TÔN
THỜ
SỰ
HIỆN DIỆN THÁNH THỂ
Lm Giêrađô Trần Công Dụ
Công đồng Vatican II đã khơi lên một nỗ lực
đặc biệt để làm cho việc cử hành Thánh Thể sống động hơn và tạo bầu khí cầu
nguyện sốt sắng hơn. Một trong những kết quả hiển nhiên nhất của nỗ lực này là
sự gia tăng việc tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể tại nhiều nơi, người ta siêng
năng rước lễ hơn. Qua đó, ta có thể khẳng định một trong những chân lý được
Chúa Giêsu dạy rõ ràng trong giáo huấn của Tin Mừng đã được các kitô hữu đón
nhận và thực hành nhiều hơn đó là sự cần thiết phải nuôi mình bằng mình Chúa
Kitô và uống máu Người để có sự sống thiêng liêng và vĩnh cửu.
Tuy nhiên việc nhấn mạnh đến bữa tiệc không
được dẫn đến việc coi nhẹ các khía cạnh khác của Thánh Thể. Việc nhấn mạnh này
không được làm cho chúng ta quên rằng trong cử hành Thánh Thể có việc dâng hiến
một hy tế, làm cho hy tế thập giá hiện diện trong các bí tích và góp phần làm
phát triển sự sống của Chúa Kitô giữa thế gian. Nhờ hy tế này, linh mục và mọi người
tham dự được mời gọi kết hiệp sự dâng hiến bản thân với sự dâng hiến độc nhất
có sức cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Qua đó phép Thánh Thể đưa người kitô hữu vào
sâu hơn trong mầu nhiệm cuộc khổ nạn và phục sinh, hầu làm sinh động họ bằng
một tình yêu quảng đại hơn để có thể đương đầu với những thử thách, và cho họ
được đầy tràn niềm vui chiếu tỏa từ Chúa Kitô vinh thắng. Như thế con đường
đích thật mà trên đó mỗi kitô hữu được mời gọi tiến bước được sáng tỏ hy tế của
Đấng Cứu Thế, với kết cuộc tốt đẹp, đem lại một ý nghĩa cho mọi đau khổ của
cuộc sống và bảo đảm sẽ kết thúc trong niềm vui.
Mặc dù nhận thấy có một sự tham dự sâu đậm hơn
vào bữa tiệc Thánh Thể và ước mong sẽ có một ý thức sắc bén hơn để dấn thân vào
hy tế cứu chuộc, chúng ta không thể để trong bóng tối một khía cạnh khác của
mầu nhiệm Thánh Thể. Đó là sự hiện diện Thánh Thể là đối tượng của một việc tôn
thờ đặc biệt. Phải nhận rằng việc tôn thờ này đã chỉ được khẳng định khá muộn
trong Giáo Hội, vì chỉ vào thời Trung Cổ nó mới được chú trọng. Nó đã thu hút
mạnh mẽ nhiều kitô hữu, nhưng cũng đã bị chỉ trích gay gắt vào thời Cải Cách
(Tin Lành), song chính những cuộc đả kích này đã tạo cơ hội để được huấn quyền
tán thành cách long trọng.Công đồng Trentô đã xác định tính cách chính đáng của
việc tôn thờ bí tích cực thánh, việc mừng kính lễ Mình Máu Thánh Chúa, các cuộc
kiệu rước Thánh Thể và những biểu hiện công cộng khác của lòng đạo đức bình dân
tôn thờ “Chúa Kitô, Con Một Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể cực thánh”. [1]
Lời tuyên bố trên của công đồng Trentô đem đến
cho chúng ta xác tín rằng việc tôn thờ Thánh Thể không phải là một sự lệch lạc
đã phát sinh do những thúc đẩy không được kiểm soát của lòng sùng mộ bình dân,
nhưng là một hoa trái đích thật của chân lý được mạc khải, mà ý nghĩa và những
hệ quả đã xuất hiện rõ nét hơn trước con mắt đức tin.
Chúng ta được công đồng Trentô mời gọi nỗ lực
đào sâu chân lý này. Chúng ta phải đặc biệt nhận ra hoạt động của Chúa Thánh
Thần là Đấng đã giúp Giáo Hội hiểu rõ hơn những lời Chúa Giêsu đã nói. Đây là
một trong những trường hợp qua đó chúng ta nhận thấy vai trò của Đấng Bảo Trợ
như Chúa Giêsu đã loan báo “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân
danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi
điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Chúa Thánh Thần chỉ làm sáng tỏ
điều Chúa Giêsu đã nói sứ mạng của Ngài là dạy “sự thật” toàn diện (Ga
16,13), giúp cho hiểu những gì còn mờ tối, khó nắm bắt được trong giáo huấn của
Tin Mừng.
Trong giáo huấn đó, Thánh Thể được trình bày
rõ ràng như một bữa ăn, và một bữa ăn bao hàm việc dâng hiến hy tế cứu chuộc.
Bữa ăn này cũng bao gồm lời khẳng định về sự hiện diện của mình và máu Chúa
Kitô. Nhưng điều xem ra ít rõ nét hơn là sự hiện diện này phải được tôn thờ
cách đặc biệt. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã giúp khám ý hướng được ẩn giấu
trong các lời Tin Mừng. Vậy chúng ta cần phải trở lại với những lời này để suy
niệm về tầm mức đích thực của chúng.
Khi lập phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đã ban mình
Người để ăn và máu Người để uống. Người muốn khai trương một bữa ăn nhằm đem
đến cho các môn đệ chính sự sống của n nhằm đem đến cho các môn đệ chính sự
sống của Người, và, một cách đặc biệt hơn, sức mạnh tinh thần giúp họ chịu đựng
được cơn thử thách do cuộc khổ nạn của Người. Người đã biến bữa ăn vượt qua
thành một bữa ăn mới trong đó chính Người trở nên của ăn và của uống. Việc chọn
bánh và rượu để biểu thị việc Người ban thịt và máu mình rõ ràng xác nhận ý hướng
của Người là trao ban chính mình như là của ăn và của uống của một bữa ăn có
mục đích thiêng liêng.
Tuy nhiên, ta có thể ghi nhận trong những lời
lập phép Thánh Thể một nét đặc biệt, khả dĩ chỉ dẫn một ý hướng rộng lớn hơn.
Chúa Giêsu không nói “Hãy cầm lấy và ăn mình Thầy”, “hãy cầm lấy và uống máu
Thầy”. Tuy vẫn mời gọi các môn đệ ăn và uống, Người nói “Đây là mình Thầy hiến
tế vì anh em” ; “đây là máu Thầy … đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt
26,26-28). Trước hết Người khẳng định, một các độc lập, tính hiện thực của mình
và máu Người, với mục đích hiến tế vì nhân loại. Người công bố sự hiện diện của
Người xét như một ngôi vị, để cho mọi người nhận biết trước hết rằng bánh đã
trở nên mình Người và rượu đã trở nên máu Người.
Lời khẳng định này về sự hiện diện thể xác có
một giá trị tuyệt đối mà tự thân không bị hạn hẹp trong phạm vi bữa ăn. Ở đây
có việc Chúa Kitô trao ban chính bản thân Người, dĩ nhiên là Người nghĩ đến một
bữa ăn, nhưng gán cho ân ban này một giá trị vĩnh viễn không chỉ giới hạn vào mục
đích của bàn ăn.
Lời khẳng định về sự hiện diện của mình và máu
Chúa tự bản chất đòi hỏi một sự gắn bó đức tin, trước khi dùng bữa. Sự gắn bó
đức tin này có giá trị riêng của nó, trước cả bữa ăn. Trước khi được trao ban
làm lương thực, mình Chúa Kitô đòi hỏi một sự nhận định cao vời hơn để đáp lại
sự kiện đầu tiên là sự hiện diện nhiệm mầu của Người.
Sự nhận định này lại càng cần thiết hơn, vì
lời khẳng định về tính hiện thực của thịt và máu, trái ngược với những vẻ bên
ngoài rất bình thường của bánh và rượu, có một tính cách gây ngỡ ngàng và đòi
hỏi một bước nhảy của đức tin. Mọi việc trình bày về Thánh Thể đều bao hàm một
thách thức, và bữa ăn chỉ có thể có ý nghĩa nếu khắc phục được thách thức này
bằng sự ưng thuận của đức tin.
Ngoài ra, những từ “đây là thịt Thầy”, “đây là
máu Thầy”, gợi lên một sự hiện diện của ngôi vị Chúa Kitô. Đây không phải là sự
hiện diện của những sự vật. Từ Do thái “thịt” và cặp “thịt và máu” được dùng để
chỉ con người trong tình trạng yếu đuối. Khi dùng từ ngữ này, Chúa Giêsu ám chỉ
đến chính bản thân Người, trong tình trạng trút bỏ mọi sự là đặc tính của tình
trạng làm của ăn và của uống. Vậy phải hiểu lời khẳng định về sự hiện diện như
một sự hiện diện của ngôi vị, muốn đi vào mối tương quan với các ngôi vị con
người vả lại ý định tạo lập tương quan liên vị này được chứng thực trong bữa ăn
Thánh Thể “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại
trong người ấy.” (Ga 6,56 ).
Vậy những lời lập phép Thánh Thể diễn đạt ý
định của Chúa Kitô muốn ban cho nhân loại sự hiện diện ngôi vị của Người. Ý
định này gắn liền với bữa ăn Thánh Thể, nhưng vì được phát biểu trước và một
cách tuyệt đối, nên có thể hàm chứa một ý muốn bao quát hơn, là khơi lên một
tâm tình tin mến đối với sự hiện diện của mình và máu Chúa. Trong lời khẳng
định về một sự hiện diện của ngôi vị có thể biểu lộ ước muốn làm nảy sinh một
việc tôn sùng sự hiện diện, được phô diễn hòa hợp với sự gắn bó đức tin và đức
mến mà bữa ăn Thánh Thể đòi hỏi.
Ý hướng của Chúa Kitô muốn làm nảy sinh một
việc tôn thờ sự hiện diện của Người có căn nguyên trong một đặc tính của đạo do
thái trong Cựu Ước. Niềm các tín về sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ
sự phát triển của lịch sử dân tộc là điều thiết yếu đối với đức tin của người
do thái. Nét đặc biệt cần ghi nhận là Thiên Chúa không chỉ được xem như hiện
diện cách thiêng liêng giữa dân Người sự hiện diện của Người được biểu lộ cách
đặc biệt hơn ở một nơi chốn nhất định và mang một giá trị cụ thể hơn ở nơi đó.
Vào thời dân du mục sống dưới những tấm lều, thì có một cái lều bên ngoài trại
được dành riêng cho Thiên Chúa. Việc ấn định một cái lều cho thấy ý của Thiên
Chúa muốn cư ngụ trên trần gian theo cách của con người. Thiên Chúa biểu lộ
tình liên đới với dân của Người và chứng tỏ một lòng nhân hậu khiến cho ai cũng
có thể đến với Người.
Sách Xuất Hành mô tả cho chúng ta làm sao mỗi
người có thể đến thỉnh ý Chúa trong lều được gọi là “lều hội ngộ”. Thuật ngữ
này rất có ý nghĩa Thiên Chúa cư ngụ trong một cái lều bên ngoài trại, nhưng
Người không muốn biến thành một nơi cư trú đơn độc, Người cư ngụ tại nơi này
chủ yếu là để gặp gỡ và tiếp xúc với dân. Cách đặc biệt hơn, lều này là nơi
Chúa thích đàm đạo với ông Môsê “Đức Chúa đàm đạo với ông Môse, diện đối diện,
như người ta với nhau”. (Xh 33,11). Người nhận những lời cầu xin
của Môsê (Xh
33,17).
Sau này dân không còn sống dưới lều nhưng
trong nhà. Thiên Chúa đến cư ngụ trong ngôi nhà Salômon đã xây lên để tôn kính
Người. Đền thờ Giêrusalem được đặc ân có một không hai là nơi được tuyển chọn
cho Thiên Chúa hiện diện. Chính sự hiện diện này đem đến giá trị cho đền thờ.
Chúa Giêsu đã được giáo dục và lớn lên trong
một bầu khí tôn giáo mà sự hiện diện của Thiên Chúa trong đền thờ được xem như
là kho tàng quí giá nhất của Israel. Vì thế chúng ta khó lòng hiểu được là
Người lại không muốn thiết lập trong tôn giáo Người sáng lập một việc phụng tự
đối với sự hiện diện thần linh. Phải chăng chính Người đã không tuyên bố rằng,
nơi bản thân Người, sự hiện diện thần linh được ban tặng một cách trổi vượt hơn
sự hiện diện trong đền thờ “Tôi nói cho các ông hay ở đây còn lớn hơn đền thờ
nữa” (Mt
12,6).
Quả thật Chúa Giêsu có loan báo sự hiện diện
của Thiên Chúa trong đền thờ sẽ chấm dứt (x. Mt 23,38). Vào giờ Người
chết, “bức màn trướng trong đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc
15,38). Việc màn đền thờ bị xé ra là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa tan
biến mất, sự hiện diện vốn đem đến giá trị cho đền thờ. Tuy nhiên, ta không thể
quên một lời khác qua đó Chúa Giêsu loan báo ngôi đền thờ mới mà sẽ thay thế
đền thờ cũ “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”
(Ga
2,19). Những người làm chủ đền thờ Giêrusalem là những người chịu trách nhiệm
chính về việc phá huỷ đền thờ khi lên án xử tử Đấng Mêsia, họ đã gây nên sự sụp
đổ đền thờ về mặt thiêng liêng và việc Thiên Chúa không còn hiện diện nơi đó.
Nhưng Chúa Giêsu đã xây dựng lại ngôi đền thờ đích thật trong ba ngày nhờ sự
phục sinh của Người, Người đã thiết lập việc phụng tự mới, trong đó chứa đựng
sự hiện diện của Thiên Chúa nơi bản thân Người. Đền thờ Giêrusalem từ nay được
thay thế bằng một đền thờ được xây dựng trên chính bản thân Chúa Kitô.
Vậy, không hề chấm dứt việc tôn thờ sự hiện
diện của Thiên Chúa, Chúa Kitô đã muốn đem đến cho nó một tầm mức rộng lớn
nhất. Từ nay việc phụng tự sẽ gắn liền với bản thân Chúa Kitô phục sinh, như là
việc phụng tự của đền thờ mới. Hồng ân mà Thiên Chúa ban xưa kia là sự hiện
diện của Người giữa dân Người không bị huỷ bỏ, nhưng được hoàn tất cách cao vời
nhất nơi Chúa Kitô. Nếu xưa kia Thiên Chúa cư ngụ trong một cái lều hay một
ngôi nhà, để cho dân Người có thể đến với Người, thì Con Thiên Chúa, Đấng đã
muốn cư ngụ giữa chúng ta nhờ việc nhập thể, đã ước muốn một sự hiện diện bảo
đảm và dễ gặp gỡ hơn.
Việc tôn thờ sự hiện diện trong giao ước mới
không thể thấp kém hơn trong giao ước cũ. Vậy xem ra mọi sự đều mời gọi chúng
ta nghĩ rằng Chúa Kitô đã có ý hướng phát triển tối đa việc phụng tự này.
Chúa Giêsu cho thấy Người hiểu tầm quan trọng
của sự hiện diện của Người trên trần gian như biến cố độc nhất lịch sử thế giới
“Còn anh em, mắt anh thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì
được nghe. Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công
chính đã mong thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em
đang nghe, mà không được nghe.” (Mt 13,16-17). Đây là một sự hiện diện khả
giác, sự hiện diện của Đấng cho ta thấy và nghe Người. Chúa Giêsu muốn cho
những người được hưởng sự hiện diện này biết quí trọng điều ấy. Người biết giá
trị của hồng ân là sự hiện diện của bản thân Người.
Vậy liệu ta có thể ước đoán ý hướng của Người
muốn mở rộng ân huệ là sự hiện diện của Người đến những ai đã không được hưởng
sự hiện diện hữu hình của Người không ? Nếu người ước mong cho người ta quí
trọng sự hiện diện của Người, thì làm sao Người lại không tận dụng khả năng do
việc thiết lập phép Thánh Thể cống hiến để phổ biến sự hiện diện này một cách
rộng rãi hết sức có thể Người biết niềm ước ao của nhân loại muốn hưởng sự hiện
diện của Người, thì làm sao Người lại không muốn ban cho mọi người hạnh phúc
của những ai đã gặp Người
Lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ trước khi
Người lên trời cũng rất đặc biệt. Đó là những lời cuối cùng Tin Mừng Matthêô đã
ghi lại “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28,20). Khi sắp ra đi, Chúa Giêsu bảo đảm cho các môn đệ không những sự trợ
giúp của Người, nhưng chính sự hiện diện liên lỉ của Người. Người biết sự vắng
mặt của Người có nguy cơ làm cho các môn đệ phải u sầu Người hứa cho các ông
một sự hiện diện trường tồn. Đó là một sự hiện diện sẽ đồng hành với Giáo Hội
trong tất cả tiến trình phát triển của Giáo Hội, vì sẽ tồn tại cho đến tận thế.
Đây không còn là một sự hiện diện khả giác sự
hiện diện khả giác này đã chấm dứt từ ngày Thăng Thiên. Đây là một sự hiện diện
thiêng liêng, phải được hiểu một cách cụ thể, như một sự hiện diện thân mật, vì
những lời “Thầy ở với anh em” diễn tả một sự kết hiệp mật thiết, không thể phân
ly, được bảo đảm bởi sự hiện diện trường tồn vĩnh hằng của Thiên Chúa. Một sự
hiện diện thường nhật, đi vào diễn tiến của từng ngày.
Liệu Chúa Giêsu đã có thể hứa sự hiện diện này
mà không hề nghĩ đến phép Thánh Thể không Phải chăng Người đã không dự kiến một
sự hiện diện Thánh Thể sẽ đi theo đời sống và sự bành trướng của Giáo Hội cho
đến tận thế Nếu chỉ xét riêng, một cách độc lập, thì những lời Chúa Giêsu nói
trước khi lìa bỏ thế gian không có chứa đựng một ám chỉ nào về Thánh Thể, nhưng
nhắm một cách khái quát đến tất cả những gì bao hàm trong lời khẳng định “Thầy
ở với anh em” theo nghĩa đó, những lời ấy có thể bao hàm ý hướng một sự hiện
diện Thánh Thể nhưng không diễn đạt ý hướng đó.
Tuy nhiên, chúng ta phải giả thiết có ý hướng
này trong những lời cuối cùng bảo đảm một sự hiện diện trường tồn. Thực vậy,
cách chung Chúa Giêsu không chỉ thiết lập một chế độ trợ giúp thuần tuý thiêng
liêng Người đã muốn thông ban chính sự sống của Người qua phép Thánh Thể, đến
độ làm cho lương thực Thánh Thể trở thành một yêu tố thiết yếu của sự phát
triển đời sống tâm linh. Đồng thời, chúng ta phải nghĩ rằng Chúa Giêsu cũng
muốn cung cấp cho các tín hữu không phải chỉ một sự trợ giúp nhất thời nhưng
một sự hiện diện Thánh Thể trường tồn để đem đến cho những lời “Thầy ở với anh
em” một sức mạnh có tính bí tích và làm cho sự tiếp xúc của các tín hữu với
ngôi vị thần linh của Người hiệu
quả hơn.
Ý hướng của Chúa Giêsu muốn làm nảy sinh một
việc tôn thờ sự hiện diện Thánh Thể còn có thể được nhận thấy qua vị trí đặc
biệt mà Người đã muốn dành cho Thánh Thể trong kế hoạch bí tích. Khi thiết lập
phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đã muốn trao ban cho Giáo Hội một bí tích phép Thánh
Thể được xem là một trong bảy bí tích. Nhưng không phải là một bí tích giống
các bí tích khác, mà có một tính cách đặc biệt. Các bí tích khác đem lại ân
sủng bằng cách biểu thị ân sủng. Phép Thánh Thể là bí tích duy nhất không những
thông ban ân sủng mà còn trao ban chính tác giả của ân sủng. Phép Thánh Thể đem
đến sự sống thần linh bằng cách trao ban chính bản thân Chúa Kitô.
Việc
Chúa Kitô trao ban
chính bản thân Người được thực hiện trong bữa ăn. Chính Chúa Kitô tự ban mình
làm lương thực và của uống nhờ mình và máu Người. Đó là chân lý tỏ hiện trong
việc loan báo phép Thánh Thể “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi
sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”
(Ga
6,57). “Kẻ ăn tôi” là một thuật ngữ nhấn mạnh đến sự kiện nghịch thường là Chúa
Kitô để cho ta ăn chính “ngôi vị “của Người. Nó tương ứng với lời khẳng định
được Chúa lập lại nhiều lần “Tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,35.48). “Tôi là bánh
hằng sống” (Ga
6,51). Thuật ngữ “tôi là bánh” nhấn mạnh đến chính việc ngôi vị dấn mình làm
lương thực trong bữa ăn.
Cần lưu ý lời khẳng định này đòi hỏi đức tin
cách đặc biệt đến độ ta phải gán cho nó một tầm mức tổng quát. Chúa Kitô đòi
hỏi sự gắn bó đức tin với bản thân Người như là nguồn sự sống Người nêu lên đòi
hỏi này trong bối cảnh lời hứa về phép Thánh Thể, nhưng lời Người tuyên bố,
cùng với đức tin nó đòi hỏi, dường như vượt ra ngoài khung cảnh này và mang một
giá trị phổ quát “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sống đời đời. Tôi
là bánh trường sinh…” (Ga 6,47-48).
Việc cố ý nhấn mạnh đến sự hiện diện của bản
thân Chúa Kitô trong hồng ân Thánh Thể khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu đã
ước ao một sự đáp trả thích hợp, để đón nhận hồng ân thần linh này, một sự đáp
trả xét đến tính cách đặc biệt của phép Thánh Thể. Vì ở đây Chúa Kitô trao ban
chính bản thân Người, thì việc đón nhận ngôi vị này phải được bảo đảm đặc biệt
hơn.
Đã hẳn việc đón nhận này có thể được biểu lộ
qua phụng vụ bữa ăn, tuy nhiên bữa ăn có giá trị riêng của nó, với một mục đích
phong phú, mà thường không cho phép dễ dàng biểu lộ lòng quí trọng đối với sự
hiện diện của ngôi vị. Trong lịch sử Giáo Hội, sự phát triển của việc tôn thờ
Thánh Thể đã nảy sinh từ nhu cầu nhìn nhận minh nhiên hơn sự hiện diện này và
mừøng kính mầu nhiệm của sự hiện diện ấy.
Việc tôn thờ Thánh Thể làm sáng tỏ một khía
cạnh của Thánh Thể thuộc phần cốt yêu của việc thiết lập để thông ban ân sủng,
hồng ân trao phó trước cho nhân loại ngôi vị nhờ đó ân sủng được tuôn đổ.
Ước muốn của Chúa Kitô về một việc tôn thờ đặc
biệt đối với sự hiện diện Thánh Thể được xác nhận qua nhiều chỉ dẫn của Tin
Mừng.
Có một giai thoại cho thấy Người chờ đợi và
tán thành việc tôn thờ dành cho bản thân Người. Đầy lòng biết ơn vì phép lạ vĩ
đại Chúa đã phục sinh em mình, Maria làng Bêtania đã mua một bình dầu thơm rất
đắt giá và đổ trên chân Chúa Giêsu. Phản ứng của Giuđa cho thấy hắn coi trọng
tiền bạc hơn Thầy mình đến mức nào “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm
đồng bạc mà cho người nghèo “(Ga 12,5). Tác giả sách Tin Mừng nhận xét
rằng lời chỉ trích này của Giuđa không phải do mối quan tâm của hắn đối với
người nghèo nhưng vì lòng ham mê tiền bạc. Chúa Giêsu đã lên tiếng bênh vực
Maria. Sau khi biện minh cho cử chỉ hành động của cô, hành động báo trước cách
nhiệm mầu việc mai táng Người, Chúa Giêsu đi đến một điều suy xét tổng quát hơn
“Thật vậy, người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh còn Thầy, anh em không có
mãi đâu.” (Ga
12,8).
Qua những lời này, Chúa Giêsu công bố tính
cách chính đáng và tối thượng của việc tôn kính dành cho bản thân Người. Những
nhu cầu phục vụ người nghèo không thể bị coi nhẹ, nhưng không được miễn cho
chúng ta phải thành thật tôn kính Chúa Kitô. Qua việc xức dầu thơm, Maria đã
bày tỏ việc tôn kính xứng đáng với ngôi vị Chúa Kitô thậm chí cử chỉ của cô còn
được hội nhập vào ý định của Thiên Chúa trong hy tế cứu chuộc, đem đến cho nó
một mục đích cao cả hơn, nghĩa là nhắm đến việc mai táng Người.
Trước đó Maria đã chứng tỏ một thái độ báo
trước thế nào là việc tôn kính dành cho bản thân Đấng Cứu Thế. Khi Chúa Giêsu
đến Bêtania, Người đã được Martha tiếp đón Martha đóng vai chủ nhà và lo việc
tiếp khách và chuẩn bị bữa ăn. Còn Maria, theo lời thánh Luca, thì ngồi dưới
chân Chúa và lắng nghe lời Người. Cảm thấy mình quá bận rộn vì việc phục vụ,
Martha xin Thầy can thiệp “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không
để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” (Lc 10,40). Thực ra, đây là
một vấn đề có tầm mức tổng quát, là xem điều gì quan trọng nhất, điều gì ít
quan trọng hơn. Phải chăng việc phục vụ tha nhân trọng hơn mọi việc hành xử
khác, ngay cả việc chiêm niệm và lắng nghe lời Chúa. Sau khi trách Martha để
cho mình lo lắng về quá nhiều chuyện, Chúa Giêsu cho Maria có lý cô em đã chọn
phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi (Lc 10,38-42).
Chúa Kitô muốn cho chúng ta hiểu giá trị hàng
đầu của việc tôn sùng dành cho bản thân Người. Chắc hẳn, Người đánh giá cao sự
tận tuỵ của Martha vì nhận ra đó là hình ảnh của chính động thái của Người, vì
Con Người đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ (Mt
20,28).Tuy nhiên, khi nhấn mạnh việc Maria đã chọn phần tốt nhất, Người cho
thấy rõ vị trí tối thượng của tình yêu dành cho bản thân Người. Người cũng cho
chúng ta hiểu rằng vị trí tối thượng này không phải là một yêu sách do lòng ích
kỷ, Người là đón nhận một hồng ân đem lại hạnh phúc cho kẻ lãnh nhận đó là phần
tốt nhất.
Chính phần tốt nhất này được ban tặng cho
chúng ta trong việc tôn thờ sự hiện diện Thánh Thể, và vì thế Chúa Giêsu đã
muốn cách đặc biệt việc tôn thờ này.
Việc tôn thờ Thánh Thể giúp phát triển một bầu
khí đức tin và thờ phượng.
Chúa Giêsu đã đặc biệt kêu gọi đức tin của
những kẻ nghe Người khi Người loan báo phép Thánh Thể. Người đã gặp phải nhiều
phản ứng không tin không những nơi đám đông dân chúng mà cả trong số các môn
đệ, khi Người nói lên sự cần thiết phải ăn thịt và uống máu Con Người để có sự
sống đích thật, sự sống đời đời. Tuy nhiên Người cũng đã nhận được một sự gắn
bó đức tin long trọng từ Phêrô, đại diện cho nhóm mười hai.
Đức tin mà phép Thánh Thể đòi hỏi là đức tin
trong toàn bộ mầu nhiệm kitô giáo, và đặc biệt, đức tin vào Chúa Kitô phục sinh
và thăng thiên. Đó là một đức tin gắn bó cách cá vị với Chúa Kitô và đáp trả
lại sự hiện diện của bản thân Người. Đó là đức tin đón nhận những lời “Này là
mình Thầy”, “Này là máu Thầy” qua việc tin vào thực tại vô hình được diễn tả
trong đó.
Việc tôn thờ gắn liền với đức tin. Mối liên
kết giữa đức tin và thờ phượng đã xuất hiện trong tường thuật Tin Mừng về việc
chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Chúa Giêsu đòi hỏi người này, sau khi được
chữa lành, phải làm một hành vi đức tin “Anh có tin vào Con Người không”. Qua
đó Chúa muốn đem đến cho phép lạ tất cả ý nghĩa của nó Người đem ánh sáng đến
không những cho con mắt mà cho cả linh hồn. Hành vi đức tin đã được chuẩn bị
qua các cuộc tranh luận của người mù với các người biệt phái, sau khi được chữa
lành, vì những người biệt phái không chịu chấp nhận phép lạ đã thực sự xảy ra.
Ngỡ ngàng trước kiểu nói bí nhiệm “Con Người”, người này đầy lòng tin tưởng nơi
Chúa Giêsu liền nêu câu hỏi “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin. Anh ta nhận
được câu trả lời như sau “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói nói với anh
đây.” Lập tức anh biểu sự gắn bó đức tin “Thưa Ngài, tôi tin” Sự gắn bó đức tin
này được tiếp nối bằng việc thờ lạy “Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga
9,35-37) Việc tôn thờ sự hiện diện giúp cho việc thờ phượng có thể được diễn
đạt đầy đủ hơn. Sự hiện diện của Chúa Kitô trong nhà tạm làm phát sinh những cử
chỉ thờ phượng và việc trưng bày Mình Thánh Chúa mời gọi một thái độ thờ phượng
chiêm niệm. Trong lòng đạo đức kitô giáo, việc thờ phượng Thánh Thể chứng tỏ
rằng hồng ân Thiên Chúa là sự hiện diện được đón nhận và quí trọng.
Ta phải nhìn nhận trong việc tôn thờ Thánh Thể
một biểu hiện đặc sắc của việc phụng tự. Việc thờ phượng biểu thị chính xác hơn
sự kính tôn dâng lên Đấng mà ta xem như có quyền chủ tể tuyệt đối của Thiên
Chúa, nó biểu lộ lòng tin vào Chúa Kitô, vào ngôi vị thần linh của Con Thiên
Chúa. Việc tôn thờ Thánh Thể nhận ra quyền chủ tể này trong một dấu chỉ khả
giác, nơi đó sự hiện diện của Thiên Chúa được tỏ bày một cách cụ thể và khiêm
hạ nhất.
Thật khó mà có thể nghĩ rằng, khi lập phép
Thánh Thể, Chúa Giêsu đã không dự kiến và chờ đợi sự phát triển sau này của
lòng đạo đức liên quan đến việc tôn thờ Thánh Thể. Người đã khẳng định một cách
thạât mạnh mẽ sự hiện diện của mình và máu Người, làm sao Người lại có thể
không ước muốn những hệ quả của sự hiện diện ấy Liệu Người lại không thoáng
thấy chuyển động của đức tin và việc tôn thờ sẽ diễn ra trong sinh hoạt của
Giáo Hội Chúng ta phải giả thiết rằng tầm nhìn của Người mở rộng đến tương lai
xa xăm và Người đã thoáng thấy ngày mà các nơi thờ phượng sẽ mang đầy đủ giá
trị nhờ sự hiện diện trường tồn của Người. Liệu Người đã không hy vọng rằng
những lời Người nói sẽ ngày càng được hiểu rõ hơn và sẽ làm nảy sinh một chuyển
động ngưỡng mộ dẫn đến việc thiết lập một lễ phụng vụ dành riêng cho việc thờ
kính sự hiện diện Thánh Thể Người đã dự kiến nhiều khía cạnh khác trong sự phát
triển của Giáo Hội, nhưng đặc biệt hơn, tầm quan trọng Người gán cho phép Thánh
Thể đã không thể nào không khiến Người ước mong những lợi ích thiêng liêng mà
việc tôn thờ sự hiện diện và việc thờ phượng Thánh Thể sẽ mang lại cho các tín
hữu.
Người đã chỉ giới hạn vào việc diễn tả chân lý
cốt yêu ở khởi điểm của tất cả sự phát triển này “Này là mình Thầy”, “Này là
máu Thầy”. Người ẩn giấu trong đó những ý hướng sâu xa mà sẽ được bộc lộ trọn
vẹn hơn trong tương lai của Giáo Hội. Khi trao phó Giáo Hội này cho Chúa Thánh
Thần, Người biết rằng việc khám phá ra sự hiện diện Thánh Thể sẽ kéo theo những
hệ quả thật to lớn đối với việc thờ phượng và đời sống Kitô giáo.
Huấn thị Mầu nhiệm Thánh Thể số 63 khuyến
khích tất cả các cộng đoàn kitô hữu, “trong những nhà thờ hay nhà nguyện bình
thường có lưu giữ Thánh Thể, nên đặt Mình Thánh Chúa cách long trọng mỗi năm,
kéo dài một thời gian nào đó, để cộng đoàn địa phương có thể suy niệm và tôn
thờ mầu nhiệm này một cách thư thái hơn.”
Như thế, bởi vì Thánh Thể đã được cử hành một
cách cộng đồng, trong tinh thần chung sống huynh đệ, một thời gian thờ phượng
cộng đồng chỉ có thể tăng cường sự hiệp nhất của mọi phần tử của cộng đoàn
Thánh Thể.
Cùng nhau nội tâm hóa cuộc vượt qua, chiêm
ngắm trong tâm hồn cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, tạ ơn vì những điều
kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, đón nhận tất cả năng lực, tất cả sức năng động của
một Thiên Chúa hiến mình cho ta, củng cố lòng tin, lòng cậy và lòng mến của một
cộng đoàn.
Nếu việc cử hành Thánh Thể mang một chiều kích
cộng đồng, thì việc thờ phượng cũng vậy. Bắt nguồn từ việc cử hành Thánh Thể,
việc thờ phượng cũng bao hàm một chiều kích cộng đoàn, có ưu thế trên một hành
động thuần tuý cá nhân. Tôi không thờ phượng Thánh Thể một mình vì tôi không cử
hành Thánh Thể một mình. Và cho dù tôi ở một mình trước Thánh Thể, tôi luôn
luôn hiệp thông với Giáo Hội.
Phụng vụ là một hành vi của Giáo Hội, một hành
vi mang tính xã hội, một hành vi của cộng đoàn tập hợp, một hành vi cho chúng
ta vượt qua từ cái chết của mình sang đời sống của Đấng Phục Sinh. Thánh
Clêmentê thành Alexandria nhắc nhở chúng ta “Bạn phải vượt qua liên lỉ”.
Cuộc vượt qua này được cử hành, xác nhận, nhìn
nhận khi cử hành bữa tối của Chúa. Hơn thế nữa, nó diễn đạt một kinh nghiệm
sống, một định hướng cho đời sống. Tất cả cuộc sống của tôi diễn tiến như một
cuộc vượt qua, vượt qua trong thời gian và sự tăng trưởng của đời người. Sống
trong lòng tin, hiệp thông với Chúa Kitô, cuộc vượt qua này mang một ý nghĩa
khác. Nó trở thành một con đường dẫn đến sự Sống, một cuộc tiến bước của con
người phục sinh, một chiến thắng của sự canh tân, cho đến khi hoàn tất trong
vinh quang của Chúa Cha. Một cuộc vượt qua đòi hỏi một cuộc chiến đấu, không
ngừng phản kháng những ngẫu tượng luôn lôi kéo chúng ta. Một sự vươn lên trong
tình yêu của một Thiên Chúa cứu độ và giải phóng. Sống cuộc vượt qua này hiệp
nhất với Chúa Kitô, Đấng thực hiện cuộc vượt qua của chính mình trong cái chết,
là mở ra con đường hy vọng đích thật. Như thế, “tham dự cách sâu xa hơn vào Mầu
Nhiệm Vượt Qua” không chỉ bao hàm việc cử hành, nhưng liên hệ đến tất cả cuộc
sống của tôi. Vượt qua được in sâu trong đời tôi. Đời tôi trở thành một cuộc
vượt qua.
Xem đời tôi như một cuộc vượt qua đưa tôi đến
chỗ khám phá sự nhưng không của Thiên Chúa. Đấng không ngừng tuôn đổ sự sống
của Người trong tất cả các chi thể của Thân mình Người. Cái nhìn của Thiên
Chúa, sự gần gũi của Người, sự đồng hành của Người thuần tuý mang tính cách
nhưng không. Người không ngừng yêu thương. Tình yêu Thiên Chúa dành cho con
người là một tình yêu gần như điên rồ.
Đời tôi là một cuộc Vượt Qua được tình yêu
Thiên Chúa dẫn đưa, được xây dựng trên nền tảng là một lựa chọn căn bản sống
trong Thiên Chúa theo chân Chúa Kitô, ở lại trong Chúa Kitô bằng cách đưa đời
tôi vào sâu trong Người. Tôi tìm được nơi Người Bánh làm cho sống, lương thực
để sống trong hy vọng.
Một linh đạo, một đời sống tâm linh, một đời
sống tập trung vào Chúa Kitô, xây dựng trên cuộc Vượt Qua của Người mời gọi tôi
ước muốn lưu lại trong Đấng là lương thực đích thực. Con đường của bí tích
Thánh Thể là con đường vượt qua, con đường của Chúa Giêsu. Làm sao lại không
cùng tiến bước với Người trên con đường của Người Con đường xuất hành, con
đường vượt qua. Vượt qua từ sự chết sang cõi sống, từ hận thù đến yêu thương,
từ nô lệ đến tự do, từ áp bức đến kính trọng, từ cô đơn đến hiệp thông.
Con người thờ phượng Thánh Thể là con người
vượt qua. Trong việc cử hành Thánh Thể, cùng với cộng đoàn, người ấy nhận ra
những dấu vết của công trình sáng tạo của Thiên Chúa trong đời mình, dấn thân
trong công trình sáng tạo tình thương, loan báo một Thiên Chúa gần gũi và đồng
hành với con người. Trong khi cầu nguyện, người đó chiêm ngắm tất cả những dì
mình lãnh nhận từ Thiên Chúa khi nhìn lại cuộc sống mình, như dân Israel ca
ngợi những ân huệ của Chúa, như Chúa Giêsu tạ ơn Cha Người. Con người thờ
phượng Thánh Thể là con người của cuộc Vượt Qua.
Tin Mừng của thánh Gioan thường triển khai ý
tưởng “ở lại”, khi thì trên bình diện thuần tuý thể lý để diễn tả một nơi chốn,
khi thì trên bình diện biểu tượng để nói lên ý hướng của Chúa Giêsu, nghĩa là
đi vào hành trình của đời sống con thảo. Cũng như Chúa Giêsu sống một mối tương
quan con thảo đối với Cha Người, Người cũng lôi kéo những ai muốn theo Người đi
vào một tương quan mở ra con đường dẫn đến Chúa Cha, để cùng với Người sống
thái độ con thảo. Chúa Giêsu là con đường dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, đi
vào một đời sống hiệp thông với Chúa Cha.
Còn một khía cạnh khác của việc “ở lại”, đó là
việc Thiên Chúa ở lại trong chúng ta. Chiều kích “ở lại” này liên hệ đặc biệt
đến Lời Chúa (x. Ga 5,38 15,7-8). Lời Chúa có thể ở lại trong chúng ta, trong
mức độ chúng ta đã khám phá ra tình yêu của Người đối với chúng ta.
Phép Thánh Thể là nơi biểu lộ tình yêu của
Thiên Chúa đối với chúng ta và nơi công bố tình yêu ấy trong việc Người hiến
mạng sống mình trên thập giá.
Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô lôi kéo tôi
đến việc duy trì một mối tương quan con thảo với Thiên Chúa Cha để “ở lại”
trong tình yêu của Người và để cho tình yêu ấy nắn đúc mình.
Ở lại trong Chúa Kitô là ở lại trong tình yêu
của Thiên Chúa, là trở nên người con đích thực của Thiên Chúa.
Do đó, tôi hiểu được rằng việc cử hành Thánh
Thể cho tôi được loan báo tất cả quyền năng của tình yêu này, trong một bầu khí
huynh đệ. Việc thờ phượng Thánh Thể, giờ chiêm ngắm, mời gọi tôi vượt trên một
sự hiện diện thuần tuý thể lý, thậm chí tình cảm hay cảm xúc. Điều cốt yếu là
thực sự đi vào nơi cư ngụ của Thiên Chúa, trong tình yêu sáng tạo và cứu chuộc
của Người. Chúa Kitô, trong cái chết và sự phục sinh của Người, chính là con
đường, là cửa ngõ dẫn vào tình yêu ấy.
Huấn thị Mầu nhiệm Thánh Thể mời gọi các kitô
hữu “đáp lại bằng tâm tình tạ ơn hồng ân của Đấng không ngừng tuôn đổ sự sống
thần linh vào các chi thể của Thân mình Người”. Vấn đề ở đây, một đàng là nhận
biết tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, Đấng muốn lập cư trong chúng ta và,
đàng khác, trao dâng một lời đáp trả đầy lòng tin tưởng cũng nhưng không, bằng
cách tìm kiếm nơi cư ngụ của Thiên Chúa.
Chúng ta cũng được mời gọi “nán lại” bên Chúa
Kitô, để sống với Người, trong sự thân mật, một giây phút hiến dâng và trao
đổi, tâm sự.
Tất cả những thuật ngữ này đều diễn đạt ý
nghĩa sâu xa là ước muốn ở với Chúa Kitô để Người ở lại trong chúng ta và chúng
ta ở lại với Người.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6,56)
Sau khi đã suy tư về những giá trị của một
linh đạo Vượt Qua, chúng ta có thể mô tả việc thờ phượng, luôn liên kết với
việc cử hành Thánh Thể, như một thời gian nội tâm hóa một cách sâu đậm.
Bầu khí của những giây phút chiêm ngắm này
chắc chắn phải là bầu khí tạ ơn. Một tâm tình, một chuyển động biết ơn đối với
một Thiên Chúa mà Chúa Giêsu gọi là “Abba”, Cha.
Hướng về Chúa Cha, như một đứa trẻ đầy lòng
tin tưởng, tôi nhớ lại. Tôi tưởng nhớ đến tình yêu sáng tạo của Người, đến việc
Người dấn thân trong đời sống và vì sự sống, đến tất cả những phúc lành Người
loan báo, đến hành động cứu chuộc, giải phóng, đến tất cả những dấu chỉ về sự
hiện diện của Người, đến tất cả những lời Người kêu gọi hy vọng, những tiến
trình hòa giải của Người, đến việc Người dấn thân vì hòa bình và công lý, đến
lời Người hứa sẽ trở lại để hoàn tất mọi sự. Tôi tưởng nhớ đến mọi kỳ công của
Người trong lịch sử, hôm qua, hôm nay và ngày mai. Không những những dấu vết
của Thiên Chúa nơi kẻ khác, mà cả trong bản thân tôi, trong lịch sử riêng tư
của tôi, trong đời sống rhường nhật của tôi. Tôi nhớ đến tất cả những dấu ấn
của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại. Vâng, tôi tưởng nhớ.
Việc tưởng nhớ này biến thành đối tượng của
lòng biết ơn, tâm tình tạ ơn, việc cầu nguyện, hân hoan ca hát và khẩn cầu. Tôi
dâng lên Thiên Chúa lời cám ơn, một lời cám ơn chất chứa tâm tình biết ơn thúc
đẩy tôi trao lại cho Chúa một lời đáp trả trung thành. Đời sống tôi trở thành
việc diễn tả một sự dấn thân trọn vẹn vào hành động của Thiên Chúa. Một hành
động vì ơn cứu độ, vì
sự sống.
Việc cử hành cuộc Tưởng Niệm không phải là
việc lặp lại những lời nói, cử chỉ, nhưng là một nỗ lực đi vào tinh thần đã dẫn
đưa Chúa Kitô sống cuộc Vượt Qua. Đi và để lãnh nhận cùng một tinh thần đó, ngõ
hầu Thần Khí Chúa Kitô làm cho mọi hành động, cử chỉ của tôi có hiệu quả, cụ
thể, cháy nóng sự hiện diện của Người, như hai môn đệ làng Emmau.
Như Chúa Giêsu, trong bữa tiệc Vượt Qua, tạ ơn
Chúa Cha, cũng vậy, hiệp thông với Người, tôi hướng lòng trí về Chúa Cha để hát
lên tâm tình biết ơn, lới ca ngợi của tôi. Một lời đáp trả tràn đầy hân hoan,
mang tính phụng tự, phụng vụ và cộng đồng, trước việc công bố những điều kỳ
diệu Thiên Chúa đã thực hiện, đặc biệt là giao ước, là tâm điểm nơi hội tụ mọi
kỳ công của Thiên Chúa.
Tâm tình biết ơn này, được nuôi dưỡng nhờ việc
tưởng nhớ, được cửû hành trong bí tích Vượt Qua là Thánh Thể, được nội tâm hóa
bằng việc cầu nguyện, lôi kéo tôi đi vào chuyển động vượt qua của Chúa Kitô và
cho tôi được sống, với Người và với anh chị em tôi, một sự hiệp thông với đời
sống và dự phóng của Người.
Phải, việc tôn thờ Thánh Thể trở thành một sự
lôi kéo, một con đường đi vào năng động của một cuộc Vượt Qua tạo nên niềm hy
vọng, sự hòa giải và hiệp thông.
Trong bối cảnh một cộng đoàn kitô hữu cử hành
và sống bí tích Thánh Thể cách đầy đủ, nghĩa là trong đó chiều kích chiêm niệm
đã đóng trọn vai trò nội tâm hóa nhờ phẩm chất của các phút thinh lặng phong
phú và những phút cầu nguyện, thì phải khẳng định rằng một thời gian tôn thờ
Thánh Thể ngoài thánh lễ không còn cần thiết. Tuy nhiên, tính cách ngắn gọn của
thánh lễ như thường được cử hành không cho phép thực hiện những yêu cầu đó. Vì
thế, việc tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ biểu lộ ước muốn nội tâm hóa cách
sâu đậm hơn nữa cuộc Vượt qua của Chúa Kitô để sống sung mãn hơn và diễn đạt sự
hiện diện trường tồn của Chúa.
Vậy chúng ta phải sống thời gian nội tâm hóa
này thế nào. Liệu có một phương pháp, một cách thế đặc biệt nào không để sống
thời gian cầu nguyện này. Phải kín múc từ mạch suối nào để lấp đầy khát vọng
của tôi muốn sống trọn vẹn cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô
Huấn thị Mầu nhiệm Thánh Thể dạy “Khi tôn sùng Chúa Kitô hiện diện
trong bí tích Thánh Thể, các tín hưũ phải nhớ rằng sự hiện diện này xuất phát
từ hy tế” (số 50).
Phép Thánh Thể được cử hành cách cộng đồng là
nguồn cảm hứng cho việc thờ phượng. Tất cả năng động chiêm niệm và nội tâm hóa
của việc cử hành Thánh Thể chi phối thời gian cầu nguyện này. Điều đã diễn ra
chung quanh hai Bàn Tiệc nuôi dưỡng việc cầu nguyện của tôi. Kinh Tạ Ơn được vị
chủ tế công bố nhân danh cộng đoàn làm nên “cửa ngõ lý tưởng” để đi vào việc thờ
phượng. Bằng cách nào ?
Chúng ta hãy tưởng tượng, một buổi sáng Chúa
nhật, toàn thể cộng đoàn đã tập họp cử hành Thánh Thể tại nhà thờ. Cộng đoàn đã
ý thức mình là “Thân Thể Chúa Kitô” trong thế giới. Để kéo dài thời gian ân
sủng, cộng đoàn lại cùng nhau trở lại nơi tập họp ban sáng để “nội tâm hóa”
những gì mình đã sống ban sáng. Mầu nhiệm cần chiếm đầy đủ vị trí trong đời
sống của mỗi người và của cộng đoàn, mặc dù đã ý thức điều này trong khi cử
hành.
Sau đây là cách cộng đoàn đó có thể “đi vào”
việc thờ phượng. Dĩ nhiên có nhiều lối vào khác nhau. Thánh Thần, Đấng gõ cửa ,
chỉ có thể là Thánh Thần tình yêu tình yêu đối với Chúa Cha, tình yêu đối với
Chúa Kitô, tình yêu đối với Chúa Thánh Thần. Chỉ có con đường tình yêu mới mở
ra cho tôi cánh cửa thờ phượng :
Cửa số một : Đây là cửa thứ nhất để đi vào một thời
gian thờ phượng. Cùng với anh chị em đã cử hành Thánh Thể ban sáng, tôi lắng
nghe một lần nữa các trang Kinh Thánh đã được công bố ban sáng.
Sách Thánh (hay Sách Bài Đọc) đã được mở sẵn
và đặt trên giá. Một (hay hai ba) người chậm rãi đọc lại những trang Lời Chúa
ban sự sống, với những thời gian thinh lặng khá dài. Những lời chất chứa niềm
hy vọng, nhắc lại cho tôi những hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, sự hiện
diện, sáng tạo của Người, cuộc nhập thể, cứu chuộc, lòng tin tưởng và trung
thành của Người.
Bánh Thánh Thể ban sự sống trong Nhà Tạm hay
trên Bàn Thờ là một lời mời gọi liên lỉ tìm kiếm Lời ban sự sống đích thực và
làm tăng trưởng đức tin trong chúng ta. Lời này là lương thực, là bánh manna
trong sa mạc, đem lại niềm tin tưởng trong nghi nan, hy vọng trong cảnh cô đơn.
Tôi lắng nghe lại những trang Kinh Thánh để
gặp gỡ Chúa Kitô, Đấng đang nói với tôi. Tôi đón nhận Người như một Ngôi Vị
sống động, Đấng muốn thực hiện với tôi một giao ước tình yêu và bình an. Lời
Người bảo đảm cho tôi sự hiện diện của Người, khiến tôi tràn đầy niềm vui, niềm
vui vì được viếng thăm và cứu độ.
Lời cầu
nguyện của tôi chỉ có
thể là lời tạ ơn.
Cửa số hai
: Chúng ta cùng nhau tưởng niệm bữa ăn
của Chúa và biến cố ï chết và phục sinh của Người.
Một phần tử trong cộng đoàn đọc lại những đoạn
trong Kinh Tạ Ơn liên quan đến việc Tưởng Niệm. Tôi nghe những lời này “Này là
Mình Thầy, hiến tế vì các con, Này là máu Thầy đổ ra vì các con”. “Chúng con
loan truyền Chúa đã chịu chết, chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại, chúng con
trông đợi Chúa lại đến trong vinh quang”. Một cách chậm rãi, theo nhịp điệu của
hơi thở, tôi lặp lại trong lòng những lời đó. Tôi để cho những lời đó lưu lại
trong lòng tôi, biến đổi những tâm tình của tôi. Như thế, đời tôi thấm nhuần
những tâm tình của Chúa Kitô, Đấng hiến ban mạng sống Người vì yêu thương chúng
ta. Tình yêu này mạnh mẽ và đầy quyền năng, đem lại ý nghĩa cho mọi sự yếu đuối
và phong phú của tôi. Tôi ở lại trong cuộc đối thoại như thế với Chúa Kitô, dự
phần vào mầu nhiệm biến đổi cao cả này.
Trong một lúc hiệp thông thật sâu đậm, tôi
hiến dâng đời sống, những đau khổ, chiến đấu của tôi cho Chúa Cha. Tôi xin
Người ban Thánh Thần để thánh hóa, biến đổi đời tôi, và giúp tôi vượt qua từ
tất cả những cái chết nho nhỏ của tôi sang sự Sống.
Việc thờ phượng được sống như một thời gian
hiệp thông với những sự đau khổ của Chúa Kitô, Đấng hiến dâng mạng sống mình
cho Chúa Cha để giải phóng toàn thể nhân loại.
Lời cầu nguyện của tôi trở thành lời chuyển
cầu cho mọi người, cho thế giới, cho người nghèo và những kẻ bé mọn, cho công
lý và hòa bình, cho sự hòa giải giữa các dân tộc.
Cầu
nguyện đầy lòng tin
tưởng nơi Chúa Kitô, Đấng hòa giải mọi sự trong mọi người.
Cửa số ba : để sống một thời gian chiêm niệm Thánh Thể. Tất cả việc
cầu nguyện là một bài ca tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha vì hồng ân là Chúa Kitô.
“Lạy Cha, tạ ơn Cha thật
là chính đáng và phải đạo.”
Một phần tử của cộng đoàn đọc phần đầu của
Kinh Tạ Ơn, tức là kinh Tiền Tụng, đã được công bố trong thánh lễ ban sáng. Tôi
nghe lại những lời ca ngợi dâng lên Chúa Cha, hát mừng những công trình kỳ diệu
của Thiên Chúa được thuật lại trong Kinh Thánh. Lòng tôi tràn ngập tâm tình tạ
ơn đối với Chúa Cha. Tất cả mọi kỳ công, tất cả mọi dấu chỉ cứu độ làm cho tôi
tập trung vào biếân cố độc nhất đã tập hợp chúng tôi sáng nay. Khi hiến thánh
bánh và rượu, và trao cho các môn đệ, Chúa Giêsu “đọc lời chúc tụng”, một lòi
kinh ca ngợi và tạ ơn. Trong hy tế của Chúa Kitô, Chúa Cha đã làm mới lại giao
ước với cộng đoàn .
Như trong việc cử hành, tôi nhận làm của mình
những tâm tình hân hoan mà Chúa Giêsu đã diễn tả trong lời cầu nguyện tạ ơn
Người dâng lên Chúa Cha.
Hiệp thông với Chúa Kitô, tôi cảm tạ Chúa Cha
vì những việc kỳ diệu Người thực hiện trong lòng những kẻ nghèo hèn, vì sự hiện
diện yêu thương cứu độ của Người, vì việc Người hiến ban mạng sống mình. Tôi
nới rộng việc tạ ơn vì công trình sáng tạo, vì sự sống, vì thế giới.
Giây phút thờ phượng này là một thời gian biết
ơn, cảm tạ. Một thời gian thúc đẩy tôi biến đời tôi thành một lời cầu nguyện ca
ngợi liên lỉ.
Cửa số bốn : Kết hợp với những nhu cầu của thế giới,
cộng đoàn chuyển cầu cho hòa bình, công lý và hòa giải.
Kinh Tạ
Ơn nối kết chúng ta
với những nhu cầu của Giáo Hội và thế giới. Cộng đoàn được mời gọi phát hiện
những dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng đức tin, chú tâm đến những nhu cầu của mọi
người, chia sẻ những nỗi buồn và lo âu, những hy vọng và niềm vui của con
người, mở mắt nhìn những biến cố tốt đẹp và bất hạnh ghi dấu thế giới.
Trên
cung thánh, có thể
đặt một quả địa cầu đánh dấu tất cả những nơi đang diễn ra những xung đột,
chiến tranh, những hoàn cảnh khốn cùng (hạn hán, đói kém, lũ lụt, thiên tai,
…), những tình trạng bất công, nhưng cả những dấu hy vọng, những đấu tranh cho
hòa bình và hòa giải. Chúa Kitô ban sự sống mình là lương thực cho tất cả các
“sa mạc” trên mặt đấât. Manna, bánh dành cho hết mọi người, cho sự sống. Kết
hợp với Chúa Kitô ước muốn đổi mới mọi sự trong Người, tôi mang nơi mình ước
muốn này của Chúa là tham gia vào việc sáng tạo một thế giới mới, trong khi chờ
đợi Người đến trong vinh quang. Vì thế, cùng với toàn thể cộng đoàn, tôi chuyển
cầu bên Chúa Cha, qua đó tôi bày tỏ ước muốn sống cuộc vượt qua một cách sung
mãn, trong đời sống thường ngày.
Cửa số năm :
Thinh lặng.
Thờ phượng là một thời gian “ở lại” với Chúa Kitô hiện diện
trong bí tích Thánh Thể. Nhìn tất cả những dấu chỉ hiện ra trước mắt, tôi cảm
thấy như thể bị nắm bắt bởi sự hiện diện của Chúa Kitô và tôi lấy những tâm
tình của Người làm của tôi. Người hiến ban sự sống Người vì yêu thương tôi và
yêu thương toàn thể nhân loại. Tôi để cho bánh ban sự sống cư ngụ trong tâm hồn
tôi, lương thực ban sự sống đời đời. Chúa Kitô nói lên cho tôi sự hiện diện của
Người và tôi đón nhận sự hiện diện ấy. Giây phút sống tình yêu tinh tuyền. Một
sự thinh lặng tràn đầy Thần Khí, tràn đầy Vinh Quang của Chúa.
Tất cả những giờ chiêm ngắm và thờ phượng này
được kết thúc với vinh tụng ca ở cuối Kinh Tạ Ơn “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với
Đức Kitô và trong Đức Kitô, mà mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa, là
Cha toàn năng, đến muôn thuở muôn đời”.
Toàn thể cộng đoàn cùng hát bài vinh tụng ca
để biểu lộ sự hiệp thông với Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Thời gian chiêm ngắm này, mà đã giúp chúng ta nội tâm hóa cuộc Vượt Qua của
Chúa, làm phát sinh niềm vui phục vụ, lòng kiên nhẫn để tỉnh thức và chờ đợi,
niềm tin tưởng để sống và ước muốn tưởng nhớ cái chết và sự phục sinh của Chúa
Kitô.
Thời gian thờ phượng và chiêm ngắm này chỉ có
thể làm phong phú đời tôi. Thời gian đó cũng tiếp nối việc cử hành. Ước muốn
nội tâm hóa mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành trong một tinh thần hiệp thông, đưa
đời tôi vào chiều sâu, bắt nguồn từ Chúa Kitô hiến ban mạng sống Người vì yêu
thương mọi người.
Sống trọn vẹn hơn cuộc Vượt Qua, trong một
tình yêu say mê đến điên rồ, đó là ý nghĩa của việc tôn thờ Thánh Thể.
Đức tin và Truyền Thống của Giáo Hội Công Giáo
luôn kiên định trước sau như một Chúa Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, chết và
được tôn vinh, hiện diện dưới các hình Thánh Thể.
Sự hiện diện này của Chúa Kitô trong bí tích
Thánh Thể làm nên sự phong phú lớn lao nhất và kho tàng của Giáo Hội. Tất cả
các chứng từ, không thể nào kể siết, đều nhấn mạnh đến sự đồng nhất giữa Ngôi
Lời Thiên Chúa từ đời đời hằng hướng về Chúa Cha, Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể
hiến mình làm hy tế trên bàn thờ Thập giá, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các
tông đồ, và Chúa Kitô hiện diện trong phép Thánh Thể. Sự hiện diện của Đấng
Thần-Nhân (=Thiên Chúa và con người) được thánh Augustinô gợi lên “Trong xác
thịt này, Chúa đã bước đi trên trái đất của chúng ta và Người cũng đã ban cho
chúng ta chính xác thịt này để ăn mà được ơn cứu độ và không ai được nhận lấy
mà trước đó đã không thờ phượng, thành thử nếu thờ phượng xác thịt ấy, chúng ta
sẽ không phạm tội, nhưng trái lại, chúng ta phạm tội nếu không thờ phượng.”
Sự hiện diện đích thật này của Chúa Kitô dưới
hình thức mong manh của bí tích (nhất là bánh ) đã khiến thánh Hyppôlytô tại
Rôma, khoảng năm 215, lên tiếng cảnh giác những người lưu giữ Thánh Thể trong
nhà riêng của họ để rước lễ hằng ngày “Mọi người phải coi chừng không để cho
một kẻ ngoại đạo nào nếm thử Thánh Thể, hay một con chuột hoặc một con vật nào
khác, và không được đánh rơi hay làm hư mất một chút gì của Thánh Thể, bởi vì
đó là mình của Chúa Kitô phải được các tín hữu ăn và không được tỏ ra bất kính.
Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong phép
Thánh Thể được khẳng định bởi chính những lời của Chúa Giêsu, được linh mục lặp
lại trong mỗi thánh lễ. Còn gì rõ ràng trong sáng hơn là lời khẳng định kép
này, và trước ngày Người dâng mình làm lễ tế hy sinh đẫm máu trên Thập giá “Này
là Mình Thầy, này là Máu Thầy” Chúa Giêsu nói lên những lời đầy tính hiện thực này,
vào một thời điểm bi thảm. Khi đến giờ để lại di chúc, Thầy chí thánh không
trối lại cho các môn đệ một tài sản vật chất nào, nhưng để lại cho họ giới răn
mới là phải yêu thương nhau và kho tàng là sự hiện diện của Người trong phép
Thánh Thể.
Đây là một sự hiện diện rất đặc biệt. Chúa
Giêsu đã hứa “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy,
giữa họ” (Mt
18,20). “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Chúa Giêsu thực
sự hiện diện với Giáo Hội dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy nhiên, trong phép Thánh Thể sự hiện diện
của Người vượt xa tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Chúa Giêsu Kitô,
chết vì chúng ta trên Thập giá và phục sinh sáng ngày Chúa nhật, hiện diện dưới
hình dáng, dưới những dấu chỉ khả giác là bánh và rượu, trong bản tính con
người đã nhận lấy từ cung lòng Đức trinh Nữ Maria và trong nhân tính đó Người
đã chịu khổ nạn để cứu độ chúng ta và đã chết trên Thập giá trước khi được tôn
vinh. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong thông điệp Mysterium Fidei (=Mầu
nhiệm đức tin) “Sự hiện diện này được gọi là “thực sự”, không phải một cách độc
hữu, như thể những sự hiện diện khác không phải là “thực sự”, nhưng một cách
trổi vượt hơn cả, vì là sự hiện diện bản thể, và nhờ đó, Chúa Kitô, Thần-Nhân,
làm cho mình hiện diện cách toàn vẹn.” Chúa Kitô hiện diện cách đích thật, thực
sự và liên lỉ với Giáo Hội bằng nhiều cách. Cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh
Thần Người cư ngụ trong tâm hồn mọi tín hữu đã được rửa tội và làm cho họ sống
nhờ ân sủng của Người. Tất cả những cách hiện diện này đều đích thật và thực
sự. Sự hiện diện của Chúa Kitô trong phép Thánh Thể, thay vì đối lập với các
kiểu hiện diện khác, trái lại, đem đến cho các cách hiện diện kia một mức sâu
đậm mới. Tất cả các cách hiện diện của Chúa Kitô với Giáo Hội đều hướng tới
phép Thánh Thể, trong đó Ngôi Lời Thiên Chúa ban mình một cách “bản thể”.
Trong bản Tuyên Xưng Đức Tin năm 1968, Đức
Phaolô VI cũng phát biểu như vậy “Chúng tôi tin rằng, cũng như bánh và rượu
được hiến thánh trong bữa Tiệc Ly đã được biến đổi thành mình và máu Chúa sẽ
được hiến dâng trên thập giá vì chúng ta, cũng vậy bánh và rượu được linh mục
hiến thánh cũng được biến đổi thành mình và máu Chúa Kitô vinh hiển ngự trên
trời, và Chúng tôi tin rằng sự hiện diện nhiệm mầu của Chúa dưới những gì vẫn
còn tiếp tục xuất hiện với giác quan chúng ta giống như trước, đó là một sự
hiện diện đích thật, thực sự, bản thể…Sự hiện hữu độc nhất và không thể phân ly
của Đức Chúa vinh hiển trên trời không được nhân lên, nhưng được làm cho hiện
diện nhờ bí tích ở nhiều nơi trên thế giới, nơi thánh lễ được cử hành.”
Sự hiện diện của Chúa Kitô được gọi là hiện
diện bản thể. Bánh và rượu được hiến thánh không phải là những dấu chỉ của một
sự hiện diện thuần tuý thiêng liêng, nhưng là những dấu chỉ của sự hiện diện
của Ngôi vị Ngôi Lời nhập thể. Thực vậy, “bản thể” là nguyên lý đồng nhất, cho
phép ta nói với thánh Ambrôsiô giám mục thành Milan, một cách chắc chắn và chân
thật “Điều mà chúng ta làm ra là thân mình sinh bởi Đức Trinh Nữ. Đó thực sự là
xác thịt của Chúa Kitô Đấng đã bị đóng đinh thập giá, đã chịu mai táng. Vậy đó
thực sự là bí tích của xác thịt Người.”
Tại sao Chúa Giêsu đã muốn hiện diện và ở lại
trong Thánh Thể Lựa chọn này thật rõ ràng. Bánh và rượu là của ăn và của uống.
Sự hiệp thông lòng bên lòng là việc tham dự trước ngay đời này vào sự hiệp
thông tình yêu vô biên trong Nước Trời. Tính hiện thực của các lời Chúa Giêsu
đã nói vào tối ngày thứ năm thánh cho chúng ta thoáng thấy ý hướng sâu xa của
Người Chúa Giêsu muốn cho chúng ta tham dự vào Giao Ước mới được niêm ấn một
lần là đủ trong hy tế đồi Can-vê, ngang qua một sự hiệp thông thực sự với Ngôi
vị Thiên Chúa nhập thể của Người và từ đó được tôn vinh. Nhờ sự hiện diện của
Người trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đi vào sự hiệp thông mật thiết với mỗi
người chúng ta để biến đổi chúng ta từ bên trong. Thánh Augustinô không ngần
ngại nói trong một Bài Giảng về lễ Vượt Qua “Chúng ta ăn Người, nhưng chính
Người đồng hóa chúng ta.” Chính vì lòng tin sâu xa này mà ngài đòi hỏi một sự
kính trọng tuyệt đối đối với phép Thánh Thể. Người cảnh giác cách chung những
kẻ tội lỗi công khai mà Người nhận diện trong cộng đoàn “Họ hãy tránh lên rước
lễ, những người nào biết là tôi biết tội lỗi của họ, để họ khỏi bị đẩy ra khỏi
thánh đường.”
Chúa Kitô muốn hiện diện
với Giáo Hội dưới một cách thế đặc biệt sâu đậm trong Thánh Thể để dệt những
mối liên kết chặt chẽ với môn đệ của Người và đưa họ vào sự hiệp thông tình yêu
với Người.
Các đại hội Thánh Thể hòa nhập vào Truyền
thống lớn của Giáo Hội dâng một việc phụng tự tôn thờ đối với bí tích Thánh Thể
không những trong thánh lễ, mà cả bên ngoài việc cử hành “bằng cách lưu giữ
bánh đã được hiến thánh một cách kính cẩn nhất, trưng ra cho các tín hữu long
trọng thờ kính, rước kiệu Thánh Thể, đem lại niềm vui cho các đám đông” (Thông
điệp Mầu nhiệm đức tin, số 56).
Qua việc tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong
phép Thánh Thể, mỗi người tín hữu và toàn thể Giáo Hội nhìn nhận Chúa Giêsu là
Đấng Cứu Độ, Cứu Chuộc, Đức Chúa và Thiên Chúa của mình. Việc tôn thờ Ngôi vị
Thiên Chúa, được biểu thị và đồng thời ẩn giấu bởi các hình bí tích, làm nên sự
đáp trả tình yêu của con người đối với Chúa Kitô - Đấng Cứu Độ, Đấng ban cho ta
được trở nên những người con trong Người Con. Đức Gioan Phaolô II viết : “Sự
tôn thờ của chúng ta giúp chúng ta thấu hiểu sự cao cả của cái chết của Chúa
Kitô theo tính loài ngươiø trong cái chết đó, thế gian, nghĩa là mỗi người
chúng ta, đã được yêu mến “đến cùng”. Như thế việc thờ phượng của chúng ta cũng
là một sự đáp trả muốn tìm cách đáp đền Tình yêu đã chịu hiến tế cho đến chết
trên thập giá đó là việc “tạ ơn” của chúng ta (Eucharistia), việc ca tụng ngợi
khen của chúng ta vì đã được cứu chuộc nhờ cái chết của Người và vì đã được
tham dự vào sự sống bất diệt nhờ sự phục sinh của Người.” [2]
Việc thờ phượng Chúa Kitô hiện diện trong bí
tích Thánh Thể là nguồn sự sống và chân lý cho mỗi tín hữu và cho toàn thể Giáo
Hội. Chúng ta đang sống trong một bầu khí nặng nề, bất lực trước cảnh tượng
những sự suy đồi mà xã hội đang phải chịu hầu như ở mọi nơi trong nhiều lãnh
vực. Bầu khí đó được thay đổi trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô - Thánh Thể. Trong
bí tích Tình yêu của Người, Chúa Kitô làm tái sinh niềm hứng khởi và niềm vui
đưa ta trở về giữa lòng thế giới để loan báo cho nó Tin Mừng “Chúng tôi đã gặp
Chúa”. Giáo Hội và thế giới rất cần đến nền văn hóa Thánh Thể.
Trong phép Thánh Thể, Chúa Kitô hiện diện trở
nên lương thực nuôi sống, thông ban cho chúng ta chính sự sống của Người và
biến đổi chúng ta nhờ Tình yêu của Người. Chúa Giêsu làm như thế cho chúng ta
điều Người đã thực hiện với các môn đệ Người. Chới với sau khi Người ra đi về
cùng Chúa Cha, các môn đệ khám phá ra chân lý và chiều sâu của điều Người đã
nói với họ “Này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày, cho đến tận thế” (Mt
28,20). Đức Gioan Phaolô nói tại Đại Hội Thánh Thể Nairôbi 1985 “Trong bí tích
này, Chúa Giêsu luôn đến với chúng ta. Chúng ta không mồ côi. Người ở với chúng
ta ! Và vì thế, ngay từ đầu, các môn đệ và các chứng nhân của Chúa chúng ta,
Đấng bị đóng đinh và đã phục sinh, đã luôn trung thành với giáo huấn của các
tông đồ, với sự hiệp thông huynh đệ, với việc bẻ bánh và cầu nguyện.
Mỗi thánh lễ của chúng ta kết thúc với một lời
cầu nguyện sau hiệp lễ, trong đó chúng ta kết hợp lời cầu xin với hồng ân đã
lãnh nhận lãnh nhận là xin thêm nữa. Dù được diễn đạt bằng những từ ngữ khác
nhau, lời cầu xin vẫn là một “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn là không bao
giờ phản bội hồng ân đã lãnh nhận và luôn tiến bước trước thánh nhan Cha hướng
về Nuớc Trời !” Phụng vụ Đông Phương gợi lên ở đây lời cầu xin của người Trộm
Lành và khẩn cầu để không phản bội Chúa như Giuđa. Vào cuối cuộc cử hành Thánh
Thể, Giáo Hội giúp chúng ta ý thức điều đó điều cốt yếu của đức tin tuỳ thuộc
cách chúng ta chúng ta sẽ sống đức mến của Thiên Chúa và làm cho Chúa Kitô hiện
diện giữa thế giới. Sự cao cả của Thánh Thể đưa chúng ta về với địa vị tối
thượng của Tình Yêu đó chính là Chúa Giêsu Kitô được tỏa lan và thông ban.
[1] CĐ Trentô, khóa XIII, đ.6.
[2] x. Thư gởi các giám mục nhân ngày thứ năm tuần thánh năm 1980.