MỤC VỤ THÁNH THỂ
Lm Phêrô
Trần Đình, Đàlạt
NHẬP ĐỀ
Nếu thánh lễ là “trung tâm của toàn thể đời sống
Kitô giáo” (QC 16), là “nguồn mạch tột đỉnh của đời sống kitô hữu” (LG 11), thì
đương nhiên nó cũng phải là “trung tâm
đời sống và tác vụ của Linh Mục” (EE 31), bởi vì Linh Mục phát xuất từ Thánh Thể và “sống nhờ Thánh
Thể”. Đời sống của người Linh Mục sẽ èo uột nếu rời xa nguồn sự sống thần linh
này.
Bài này chủ yếu trình bày về mục vụ Thánh Thể, hiểu là thánh lễ. Mục vụ luôn gắn liền với đời
sống Linh Mục, như Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nói : “đặc tính mục vụ của
thừa tác vụ Linh Mục lúc nào cũng theo sát đời sống của mỗi Linh Mục, cho dù
trách nhiệm hằng ngày của một số Linh Mục không rõ ràng hướng về bí tích” (DC
1).
Trong mục vụ Thánh Thể, thiết tưởng các Linh Mục
cần quan tâm hơn đến việc cử hành
thánh lễ, sao cho đúng với những chỉ dẫn của Giáo Hội (Qui chế tổng quát), đồng
thời tránh những cử hành đi ngược lại ý muốn của Huấn Quyền (Huấn thị
Redemptionis sacramentum).
Tuy nhiên, một ý thức mà ngài cần có trong khi cử
hành thánh lễ, đó là Thánh Thể sẽ xây
dựng Giáo Hội (DC 4 ; x. RH 20 ; LG 11), xây dựng cá nhân ngài và giáo xứ
của ngài. Chính ý thức này sẽ chỉ đạo ngài khi cử hành thánh lễ.
Chúng ta suy nghĩ hai điểm này.
I. THÁNH THỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI LINH MỤC
VÀ
CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ
“Việc
cử hành Thánh Thể nằm ở trung tâm tiến trình tăng trưởng của Giáo Hội“ (EE 21).
“Giáo Hội và Thánh Thể làm thành một cặp song đôi không thể tách rời” (nt. 57),
bởi vì Thánh Thể làm nên Giáo Hội và Giáo Hội cũng làm nên Thánh Thể.
Giáo Hội là một lãnh vực bao la, nên ta tạm giới hạn chủ đề : Thánh Thể xây dựng
chính con người Linh Mục và xây dựng giáo xứ của ngài.
A. Thánh Thể xây dựng con
người Linh Mục
Thánh
Thể là trung tâm đời sống và tác vụ Linh Mục như đã nói trên. Thế nên, tiếp xúc
gần kề với Thánh Thể mỗi ngày, Thánh Thể sẽ có “năng lực biến đổi” (TT 5) con người Linh Mục của ngài và tạo nơi
ngài nhiều ý thức mãnh liệt.
1.
Đời Linh Mục là một hiến tế,
bởi vì khi cử hành thánh lễ là ngài cử hành hi tế thập giá Chúa Giêsu.
“Cả
cuộc đời Chúa Giêsu là Hi tế. Nơi Chúa Giêsu, mọi sự đều là của lễ, từ lời giảng dạy đến các phép lạ, từ những cử
chỉ và lời nói thông thường cho đến sự hi sinh lớn lao nhất là hi sinh mạng
sống. Mọi sự đều biểu lộ tình yêu dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Sự dâng hiến
của Chúa Giêsu được hoàn tất bằng cái chết và trong cái chết tự nguyện trên
thập giá” (TC 3).
Của
lễ Chúa Giêsu dâng cho Chúa Cha không
gì khác hơn là chính bản thân. Và đây là của lễ Chúa Cha vui lòng hơn
cả, vì nó là tình yêu :
“Giáo
Hội coi cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một hi tế. Hi tế ấy khác với
hi tế Cựu ước, vì hoàn toàn là hi tế tình yêu, là sự dâng hiến bản thân. Chúa Giêsu không dâng hiến
cho Chúa Cha điều gì bên ngoài, mà là chính bản thân mình” (nt. 3).
Nói khác đi, Chúa Giêsu là “sacerdos-victima”, là “Linh
Mục, của lễ và bàn thờ” (x. Kinh tiền tụng phục sinh Vø), “vừa là chủ tế vừa là lễ vật, vừa dâng vừa
được dâng lên” (GLC 1137).
Trong
đêm bị trao nộp, Chúa Giêsu đã cầm bánh, bẻ
ra. Và máu Người cũng được “đổ ra”
để nên lương thực thần linh cho các môn đệ.
Mỗi
lần Linh Mục cử hành thánh lễ và đọc lại những lời của Chúa Giêsu khi truyền
phép, lẽ nào không mời gọi ngài ý thức thức hơn : đời người Linh Mục là lễ hiến
tế, dâng mình cho Chúa Chúa trên bàn thờ mỗi ngày ?
Nếu
nơi Đức Giêsu, mọi sự đều là của lễ, từ lời nói cho đến cử chỉ…, thì đời Linh
Mục cũng thế. Còn phải kể thêm những lo toan khổ tứ, bệnh tật, những hiểu lầm
không biết tỏ cùng ai, những phấn đấu để giữ được lòng trung thành với Chúa và
cả sự vâng phục đối với bề trên của mình nữa.
Những của lễ ấy của ngài sẽ được kết kợp với những
“công lao của con người”, để cùng với
Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha.
2.
Đời Linh Mục là một cuộc vượt qua, bởi lẽ khi cử hành thánh lễ là ngài
cử hành mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu.
Cử
hành thánh lễ là cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua, là “loan truyền việc Chúa chịu chết (…) cho tới khi Người lại đến”
(Nghi thức thánh lễ). Thánh lễ đưa ta về với đêm Chúa “bị nộp” (x. 1Cr 11, 23).
Chúa
Giêsu Kitô vượt qua có nghĩa là “đi về cùng Chúa Cha” (x. Ga 16, 17), nhưng
đồng thời cũng có nghĩa là đến với chúng ta : “Thầy ra đi và đến cùng anh em”
(Ga 14, 28).
Có thể gọi Linh Mục là con người vượt qua (homo paschalis), đại diện và dấu chỉ của Đức
Kitô Vượt Qua (Christus paschalis), đang cử hành mầu nhiệm Vượt Qua (Mysterium
paschale).
Hiện
hữu của Linh Mục cũng là một “hiện hữu
Vượt qua”, hay “hiện hữu Thánh Thể”
(une existence eucharistique), chẳng những là tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu, nhưng còn là không bao giờ dừng lại, không bám víu vào bất cứ điều gì,
như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Người trước khi lên đường truyền giáo (x.
Mt 10, 9-15). Và cũng còn nhiều thứ khác phải vượt qua nữa !
Linh
Mục không những vượt qua chính mình,
nhưng còn dẫn đầu “Dân Vượt qua”
(populus paschalis) trong cuộc sống đời thường. Giáo dân sẽ sẵn sàng tin ngài
và sống theo sự hướng dẫn của ngài, bởi vì ngài đã bước theo Chúa Giêsu trong
cuộc Vượt Qua. Chưa vượt qua, thánh lễ chưa làm nên con người Linh Mục của ngài
đúng nghĩa.
Sắc lệnh về Chức vụ và đời sống Linh Mục mời gọi
ngài sống điều ấy : “Khi cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết, các ngài phải lo khắc chế chi thể mình khỏi tật xấu và
dục vọng” (PO 13).
Linh Mục, “người
anh hùng dẹp loạn trong chính mình” (N.V. Tuyên, Linh Mục người rất nhỏ và
rất lớn).
Mầu nhiệm phục sinh phải được “tuyên xưng” nơi cuộc
sống của ngài. Thật vậy, Linh Mục không những “loan truyền việc Chúa chịu
chết”, nhưng còn “tuyên xưng việc Chúa
sống lại”. Không phải chỉ cho hôm
nay, nhưng “cho tới khi Chúa lại đến”.
“Chính Chúa Kitô sống và phục sinh, mới có thể trở
nên “bánh sự sống” (Ga 6, 35.48), “bánh trường sinh (Ga 6, 51)” (EE 14) cho
nhân loại.
Tóm lại, “Hi tế Thánh Thể là trung tâm và là cội
nguồn của toàn thể đời sống Linh Mục, cho nên ngài phải cố gắng sống thực trong tâm hồn điều ngài đã làm
trên bàn thờ” (PO 14).
3. Đời Linh Mục và “thần học bàn quì”
“Adoro Te devote, latens Deitas”. Con thờ lạy Chúa
hết lòng, ôi Chúa ẩn thân.
Người ta có thể khám phá Chúa trong suy tư. Và
người ta cũng có thể khám phá Người trên hai đầu gối, trong chiêm ngưỡng và tôn
thờ. Một “thần học bàn quì”
(U.V.Balthasar).
“Để sống phép Thánh Thể, cần phải dành nhiều thời gian thờ phượng trước bí
tích cực thánh, đó là kinh nghiệm hằng ngày của bản thân tôi, nhờ đó tôi
kín múc được sức mạnh, nguồn an ủi và nâng đỡ” (EE 25 ; TT 3; TC 10). Chia sẻ của ĐGH đương kim.
Một “thần học bàn quì” trước “Chúa ẩn mình” là điều
cần thiết, bởi vì Thánh Thể là một “mầu nhiệm”, đồng thời là một “hồng ân” cho
chúng ta (Gioan-Phaolô II, donum et
mysterium).
“Thánh Thể là “bánh ban sự sống” sẽ nâng đỡ những
ai, đến lượt mình, lại trở thành “tấm bánh được bẻ ra” cho anh em mình” (TT 4).
A. Thánh Thể xây dựng
cộng đoàn giáo xứ
“Mặc dù việc chính yếu của Phụng Vụ Thánh là phụng
thờ Thiên Chúa uy quyền, nhưng lại có giá trị lớn lao trong việc giáo dục tín hữu” (PV 33).
1. Xây dựng sự hiệp nhất
“Hiệp nhất là vấn đề sinh tử” (Thánh Irênê), nhưng
cũng là chuyện nan giải, bởi vì mỗi người mang nơi mình những khác biệt, đến nỗi hai người sống bên
nhau có khi đã là “hai thế giới” rồi !. “Con
người, kẻ xa lạ ấy” (Alexis Carrel, l’homme cet inconnu).
Một
giáo xứ lý tưởng là một giáo xứ hiệp nhất. Dĩ nhiên, sự hiệp nhất nào cũng nên được
hiểu là “hiệp nhất trong khác biệt”
(l’unité dans la diversité), nếu không, đó chỉ là một sự rập khuôn (uniformité)
không hơn không kém và cũng không đáng mong ước.
Thế mà, “Hiệp nhất” là một trong những danh từ
chuyên biệt để gọi bí tích Thánh Thể (x. EE 34) : “không một cộng đoàn Kitô hữu nào xây dựng được, nếu không đặt nền tảng
và trọng tâm nơi việc cử hành phép Thánh Thể chí thánh : cho nên mọi nền giáo
dục về tinh thần cộng đoàn phải được bắt đầu từ đó” (nt. 3 ; x. PO 6).
Trước hết, việc tham dự Bàn Tiệc Thánh tự nó đã là một biểu tượng huynh đệ và hiệp thông tâm
tình : dấu chỉ bên ngoài của thức ăn mà ta hưởng dùng, như sách Didaché
nhắc đến (x. 9, 4), là lúa miến rải rác trên các cánh đồng, được thu lại và
biến thành một tấm bánh duy nhất, tượng trưng cho sự hiệp nhất của Hội Thánh,
được tập họp từ mọi miền xa xôi trên trái đất.
Thứ đến, Thánh Thể gây ý thức về sự hiệp nhất: “Chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng
ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều
người, chúng ta cũng chỉ là một thân
thể” (1 Cr 10, 17), “một thân thể và
một tinh thần” trong Đức Kitô (Kinh nguyện Thánh Thể III).
Đó là hiệp nhất bên trong.
Ngoài ra, thánh lễ cũng tạo thành sự hiệp nhất bên
ngoài : khi tham dự thánh lễ, các tín hữu “họp thành một thân thể, nhờ việc lắng nghe Lời Chúa, hoặc tham dự việc cầu
nguyện và ca hát, nhất là nhờ việc cùng nhau dâng hi lễ và cùng tham dự bàn
tiệc của Chúa. Sự hiệp nhất này được biểu lộ trong những cử chỉ và điệu bộ mà mọi tín hữu cùng có như nhau” (QC 96).
Qui Chế khuyên các tín hữu “tránh mọi hình thức
sống cá nhân riêng rẽ ; phải nhớ rằng họ chỉ có một Cha trên trời và như vậy
mọi người đều là anh chị em với nhau” (nt. 95)
Tóm lại, Thánh Thể “tạo sự hiệp thông và giáo dục sự hiệp thông” (EE 40).
Bởi thế, ĐGH Gioan-Phaolô II ước mong có được “một
nỗi khát khao đích thực phép Thánh Thể, được duy trì sống động trong mỗi cộng
đoàn” (TT 5).
2. Xây dựng nếp sống chia sẻ
Bí tích Thánh Thể còn được gọi là “Lễ Bánh bẻ” (x. Cv 2, 42.46 ; 20, 7.11)
; GLC 1329). Cách nói này diễn tả một khía cạnh quan trọng của mầu nhiệm Thánh
Thể là chia sẻ.
“Một dấu chỉ sống động mà Giáo Hội không ngừng thực
hành ngay từ buổi sơ khai và mãi cho tới khi Chúa trở lại, đó là nghi lễ Bẻ Bánh. Các môn đệ trên đường
Emmaus đã nhận ra Chúa Phục sinh khi Người bẻ bánh với họ. Mọi người trong bàn
tiệc chia nhau cùng một tấm bánh, tấm bánh ấy là Thân Mình Đức Kitô được bẻ ra
cho mọi người thông phần. Cử chỉ bẻ bánh
nói lên nếp sống chia sẻ của Giáo Hội” (TC 9).
Người Do thái bắt đầu bữa ăn cổ truyền bằng việc bẻ
bánh. Nhưng nơi các Kitô hữu thời các Tông Đồ, bẻ bánh là một trong những đặc điểm
của cộng đoàn tín hữu, được đặt ngang hàng với việc nghe giáo huấn các Tông Đồ
và cầu nguyện (chú giải của CGKPV).
“Công đồng Vatican II nhấn mạnh đến nếp sống chia sẻ của Giáo Hội. Hình ảnh
của sự hưởng thụ, ích kỷ là cách đối xử của nhà phú hộ với ông Lazarô nghèo khổ
trong Tin Mừng Luca (x. Lc 16, 19-31). Còn hình ảnh của sự chia sẻ là năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn
năm ngàn người ăn (x. Ga 6, 1-15), rõ ràng đây cũng là hình ảnh của Mầu nhiệm
Thánh Thể“ (TC 9)
3. Xây dựng ý thức truyền giáo
“Các hoạt động truyền giáo luôn gắn liền với
Bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó” (PO 5).
Chung quanh Chúa Kitô Thánh Thể, Giáo Hội tăng
trưởng như dân tộc, đền thờ và gia đình của Thiên Chúa : duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền. Đồng thời, Giáo Hội hiểu rõ hơn đặc tính của mình là
“bí tích cứu độ phổ quát” (AG 1).
“Ite, missa est”. “Cử hành Bí tích Thánh Thể được
gọi là Thánh lễ, Lễ Misa, do từ
latinh missio nghĩa là sai đi. Thánh
lễ kết thúc với lời Hội Thánh sai các tín hữu đi vào đời, để họ thực thi thánh
ý Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày” (GLC 1332).
Thánh lễ không phải là một hành vi tách rời và đóng
kín, đến nỗi người tham dự thánh lễ chỉ
biết có Phúc Âm, cầu nguyện và tương trợ nhau.
“Ite” nghĩa là mỗi người sẽ trở lại với công việc của mình, trở lại vị thế của mình trong xã hội, mang Thánh
Thể của Chúa Kitô đi với mình. Như Chúa đã ban Mình Máu Người cho ta, thì ta có
bổn phận chia sẻ những phúc lộc đã
lãnh nhận.
“Ite” cũng có nghĩa là : bánh và rượu đã được ăn và
uống tăng thêm sức mạnh Chúa Thánh Thần cho các tín hữu của Chúa, thì nay đã đến lúc giải tán buổi hội họp, các
tín hữu sẽ mang đức ái của Chúa Kitô
đến cho những người còn ở bên ngoài
(x. Ga 20, 17 ; Cv 1, 9-11), để Nước Chúa được rộng mở ra trên thế giới.
(x. J.GÉLINEAU, Họp
nhau cử hành phụng vụ, t. 2, tr. 403-404)
Tóm lại, cuối mỗi thánh lễ, khi chủ tế giải tán
cộng đoàn bằng những lời “Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi”, hết mọi
người đều phải cảm thấy mình được sai đi
như là “người thừa sai của Thánh Thể”, loan truyền ở khắp mọi môi trường
sống hồng ân vĩ đại đã lãnh nhận. Thực vậy, người nào gặp gỡ Chúa Kitô trong
phép Thánh Thể, không thể nào không công bố bằng cuộc sống mình tình yêu hay thương
xót của Đấng Cứu Chuộc” (TT 2).
II. LINH MỤC CỬ HÀNH MẦU
NHIỆM THÁNH THỂ
Linh Mục “sống Thánh Thể” sẽ muốn “cử hành thánh
lễ” sao cho đúng với kỷ luật của Hội Thánh. Qui chế tổng quát sách lễ Rôma
2000, cũng như Huấn thị Redemptionis Sacramentum của Bộ Phượng Tự cho chúng ta
những hướng dẫn có tính qui phạm trong việc cử hành. Ở đây, chúng ta chỉ rút ra
một vài điểm cụ thể liên quan đến việc thực hành mà thôi.
A. Duyệt lại cung cách cử
hành thánh lễ
Thư chung năm 2004 của Hội Đồng Giám Mục nhắc nhở :
“Các cộng đoàn dòng tu, các chủng viện, cũng như mọi giáo xứ (trong năm nay) có
dịp duyệt lại cách cử hành Phụng vụ
của mình, và nỗ lực cử hành thánh lễ cho thật trang nghiêm, sốt sắng, đúng theo nghi thức phụng vụ, lưu tâm đến
Văn kiện Bí tích Cứu chuộc (Redemptionis sacramentum) do Bộ Phượng Tự của Toà
Thánh ban hành” (s. 12).
“Cử hành lễ
tạ ơn là hành động của Chúa Kitô và Hội
Thánh” (QC 91). Vì thế, Linh Mục dâng lễ với tư cách là người của Hội Thánh
và người của Chúa Kitô.
Một nguyên tắc có thể gọi là chủ đạo đối với Linh Mục khi cử hành thánh lễ đã được Thánh Bộ
Phượng Tự đặt lên hàng đầu, đó là cung
cách cử hành :
“Là người trong Hội Thánh có quyền thánh chức để
dâng hi lễ nhân danh Đức Kitô (…)
liên kết giáo dân với ngài để dâng hi lễ lên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô và trong
Chúa Thánh Thần (…). Vậy khi cử hành thánh lễ, ngài phải phục vụ Thiên Chúa và giáo dân cách trang nghiêm và khiêm tốn ; trong cách cử hành và đọc Lời Chúa, ngài còn phải cho giáo dân cảm thấy sự hiện diện sống động của Đức Kitô” (QC
93).
Bốn điều Qui Chế đề nghị các Linh Mục “duyệt lại”
khi cử hành thánh lễ :
1. Trước tiên, Linh Mục là người cử hành thánh lễ “nhân danh Đức Kitô” (in persona
Christi). Dịch sát chữ là “trong ngôi vị của Đức Kitô”, bao hàm cả nhân tính và
thần tính. Cho nên, khi dâng thánh lễ, Linh Mục lẽ nào lại bày tỏ cho kẻ khác
thấy một con người bằng xương bằng thịt, vốn có nhiều khuyết điểm, được bộc lộ
qua vẻ bên ngoài, đôi khi chẳng đem lại một sự sốt sắng cần thiết. Linh Mục
“nhân danh Đức Kitô”ø cử hành hi lễ phải làm cho kẻ khác thấy được, ít nữa là
một cách mờ nhạt như thể thấy “trong gương” hình ảnh của Đức Kitô “hiền lành và
khiêm nhường” (Mt 11, 29).
“Vị chủ tế, trong tư cách là thừa tác viên của hi
lễ, là tư tế đích thực – và nhờ quyền thánh chức đặc biệt – thực hiện hành động
hiến tế đưa muôn loài về với Thiên Chúa” (DC 9)
2. Thứ đến, dầu là chủ toạ của cộng đoàn dâng lễ
nhân danh Đức Kitô, Linh Mục cần ý thức mình được Thánh Thể sinh ra để “phục vụ” như Đức Kitô, Đấng đến “không
phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ” (Mc 10, 45). Chữ “phục vụ” ở đây sẽ
còn mạnh nghĩa hơn khi đó là việc phục vụ mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm đức tin.
3. Thứ ba, khi cử hành thánh lễ, Linh Mục sẽ phục
vụ giáo dân “cách trang nghiêm và khiêm
tốn”. Tất nhiên Qui Chế nhấn mạnh đến “cử
chỉ và điệu bộ” bên ngoài của ngài (x. 96).
4. Cuối cùng, “trong cách cử hành và đọc Lời Chúa,
ngài còn phải cho họ thấy được “sự hiện
diện sống động của Đức Kitô”.
Là bởi vì “chính Đức Kitô đứng đầu cộng đoàn ;
Người chủ sự buổi lễ. Người là Thượng Tế của Giao ước mới. Thay mặt Người, vị
Giám Mục hay Linh Mục nhân danh Đức Kitô Thủ lãnh, sẽ chủ sự cộng đoàn” (GLC
1348).
Vì thế,
“trong việc cử hành bí tích Thánh Thể, các Linh Mục có trách nhiệm lớn, vì các ngài
chủ toạ nhân danh Đức Kitô” (RS 30).
Trong Tông thư Dominicae
Cenae, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói : việc cử hành Thánh Thể “đòi hỏi
chúng ta phải có một ý thức và một sự
chín chắn thiêng liêng mới (…) nhất là khi ngài cử hành “đối diện với cộng đoàn” (DC 9).
Ngoài ra, ngài còn nhắc nhở các Linh Mục, khi dâng
thánh lễ, phải lưu ý đến sự “thánh thiêng”
(sacrum) của Thánh Thể : “phải luôn nhớ điều này, nhất là trong thời đại hôm
nay, người ta có khuynh hướng muốn xoá bỏ khoảng cách giữa “thiêng thánh”
(sacrum) và “phàm tục”, dựa vào khuynh hướng tổng quát hoá nhằm giải thiêng mọi sự” (DC 8).
QCTQ & Huấn thị RS nhắc nhở các Linh Mục “phải
luôn nhớ mình là người phục vụ Phụng vụ thánh” (QC 24; RS 186), phục vụ “Sự
Thánh” (GLC 1331).
Tóm lại, Linh Mục phải “cử hành (thánh lễ) thế nào,
để giúp các tín hữu tham dự với cả xác
hồn, một cách ý thức, tích cực, đầy đủ, và với lòng tin, cậy, mến nồng nàn.
Đó là việc tham dự mà Giáo Hội mong muốn, và bản chất việc cử hành đòi hỏi, lại
cũng là quyền lợi và nghĩa vụ của giáo dân, phát xuất từ bí tích Thánh Tẩy” (QC
18).
B. Duyệt lại cách xếp đặt
và trang trí nhà thờ
1. Ý nghĩa hay chức năng của nhà thờ
Nhà thờ là “nhà cầu nguyện, nơi cử hành và cất giữ
Thánh Thể, cũng như để tín hữu hội họp, nơi có sự hiện diện của Con Thiên Chúa,
Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Đấng đã hiến dâng vì chúng ta trên bàn thờ tế lễ. Nhà
này cần phải được bảo quản sạch sẽ, xứng hợp với việc cầu nguyện và những buổi
cử hành thánh lễ” (GLC 1181 ; x. PO 5 ; PV 122-127) ; Nhà thờ là nơi cất giữ
Dầu thánh, Dầu Dự tòng và Dầu bệnh nhân (s. 1183), nơi có Giếng Rửa tội và
những bình nước thánh. Ở đó, còn có ghế của Giám Mục và giảng đài.
Nhà thờ còn là nơi giúp tín hữu hồi tâm và thinh
lặng cầu nguyện để nối dài và nội tâm hoá thánh lễ (GLC 1186).
Và Nhà thờ cũng là nơi để đón tiếp hối nhân đến bày
tỏ lòng thống hối và lãnh nhận ơn tha thứ (s. 1185).
2. Xếp đặt và trang trí nhà thờ
Nhà thờ có những chức năng linh thiêng như thế, nên
ta dễ hiểu tại sao Qui Chế Tổng quát (chương
V) nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc trang trí và xếp đặt.
a/
Những nguyên tắc tổng quát
* Các nơi thánh và đồ vật trong Phụng vụ phải đẹp, xứng đáng, đồng thời biểu thị và tượng
trưng cho những thực tại siêu phàm (s. 288),
và một cách nào đó, các đồ vật ấy diễn tả “vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa”, làm cho Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn
(x. PV 122),
đồng thời cảm
hoá các tín hữu, cho họ thêm lòng đạo đức (s. 127).
* “Việc trang trí thánh đường nên chuộng vẻ đơn sơ cao quí hơn là hào nhoáng. Khi
chọn lựa các vật dụng để trang trí, nên dùng đồ thật và theo hướng góp phần giáo huấn các tín hữu và phù hợp với
sự trang nghiêm của nơi thánh” (s. 292).
b/
Trang hoàng bàn thờ
* “Trong mọi thánh đường, phải có bàn thờ cố định tượng trưng cách rõ ràng
và thường xuyên cho Chúa Giêsu Kitô, Tảng đá sống động (1 Pr 2, 4 ; x. Ep 2,
20)” (s. 298).
* “Vì lòng tôn kính đối với việc cử hành tưởng niệm
Chúa và đối với bữa tiệc Mình và Máu Chúa, nên phủ bàn thờ nơi cử hành một khăn màu trắng…” (s. 304).
* “Nên giữ chừng
mực khi trang hoàng bàn thờ”. Trong Mùa Vọng, bàn thờ được chưng hoa cách
vừa phải, thích hợp với đặc tính của Mùa, để không cho thấy quá sớm niềm
vui trọn vẹn
của ngày Giáng Sinh. Mùa Chay không được chưng hoa trên bàn thờ, trừ Chúa Nhật
Laetare (Chúa Nhật IV), các lễ trọng và lễ kính. Việc chưng hoa phải luôn chừng mực, và nên đặt hoa chung quanh
bàn thờ hơn là trên bàn thờ” (s. 305)
c/ Giảng đài
*
Phẩm giá Lời Chúa đòi phải có nơi thích
hợp trong nhà thờ, để Lời Chúa được loan báo và cộng đoàn tự nhiên hướng về
đó trong phần Phụng vụ Lời Chúa.
*
Giảng đài phải cố định, chứ không
phải là một cái giá sách di chuyển được.
* Tại giảng đài sẽ đọc các
bài đọc, thánh vịnh đáp ca và bài công bố Tin Mừng phục sinh. Cũng tại đó, có
thể giảng và đọc các lời nguyện cho mọi người, tức là lời nguyện tín hữu. Phẩm giá của giảng đài đòi hỏi chỉ có thừa tác viên Lời đi lên đó (s.
309). Như vậy, chỉ có một giảng đài mà thôi.
d/
Ghế của chủ tế và các ghế khác
*
Ghế của vị chủ tế phải nói lên vai trò chủ
toạ cộng đoàn và điều khiển kinh nguyện. Do đó, chỗ thích hợp nhất là phía đầu cung thánh, hướng về giáo dân. Tránh khoảng cách quá xa làm cho việc hiệp thông giữa chủ
tế và giáo dân trở nên khó khăn. Phải tránh mọi thứ ngai toà.
*
Cũng đặt ghế trong cung thánh cho các vị đồng tế và các Linh Mục hiện diện
trong buổi cử hành mà không đồng tế, các vị sau này phải mặc áo các phép.
*
Ghế của thầy phó tế được đặt gần ghế
chủ tế (s. 310).
C. Duyệt lại các vật dụng
phụng vụ và phẩm phục
1. Các bình thánh
Trong các vật dụng cần có để cử hành thánh lễ, các bình thánh phải được đặc biệt tôn trọng,
và trong số đó, có chén thánh và đĩa
thánh, dùng để dâng, truyền phép và rước bánh rượu (s. 327).
Các
bình thánh phải được làm bằng kim loại
quí. Nếu được chế từ kim loại có thể bị rỉ sét hay kém hơn vàng, thì phía
trong các bình phải được mạ vàng (s.
328).
2.
Phẩm phục thánh
Trong Hội Thánh là Thân Thể Chúa Kitô, các chi thể không
thi hành cùng một phận vụ như nhau. Khi cử hành thánh lễ, sự khác biệt giữa các
phận vụ được tỏ lộ ra bên ngoài bằng sự khác
biệt các phẩm phục thánh, chúng là dấu chỉ cho biết phần vụ riêng của thừa
tác viên. Tuy nhiên, các phẩm phục thánh
cũng góp phần tăng vẻ đẹp của hành vi thánh (s. 335).
Không
được thay thế áo alba bằng áo các phép, cũng không được mặc một áo dài tới gót thay cho áo alba, khi phải mặc áo
lễ hay áo phó tế (s. 336).
Nên
biết là vẻ đẹp và sự trang nhã của phẩm phục không hệ tại nhiều trang trí đính
thêm vào, nhưng ở tại chất liệu và hình dáng. Các trang trí phải mang những
hình dung hay biểu tượng chỉ về ý nghĩa của cử hành phụng vụ, phải loại bỏ mọi
trang trí bất xứng với ý nghĩa này (s. 344).
KẾT LUẬN
“Thánh Thể là trung tâm của toàn thể đời sống Kitô
giáo” (QC 16 ), là “nguồn mạch tột đỉnh của đời sống Kitô hữu” (LG 11 ), là
“trung tâm của đời sống và tác vụ của Linh Mục” (EE 31).
Vì thế, “chúng ta hãy làm tất cả để Thánh Thể ngày
càng trở nên suối nguồn sự sống và ánh
sáng cho lương tâm của mọi anh em chị em chúng ta trong tất cả các cộng
đoàn, trong sự hiệp nhất phổ quát của Hội Thánh Chúa Kitô trên trái đất này”
(DC 13).