III. TÌM HIỂU SẮC
LỆNH “AD GENTES”
Lm. Phêrô Trần Đình
I. NHẬP ĐỀ
Trong phần này, chúng ta đề cập đến quá trình hình thành văn bản, cũng
như tương quan giữa Sắc lệnh với những văn kiện khác của công đồng ngõ hầu có
thể hiểu rõ hơn tư tưởng của nó.
A. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VĂN BẢN
1. Giai đoạn chuẩn bị
Công Đồng đã có 7 bản thảo liên tiếp, nhưng ít được thoả mãn. Vì thế,
Uỷ Ban Công Đồng đặc trách vấn đề truyền giáo đã soạn thảo một lược đồ mới với
nội dung rộng rãi và rõ ràng hơn. Điều đáng tiếc là tháng 5.1964, một Uỷ Ban
phối hợp đã đơn giản lược đồ đó vào 13 vấn đề, tuy chính yếu nhưng không mấy
phong phú.
2. Ngày 6.11.1964
Công Đồng khởi sự thảo luận. Để biểu lộ mối quan tâm đến một vấn đề
quan trọng như vậy, Đức Phaolô VI đã đích thân giới thiệu vấn đề tranh luận qua
một huấn từ.
3. Lược đồ mới
Sau khi thảo luận 13 vấn đề, người ta thấy lược đồ ít được quảng diễn.
Vì thế, cuộc bỏ phiếu ngày 9.11.1964 quyết định là Uỷ Ban đặc trách các
vấn đề truyền giáo phải soạn thảo một lược đồ mới. Uỷ Ban đã thu lượm tất cả
những nhận xét đóng góp của các Nghị Phụ, nhờ đó kết quả rất tích cực. Một lược
đồ mới ra đời : dàn bài rõ ràng và hợp lý, dồi dào chất liệu Kinh Thánh, nền
tảng thần học vững chắc.
4. Ngày 7.12.1965
Sau một vài tu chỉnh, bản văn cuối cùng đã được chấp thuận với 2394
phiếu thuận, 5 phiếu chống. Đây là tỉ số được chấp thuận cao nhất cho một bản
văn của Công Đồng.
Khởi đầu, sắc lệnh có tên là “Sắc lệnh về vấn đề truyền giáo”, sau đó
được đổi là “Về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội”. Lý do chính của việc thay
đổi tựa đề là để nhấn mạnh mối tương quan mật thiết giữa hoạt động truyền giáo
và Giáo Hội. Thật vậy, hoạt động truyền giáo thuộc sứ mạng của Giáo Hội đối với
thế giới, chứ không phải chỉ là một hoạt động bên cạnh những hoạt động khác (ví
dụ : hoạt động mục vụ, xã hội …)
B. TƯƠNG QUAN GIỮA SẮC LỆNH AD GENTES
VỚI CÁC VĂN KIỆN KHÁC
1. Sắc lệnh Ad Gentes và Hiến chế Lumen
Gentium :
Tương quan này được đánh dấu bằng những chữ đầu tiên của hai văn kiện
“Đến với muôn dân” và “Ánh sáng muôn dân”.
Hai câu này ám chỉ đến lời tiên tri Isaia (42,6 và 49,6) : người Tôi Tớ
Giavê được sai đến trần gian để nên ánh sáng và ơn cứu rỗi muôn dân.
Trước tiên, lời tiên tri được áp dụng cho Chúa Kitô, sau đó được áp
dụng cho Giáo Hội, vì Giáo Hội tiếp tục công trình của Người. Trong Chúa Kitô,
Giáo Hội là ánh sáng, là bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của ơn cứu độ cho thế
giới, và chính khi truyền giáo, Giáo Hội sẽ chu toàn nhiệm vụ chính yếu này.
Thực vậy, theo Hiến chế Lumen Gentium, tâm điểm đời sống của Giáo Hội
là hoạt động truyền giáo. Hoạt động này là bản chất, là sứ mạng của Giáo Hội.
Sắc lệnh Ad Gentes tiếp tục đề tài đó : không phải chỉ đơn thuần lặp lại, nhưng đặt nó vào trong một khung cảnh lịch
sử và địa lý rộng lớn của thời đại hôm nay.
2. Sắc lệnh Ad Gentes và ý hướng căn bản của
Công đồng Vatican II :
Muốn thấu triệt ý nghĩa và tầm quan trọng của sắc lệnh, cũng phải đặt
nó vào trong ý hướng cơ bản của Công Đồng Vatican II.
Người ta đã so sánh Công Đồng Vatican II với Công Đồng Giêrusalem và
cho rằng : Công Đồng Vatican II thích hợp với thế giới hiện đại, còn Công Đồng
Giêrusalem thích hợp với thời xưa (x. Cv 15).
Chính ý thức về sứ mạng cấp
bách này đã là nền tảng thống nhất các hiến chế, sắc lệnh và tuyên ngôn của
Công Đồng.
Vì thế, phải đọc sắc lệnh Ad Gentes theo chiều hướng này.
3. Sắc lệnh Ad Gentes và mặc khải.
Một vấn đề khác nên lưu ý là : các chủ đề chính cũng như các vấn đề
truyền giáo của sắc lệnh luôn được đặt trong tương quan với mặc khải : những
cách giải quyết có nền tảng thần học vững chắc và thường trực tiếp tựa trên
những bản văn Kinh Thánh. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó hơn trong phần triển khai
nội dung.
II. BỐ CỤC
Phần mở đầu (s.1)
1. Những nguyên tắc giáo thuyết (s. 2-9)
2. Chính công việc truyền giáo (s. 10-18)
3. Các Giáo Hội địa phương (s.19-22)
4. Các nhà truyền giáo (s. 23-27)
5. Tổ chức hoạt động truyền giáo (s. 28-34)
6. Sự cộng tác (s. 35-41)
Kết luận (s. 42)
III.
HỌC HỎI SẮC LỆNH AD GENTES
A.
PHẦN MỞ ĐẦU :
Giáo Hội, “bí tích cứu độ phổ quát” (x. GH 48), có nhiệm vụ loan báo
Tin Mừng cho muôn dân, do đòi hỏi của công giáo tính và vì mệnh lệnh của Đấng
sáng lập (x. Mt 16,15).
B. CHƯƠNG I : NHỮNG NGUYÊN TẮC GIÁO THUYẾT
Đối với con người, đoàn thể hay dân tộc, Giáo Hội phải tiếp xúc và thấm
nhập dần dần.
Hai ý niệm then chốt của hoạt động truyền giáo là : rao giảng Phúc Âm
và vun trồng Giáo Hội (x. 1C 3,6-9 ; x. GH 6,3).
Cần lưu ý : sự chia rẽ giữa các kitô hữu chẳng những gây tai hại cho
việc rao giảng Phúc Âm, mà còn bít kín đường dẫn tới đức tin (s. 6).
Một lần nữa, Công Đồng tuyên bố lý do của hoạt động truyền giáo bắt
nguồn từ ý định của Thiên Chúa “muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân
lý. Chỉ có một Thiên Chúa, một Đấng trung gian duy nhất là Đức Giêsu Kitô” (x.
1Tm 2,4-6) và “ơn cứu rỗi không có nơi ai khác” (Cv 4,12), cho nên bổn phận
chính yếu của Giáo Hội là phải rao giảng. Vì thế, đây là vấn đề vẫn mãi cần
thiết và giữ nguyên hiệu lực của nó (s. 7).
Hoạt động truyền giáo cũng liên kết chặt chẽ với chính bản tính nhân
loại và ước vọng của con người : mọi người đều cần Chúa Kitô làm gương mẫu, làm
Thầy dạy, làm Đấng giải thoát, Đấng cứu
độ và Đấng ban sự sống (s. 8)
Tóm lại, “hoạt động truyền giáo không gì khác hơn là bày tỏ ý định của
Thiên Chúa và hoàn tất ý định ấy nơi trần thế và trong lịch sử trần thế. Chính
trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ
việc truyền giáo” (s. 9).
ù Nhận xét : sắc lệnh đã phác thảo những nét căn bản cho một nền thần
học truyền giáo, được xây dựng trên 4 chiều kích : Ba Ngôi, Kitô học, Giáo Hội
học và nhân học.
C. CHƯƠNG II : CHÍNH CÔNG VIỆC TRUYỀN GIÁO
1. Mục 1 : Chứng tá Kitô hữu
a.
Mọi
kitô hữu dù sống ở đâu cũng phải lấy gương mẫu đời sống và chứng tá lời nói để
biểu dương con người mới, ngõ hầu người khác nhìn vào những việc lành của họ mà
ca tụng Chúa Cha (x. Mt 5,16).
b.
Để làm
chứng cho Chúa Kitô cách hữu hiệu, các kitô hữu còn phải liên kết với người
khác, tham gia vào đời sống văn hoá xã hội của nhân loại, làm quen với những
truyền thống dân tộc và tôn giáo của họ, khám phá những hạt giống lời Chúa tiềm
ẩn trong họ, nỗ lực làm cho những người quá chú tâm vào khoa học kỹ thuật đừng
quên lãng những việc linh thiêng, hiểu biết và đối thoại với họ, đem ánh sáng
Tin Mừng chiếu soi vào mội trường sống của họ. ( s. 11 ).
c.
Ngoài
ra, họ còn phải bắt chước Chúa mà yêu thương mọi người bằng cách chia vui sẻ
buồn, nhận biết những ước vọng và những vấn đề nhân sinh, cộng tác với những
người khác trong việc giáo dục, tạo ra những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn như
khắc phục nạn đói khát, dốt nát và bệnh tật.
d.
Sắc
lệnh lưu ý : Giáo Hội không hề muốn pha mình vào việc cai trị xã hội trần gian,
không đòi cho mình quyền nào khác ngoài việc phục vụ.
Một lưu ý khác là : các môn đệ không tìm tiến
bộ và thịnh vượng vật chất cho con người, nhưng là nâng cao nhân phẩm và sự
hiệp nhất huynh đệ (s.12 ).
Nhận xét : yêu sách của việc truyền giáo là phải lưu tâm
đến những hoàn cảnh sống cụ thể của con người.
2. Mục 2 : Rao giảng Tin Mừng và qui tụ Dân
Chúa.
a.
Phải
tin tưởng và bền chí loan báo Tin Mừng cho hết mọi người nhận biết Thiên Chúa
hằng sống và nhận biết Đấng Người sai đến là Đức Kitô, “là đường, sự thật và là
sự sống” (Ga 14,6) để họ trở lại và gắn bó cùng Người.
b.
Đối với
các dự tòng, cần cứu xét những động lực tòng giáo và nếu cần thì phải thanh
luyện những động lực ấy (s. 13).
c.
Phải mở
lớp dự tòng để không những trình bày tín lý và các giới răn, nhưng còn huấn
luyện một đời sống kitô hữu đầy đủ và có thời gian tập sự. Lớp dự tòng không
phải chỉ là việc riêng của các giáo lý viên, nhưng còn là của cộng đoàn tín hữu
và của những người đỡ đầu. Phải tập cho các dự tòng cộng tác vào việc rao giảng
Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội bằng chứng tá đời sống và tuyên xưng đức tin (s.
14).
Nhận xét : huấn luyện dự tòng không chỉ là trình bày giáo
thuyết nhưng còn phải dạy cho họ tham gia vào đời sống của Giáo Hội một cách cụ
thể.
3. Mục 3 : Việc thành lập cộng đoàn Kitô giáo
a.
Phải
xây dựng cộng đoàn tín hữu sao cho họ biết sống xứng đáng ơn gọi của mình (x.
Ep 4,1), để trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian, bén rễ
sâu trong dân chúng.
b.
Cũng
phải dạy cho họ có tinh thần đại kết, hiệp nhất, sống như men trong bột, dùng
lời nói và việc làm mà loan báo Chúa Kitô.
c.
Ngoài
ra, để “gieo trồng” Giáo Hội và phát triển cộng đoàn Kitô giáo, cần phải có
nhiều thừa tác vụ khác nhau (s. 15).
d.
Trước
tiên là đào tạo linh mục. Việc đào tạo phải nhắm đến những điểm sau đây : việc
huấn luyện thiêng liêng phải liên kết chặt chẽ với việc huấn luyện giáo thuyết
và mục vụ, phải được tổ chức dưới ánh sáng của mầu nhiệm cứu rỗi ; tìm kiếm lối
suy tư và hành động riêng biệt của dân tộc mình ; việc huấn luyện cũng phải
nhắm vào những nhu cầu mục vụ của từng miền, nghĩa là chủng sinh phải học biết
lịch sử, mục đích và phương pháp hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, những hoàn
cảnh xã hội, kinh tế và văn hoá của dân tộc mình để đối thoại. Họ cũng phải
được huấn luyện về phương diện kinh tế nữa (s. 16).
e.
Thứ đến
là đào tạo các giảng viên giáo lý. Việc huấn luyện phải được kiện toàn và thích
nghi với tiến bộ văn hoá ; phải có nhiều trường học thuộc giáo phận và miền ;
phải cung cấp cho họ một khoản thù lao cân xứng. Nếu thấy thuận tiện thì nên
công khai cử hành một nghi lễ phụng vụ để trao bài sai hầu tạo uy tín cho họ
(s. 17).
f.
Cuối
cùng là đời sống tu trì. Đời sống tu trì không những cần thiết cho hoạt động
truyền giáo mà còn bày tỏ bản tính sâu xa của ơn gọi kitô giáo (s. 18).
Nhận xét : trong việc thiết lập cộng đoàn Kitô giáo cần lưu
tâm trước hết đến việc đào tạo.
D. CHƯƠNG III : CÁC GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
1. Những nét chính yếu của một Giáo Hội
trưởng thành : đã
bén rễ sâu trong đời sống xã hội và văn hoá địa phương ; đã có dồi dào các linh
mục, tu sĩ và giáo dân địa phương ; đã có những thừa tác vụ và những tổ chức
cần thiết dưới sự dẫn dắt của Giám Mục riêng của mình (s. 19).
2. Giáo Hội trẻ trung có thể trưởng thành
bằng những phương thế nào ?
a.
Các
cộng đoàn tín hữu phải trở nên những cộng đoàn sống đức tin, phụng vụ và đức ái
; phải duy trì mối hiệp thông mật thiết với toàn thể Giáo Hội ; tiến tới việc
tự túc và giúp đỡ các Giáo Hội khác (s. 19).
b.
Phải là
một Giáo Hội truyền giáo, không những bằng chứng tá đời sống mà còn bằng việc
rao giảng (giám mục, linh mục); còn các tu sĩ và giáo dân cũng phải hun đúc
nhiệt tâm truyền giáo đối với đồng bào mình ; hơn nữa Giáo Hội trẻ nên tham gia
vào công cuộc truyền giáo phổ quát của Giáo Hội càng sớm càng tốt (s. 20).
c.
Vai trò
của giáo dân : Phúc Âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt
của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân.
d.
Nhiệm
vụ chính yếu của giáo dân là làm chứng về Chúa Kitô bằng đời sống và lời nói,
đồng thời phải biểu lộ con người mới và diễn tả nếp sống mới trong môi trường
xã hội và văn hoá của quê hương theo truyền thống của dân tộc mình.
e.
Còn các
thừa tác viên của Giáo Hội phải quí trọng việc tông đồ đầy khó khăn này của
người giáo dân, chẳng những bằng cách huấn luyện, nhưng còn phải sát cánh với
họ nữa (s. 21).
f.
Cuối
cùng, tương tự như chương trình Nhập Thể, Giáo Hội trẻ trung phải biết thu nhận
tất cả những sự phong phú của các dân tộc làm gia nghiệp, góp phần vào việc
tuyên xưng vinh quang của Tạo Hoá.
g.
Cũng
cần thúc đẩy việc suy tư thần học để hiểu được đường lối nào đức tin có thể tìm
gặp lý trí cũng như phong tục tập quán của xã hội, ngõ hầu Giáo Hội có thể dễ
dàng thích nghi trong việc loan báo Tin Mừng (s. 22).
Nhận xét : các Giáo Hội địa phương cần phải hướng đến sự
trưởng thành.
E. CHƯƠNG IV : CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO
1. Thế nào là một nhà truyền giáo :
- được sai đi ;
- phải ra đi, nghĩa là mang Giáo Hội đến những nơi
chưa có Giáo Hội ;
- đến nơi xa, nơi mà Giáo Hội chưa được vun trồng.
- được tách riêng ra ;
- để rao giảng Phúc Âm (s. 23).
2. Chân dung của nhà truyền giáo :
- thấm nhuần đời sống và sứ mạng của Đấng đã “tự huỷ
mình mà nhận lấy thân phận tôi tớ” (Ph 2,7) ;
- làm chứng về Chúa bằng đời sống Phúc Âm đích thực;
- canh tân lòng trí mỗi ngày (x. 1Tm 4,14 ; Ep 4,23 ;
2C 4,16) (s. 24).
3. Những yêu cầu đối với nhà truyền giáo
tương lai :
- được huấn luyện về đời sống thiêng liêng và luân lý
;
- là con người cầu nguyện ;
- có tinh thần can đảm, yêu thương và độ lượng (2Tm
1,7) ;
- học để quen sống tự túc (Ph 4, 11) ;
- có tinh thần hi sinh và tận hiến cho các linh hồn
(2C 12,15tt) (s. 25) ;
- được chuẩn bị và đào tạo chẳng những về giáo
thuyết, nhưng còn biết quí chuộng di sản, tiếng nói và phong tục tập quán của
dân tộc đó ;
- học hỏi khoa truyền giáo ;
- được đào tạo về tinh thần tông đồ và nghệ thuật dạy
giáo lý
- Cũng phải có một số nhà truyền giáo được chuẩn bị
kỹ hơn tại những Học Viện Truyền giáo (s. 26).
Những tu hội truyền giáo. Kinh nghiệm cho hay chỉ những tu hội truyền
giáo mới có thể được huấn luyện một cách thích hợp và theo đuổi công việc đó
nhân danh Giáo Hội và theo ý muốn của hàng Giáo Phẩm (s. 27).
ù Nhận xét : một yêu cầu đối với việc truyền giáo là phải đào tạo những
nhà truyền giáo theo tinh thần Tin Mừng.
F. CHƯƠNG V : TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
Các Kitô hữu phải cộng tác vào việc truyền giáo để xây dựng Giáo Hội.
Tuy nhiên, “mọi sự được thực hiện theo trật tự” (1C 14,40) (s. 28).
1. Trên lãnh vực toàn cầu.
Trước hết là bổn phận của “Giám Mục đoàn” (x. GH s. 23), rồi đến “Thánh
Bộ Truyền Bá Đức Tin” hợp với “Văn phòng cỗ võ sự hiệp nhất Kitô giáo” để điều
khiển và phối hợp công việc truyền giáo cũng như sự hợp tác truyền giáo trên toàn thế giới (s. 29).
2. Đối với giáo phận.
Giám mục là người lãnh đạo phát động, điều khiển và phối hợp hoạt động
truyền giáo. Giám mục nên thiết lập Hội Đồng Mục Vụ trong đó giáo sĩ, tu sĩ và
giáo dân được góp phần đại diện. Ngài cũng phải dành một phần nhân lực và vật
lực vào việc rao giảng Phúc Âm cho những người ngoài Kitô giáo (s. 30).
3. Các Hội đồng Giám Mục.
Để khỏi phân tán nhân lực và vật lực, các Hội Đồng Giám Mục nên hợp lực
thiết lập những công tác phục vụ lợi ích chung như chủng viện, những trung tâm
mục vụ, giáo lý và truyền thông xã hội (s. 31).
Cũng nên phối hợp hoạt động của các tổ chức hay hội đoàn trong Giáo
Hội. Những tổ chức đó dù thuộc loại nào đều phải tuỳ thuộc Đấng Bản Quyền địa
phương (s. 32).
Tóm lại, một hoạt động truyền giáo được thực thi đứng đắn và có tổ chức
đòi hỏi những người thợ rao giảng Phúc Âm phải được chuẩn bị cho nhiệm vụ của
mình một cách khoa học, nhất là để đối thoại với các tôn giáo và văn hoá ngoài
Kitô giáo (s.34).
Nhận xét : việc truyền giáo cần đến sự phối hợp chặt chẽ.
G. CHƯƠNG VI : SỰ CỘNG TÁC
Vì toàn thể Giáo Hội là truyền giáo và vì công việc rao giảng Phúc Âm
là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa, nên mọi người có nhiệm vụ phải góp phần vào
(s. 35).
1. Các tín hữu.
Trước hết là các tín hữu vì họ là nhiệm thể Chúa Kitô nhờ các bí tích
khai tâm (s. 36). Chính họ đã làm cho Giáo Hội xuất hiện như
một dấu chỉ nổi lên giữa các dân (x. Ys 12,11), là “ánh sáng thế gian”
(Mt 5,14) và là “muối đất” (Mt 5,13). Phải dùng cả những phương tiện truyền
thông hiện đại mà cung cấp những tin tức truyền giáo cho họ. Các cộng đoàn giáo
phận hay giáo xứ cũng phải minh chứng về Chúa Kitô trước mặt muôn dân (s. 37).
2. Các Giám mục.
Tuy nhiên, mệnh lệnh mà Chúa Kitô sai đi rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo
vật trước hết và trực tiếp nhắm tới các giám mục. Chính giám mục làm thể hiện
tinh thần và nhiệt tâm truyền giáo của Dân Chúa và có thể nói là thể hiện cách
hữu hình để toàn thể giáo phận trở thành giáo phận truyền giáo. Ngài có nhiệm
vụ khuyến khích mọi thành phần Dân Chúa truyền giáo, trong đó các tổ chức
truyền giáo phải chiếm chỗ nhất. Ngài cũng phải quảng đại chia sẻ gánh nặng
truyền giáo bằng cách sai đến những giáo phận thiếu giáo sĩ vài linh mục xuất
sắc để làm việc truyền giáo ít là trong một thời gian. Giám mục cũng phải lưu ý
đến số tiền đóng góp của giáo phận cho việc truyền giáo chung của Giáo Hội (s.
38).
3. Các hội dòng.
Các hội dòng chiêm niệm hay hoạt động đã và đang góp phần lớn lao vào
việc rao giảng Phúc Âm cho thế giới hãy cứ hăng say theo đuổi công việc đã khởi
sự, đức ái thúc đẩy và buộc họ phải có tinh thần và việc làm thực sự công giáo.
4. Các hội dòng chiêm niệm.
Các hội dòng chiêm niệm góp phần rất lớn vào việc trở lại của các linh
hồn nhờ kinh nguyện, việc khổ hạnh. Giáo Hội xin các hội dòng này hãy thiết lập
các nhà trong những xứ truyền giáo.
Còn các hội dòng sống đời hoạt động nên đặt vấn đề xem mình có thể mở
rộng Nước Chúa nơi muôn dân không (s. 40).
Nhận xét : truyền giáo là bổn phận của hết mọi thành phần
Dân Chúa.
KẾT LUẬN
Các nghị phụ Công Đồng hợp nhất cùng Đức Giáo Hoàng thân ái chào mừng
những người rao giảng Phúc Âm, nhất là những người chịu bách hại vì Danh Chúa
Kitô. Các ngài hiệp cùng các tín hữu cầu nguyện , nhờ sự cầu bầu của Đức Maria,
cho muôn dân mau được đưa về nhận biết chân lý (s. 42).