PHỤNG VỤ THÁNH
THỂ
Lm. Micae Trần Đình Quảng
(L’Eucharistie : source et sommet de la vie et de la Mission
de l’Eglise – Lineamenta, ch.IV)
- “Phụng Vụ có tính chất phổ quát và có thể nói là tính chất
vũ trụ, vì là mối dây nối kết trời đất, bao gồm và thấm nhập toàn thể thụ tạo”
(GHTT
8)
- Trọng tâm của Phụng Vụ này là Đức Kitô. Việc Ngài Nhập
Thể và Thăng Thiên làm cho trời và đất có thể liên lạc với nhau. Ngài là catholicus Patris sacerdos (Tertullianô)
là Chủ Tế vĩ đại, là Tư Tế tối cao, đưa sự sống và ơn cứu độ từ trời cho tạo
vật dưới đất. Sự hiện diện của Ngài giữa các tín hữu tụ họp lại bất cứ ở đâu,
để cử hành Thánh Thể, làm cho đất trở thành trời.
- Những yếu tố chủ chốt là thừa tác
viên, người lãnh nhận và cử chỉ hữu hình. Thừa tác viên là linh mục. Người lãnh
nhận là người đã được rửa tội, có lòng ngay và tâm hồn xứng đáng. Về cử chỉ hữu
hình : cần có bánh và rượu (nước không cần thiết để cử chỉ thành sự), với lời
đọc chủ yếu và cần thiết là lời truyền phép.
- Thánh lễ đồng tế biểu lộ sâu sắc sự
duy nhất của chức tư tế, của lễ vật và của dân Chúa, phải được quy định bằng
những quy tắc rõ ràng và chính xác.
- Không chấp nhận các sáng tạo cá
nhân tuỳ hứng, các giải thích sai lạc, các chỉ trích về những gì hợp pháp.
- Đây là hành vi riêng cho Nghi Lễ
Rôma : thừa nhận mình là tội nhân, thống hối nội tâm, muốn được Thiên Chúa và
các anh chị em tha thứ. Đây không phải là xét mình.
- Hành vi này kết thúc bằng việc kêu
cầu Chúa thương xót.
- Cùng với lương thực Thánh Thể là
lương thực lời Chúa được ban cho ta. Nội dung chủ yếu của lời Chúa là chính Đức
Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian để mạc khải cho ta biết Thiên
Chúa và để ban cho ta lương thực không hư nát.
- Dân Chúa đáp lại lời mạc khải này
bằng việc tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính. Kinh này không thể thêm thắt
hay thay đổi, là một trong những dây liên kết cần thiết cho phép đến gần Thánh
Thể.
- Trong Nghi Lễ Rôma, việc chuẩn bị
lễ phẩm khởi đầu cho Phụng Vụ Thánh Thể. Ngoài bánh và rượu, có thể dâng những
lễ phẩm khác dành cho công việc bác ái, từ thiện. Việc dâng những lễ phẩm này
nhấn mạnh dây liên kết vững chắc giữ Thánh Thể và lệnh truyền yêu thương.
- Chỉ có bánh và rượu được đặt trên
bàn thờ, để tỏ lòng tôn kính đối với những yếu tố sẽ trở thành Mình Máu Chúa.
- Kinh Nguyện Thánh Thể khởi đầu bằng
lời kêu gọi: “Hãy nâng tâm hồn lên”, “hướng về Chúa với lòng kính sợ và xúc
cảm” (Constitutions apostoliques). Theo thánh Gioan Kim Khẩu, “mỗi người, khi
gạt khỏi tâm trí mọi ý tưởng trần tục, và đưa mình hoàn toàn lên trời như thể
đang cùng với các thiên thần Sêraphim bay đến cạnh ngai toà vinh quang, hãy
xướng lên thánh thi chúc tụng Thiên Chúa vinh quang cao vời”. Hành vi trên đây
được biểu thị bằng từ anafora (kinh thượng tiến, nghĩa đen là
hành vi của các tín hữu nâng tâm hồn lên), một từ được Phụng vụ Đông Phương sử
dụng để chỉ Kinh Nguyện Thánh Thể.
- Đáp lại lời mời gọi của chủ sự, các
tín hữu cùng nhau thưa : “Thật là chính đáng”. Thánh Gioan Kim Khẩu nhận xét :
“Tạ ơn là việc làm của cộng đồng. Không chỉ có linh mục tạ ơn, nhưng là toàn
thể dân chúng. Linh mục mở đầu và tiếp ngay sau là các tín hữu nói lên sự tán
thành của họ : ‘Thật là chính đáng’. Chỉ khi đó linh mục mới bắt đầu tạ ơn”.
Điều này cho thấy cả dân Chúa đang tham dự và cùng tiến về Giáo Hội thiên quốc,
mà tột đỉnh là bài ca Thánh, Thánh Thánh.
- Bằng lời tung hô Amen
sau vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể, các tín hữu làm cho mọi lời
linh mục nói thành của mình.
- Hôm trước ngày khổ nạn, Chúa cầm
lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra… và nói với các Tông Đồ. Trong Bữa Tiệc Ly, các ông biểu
thị cho cả Giáo Hội. Lời Chúa ra lệnh cho các ông “Hãy làm việc này mà nhớ đến
Thày” qui về toàn bộ hành vi tạ ơn. Đỉnh điểm của hành vi này là việc bánh rượu
trở thành Mình Máu Chúa, và tin vào lời Ngài.
- Ngay từ đầu, Giáo Hội đã làm như
Chúa truyền, nhưng thực hiện các hành vi (chuẩn bị lễ phẩm, truyền phép, bẻ
bánh, cho rước lễ) tách rời nhau và liên tiếp nhau, để suy niệm và đào sâu ý
nghĩa của từng hành vi. Vì vậy, chẳng hạn sau lời đọc : “Tất cả các con cầm lấy
mà ăn”, không có chuyện bẻ bánh và rước lễ ngay. Ngược lại, vào lúc này mà Hy
Tế bí tích được thực hiện, linh mục cúi đầu, đọc chậm rãi và rõ ràng lời của
Chúa, tạo thuận lợi cho việc chiêm niệm, giúp “cho các tín hữu cảm thấy sự hiện
diện sống động của Đức Kitô” (QC 93).
- Trong những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã
đọc lời kinh này trước lúc truyền phép, khẩn cầu Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần
xuống thánh hoá lễ vật, biến bánh rượu thành Mình Máu Chúa Kitô. Nền tảng của
kinh này là chính lời Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần, sau khi đã lập phép
Thánh Thể (x. Ga 14,26 ; 15,26 ; 16,14). Khoảng giữa thế kỷ IV và V, kinh
này được đề nghị đọc khi có những cuộc tranh luận về thần tính của Chúa Thánh
Thần.
- Các Giáo Phụ đã khẳng định tầm quan
trọng của kinh này, muốn liên kết nó với những lời truyền phép, để dấu chỉ bí
tích có thể được thực hiện. Tuy nhiên, theo Công Đồng Trentô, kinh này không
cần thiết để bí tích Thánh Thể thành sự. Là vì, như thánh Giêronimô lưu ý, “bí
tích mà bạn lãnh nhận được thực hiện qua những lời của Đức Kitô… Thế mà, lời
của Đức Kitô đã tác tạo từ hư vô cái đã chưa có, lại không thể biến đổi những
sự vật đang có thành những cái đã không có sao ? Quả thực, ban sự sống cho các
sự vật thì cũng khó như biến đổi chúng thành những sự vật khác”
- Trong Phụng vụ, Giáo Hội nhớ đến
các thánh trên trời, những người, khi còn sống, đã cố gắng làm mọi sự để tôn
vinh Thiên Chúa, và giờ đây “được liên kết với Chúa Kitô trong một sự kết hợp
thánh và ở bên ngoài thế gian” (Denys l’Aréopagite). Trong số các thánh, Giáo
Hội tiên vàn nhớ đến Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong Thánh Lễ, chúng
ta không những tôn kính các thánh – điều này không xúc phạm đến việc phụng thờ
dâng lên Chúa - mà còn nhờ các ngài cầu bầu và can thiệp cho ta. “Những lời cầu
bầu cho thấy Hy Lễ Tạ Ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo
Hội, cả trần gian lẫn thiên quốc” (QC 79g)
- Giáo Hội cũng nhớ đến những người
đã qua đời, vì Chúa Kitô ban mình cho họ “bằng một cách thức chỉ có mình Ngài
biết” (Cabasilas). Theo thánh Gioan Kim Khẩu, nếu tình trạng của những người
này là tình trạng thanh luyện, thì họ nhận được một ơn không kém ơn của những
người còn sống, là những người giúp họ có được ơn tha thứ những tội lỗi của họ.
- Chúa muốn biến đổi mình thành lương
thực nuôi sống con người. Một trong những biểu tượng truyền thống về lương thực
này, được thấy trong một tài liệu cổ có từ thế kỷ II, là con cá. Một biểu tượng
khác là chim bồ nông. “Pie pellicane Iesu Domine”, thánh Tôma đã
xướng lên như vậy trong Thánh thi Adoro Te devote. Chúa là “bánh từ trời
xuống” (Ga
6,41). Thịt Ngài là của ăn thật, Máu Ngài là của uống thật (Ga
6,55). Sự hiệp thông Thánh Thể nuôi dưỡng sự hiệp thông Giáo Hội, sự hiệp thông
các thánh. Quả thực, “vì chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều người cũng chỉ
là một thân thể” (1Cr 10,17).
- Thánh Thể là bữa tiệc vượt qua của
Con Chiên bị sát tế. Thế nên, các tín hữu đã được chuẩn bị như nghi thức ấn định,
nên rước lễ để tham dự đầy đủ vào Thánh Lễ. Không cho những người có tội nặng
rước lễ. Điều này được chứng thực bằng chính những lời lúc lập phép Thánh Thể
cũng như bằng những anaphore cổ xưa. Việc rước lễ là thành
phần của diễn tiến hy tế, nhưng không phải là thành phần chủ yếu (CĐ Trentô).
Bởi vậy, có thể tham dự Thánh lễ cách thành sự dù không rước lễ. Tuy nhiên, vẫn
phải nhấn mạnh rằng không thể có tham dự đầy đủ nếu không có sự chuẩn bị đúng
đắn.
- Có những nghi thức giúp cho sự
chuẩn bị này :
Khi đọc kinh này, “chúng ta xin Chúa
ban bánh hằng ngày, bánh này đối với kitô hữu còn ám chỉ bánh Thánh Thể ; lại
xin Chúa thanh tẩy tâm hồn cho khỏi mọi tội lỗi, hầu của thánh được thực sự ban
cho những người thánh” (QC 81). Khi xin Chúa tha thứ, ta cũng xin
cho mình biết tha thứ, để ý muốn của Thiên Chúa được thực hiện nơi ta, và ta
được trở nên xứng đáng lãnh nhận Bí Tích.
Thánh Thể ban bình an và ơn cứu độ là
chính Đức Kitô (Ep 2,13-17). Thánh Thể là dây liên kết bình an (Ep
4,3). Sự bình an là danh xưng mà các kitô hữu tiên khởi đã gán cho Thánh Thể,
vì nó có nghĩa là quy tụ, vượt qua những rào cản, giúp con người lại hiệp nhất
với nhau.
Các tín hữu trước hết cầu xin Chúa
ban bình an. Cầu xin như vậy cũng là cầu xin Đức Kitô đến, vì Ngài là sự bình
an. “Người nào tìm kiếm sự bình an thì tìm kiếm Đức Kitô, vì Ngài là sự bình
an” (Basiliô). Lời cầu xin trên đây cũng là lời cầu xin cho sự hiệp nhất Giáo
Hội, cho gia đình nhân loại.
Cử chỉ chúc bình an được sách
Constitutions apostoliques mô tả như sau : “Các thành viên thuộc hàng giáo sĩ
hãy chào chúc giám mục, còn trong giáo dân thì đàn ông chào chúc đàn ông, đàn
bà chào chúc đàn bà”. Nghi thức không buộc phải làm cử chỉ. Khi làm thì, theo
Phụng Vụ Rôma, làm với những người gần nhất, tránh rời chỗ và gây chia trí.
Việc bẻ bánh muốn nói lên rằng chúng
ta tuy nhiều, nhưng khi hiệp thông vào tấm bánh bẻ ra, chúng ta làm nên một
thân thể. Thánh Gioan Kim Khẩu nói : “Điều mà Đức Kitô đã không phải chịu trên
thập giá, thì Ngài lại chịu trong hy lễ vì bạn, và Ngài chấp nhận bị bẻ ra để
có thể làm cho mọi người được no thoả”. Nhưng, dù bị bẻ ra, Đức Kitô vẫn không
bị chia xẻ. Mỗi mẩu bánh thánh đều là tất cả Đức Kitô.
Việc bỏ mẩu bánh nhỏ vào rượu, tuy là
một cử chỉ đơn giản, nhưng có ý nghĩa lớn lao, ca ngợi công trình của Thần Khí,
từ lúc Chúa nhập thể cho tới lúc Ngài phục sinh. Phụng vụ byzantin cắt nghĩa cử
chỉ này như một sự “viên mãn của Chúa Thánh Thần”.
Do linh mục làm riêng, bằng một lời
kinh đọc thầm và một giây lát thinh lặng. Các tín hữu cũng theo gương đó mà
chuẩn bị.
- Linh mục giơ cao Mình Thánh như
Thân xác Đức Kitô được đưa lên cao trên thập giá (Jean Damascène) và, theo
phụng vụ la tinh, ngài đọc : “Đây Chiên Thiên Chúa…”, còn theo phụng vụ
byzantin, ngài đọc : “của thánh dành cho những người thánh”. Ngài không mời gọi
mọi người, nhưng chỉ mời gọi những ai xứng đáng, kể cả những người đang cố gắng
vươn tới sự hoàn hảo (Cabasilas). Theo phụng vụ Roma, sau lời đọc trên đây,
linh mục cùng với các tín hữu đọc chung câu : “Lạy Chúa, con chẳng đáng…” “để
bày tỏ lòng khiêm nhường” (QC 84).
- Theo các nguồn tài liệu cổ, người
ta coi hiệp lễ là lãnh nhận Hồng ân, với thái độ tôn thờ. Bởi vậy, trước khi
lên rước lễ, khuyên các tín hữu có lòng tôn sùng thật sự.
- Cuối cùng, qua lời nguyện hiệp lễ,
linh mục cầu xin cho mầu nhiệm đã cử hành được sinh hoa kết quả, vì đây là mục
tiêu mà Thánh Lễ nhằm tới (QC 17.89)