thần làm cho trở nên những chứng nhân
của Ðức Kitô Phục Sinh, người giáo dân được tham gia vào sứ mạng rao giảng Tin
mừng qua đời sống hàng ngày, gia đình và xã hội. Ðối với nhiệm vụ ngôn sứ, Công
Ðồng Vatican II nhấn mạnh đến giá trị phúc âm hoá của hôn nhân Kitô giáo :
"Có
một bậc sống rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ đó, bậc sống được một Bí tích đặc
biệt thánh hoá, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường
hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô
giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức
ấy ; nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho
nhau và cho con cái lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn
tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời
sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm
cho thế gian nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm
chân lý" (LG 35, đ. 3).
C. Chức
năng vương giả
Với việc tham dự vào chức
năng vương giả của Ðức Kitô, ta thấy mở ra một chân trời bao la cho việc thi
hành chức tư tế cộng đồng của người tín hữu giáo dân và đây là lãnh vực riêng
biệt nhất của người tín hữu giáo dân.
Nhờ thuộc về Ðức Kitô,
Chúa và Vua vũ trụ, các Kitô hữu giáo dân tham dự vào chức năng vương giả của
Người, được Người mời gọi phục vụ cho Nước Thiên Chúa và làm phát triển Nước
Thiên Chúa trong lịch sử. Người giáo dân sống chức năng này trước hết qua cuộc
chiến thiêng liêng mà họ phải đấu tranh hàng ngày để diệt trừ tội lỗi trong
chính bản thân mình (x. Rm 6, 12) để phục vụ Ðức Kitô đang hiện diện trong mọi
người, đặc biệt là những người phận nhỏ.
Nhưng Kitô hữu giáo dân
được kêu gọi cách đặc biệt là phục hồi giá trị nguyên thủy cho công trình tạo
dựng. Hiến chế Lumen gentium nói về nhiệm vụ cao cả và riêng biệt này
của giáo dân :
"Thực
thế, Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở rộng Nước Người, nước của chân lý và
sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hoà bình [12]
, trong nước này, chính tạo vật cũng được giải thoát khỏi thân phận làm nô lệ
sự hư đốn, để được hưởng tự do rạng ngời của con cái Thiên Chúa (x. Rm 8, 21).
Vì thế,
tín hữu phải nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật, giá trị của chúng và cùng
đích của chúng là ca tụng Thiên Chúa ; đồng thời phải giúp nhau sống đời thánh
thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và
đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hoà bình. Giáo
dân giữ lấy vai trò chính yếu trong khi chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó" (LG
36).
Ðó là bản phác họa
thần học về chức năng vương giả của mọi người Kitô hữu và đặc
biệt đối với Kitô hữu giáo dân. Trong một thế giới bao la về cảnh sống, người
giáo dân có địa vị hàng đầu trong việc làm cho các thực tại trần thế trở thành
bài ca ngợi khen Thiên Chúa :
"Trước
mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự Phục sinh và sự sống của
Chúa Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người
góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gl 5, 22) và
truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu
hoà, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc (x. Mt 5, 3-9). Tóm
lại, người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác
sống" (LG 37).
Hiến Chế Lumen gentium
trong số này đã trích dẫn lại tư tưởng bức thư của một tác giả vô danh
"gửi cho Diognète" (A Diognète) viết vào khoảng năm 200 :
"Như linh hồn ở trong thân xác thế nào, các Kitô hữu cũng phải sống trong
thế giới như vậy" [13]
Tóm lại, người tín hữu
giáo dân được tham dự vào ba chức năng tư tế, ngôn sứ và vương giả của Ðức
Giêsu là nhờ Phép Rửa. Ba chức năng này được sống và phát triển trong Bí tích
Thêm Sức và hoàn tất trong Bí tích Thánh Thể. Ba chức năng này đòi hỏi phải
được sống và được thể hiện giữa lòng Giáo Hội hiệp thông và thế giới.
4. Người
Kitô hữu giáo dân và lãnh vực trần thế.
Tông Huấn nhắc lại giáo
lý của Vatican II về ơn gọi riêng biệt của người giáo dân : "Tính cách
trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân" (LG 31).
Ðể hiểu được căn tính và
phẩm giá của Kitô hữu giáo dân, chúng ta phải đào sâu về phương diện thần học
tính cách trần thế (caractère séculier) dưới ánh sáng ý định cứu rỗi của
Thiên Chúa và của mầu nhiệm Giáo Hội. Chúng ta cần phân biệt "tính cách
trần thế của ơn gọi và sứ mạng Giáo Hội" với "chủ thuyết duy thế
tục" (sécularisme).
Như Ðức Phaolô VI đã nói
với các vị Bề trên và các thành viên thuộc các Tu Hội Ðời rằng Giáo Hội
"có một chiều kích trần thế đích thực, gắn liền với bản chất thâm sâu và
sứ mạng của mình, bắt nguồn trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, và được thực
hiện dưới nhiều hình thái khác nhau do các chi thể của Giáo Hội". [14]
Thực vậy, Giáo Hội sống
trong thế gian, mặc dù không thuộc về thế gian (x. Ga 17, 16) và được sai vào
thế gian để tiếp tục công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu Kitô ; công trình này
tự bản chất liên hệ đến ơn cứu rỗi của con người và cũng liên hệ đến công cuộc
canh tân trật tự trần thế.
Tất cả các thành phần
trong Giáo Hội đều tham gia vào chiều kích trần thế (dimension séculière)
của Giáo Hội, đó là điều chắc chắn, nhưng theo những cách thế khác nhau, và
theo Công Ðồng, cách thế riêng biệt của giáo dân là "tính cách trần
thế". Trong cụ thể, Kitô hữu giáo dân sống giữa đời, giữa mọi
người, trong lòng xã hội, qua đời sống gia đình và nghề nghiệp, họ chu toàn
những công việc trần thế. Ta thấy rằng mặc dù, giáo sĩ và những người sống đời
thánh hiến nhiều khi cũng lo những công việc trần thế, làm những ngành nghề
giữa đời, nhưng ơn gọi của họ vẫn hướng về sứ vụ thánh và làm chứng về tinh
thần các mối phúc thật. Tuy nhiên, "ơn gọi đặc thù của người giáo dân là
sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận
trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội ; tất
cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của người giáo dân" [15]
"Thế giới" là
nơi Thiên Chúa gọi họ, là môi trường để người giáo dân sống sứ mạng đặc thù của
mình, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ
thánh hoá thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ trần thế của mình.
Ơn gọi và vai trò riêng
biệt của giáo dân còn là làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những
nơi và những hoàn cảnh mà nếu không có họ, thì Giáo Hội sẽ không trở thành muối
của thế gian (x. LG 33, đ. 2). Nhiệm vụ cao cả của giáo dân là làm cho ý
định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi và
mọi thời đại (x. LG 33, đ. 4).
Như thế, sự hiện diện của
người giáo dân trong thế giới không chỉ mang chiều kích nhân học và xã hội học,
nhưng còn mang chiều kích thần học và giáo hội học.
Sau cùng, Ðức Thánh Cha
nói rằng những hình ảnh phúc âm về muối, ánh sáng và men được áp dụng cho tất
cả các môn đệ của Ðức Kitô, nhưng đặc biệt phải được áp dụng cho người tín hữu
giáo dân (x. CFL 15, đ. 11). Ðức Thánh Cha nối kết việc giáo dân ở trong
thế giới với ý tưởng rất đúng về việc Tin mừng hoá văn hoá và các nền văn hoá.
Ý tưởng này đã được Ðức Phaolô VI trình bày rất phong phú trong Tông Huấn Evangelii
nuntiandi (Loan báo Tin Mừng) vào năm 1975.
5. Người
giáo dân được mời gọi nên thánh.
Phẩm giá của Kitô hữu
giáo dân biểu lộ cách sung mãn trong ơn gọi nên thánh. Vatican II đã đưa ra lời
kêu gọi mọi người nên thánh trong Giáo Hội. [16]
Tông Huấn nhắc lại rằng khi đưa ra lời kêu gọi này, Công Ðồng mong muốn tất cả
con cái của Giáo Hội hãy canh tân đời sống Kitô hữu theo ánh sáng Tin mừng. Ðây
không phải chỉ đơn thuần là lời khuyên mang tính luân lý, nhưng là đòi hỏi
không thể đảo ngược của mầu nhiệm Giáo Hội.
Tông Huấn nêu lên những
lý do thần học của lời kêu gọi này, Tất cả các Kitô
hữu đều được kêu mời và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo bậc sống
của mình (x. LG 42, đ. 5) vì :
-
Giáo Hội là cây nho được tuyển chọn : các cành nho sống và
lớn lên nhờ đón nhận được nhựa sống của chính Ðức Kitô ;
-
Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm của Ðức Kitô mà các chi thể
tham dự vào sự thánh thiện của Ðầu là Ðức Kitô ;
-
Giáo Hội là hiền thê của Ðức Kitô, Ðấng hiến thân để thánh
hoá Giáo Hội (x. Ep 5, 25tt).
Hơn bao giờ hết, ngày hôm
nay, tất cả các tín hữu được mời gọi canh tân nếp sống theo Tin mừng, quảng đại
đáp lại lời gọi của tông đồ Phêrô "Anh em hãy sống thánh thiện trong cách
ăn nết ở" (1Pr 1, 15).
Ðời sống theo Thánh Thần
sinh hoa kết trái là sự thánh hoá (Rm 6, 22 ; Gl 5, 22) thôi thúc trong tâm hồn
tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa và tận chiều sâu của mỗi người lòng khao
khát và đòi hỏi bước theo Ðức Kitô và noi gương Người qua việc đón nhận các Mối
Phúc thật của Người, lắng nghe Lời Chúa, thực hành thánh ý Chúa bằng cách biểu
lộ cho mọi người, đặc biệt cho những người phận nhỏ và đau khổ biết tình yêu
Thiên Chúa đối với thế giới trong chính khi họ chu toàn những công việc trần
thế.
6. Kitô hữu giáo dân nên thánh trong
"lãnh vực trần thế".
Ơn gọi nên thánh của Kitô
hữu giáo dân được thể hiện theo cách thức riêng của họ trong việc tham gia vào
những lãnh vực trần thế : xã hội, kinh tế, văn hoá, chính trị, nghề nghiệp, vv.
Ðức Thánh Cha đã lập lại
lời các nghi phụ Thượng Hội Ðồng về ơn gọi nên thánh của người giáo dân giữa
trần thế : "Sự thống nhất đời sống của người tín hữu giáo dân rất quan
trọng : thực vậy, họ phải thánh hoá bản thân trong đời sống thường nhật, nghề
nghiệp và xã hội. Ðể có thể đáp trả lại ơn gọi của mình, các Kitô hữu giáo dân
phải nhận ra đời sống thường ngày của mình như một cơ hội kết hiệp với Thiên
Chúa và thực hiện ý muốn của Người, cũng như một cơ hội phục vụ tha nhân bằng
cách đưa họ đến hiệp thông với Thiên Chúa trong Ðức Kitô" [17]
(x. CFL 17).
Ơn gọi nên thánh đối với
người giáo dân phải được xác định như một yếu tố thuộc bản chất và không thể
tách khỏi đời sống mới do Phép Rửa, và do đó phải được xem như yếu tố cấu tạo
nên phẩm giá của người tín hữu giáo dân. Ðồng thời, ơn gọi nên thánh của người
giáo dân có liên hệ mật thiết với sứ mạng và trách nhiệm của người giáo dân
trong lòng Giáo Hội và trong thế giới.
Phép Rửa là nền tảng khai
tâm Kitô giáo và là nền tảng cho mọi Bí tích của đời sống Kitô hữu mà người
giáo dân phải sống. Những ân huệ của sự thánh thiện nơi Phép Rửa cũng là một
lời mời gọi sự thánh thiện cá nhân. Toàn thể dân Thiên Chúa là một dân thánh.
W. Kasper đã nói rất đúng rằng : "đường ranh giới không đi qua giữa giáo
sĩ và giáo dân, nhưng giữa Kitô hữu và không Kitô hữu". [18]
KẾT LUẬN
Trong Giáo hội hiệp
thông, dù khác biệt về ơn gọi và chức vụ, nhưng tất cả mọi thành phần Dân Thiên
Chúa đều "được đến trước Tôn Nhan và tế lễ phụng thờ" (Kinh tạ ơn
II) và "được quy tụ thành một dân riêng để từ đông sang tây cùng dâng
lên Cha một hiến lễ tinh tuyền" (Kinh Tạ ơn III).
Trong Giáo Hội hiệp
thông, chúng ta cần phải thoát ra khỏi chủ trương nhị nguyên về xã hội (Dualisme
sociologique) gồm giáo sĩ và giáo dân. Chủ trương nhị nguyên này phát xuất
từ những thái cực, nó biểu lộ một đàng qua "chủ nghĩa giáo quyền" hay
"giáo sĩ trị" ("cléricalisme") và đàng khác qua
"chủ nghĩa dân quyền" ("lacalisme"). Cả hai đều là
mặt trái và mặt phải của cùng một sai lầm : các thừa tác viên có chức thánh có
thể bị cám dỗ lui vào thế phòng ngự để bảo vệ "uy thế" và "quyền
thánh" của mình, trong khi đó, các giáo dân có thể bị cám dỗ rơi vào thái
độ yêu sách đòi "dân chủ". Chúng ta hãy để mỗi bên hiện diện như nó
là, theo đúng "căn tính" và "phẩm giá" của mình trong một
Giáo Hội mầu nhiệm và hiệp thông.
Chúng ta hãy tìm kiếm
những đặc tính bổ xung nhau, chứ đừng tìm những đối kháng. Sự cộng tác giũa
linh mục và giáo dân phải là sự cộng tác hài hoà bằng những hoạt động bổ xung
cho nhau trong Thân Thể Ðức Kitô là Giáo Hội. Tương quan giữa linh mục và giáo
dân phải được thiết lập trên sự tôn trọng lẫn nhau về "căn tính" của
mỗi bên. Chiều kích hiệp thông phải vượt lên trên chiều kích lệ thuộc. Gương
của thánh Phaolô vẫn còn mang tính thời sự. Phaolô đã biết thi hành quyền của
ngài khi phải thi hành, nhưng mối tương quan với các cộng sự viên của ngài tiên
vàn là tương quan hiệp thông. Chỉ có sự hiệp thông sống động mới giúp sống được
sự lệ thuộc cần có.
Phẩm giá của người Kitô
hữu, nguồn gốc của sự bình đẳng giữa mọi thành phần trong Giáo Hội sẽ bảo đảm
và thúc đẩy tinh thần hiệp thông và huynh đệ, đồng thời trở nên nguồn mạch thâm
sâu và mạnh mẽ cho hoạt động tông đồ và truyền giáo của các Kitô hữu giáo dân.
Trong tương quan của sự
cộng tác mục vụ, các linh mục không thể đơn thuần coi những người giáo dân chia
sẻ việc mục vụ với mình như những người thừa hành (simples exécutants)
hay những người thực hiện ngoan ngoãn (réalisateurs dociles) các quyết
định riêng của linh mục. Những giáo dân này phải tham dự vào Hội Ðồng Mục Vụ,
vào các cuộc họp soạn thảo, xây dựng hoạt động mục vụ. Ý kiến của họ phải được
chăm chú lắng nghe, tuy không phải là luôn luôn có thể chấp thuận. Mối tương
quan tiên vàn phải mang chiều kích hiệp thông trong một Giáo Hội Hiệp thông.
Lm. Antôn Nguyễn Ðức
Khiết
AA : Apostolicam actuositatem (Sắc lệnh
về Tông đồ giáo dân)
CFL : Christifideles laci
(Tông Huấn hậu Thượng Hội Ðồng "Kitô hữu giáo dân")
LG : Lumen gentium (Hiến
chế tín lý về Giáo Hội)
SC : Sources chrétiennes
[1] LG 6, đ. 3.
[2] Bernard Sesboué, Nayez pas peur !, Regards sur lEglise et les ministères aujourdhui, DDB, Paris, 1996, tr. 117.
[3] Propositio 3.
[4] Piô XII, Diễn từ ngỏ với các tân Hồng Y (20-2-1946) : AAS 38 (1946), tr. 149.
[5] Tertulien, Exhortation à la chasteté 7, 3 : SC 319, tr. 93.
[6] Constitutions apostoliques, II, 26, 1 : SC 320, tr. 235.
[7] Clément de Rome, Thư gửi tín hữu Côrintô 40, 5 : SC 167, tr. 167.
[8] A. Faivre, Les laics aux origines de lEglise, Centurion, Paris, 1984, tr. 34.
[9] Augustinô, Bài giảng 346 : PL 38, 1483.
[10] LG 7
[11] LG 34, đ. 2.
[12] Sách Lễ Rôma, Kinh Tiền tụng lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ.
[13] A Diognète, VI, 1 : SC 33 bis, p. 65.
[14] Phaolô VI, Diễn từ ngỏ với các Bề trên va các thành viên thuộc các Tu Hội đời, (2-2-1972) : AAS 64 (1972), tr. 208.
[15] LG 31, đ. 2.
[16] x. LG, Ch. V.
[17] Propositio 5.
[18] W. Kasper, "Lheure des laics" , Christus, 145 (1990), tr. 25.