IV. GIỚI THIỆU THÔNG
ĐIỆP
“ECCLESIA DE
EUCHARISTIA”
Lm Ant. Nguyễn Đức Khiết
I. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA THÔNG ĐIỆP
Hành trình sống đức tin mà Đức Gioan Phaolô II vạch ra cho Giáo Hội vào
lúc bình minh của ngàn năm thứ ba trong Tông thư Novo Millennio ineunte (Bước
vào ngàn năm mới) là kêu mời Giáo Hội ra khơi trên đại dương của lịch sử với
nhiệt tình Tân-Phúc-Âm-hoá. Lời kêu mời này được tiếp nối và đạt đến đỉnh cao
trong Tông thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria).
“Hãy ra khơi” (Duc in altum) bằng cách chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Kitô,
chiêm ngắm cùng với Mẹ Maria. Việc chiêm ngắm Chúa Kitô đòi buộc mọi người phải
nhận ra Ngài bất cứ nơi nào Ngài tỏ hiện, trong nhiều cách thế hiện diện của
Ngài, nhưng trên hết trong Bí Tích Thánh Thể.
Từ khi bắt đầu nhiệm vụ của người kế vị thánh Phêrô, Đức Gioan Phaolô
II luôn muốn đem lại cho ngày Thứ Năm Tuần Thánh, ngày của Thánh Thể và của
chức tư tế một dấu hiệu lưu tâm đặc biệt bằng cách gửi một bức thư cho tất cả
các linh mục trên thế giới. Riêng năm nay, năm thứ hai mươi lăm triều đại giáo
hoàng của ngài, và trong năm Mân Côi, ngài muốn lôi kéo một cách rộng rãi hơn,
toàn thể Giáo Hội vào việc suy tư về Thánh Thể, và đồng thời ngài cũng muốn dùng
thông điệp này để tạ ơn Chúa vì Hồng ân của Thánh Thể và của chức tư tế.
Qua Thông điệp này, Đức Thánh Cha muốn khơi lại tâm tình ngưỡng mộ
Thánh Thể, ngưỡng mộ với lòng biết ơn Chúa. Tâm tình ngưỡng mộ này phải luôn
thấm nhập Giáo Hội khi quy tụ lại để cử hành Thánh Thể, nhưng trên hết nó phải
tràn ngập tâm hồn thừa tác viên Thánh Thể. Đồng thời ngài cũng muốn dùng Thông
điệp này để chỉ rõ một cách mạnh mẽ hơn nữa chỗ đứng trung tâm của Bí Tích
Thánh Thể trong đời sống Giáo Hội. Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể (Ecclesia de
Eucharistia vivit). Giáo Hội nuôi mình bằng “bánh hằng sống” này. Thánh Thể làm
nên Giáo Hội (Eucharistie fait l’Eglise).
Thông điệp được ban hành ngày 17 tháng 4 năm 2003, Thứ Năm Tuần Thánh,
trong năm thứ 25 triều đại giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II và trong năm Mân
Côi.
Thông điệp gồm phần dẫn nhập, 6 chương và phần kết luận với 62 số :
- Dẫn nhập
(số 1-10)
- Chương I
(số 11-20) : Thánh Thể là Mầu Nhiệm đức tin
- Chương II
(số 21-25) : Thánh Thể xây dựng Giáo Hội
- Chương
III (số 26-33) : Đặc tính tông
truyền của Bí Tích Thánh Thể và của Giáo Hội.
- Chương IV
(số 34-46) : Thánh Thể và sự hiệp thông Giáo
Hội
- Chương V
(số 47-52) : Phẩm giá của việc cử hành Thánh
Thể
- Chương VI
(số 53-58) : Nơi trường học của Đức Maria, người
nữ “Thánh Thể”
- Kết luận
(số 59-62)
Chúng ta sẽ tóm tắt nội dung của từng phần trong Thông điệp.
II. NỘI DUNG CỦA THÔNG ĐIỆP
A. DẪN NHẬP CỦA THÔNG ĐIỆP
Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể (Ecclesia de Eucharistia vivit) : chân lý
này không chỉ diễn tả kinh nghiệm hằng ngày của đức tin : Thánh Thể là sự sống
cho Giáo Hội lữ hành, nhưng dưới hình thức tổng hợp, nó còn gồm tóm cả cốt lõi
của mầu nhiệm Giáo Hội : Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời
sống Kitô hữu .
Từ việc nhắc lại kỷ niệm được cử hành Thánh Lễ Tạ ơn tại nhà Tiệc Ly ở
Giêrusalem trong Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã nói đến việc Chúa Giêsu
thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Nhà Tiệc Ly là nơi Bí Tích rất thánh này được
thiết lập. Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của mầu nhiệm vượt qua. Giáo Hội được
khai sinh từ mầu nhiệm vượt qua. Vì thế, Bí Tích Thánh Thể nằm ở trung tâm đời
sống Giáo Hội.
Đức Thánh Cha cho thấy việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong nhà Tiệc
Ly là một khoảnh khắc quyết định của việc thiết lập Giáo Hội. Nền tảng và nguồn
gốc của Giáo Hội chính là tất cả Tam Nhật Vượt Qua (Triduum Pascal), nhưng Tam
Nhật này như được chứa đựng, được thực hiện trước và “cô động lại” mãi mãi
trong hồng ân Thánh Thể.
Bí Tích Tháønh Thể hiện tại hoá biến cố vượt qua theo dòng thời gian.
Bí Tích Thánh Thể là sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong cộng đoàn
tín hữu và là lương thực thiêng liêng cho cộng đoàn này, là những gì quý giá
nhất mà Giáo Hội có thể có được theo dòng thời gian. Điều này giải thích lý do
tại sao Giáo Hội lại ân cần chú tâm đến Mầu Nhiệm Thánh Thể. Giáo Hội không thể
đào sâu bất cứ một khía cạnh nào trong sinh hoạt của mình mà không tiếp xúc với
mầu nhiệm Thánh Thể.
Sự chú tâm chính thức được thấy rõ trong công trình của các Công Đồng
và của các Đức giáo hoàng, chẳng hạn Sắc lệnh về Bí Tích Thánh Thể và về Hy Tế
Thánh Lễ của Công Đồng Trentôâ. Thông
điệp Mirae caritatis của Đức Lêô XIII (28.5.1902), Mediator Dei của Đức Piô XII
(20.11.1947) và Mysterium fidei của Đức Phaolô VI (3.9.1965).
Công Đồng Vatican II dù không công bố một vân kiện đặc biệt nào về Mầu
nhiệm Thánh Thể, nhưng đã nêu lên nhiều khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm Thánh
Thể trong toàn bộ các văn kiện , đặc
biệt là trong Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium và Hiến chế về Phụng vụ
thánh Sacrosanctum Concilium.
Về phần Đức Gioan Phaolô II, ngài đã đề cập đến Mầu nhiệm Thánh Thể qua
Tông thư Dominicae cenae (Bàn tiệc của Chúa) ngày 24.2.1980.
Trong phần dẫn nhập, Đức Thánh Cha nói đến những hoa quả của việc canh
tân Phụng vụ của Công Đồng Vatican II đem lại, như việc tham dự ý thức hơn, tích cực và hiệu năng hơn của
các tín hữu vào Hy Tế Thánh Lễ. Mặt
khác, ngài cũng nhắc tới như một hồng ân của Chúa là tại nhiều địa phương, việc
tôn thờ Thánh Thể có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống hằng ngày, việc các
tín hữu tham dự sốt sắng vào những cuộc rước kiệu Minh Thánh
Chúa trong dịp lễ trọng Mình Thánh Chúa.
Bên cạnh những ánh sáng này, lại không thiếu những bóng tối. Đức Thánh
Cha kể ra : ở nhiều nơi, việc tôn thờ Thánh Thể gần như hoàn toàn bị lãng quên
; nhiều lạm dụng đã làm lu mờ đức tin ngay chính và giáo thuyết công giáo liên
quan đến Bí tích này ; đôi khi có những cách hiểu rất giản lược về mầu nhiệm
Thánh Thể, ví dụ như người ta bỏ đi giá trị Hy tế của Thánh Thể, Thánh Thể chỉ
có ý nghĩa và giá trị của một cuộc gặp gỡ thân hữu trong một bữa tiệc thông
thường ; sự cần thiết của chức tư tế thừa tác đôi khi cũng bị lu mờ và tính
chất bí tích của Thánh Thể đã bị giản lược duy vào hiệu năng loan báo. Từ đó,
nơi này hay nơi khác, nhiều sáng kiến đại kết, dù rất thiện chí, đã rơi vào
những việc thực hành Thánh Thể đi ngược lại với kỷ luật trong đó Giáo Hội diễn
tả niềm tin của mình.
Đức Thánh Cha hy vọng rằng Thông điệp này sẽ góp phần đánh tan đi những
bóng tối trên phương diện giáo thuyết và những cách thực hành không thể chấp
nhận được.
B. CHƯƠNG
I : BÍ TÍCH THÁNH THỂ LÀ MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
Bí Tích Thánh Thể được thiết lập trong đêm Chúa Giêsu bị trao nộp (x.
1Cr 11,23). Bí Tích Thánh Thể không chỉ là việc khơi gợi lại biến cố khổ nạn
của Chúa Giêsu, nhưng còn hiện tại hoá biến cố ấy. Đó là Hy Tế thập giá được
tiếp tục trong thời gian.
Trong chương này, dường như Đức Thánh Cha muốn nhắc lại giáo thuyết
công giáo về Bí Tích Thánh Thể, đặc biệt giáo thuyết của Công Đồng Trentô về
việc Đức Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly , về Hy tế Thánh Lễ , về sự hiện diện thực sự và bản thể , về biến thể , về viễn tượng cánh chung của Thánh Thể .
Giáo Hội đón nhận Thánh Thể như một hồng ân tuyệt hảo, vì hồng ân đó chính
là Chúa Giêsu. Thánh Thể là mầu nhiệm của lòng thương xót, dấu chỉ thực sự của
một tình yêu vô biên, tình yêu “cho đến cùng”(x. Ga 13,1), một tình yêu không
còn biên giới, một tình yêu “bị nộp vì anh em” và “đổ ra vì nhiều người” (x. Lc
22,19-20).
“Thánh Lễ vừa là lễ tưởng niệm hy tế thập giá để lưu truyền muôn đời,
vừa là bàn tiệc thánh để thông hiệp với Mình và Máu Chúa, cả hai gắn liền và
không tách rời nhau” . Từ ngữ “Tưởng
niệm” (Mémorial) bắt nguồn từ chữ Hy Lạp “anamnèsis”. Đây không phải là một hồi
tưởng lại quá khứ đon thuần, một kỷ niệm giống như kỷ niệm ngày sinh nhật hay
ngày giỗ một người quá cố, nhưng đây là hiện tại hoá một biến cố trong quá khứ
và biến cố này vẫn còn sức mạnh đối với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Bí
Tích Thánh Thể hiện tại hoá hy tế thập giá, làm cho hy tế thập giá hiện diện
cách bí tích trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó, qua tay của thừa tác viên được
hiến thánh.
“Hy tế của Chúa Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất” (GL
1367). Thánh Lễ hiện tại hoá hy tế thập giá, không thêm bớt gì mà cũng không
nhân lên được .
Hy Tế Thánh Thể hiện tại hoá chẳng những mầu nhiệm khổ nạn và cái chết
của Chúa Giêsu, nhưng còn cả mầu nhiệm phục sinh nữa, trong đó hy tế đạt tới sự
viên mãn của nó. Chính Chúa Kitô sống và phục sinh mới có thể trở nên “bánh sự
sống” (Ga 6, 35.48), “bánh hằng sống” (Ga 6, 51).
Trong Thánh Lễ, việc hiện tại hoá hy tế thập giá được kiện toàn nhờ sự
phục sinh của Chúa bao hàm một sự hiện diện đặc biệt, hiện diện bản thể. Đức
Thánh Cha nhắc lại giáo thuyết “biến bản thể” (Transsubtanstiation) của Công
Đồng Trentôâ. Thánh Thể thục sự là mầu nhiệm đức tin. Chúng ta chỉ có thể đón
nhận bằng đức tin.
Từ Hy Tế Thánh Thể, Đức Thánh Cha chuyển sang Bữa Tiệc Thánh Thể. Hiệu
quả cứu độ của hy tế được thực hiện sung mãn trong việc hiệp lễ, khi chúng ta
rước Mình và Máu Chúa. Thánh Thể đích thực là một bữa tiệc, trong đó Chúa Kitô
tự hiến làm của ăn. Qua việc thông hiệp vào Mình và Máu Ngài, Chúa Kitô cũng
chuyển thông cho ta Thánh Thần của Ngài. Trong sách lễ Rôma, chủ tế cầu xin :
“Khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được dầy tràn Thánh Thần của
Người, xin cho chúng con được trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức
Kitô” .
Lời tung hô của giáo dân sau Truyền Phép diễn tả chiều kích cánh chung của
việc cử hành Thánh Thể (x. 1Cr 11,26). Chiều kích cánh chung của Bí Tích Thánh
Thể diễn tả và củng cố sự hiệp thông với Giáo Hội thiên quốc. Các kinh tạ ơn
Đông phương cũng như La tinh đều diễn tả chiều kích này khi kính nhớ Đức Maria
trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các tông đồ, các thánh tử đạo hiển vinh và
toàn thể các thánh. Đây là một khía cạnh của Bí Tích Thánh Thể phải được chú ý
khi cử hành hy tế Con Chiên, chúng ta cùng hợp với phụng vụ thiên quốc.
Một hệ luận khác rất có ý nghĩa của chiều kích cánh chung trong Bí Tích
Thánh Thể mà Đức Thánh Cha nhấn mạnh là sự thúc dẩy bước chân lữ hành của chúng
ta trong lịch sử, làm nảy sinh một niềm hy vọng sống động cho mọi người hàng
ngày tận tuỵ với nhiệm vụ của mình, kích thích tâm thức chúng ta về trách nhiệm
đối với trái đất của chúng ta, dấn thân chu toàn những bổn phận công dân trần
thế của mình.
Công bố cái chết của Chúa “cho tới khi Ngài lại đến” (1Cr 11,26) đòi
buộc những ai tham dự vào tiệc Thánh Thể cương quyết dấn thân biến đổi cuộc
sống, để một cách nào đó, cuộc sống ấy hoàn toàn trở thành “Thánh Thể”.
C. CHƯƠNG II : THÁNH THỂ XÂY DỰNG GIÁO HỘI
Công Đồng Vatican II đã nhắc lại rằng việc cử hành Thánh Thể nằm ở
trung tâm tiến trình tăng trưởng của Giáo Hội
.
Đức Thánh Cha trở về với Giáo Hội sơ khai để cho thấy ảnh hưởng của
Thánh Thể trên đời sống Giáo Hội như thế nào. Các thánh sử xác định rõ rằng,
chính Nhóm Mười Hai là các tông đồ đã tụ họp quanh Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly
(x. Mt 26,20 ; Mc 14,17 ; Lc 22,14). Đây chính là một điểm riêng biệt rất quan
trọng, vì các tông đồ là những mầm giống của dân Israel mới và đồng thời là
nguồn gốc của phẩm trật thánh.
Giáo Hội được xây dựng qua sự hiệp thông bí tích với Chúa Giêsu, Đấng
hiến tế vì chúng ta. Khi đón nhận Mình và Máu Chúa, không những mỗi người chúng
ta đón nhận Chúa Kitô, nhưng chính Chúa Kitô cũng đón nhận mỗi người chúng ta.
Ngài thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta (x. Ga 15,14) và chúng ta sống nhờ
Ngài (x. Ga 5,57).
Khi hiệp nhất với Chúa Kitô, Dân của Giao ước mới không khép kín lại,
nhưng trở thánh “bí tích” cho nhân loại
, thành dấu hiệu và dụng cụ của ơn cứu độ được Chúa Kitô ban cho thành
“ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,13-16) để cứu rỗi mọi người.
Bí Tích Thánh Thể vừa là nguồn suối, vừa là đỉnh cao của mọi công cuộc
Phúc âm hoá, vì mục tiêu của nó là hiệp thông mọi người với Chúa Kitô và trong
Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Nhờ hiệp thông Thánh Thể, Giáo Hội cũng được vững chắc trong sự hiệp
nhất của mình như là thân thể Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói đến hiệu quả hiệp
nhất này của việc tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể, khi ngài viết cho tín hữu
Côrintô (x. 1Cr 10,16-17). Thánh Thể củng cố sự tháp nhập vào Chúa Kitô, mà
Chúa Thánh Thần thực hiện trong Bí Tích Thanh Tẩy (x. 1Cr 12,13.27). Chính Chúa
Thánh Thần củng cố Giáo Hội nhờ việc thánh hoá các tín hữu bằng Thánh Thể,
Một trong những hoa quả tuyệt hảo nhất của Thánh Thể là Chúa Thánh
Thần. Kinh tạ ơn III nói lên điều này : “Và khi chúng con được Mình và Máu Con
Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người”. Chúa Thánh Thần là tình yêu
liên kết Cha và Con, nên Ngài sẽ làm cho cộng đoàn thánh thể trở thành thân thể
giáo hội (corps ecclésial) của Chúa Kitô và hiệp nhất các chi thể trong thân
thể này lại với nhau, bởi vì Ngài là tác giả của sự hiệp thông.
Nhờ thông hiệp vào Mình Chúa Kitô, Giáo Hội ý thức ngày càng sâu hơn
căn tính của mình : “Giáo Hội ở trong Chúa Kitô một cách nào đó là bí tích,
nghĩa là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp
nhất toàn thể nhân loại” .
Theo kinh nghiệm hằng ngày, sức mạnh hiệp nhất của thân mình Chúa Kitô
chống lại những mầm mống tan rã giữa con người với nhau đang bám sâu vào nhân
loại do tội lỗi. Vì lẽ đó, Bí Tích Thánh Thể, khi xây dựng Giáo Hội, cũng kiến
tạo cộng đồng nhân loại.
Việc tôn sùng Thánh Thể ngoài Thánh Lễ mang một giá trị vô song trong
đời sống Giáo Hội. Các mục tử có nhiệm vụ khuyến khích, bằng cả chứng tá cá
nhân, việc tôn sùng Thánh Thể, đặc biệt là việc chầu Thánh Thể, cũng như việc
tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh rượu mà ta gọi là viếng Thánh Thể.
Đức Thánh Cha đã nói lên kinh nghiệm cá nhân của ngài về những lần cầu
nguyện trước Thánh Thể và ngài nêu cao gương mẫu của các thánh, đặc biệt là
thánh Anphongsô Ligôri.
D. CHƯƠNG III : ĐẶC TÍNH TÔNG TRUYỀN CỦA BÍ
TÍCH THÁNH THỂ VÀ CỦA GIÁO HỘI
Khởi đi từ ba ý nghĩa của đặc tính tông truyền của Giáo Hội được Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo giải thích, Đức Thánh Cha suy nghĩ về đặc tính tông
truyền của Bí Tích Thánh Thể.
Nghĩa thứ nhất : “Giáo Hội đã và đang được xây dựng trên ‘nền tảng các tông đồ’ (x. Ep
2,20) là những chứng nhân đã được chính Chúa Kitô tuyển chọn và sai đi” . Khởi đầu của Bí Tích Thánh Thể cũng đã có
các tông đồ. Chính trong sự tiếp nối hành động của các tông đồ, vâng theo lệnh
truyền của Chúa mà Giáo Hội cử hành Bí Tích Thánh Thể qua dòng thời gian.
Nghĩa thứ hai
: “Giáo Hội gìn giữ và lưu truyền giáo huấn, kho tàng quý giá, những lời lành
mạnh đã được nghe từ các tông đồ với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần đang ở
trong Giáo Hội” . Cũng theo ý nghĩa
này, Bí Tích Thánh Thể có tính tông truyền vì được cử hành đúng như niềm tin
của các rông đồ. Để bảo vệ đức tin tông truyền trong Mầu nhiệm cao cả này, Huấn
quyền đã xác định giáo thuyết về Bí Tích Thánh Thể trong nhiều dịp khác nhau,
ngay cả trong những điều liên hệ đến từ ngữ chính xác.
Nghĩa thứ ba
: “Giáo Hội vẫn tiếp tục được các tông đồ dạy dỗ, thánh hoá và hướng dẫn cho
đến ngày Chúa Kitô trở lại nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục
tử. Giám mục đoàn với sự giúp đỡ của các linh mục, hiệp thông với đấng kế vị
thánh Phêrô là mục tử tối cao của Giáo Hội” . Kế vị các tông đồ trong sứ vụ mục
tử đòi hỏi phải có Bí Tích Truyền Chức, nghĩa là phải có việc phong chức giám
mục liên tục và thành sự, bắt đầu từ những nguồn gốc đầu tiên. Bí Tích Thánh
Thể cũng diễn tả ý nghĩa này của đặc tính tông truyền vì “các tin hữu, nhờ chức
tư tế vương giả cũng góp phần vào việc hiến dâng Thánh Thể theo vị trí của
họ” , nhưng chính linh mục được truyền
chức mới “cử hành Hy tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa Kitô và hiến dâng cho
Chúa Cha nhân danh toàn thể tín hữu” .
Vì lẽ ấy, Sách Lễ Rôma đã quy định chỉ một mình linh mục đọc kinh nguyện Thánh
Thể, trong khi đó giáo dân thinh lặng hiệp ý trong đức tin
Đức Thánh Cha giải thích từ “in personna Christi” theo nghĩa mạnh hơn
là “nhân danh” hay “thay thế” Chúa Kitô. In personna nghĩa là trong sự đồng
nhất đặc biệt, mang tính bí tích “với vị Thượng tế của Giao Ước mới” .
Như vậy, trong chương này, Đức Thánh Cha rõ ràng đề cập đến thừa tác
viên cử hành Thánh Thể. Để thực sự là một cộng đoàn Thánh Thể, cộng đoàn đang
tụ họp để cử hành Thánh Thể buộc phải có linh mục được truyền chức chủ tọa.
Đàng khác, cộng đoàn không thể tự cung cấp cho mình thừa tác viên có chức
thánh. Vị này là một hồng ân mà cộng đoàn lãnh nhận qua trung gian của giám
mục, người kế nhiệm các tông đồ.
Từ đó, Đức Thánh Cha đưa ra những hướng dẫn cụ thể :
1. Các tín hữu công giáo, tuy phải tôn trọng
những xác tin tôn giáo của các anh em ly khai, phải tránh tham dự vào việc rước
lễ trong những buổi cử hành của họ, để không dung dưỡng một sự hàm hồ nào về
bản chất Thánh Thể.
2. Không thể dự kiến thay thế Thánh Lễ Chúa
Nhật bằng những buổi suy tôn Lời Chúa đại kết, bằng những buổi hội họp cầu
nguyện chung với những Kitô hữu của các cộng đoàn giáo hội ly khai từ thế kỷ
XVI, hay bằng việc tham dự vào những buổi cử hành phụng vụ của họ.
3. Quyền “truyền phép” chỉ dành riêng cho
giám mục và linh mục mà thôi. Điều này không làm giảm suy giá trị của các phần
tử khác trong dân Chúa.
4. Nếu Thánh Thể là trung tâm và chóp đỉnh
của đời sống Giáo Hội, nó cũng là như thế đối với tác vụ linh mục. Đức Thánh
Cha nhắc lại lời khuyên của Công Đồng Vatican II đối với các linh mục là hãy cử
hành Thánh Lễ hằng ngày.
5. Bí Tích Thánh Thể là trung tâm đời sống và
tác vụ linh mục, cũng là trung tâm mục vụ về ơn gọi linh mục.
Từ đó, Đức Thánh Cha cho thấy tình trạng đau đớn và bất thường của một
cộng đoàn kitô hữu, hội đủ mọi điều kiện của một giáo xứ về con số và sự đa
dạng của giáo dân, nhưng lại thiếu vắng một linh mục để hướng dẫn. Khi một cộng
đoàn nào thiếu vắng linh mục, người ta tìm cách giải quyết một cách thích đáng
vấn đề đó, để có thể tiếp tục cử hành Phụng vụ ngày Chúa Nhật, nhưng đây chỉ là
giải pháp tạm thời.
E. CHƯƠNG IV : THÁNH THỂ VÀ SỰ HIỆP THÔNG
GIÁO HỘI
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của hiệp thông. Một mặt, nó diễn tả chiều
kích hiệp thông vô hình, chiều kích này nối kết chúng ta với Chúa Cha và chúng
ta với nhau trong Chúa Kitô qua tác động của Chúa Thánh Thần. Mặt khác, trong
chiều kích hữu hình, nó đòi hỏi sự hiệp thông trong giáo huấn của các tông đồ,
trong các Bí Tích và trong phẩm trật. Chỉ trong bối cảnh này mới có việc cử
hành Bí Tích Thánh Thể hợp pháp và sự tham dự đích thực vào Bí Tích này. Hệ quả
là có một đòi buộc nội tại đối với Bí Tích Thánh Thể, đòi buộc phải được cử
hành trong sự hiệp thông, và cụ thể hơn, trong sự toàn vẹn của những điều kiện
đòi hỏi.
1. Sự hiệp thông vô hình đòi hỏi đời sống ân sủng và việc thực hành
những nhân đức tin, cậy, mến. Trong viễn tượng này, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo đã xác định lại một cách đúng đắn rằng : “Ai biết mình đang mắc tội trọng,
phải lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải trước khi đến rước lễ” . Đức Thánh Cha ước muốn
rằng quy luật này vẫn còn và sẽ còn giá trị mãi trong Giáo Hội, quy luật mà
Công Đồng Trentôâ đã áp dụng cụ thể lời khuyến cáo nghiêm khắc của thánh Phaolô
(x. 1Cr 11,28). Từ đó, ngài cho thấy sự liên kết chặt chẽ giữa Bí Tích Thánh
Thể và Bí Tích Hoà Giải.
2. Sự hiệp thông hữu hình. Công Đồng Vatican II nói đến sự hiệp thông
vào Giáo Hội cách trọn vẹn như sau : “Những người được gia nhập hoàn toàn vào
cộng đoàn Giáo Hội là những ai lãnh nhận Thánh Thần của Đức Kitô, chấp nhận
trọn vẹn tổ chức và tất cả những phương thế cứu rỗi đã được Giáo Hội thiết lập,
và nhờ những mối dây liên hệ do việc tuyên xưng đức tin, các Bí Tích, việc cai
quản và sự hiệp thông Giáo Hội, họ liên kết với Đức Kitô trong tổ chức hữu hình
mà Người điều khiển nhờ Đức giáo hoàng và các giám mục” .
Bí Tích Thánh Thể, vì là sự thể hiện bí tích cao quý nhất của sự hiệp
thông trong Giáo Hội, đòi buộc phải được cử hành trong một bối cảnh tôn trọng
những mối dây liên kết bên ngoài của sự hiệp thông. Cụ thể là không thể nào cho
một người chưa rửa tội hay chối từ toàn bộ chân lý đức tin về Mầu nhiệm Thánh
Thể được rước lễ.
Sự hiệp thông Giáo Hội trong cộng đồng Thánh Thể là sự hiệp thông với
giám mục của mình và với Đức giáo hoàng Rôma. Thật vậy, giám mục là nguyên lý
hữu hình và là nền tảng của sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương của
mình . Cũng thế, Đức giáo hoàng là
nguyên lý và là nền tảng hữu hình và vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục
cũng như toàn thể đông đảo các tín hữu
.
Như vậy, Bí Tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội như là “cộng đoàn hiệp
thông sự sống”, không phải một Giáo Hội mơ hồ, trừu tượng, ở ngoài lịch sử,
ngoài kinh nghiệm sống của người Kitô hữu, nhưng là một Giáo Hội cụ thể, còn
đang trên đường lữ hành, một Giáo Hội có cơ cấu và phẩm trật.
Bí Tích Thánh Thể tạo sự hiệp thông và giáo dục sự hiệp thông. Thánh
Phaolô đã viết cho các tín hữu Côrintô chỉ cho họ thấy những chia rẽ giữa họ
biểu lộ trong cộng đoàn tham dự Thánh Thể, đi ngược lại với điều họ cử hành là
Bữa Ăn Tối của Chúa. Vì vậy, ngài kêu mời họ suy nghĩ về thực tại đích thực của
Bí Tích Thánh Thể để đưa họ trở về với tinh thần hiệp thông huynh đệ (x. 1Cr
11,17-34).
Sự cổ võ đặc biệt hữu hiện cho hiệp thông, đặc điểm của Bí Tích Thánh
Thể là một trong những lý do của tầm quan trọng Thánh Lễ Chúa Nhật. Ngày của
Chúa cũng trở thành ngày của Giáo Hội.
Khi đề cập đến tương quan của Thánh Thể với nỗ lực đại kết, Đức Thánh
Cha một đàng cảm tạ Ba Ngôi Thiên Chúa vì trong những thập niên vừa qua, đông
đảo tín hữu khắp nơi trên thế giới đã khao khát sự hiệp nhất giữa tất cả các
Kitô hữu với nhau, đàng khác đưa ra những hướng dẫn cụ thể :
- Không thể nào đồng tế cùng một Phụng vụ Thánh Thể khi chưa có được sự
hiệp thông trọn vẹn, nghĩa là hiệp thông trong đức tin, hiệp thông trong các Bí
Tích và hiệp thông với phẩm trật.
- Nhưng đối với việc cho rước lễ thi lại khác : trong những hoàn cảnh
đặc biệt có thể cho những người thuộc những Giáo Hội hay những cộng đoàn giáo
hội không cùng hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội công giáo được rước lễ.
Đức Thánh Cha nhắc lại quan điểm của ngài trong thông điệp Ut unum
sint, ngài viết : “Thật là một niềm vui khi các thừa tác viên công giáo, trong
những trường hợp đặc biệt đã được xác định, có thể ban những Bí Tích Thánh Thể,
Hoà giải và Xức dầu bệnh nhân cho những Kitô hữu không cùng hiệp thông trọn vẹn
với Giáo Hội công giáo, có ước muốn mãnh liệt được lãnh nhận, tự nguyện và cùng
chia sẻ niềm tin mà Giáo Hội công giáo tuyên xưng trong các Bí tích này. Ngược
lại, trong những trường hợp rõ rệt, và đối với những hoàn cảnh đặc biệt, những
người công giáo có thể xin chịu các bí tích này từ tay những thừa tác viên của
những Giáo Hội mà trong đó các Bí Tích này thành sự” (số 46).
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha cũng nói rất rõ rằng chỉ cần chối một hay
nhiều chân lý đức tin về các Bí tích này, trong số đó có chân lý liên quan đến
sự cần thiết của chức tư tế thừa tác để cho các bí tích được thành sự, đủ làm
cho việc lãnh nhận các Bí tích không còn hợp pháp, vì người xin lãnh nhận không
hội đủ điều kiện cần thiết. Ngược lại, một tín hữu công giáo không thể xin rước
lễ trong một cộng đoàn không có Bí Tích Truyền Chức thành sự.
F.
CHƯƠNG V : PHẨM GIÁ CỦA VIỆC CỬ HÀNH THÁNH THỂ
Đức Thánh Cha bắt đầu chương này với trình thuật về việc thành lập Bí
Tích Thánh Thể trong Tin Mừng Nhất Lãm. Trình thuật cho ta thấy Chúa Giêsu
thiết lập Bí tích vĩ đại này với vẻ vừa đơn giản vừa trang trọng. Có một đoạn,
theo một nghĩa nào đó, được xem như một khúc dạo đầu. Đó là việc xức dầu tại
Bêtania. Một người nữ mà thánh Gioan xác nhận là Maria, chị của Ladarô, đã đổ
trên đầu Đức Giêsu một loại dầu thơm quý giá khiến các môn đệ bất bình, đặc biệt
là Giuđa (x. Mt 26,8 ; Mc 14,4 ; Ga 11,4) như thể hành vi đó là một sự phí phạm
không thể chịu nổi đối với người nghèo. Tuy nhiên Đức Giêsu lại nghĩ khác.
Không cắt bỏ điều gì trong bổn phận bác ái của các môn đệ đối với người nghèo
(x. Mt 26,11 ; Mc 14,7 ; Ga 12,8), Chúa Giêsu nghĩ đến biến cố sắp đến là cái
chết và việc mai táng Ngài, vì Ngài nhìn thấy trong việc xức dầu cho Ngài hưởng
trước cái danh dự mà thân xác Ngài vẫn xứng đáng ngay cả sau khi chết, bởi vì
nó được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm của bản thân Ngài.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, trình thuật tiếp tục với việc Đức Giêsu truyền
lệnh cho các môn đệ chuẩn bị kỹ lưỡng “căn phòng lớn” cần thiết cho bữa ăn vượt
qua (x. Mt 14,15 ; Lc 22,12) và với trình thuật việc lập Bí Tích Thánh Thể.
Từ việc đọc lại Tin Mừng, Đức Thánh Cha suy nghĩ về phẩm giá của việc
cử hành Thánh Thể. Như người nữ xức dầu tại Bêtania, Giáo Hội không ngần ngại
“phung phí” sử dụng những gì tốt đẹp nhất trong kho tàng của mình để nói lên sự
thán phục và lòng tôn thờ của mình trước ân huệ vô bờ bến của Bí Tích Thánh
Thể. Cũng như các tông đồ đầu tiên được ủy thác lo chuẩn bị “căn phòng rộng
lớn”, Giáo Hội cảm thấy được thúc đẩy cử hành Thánh Thể trong một bối cảnh xứng
đáng với một Mầu Nhiệm vĩ đại như thế, qua các thế kỷ và trong sự tiếp nối của
các nền văn hoá.
Thánh Thể là một bữa tiệc, nhưng nếu lối suy luận về “bữa tiệc” có làm
khơi dậy một tinh thần gia đình đi nữa, Giáo Hội vẫn không bao giờ nhượng bộ
trước cám dỗ tầm thường hoá sự “thân thiện gia đình” này đối với Chúa Giêsu và
‘bữa tiệc”vẫn luôn luôn là bữa tiệc hy tế. Bữa tiệc Thánh Thể vẫn thật sự là
một bữa tiệc “thánh” trong đó những dấu chỉ đơn sơ ẩn chứa chiều sâu khôn dò sự
thánh thiện của Thiên Chúa.
Dựa vào ý nghĩa cao siêu ấy của Mầu Nhiệm, chúng ta hiểu rằng niềm tin
của Giáo Hội vào Mầu Nhiệm Thánh Thể được diễn tả trong lịch sử không chỉ bằng
việc đòi hỏi một thái độ sùng kính nội tâm, mà còn bằng một chuỗi cách diễn tả
bên ngoài nhằm gợi lên và làm nổi bật sự cao trọng của biến cố được cử hành. Từ
đó nẩy sinh một tiến trình đưa dần đến việc ấn định một quy chế đặc biệt thành
quy luật cho Phụng vụ Thánh Thể mà vẫn tôn trọng những truyền thông giáo hội
khác nhau được thiết lập hợp pháp.
Trên nền tảng đó, một di sản nghệ thuật phong phú cũng đã được phát
triển như kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, và đã tìm thấy một nguồn cảm
hứng vô tận, cách trực tiếp hay gián tiếp từ Bí Tích Thánh Thể.
Nếu Bí Tích Thánh Thể đã hun đúc Giáo Hội, thì người ta cũng có thể nói
rằng Bí Tích Thánh Thể có ảnh hưởng quan trọng trên “văn hoá”, đặc biệt trong
lãnh vực thẩm mỹ. Trong viễn tượng của một nghệ thuật muốn diễn tả ý nghĩa của
Bí Tích Thánh Thể theo giáo huấn của Giáo Hội, Đức Thánh Cha đề ra những hướng
đi cụ thể :
- Trước hết, cần phải chú tâm đến những quy định liên quan đến việc xây
dựng và trang trí thánh đường. Không gian sáng tạo mà Giáo Hội luôn dành cho
các nghệ sĩ rất rộng, như lịch sử đã cho thấy. Nhưng nghệ thuật thánh phải có
đặc điểm là khả năng diễn tả cách phù hợp Mầu Nhiệm được đón nhận trong đức tin
viên mãn của Giáo Hội và theo những chỉ dẫn mục vụ đúng đắn do Bản quyền chuyên
trách. Điều đó có giá trị cho những nghệ thuật tượng hình cũng như cho thánh
nhạc.
- Đức Thánh Cha cũng nói đến hướng đi vừa lành mạnh vừa cần thiết của
việc “hội nhập văn hoá” về lãnh vực nghệ thuật thánh và quy luật Phụng vụ. Qua
nhiều chuyến công du mục vụ, ngài thấy rằng trong khi thích nghi với những điều
kiện thay đổi của thời gian và không gian, Bí Tích Thánh Thể không chỉ nuôi
dưỡng các con người, mà cả các dân tộc nữa và nắn đúc nhiều nền văn hoá chịu
ảnh hưởng của tinh thần Kitô giáo.
- Tuy nhiên, ngài cũng đưa ra một cảnh giác trong lãnh vực này. Công
việc thích nghi ấy phải được thực hiện với ý thức liên tục về Mầu Nhiệm khôn tả
của Bí Tích Thánh Thể. Người ta có thể làm cho mầu nhiệm này suy giảm hay tổân
thương bằng những thử nghiệm hay thực hành không do Thẩm quyền chuyên trách của
Giáo Hội kiểm nhận.
Từ những suy nghĩ trên, Đức Thánh Cha cho thấy trách nhiệm lớn lao
trong cử hành Thánh Thể thuộc về các linh mục, vì các ngài có nhiệm vụ chủ tọa
trong tư cách của Chúa Kitô (in personna Christi) bảo đảm chứng tá và phục vụ
sự hiệp thông. Nhưng Đức Thánh Cha cũng đau lòng nhận thấy rằng nhất là từ
những năm sau cuộc canh tân phụng vụ hậu Công Đồng, vì nhận thức sai lầm về sự
sáng tạo và thích nghi, những lạm dụng lan tràn, và trở thành lý do đau khổ cho
nhiều người. Một phản ứng nào đó chống lại “duy hình thức” đã thúc đẩy một số
người, đặc biệt trong vùng nào đó, lầm tưởng rằng “những hình thức” được ấn
định bởi truyền thống phụng vụ đáng kính của Giáo Hội và Huấn quyền là không
bắt buộc, và đưa vào những sửa đổi không được phép và thường không phù hợp.
Về điều này, Đức Thánh Cha có những lời mãnh mẽ như sau : “Vì thế tôi
cảm thấy có nhiệm vụ phải lên tiếng một cách cương quyết để trong cử hành Thánh
Thể, những quy luật phụng vụ được tuân giữ một cách trung thành. Những quy luật
đó là một cách diễn tả cụ thể tính giáo hội đích thực của Bí Tích Thánh Thể, đó
là ý nghĩa sâu xa nhất của chúng. Phụng vụ không bao giờ là một sở hữu riêng tư
của ai, kể cả chủ tế và cộng đoàn cử hành Mầu Nhiệm đó […] Không ai được phép
đánh giá thấp Mầu Nhiệm được trao trong tay chúng ta, nó cao cả đến nỗi không
ai có thể đối xử với nó theo ý mình, không tôn trọng tính cách linh thánh và
chiều kích phổ quát của nó” .
G. CHƯƠNG VI : NƠI TRƯỜNG HỌC CỦA ĐỨC MARIA,
NGƯỜI NỮ “THÁNH THỂ”.
Nếu chúng ta muốn khám phá lại trong tất cả sự phong phú của Bí Tích
Thánh Thể, mối liên hệ thâm sâu nối kết Giáo Hội và Bí Tích Thánh Thể, Đức
Thánh Cha mời gọi chúng ta nhìn vào Đức Maria, là Mẹ và mẫu gương của Giáo Hội.
Đức Maria có thể hướng dẫn chúng ta đến Bí Tích cực thánh nầy, vì giữa Mẹ và bí
tích này có một mối liên hệ sâu xa.
Tin Mừng, thoạt nhìn qua, im lặng về vấn đề này. Trong trình thuật việc
thiết lập Bí Tích Thánh Thể, vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, không ai nói đến Đức
Maria. Trái lại ai cũng biết là Mẹ đã có mặt với các Tông Đồ, hiệp nhất “cùng
một lòng trong lời cầu nguyện” (x. Cv 1,14) trong cộng đoàn tiên khởi được qui
tụ sau khi Chúa lên trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chắc
chắn, không thể thiếu vắng sự hiện diện của Mẹ trong những cử hành Thánh Thể
giữa các tín hữu của thế hệ đầu tiên rất chuyên cần “trong nghi lễ bẻ bánh” (Cv
2,42).
Nhưng khi vượt xa hơn việc Đức Maria tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể,
người ta có thể phỏng đoán cách gián tiếp mối liên hệ giữa Đức Maria và Bí Tích
Thánh Thể căn cứ vào thái độ nội tâm của Mẹ. Trong tất cả cuộc sống của Mẹ, Đức
Maria là một phụ nữ “Thánh Thể”. Đức Thánh Cha chiêm ngắm người phụ nữ “Thánh
Thể” này với ba hình ảnh được các sách Tin mừng phác họa :
1. Đức Maria, Trinh nữ tin tưởng
Nếu Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin vượt xa lý trí chúng ta
đến nỗi chúng ta chỉ còn phó thác hoàn toàn cho Lời Chúa mà thôi, thì không một
ai ngoài Đức Maria có thể nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta trong tiến trình này.
Khi chúng ta lập lại hành động của Chúa Kitô trong Bữa Tiệc Ly, khi vâng theo
lệnh truyền của Ngài : “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19), chúng ta
đón nhận cùng một lúc lời Đức Maria mời gọi vâng phục Chúa không do dự : “Hãy
làm những gì Ngài bảo” (Ga 2,5). Với sự ân cần từ mẫu mà Mẹ đã tỏ ra ở tiệc
cưới Cana, Đức Maria hình như muốn nói với chúng ta : “Đừng do dự, hãy tin vào
những lời của Con Mẹ, Ngài có thể biến nước thành rượu ngon, Ngài cũng có thể
biến bánh và rượu trở nên thịt và máu Ngài, thông truyền cho các tín hữu, trong
mầu nhiệm này, việc tưởng nhớ sống động cuộc Vượt Qua của Ngài để trở nên “bánh
sự sống”.
Theo một nghĩa nào đó, Đức Maria đã sử dụng đức tin Thánh Thể của mình
ngay trước khi Bí Tích Thánh Thể được thiết lập, bởi vì Mẹ đã hiến dâng cung
lòng trinh vẹn của Mẹ để Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể. Trong khi Bí Tích
Thánh Thể đưa về cuộc khổ nạn và phục sinh, thì Đức Maria cùng lúc vẫn tiếp nối
với việc Nhập Thể. Lúc truyền tin, Đức Maria đã thụ thai Con Thiên Chúa trong
chính thực tại thể lý thân xác và máu huyết, thực hiện trước trong Mẹ, những gì
được thực hiện một cách bí tích, trong một mức độ nào đó, nơi mọi tín hữu được
lãnh nhận dưới hình bánh rượu, Mình và Máu Chúa.
Như thế có một tương quan rất thâm sâu giữa tiếng fiat (xin vâng) của
Đức Maria đáp lại lời thiên thần với tiếng Amen của người tín hữu khi lãnh nhận
Mình Thánh Chúa. Thiên Chúa đã đòi hỏi Đức Maria phải tin rằng Đấng mà Mẹ thụ
thai “nhờ hoạt động của Thánh Thần” là “Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,30-35). Tiếp
nối đức tin của Đức Maria, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta tin rằng, trong Mầu Nhiệm
Thánh Thể, cũng Chúa Giêsu đó, Con Thiên Chúa và Con của Đức Maria, hiện diện
cách trọn vẹn gồm cả nhân tính lẫn thần tính của Ngài dưới hình bánh và rượu.
“Phúc thay kẻ đã tin” (Lc 1,45) : trong mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Maria
cũng đã đi trước đức tin Thánh Thể của Giáo Hội. Khi đi thăm viếng bà Elisabét,
Mẹ đã mang trong cung lòng Ngôi Lời làm người, Mẹ trở nên một “nhà tạm”, một
cách nào đó – “nhà tạm” đầu tiên trong lịch sử
- trong đó Con Thiên Chúa, chưa thấy được với mắt loài người, được bà
Elisabét tôn thờ, như thể “chiếu tỏa” ánh sáng của Ngài qua ánh mắt và tiếng nói
của Đức Maria.
Và cái nhìn say đắm của Đức Maria, chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô vừa
mới sinh ra và bồng ẵm Ngài trong vòng tay, phải chăng là mẫu gương tình yêu
gợi hứng cho ta mỗi lần ta rước Chúa ?
2. Đức Maria, Trinh nữ hiến dâng
Trong suốt cuộc đời của Đức Maria bên cạnh Chúa Kitô, và không chỉ trên
đồi Canvariô, ngài đã lấy chiều kích hy tế của Bí Tích Thánh Thể làm của mình.
Khi Mẹ đem trẻ Giêsu vào đền thờ Giêrusalem để “tiến dâng cho Thiên Chúa” (x.
Lc 2,34-35), Mẹ đã nghe cụ già Simêon loan báo cho Mẹ rằng Trẻ này sẽ là một
“dấu hiệu chia rẽ” và rằng một “lưỡi gươm” sẽ đâm thâu trái tim của mẹ (x. Lc
2, 34-35). Như thế bi kịch của Người Con chịu đóng đinh đã được tiên báo, và
trong cách thế nào đó, cảnh “stabat Mater” (Mẹ đứng đó) của Đức Trinh Nữ dưới
chân Thánh Giá, đã được hình dung trước. Từng ngày, chuẩn bị lên đỉnh đồi
Canvariô, Đức Maria đã sống một thứ “Thánh Thể đã có trước” nào đó, đó là một
cách “hiệp lễ thiêng liêng” bằng ước muốn và hiến dâng. “Thánh Thể đã có trước”
này sẽ được hoàn tất bằng sự hiệp nhất với Con Ngài trong cuộc khổ nạn. Điều đó
sẽ được diễn đạt, sau Phục Sinh, qua sựï tham dự của Mẹ vào việc cử hành Thánh
Thể mà các tông đồ chủ sự để tưởng niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa.
3. Đức Maria, Trinh nữ tạ ơn
Đức Maria hiện diện với Giáo Hội và là Mẹ của Giáo Hội, trong mỗi cử
hành Bí Tích Thánh Thể của chúng ta. Nếu Giáo Hội và Bí Tích Thánh Thể làm
thành một cặp song đôi không thể tách rời, thì giữa Đức Maria và Bí Tích Thánh
Thể cũng vậy. Chính vì thế việc kính nhớ Đức Maria trong cử hành Bí Tích Thánh
Thể được thi hành đồng loạt, từ thời xa xưa trong các Giáo Hội Đông Phương và
Tây Phương.
Trong Bí Tích Thánh Thể, Giáo Hội lấy tinh thần Đức Maria làm của mình,
kết hiệp hoàn toàn với Chúa Kitô và với hy tế của Ngài. Đó là một chân lý mà
người ta có thể đào sâu khi đọc lại kinh Magnificat (linh hồn tôi ngợi khen)
trong viễn tượng Thánh Thể. Quả thật, như
bài ca của Đức Maria, Bí Tích Thánh Thể trước hết là một lời ngợi khen
và là một lời tạ ơn. Khi Đức Maria thốt lên : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
và lòng trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”, Chúa Giêsu đang ở
trong cung lòng của Mẹ. Mẹ ngợi khen Chúa Cha “thay cho” Chúa Giêsu, nhưng Mẹ
cũng ngợi khen Chúa Cha “trong” Chúa Giêsu và “cùng với” Chúa Giêsu. Đó chính
là “thái độ Thánh Thể” đích thực.
Cùng một lúc, Đức Maria nhắc đến những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện
trong lịch sử cứu độ theo như lời hứa với cha ông chúng ta (x. Lc 1,55), và Mẹ
loan báo điều kỳ diệu vượt lên trên mọi kỳ công, việc Nhập Thể cứu chuộc. Sau
cùng trong kinh Magnificat, cũng có cả việc hướng đến quang lâm của Bí Tích
Thánh Thể. Mỗi khi Con Thiên Chúa xuất hiện cho chúng ta trong sự “nghèo nàn”
của những dấu chỉ bí tích, bánh và rượu, hạt giống của lịch sử mới, trong đó
những kẻ quyền thế bị “lật đổ khỏi ngai vàng” và những người hèn mọn được “nâng
cao” (x. Lc 1,52) đã được gieo trong thế gian. Đức Maria hát lên “trời mới” và
“đất mới”, chúng được thực hiện trước trong Bí Tích Thánh Thể. Nếu bài
Magnificat diễn tả “đường lối thiêng liêng” của Đức Maria thì không có gì giúp
chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Thể bằng linh đạo này. Bí Tích Thánh Thể đã được
trao tặng cho chúng ta, để toàn bộ cuộc sống chúng ta như cuộc sống của Đức
Maria, trở nên một bài ca Magnificat.
H. KẾT LUẬN CỦA THÔNG ĐIỆP
Đức Thánh Cha cảm nghiệm như một hồng ân sự kiện ngài hiến dâng cho
Giáo Hội thông điệp về Bí Tích Thánh Thể vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, trùng hợp
với năm thứ hai mươi lăm ngài lãnh nhận nhiệm vụ kế vị thánh Phêrô. Trong niềm
vui thân tình mãnh liệt, hiệp nhất với niềm tin của Giáo Hội, ngài đưa ra chứng
từ đức tin của ngài vào Bí Tích Thánh Thể
. Với chứng từ đức tin này, chúng ta có thể nói ngài là vị giáo hoàng
say mê Thánh Thể.
Trong Tông Thư Novo millennio ineunte, Đức Thánh Cha nói rằng không cần
phải vạch thêm một “chương trình mới” cho Giáo Hội nữa, bởi vì chương trình đã
có sẵn rồi : chính là chương trình của mọi ngày, được rút ra từ Tin Mừng và
Thánh Truyền sống động. Chương trình này có trung tâm là chính Chúa Kitô mà
chúng ta phải hiểu biết, yêu mến, noi gương, để sống sự sống Ba Ngôi trong Ngài
và cùng với Ngài biến đổi lịch sử cho đến khi hoàn tất trong thành Giêrusalem
thiên quốc. Việc thực hiện chương trình của đà tiến đổi mới này trong đời sống
Kitô hữu phải xuyên qua Bí Tích Thánh Thể.
Từ đó, các nỗ lực dấn thân vào sự thánh thiện, các hoạt động nhằm hoàn
thành sứ mạng của Giáo Hội, mọi cố gắng thực hiện các chương trình mục vụ, phải
múc lấy nơi mầu nhiệm Thánh Thể, sức mạnh cần thiết và phải hướng về đó như
chóp đỉnh. Trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta có Chúa Giêsu, chúng ta có hy tế
cứu chuộc của Ngài, chúng ta có sự phục sinh của Ngài, chúng ta có hồng ân
Thánh Thần, chúng ta có việc tôn thờ, sự vâng phục và tình yêu đối với Chúa
Cha.
Mầu nhiệm Thánh Thể, - hy tế, hiện diện, bữa tiệc – không chấp nhận sự
giảm thiểu cũng như sự thao túng nào ; nó phải được sống toàn vẹn, dù trong
việc cử hành hay trong việc trò chuyện thân mật với Chúa Giêsu mà người ta đón
nhận khi rước lễ, hay trong thời gian cầu nguyện và tôn thờ Thánh Thể ngoài
thánh lễ.
Con đường mà Giáo Hội đang đi vào những năm đầu tiên này của thiên niên
kỷ thứ ba cũng là con đường dấn thân đại kết mới. Những thập niên cuối cùng của
thiên niên kỷ thứ hai, đạt được chóp đỉnh trong Đại Năm Thánh, đã thúc đẩy
chúng ta vào hướng đó, khuyến khích tất cả những người đã lãnh nhận Bí Tích
Thánh Tẩy phải đáp lại lời cầu của Chúa Giêsu “Xin cho chúng nên một” (Ga
17,11). Một con đường như thế thì rất dài và đầy chướng ngại vượt hẳn sức con
người; nhưng chúng ta có Bí Tích Thánh Thể.
Con đường dấn thân đại kết thúc đẩy chúng ta đi đến mục tiêu là chia sẻ
toàn vẹn kho tàng quý giá của Mầu Nhiệm Thánh Thể với tất cả anh em đã được
liên kết với chúng ta trong cùng một Phép Rửa. Tuy nhiên, để đừng lãng phí kho
tàng quí báu như thế, chúng ta phải tôn trọng những đòi buộc gắn liền với sự
kiện : đây là bí tích của sự hiệp thông trong đức tin và trong sự kế nhiệm các
tông đồ.
III. KẾT LUẬN
Thông điệp Ecclesia de Eucharistia được viết ra từ kinh nghiệm thiêng
liêng sống Bí Tích Thánh Thể của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Từ đó, chúng ta
có thể rút ra một vài suy nghĩ để kết thúc :
- Chúng ta không thể bàn về Bí Tích Thánh Thể mà không sống. Muốn nói
về Thánh Thể, điều kiện cần thiết là phải cảm nếm Thánh Thể, như lời thánh
Augustinô : “Nếu ngươi không biết, thì hãy nếm thử” .
- Chúng ta nói về Bí Tích Thánh Thể với tất cả lòng tin, bởi vì đó là
“Mầu nhiệm đức tin” như đề tựa Thông điệp của Đức Phaolô VI về Thánh Thể, mà
đức tin là điều chúng ta lãnh nhận từ Giáo Hội. Vì thế, chúng ta phải nói về
Thánh Thể cách khiêm nhường, đến với Thánh Thể cách chăm chú, và đón nhận bằng
đức tin của Giáo Hội. Chúng ta hãy nghe lời thánh Justinô nhắn nhủ : “Tiên vàn
các bạn hãy cầu nguyện, để các cánh cửa dẫn tới ánh sáng mở ra cho các bạn, vì
không ai có thể thấy và hiểu, nếu Thiên Chúa và Đức Kitô của Người không cho
hiểu” (Đối thoại với Tryphon, 7).
Cảm nếm Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy Thánh Thể là sự sống, là tình yêu,
vì Thánh Thể chính là Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta trong Bí tích . Bề ngoài, giác quan chúng ta thấy bánh và
rượu, nhưng khi lãnh nhận thì chúng ta lãnh nhận chính Chúa Kitô, với tất cả
thân xác, linh hồn và thần tính, chúng ta đón nhận Chúa Kitô, Đấng đã yêu mến
chúng ta và đã chịu chết vì chúng ta (x. Gl 2,20).
Chúng ta lãnh nhận với tất cả lòng yêu mến và biết ơn, vì Thiên Chúa đã
ban Chúa Kitô cho chúng ta, vì Chúa Kitô đã tự hiến thân mình cho chúng ta. Mầu
nhiệm đức tin ở đây có đối tượng là tình yêu : tình yêu của Thiên Chúa, tình
yêu của Chúa Kitô. Mầu nhiệm đức tin trở thành mầu nhiệm của tình yêu. Tiếp xúc
với Chúa Kitô Thánh Thể, chúng ta biết Chúa bằng đức tin và yêu Chúa bằng lòng
mến.