Lm. Phi
Khanh Vương Đ́nh Khởi, OFM.
T̀M HIỂU CHƯƠNG VI,
Thông điệp ECCLESIA DE
EUCHARISTIA
của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
AD MARIAE
SCHOLAM, MULIERIS “EUCHARISTICAE”
DẪN NHẬP
Những
suy nghĩ sau đây được viết ra để
chia sẻ với Linh mục đoàn Giáo phận
Đàlạt trong khóa Bồi Dưỡng tháng 11 năm 2004.
Trong t́nh hiệp thông huynh đệ giữa linh mục
với nhau, tác giả cảm thấy được
tự do, như con cái trong nhà, nói hết những suy
nghĩ của ḿnh để anh em rộng đường
suy nghĩ tiếp và thảo luận, nhằm đào sâu
tư tưởng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
trong Thông điệp Ecclesia de
Eucharistia (EdE). Tác giả chỉ có ư hướng hoàn toàn
tích cực và xây dựng, không hề chủ trương bút
chiến. Thi thoảng chỉ nêu lên vài lời chất
vấn thanh thản về cách hiểu và dịch một
số từ ngữ của Thông điệp này, và
đề nghị xem xét lại để thực sự
trung thành với tư tưởng của Đức Thánh
Cha. Chính tác giả cũng sợ rơi vào sai lầm, nên tha
thiết ước mong được mọi người
chỉ giáo thêm cho.
Bài
này chủ yếu dựa trên bản gốc La ngữ
của Thông điệp, có tham khảo thêm 4 bản dịch
: một bản dịch Pháp ngữ (kư hiệu : b/d P) ; một bản dịch
Anh ngữ (kư hiệu : b/d A)
; và hai bản dịch Việt ngữ : một của
Uỷ Ban Giáo Lư Đức Tin do Đức Cha Phaolô Bùi
Văn Đọc đứng đầu và trực
thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (kư
hiệu : b/d Vn1) ; một
của 2 Linh mục Nguyễn Phước, Nguyễn
Ngọc Kính và anh Đặng Minh An, Vietcatholic (kư hiệu : b/d Vn2). Khi gặp những cách
phiên dịch khác nhau, chúng tôi xin được nêu lên
một vài nhận định nhằm t́m hiểu sâu sát
hơn tư tưởng của Đức Thánh Cha, bằng
cách phân tích từ ngữ. Và chúng tôi ưu tiên dựa vào toàn
bộ Thông điệp để t́m hiểu chương VI
bàn về Đức Mẹ, cũng như ưu tiên dựa
vào cách sử dụng ngôn ngữ của Đức Thánh Cha
để hiểu tư tưởng của ngài. Chúng tôi
cũng tham khảo thêm Tông thư Rosarium Virginis Mariae (KMC), do Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô ban hành ngày 16-10-2002, Sách
Lễ Rôma (SLR) và Thư Chung năm 2004 của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam “Giáo Hội sống Mầu Nhiệm Thánh Thể” (TC).
PHẦN I :
VỀ CÁCH HIỂU VÀ DỊCH ĐẦU
ĐỀ CHƯƠNG VI :
Ad Mariae scholam, mulieris
“eucharisticae”
Chúng
ta đọc thấy :
-
Trong b/d P : A
l’école de Marie, femme “eucharistique”. Cách dịch này sát với
bản gốc La ngữ đă dùng tính từ “eucharisticae”.
-
Trong b/d A : At the school of Mary, “woman of the Eucharist”. Cách dịch
này biến tính từ “eucharistica”
thành danh từ Eucharistia và
đưa woman : người
phụ nữ vào trong ngoặc kép với of the Eucharist : của Thánh Thể, trong lúc bản
La ngữ chỉ đặt tính từ eucharisticae trong ngoặc kép mà thôi.
-
Trong b/d Vn 1 : Nơi
trường học của Đức Maria, người
nữ “Thánh Thể”. Cách dịch này theo sát b/d P, đúng
như ĐC Phaolô Bùi Văn Đọc đă viết trong
lời giới thiệu :
“Bản dịch Việt ngữ Thông điệp Ecclesia de
Eucharistia này do Uỷ Ban Giáo Lư Đức Tin thực
hiện dựa trên bản văn Pháp ngữ và có so sánh
đối chiếu với bản văn Anh ngữ.” Vấn
đề là : cụm từ người
nữ “Thánh Thể” đă diễn tả đúng ư
nghĩa của femme
“eucharistique” chưa ? Chúng ta sẽ bàn sau.
-
Trong b/d Vn2 : Tại
trường học của Đức Maria, “người
phụ nữ của Thánh Thể”. Hiển nhiên cách
dịch này theo sát b/d A, đúng như Lm Nguyễn
Phước đă xác nhận với chúng tôi rằng các linh
mục và Vietcatholic đă dựa vào bản văn Anh
ngữ. Cũng có vấn đề tương tự
như với b/d Vn1 về cách hiểu cụm từ mulier “eucharistica”.
-
Tất cả 4 bản dịch nêu trên
đều đă hiểu cụm từ này theo nghĩa tĩnh như thể là In… schola. In : À, At, Nơi, Tại trước danh từ schola ở trạng cách (ablatif). Tĩnh có nghĩa là không có chuyển động.
Tại số 7 của Thông điệp, Đức Thánh Cha
nhắc lại Tông thư Rosarium
Virginis Mariae mở đầu Năm Mân Côi 2002 với
lời sau đây : “Khi công
bố năm Mân Côi, Chúng Tôi đă muốn đặt năm
thứ hai mươi lăm này (= năm thứ hai
mươi lăm triều đại Giáo Hoàng của Chúng
Tôi) dưới dấu chỉ của việc chiêm ngắm
Đức Kitô trong trường dạy của chính
Đức Maria” (in Mariae
ipsius schola – ở trạng cách, nên phải
được hiểu theo nghĩa tĩnh).
-
Nhưng đầu đề Chương
VI của Thông điệp Ecclesia
de Eucharistia đă viết : Ad… scholam, chứ không
phải in schola. Trong La
ngữ, giới từ Ad
đứng trước một danh từ ở dạng đối cách (accusatif) luôn
diễn tả một chuyển động hướng
tới một nơi nào hoặc một ai đó. Ví dụ :
các lời nguyện trong phụng vụ của Giáo Hội
thường được xây dựng theo lược
đồ : Ad Patrem, per Filium, in Spirito Sancto : lời cầu nguyện dâng
lên hoặc hướng về Chúa Cha, qua hoặc nhờ Chúa Con, trong
Chúa Thánh Thần. Tại số 13 của Thông
điệp, Đức Thánh Cha cũng dùng kiểu nói donum imprimis ad Patrem : trước hết là của lễ dâng lên Chúa Cha. Tương
tự như thế, cụm từ Ad… scholam cũng bao hàm một chuyển
động : đi tới, đến với mái
trường của Đức Maria. Tại số 57,
Đức Thánh Cha dùng thêm kiểu nói scholam Matris frequentare :
năng lui tới mái trường của Mẹ (Đức Kitô) và dể cho
Mẹ Ngài đồng hành với chúng ta.
-
Đến với mái trường của
Đức Maria để làm ǵ ? Tại đó ai dạy và
ai học ? Theo Đức Thánh Cha, Đức Maria, trong Tông
thư Rosarium Virginis Mariae, là
Thầy dạy : Magistra
về việc chiêm ngắm gương mặt Đức
Kitô, th́ trong Thông điệp Ecclesia
de Eucharistia, Mẹ có thể hướng
dẫn chúng ta đến
với Bí Tích Cực Thánh này (x. số 53). Như vậy
trong cả hai văn kiện, Mẹ Maria luôn là thầy
dạy của chúng ta. B/d Vn1 đă dịch in Mariae schola tại số 7 là “trong trường
dạy của Mẹ Maria”, khác với b/d Vn2, nhưng
lại dịch Ad Mariae scholam
của đầu đề Chương VI là Nơi trường học của Đức Maria…,
giống như b/d Vn2 !
Trong
Thông điệp này, Đức Thánh Cha đă đúc nên ít
nhất ba cụm từ có cấu trúc giống nhau, gồm
một danh từ đi kèm với tính từ “eucharisticus, a, um” đặt trong ngoặc kép.
Đó là : mulier “eucharistica”
(x. đầu đề Chương VI và số 53) ; vita… tota “eucharistica” (x. số
20), và Ecclesia penitus “eucharistica”
(x. số 50). Chắc hẳn cách hiểu và dịch tính
từ “eucharistica” trong
ngoặc kép phải giống nhau cho cả ba trường
hợp.
Về
phương diện ngữ học, danh từ là một
trong những nguồn gốc làm phát sinh tính từ. Tính
từ eucharisticus, a, um phát
xuất từ danh từ Eucharistia
và cả hai phải có nghĩa cơ bản giống nhau.
Vấn đề là phải hiểu danh từ Eucharistia như thế nào ?
Trong toàn bộ văn bản Thộng
điệp (kể cả đầu đề của Thông
điệp và của mỗi chương) chúng tôi
đếm được :
145 lần, tạm dịch Hy lễ Tạ ơn ;
106 lần tính từ eucharisticus, a, um, tạm
dịch thuộc về
hoặc hướng về hoặc
gắn bó với hoặc mang tính chất Hy lễ Tạ
ơn.
Tổng
côïng : 251 lần. Đó là
một con số khá lớn trong một văn kiện
chỉ có độ dài già 22 trang giấy khổ A 4 (không
kể các chú thích chiếm khoảng 3 trang). Hầu như ở
mỗi trang, mỗi số đều xuất hiện danh
từ và / hoặc tính từ cơ bản này.
(2).
cụm từ Sacrificium
eucharisticum.
18 lần, tạm dịch
Hy tế mang tính chất Hy
lễ Tạ ơn (tại các số : 1 ; 11 ; 12 ; 13 ; 14 ;
16 ; 22 ; 25 ; 28 ; 29 ; 30 ; 31 hai lần ; 32 ; 39 hai lần ; 43 ;
61),
Thêm 1 lần cụm từ Sacrificium Eucharistiae : Hy tế
của Hy lễ Tạ ơn (x. số 12) có nghĩa
tương đương,
Tổng
côïng 19 lần.
Đặc
biệt tại số 11, Đức Thánh Cha dùng cụm
từ rất súc tích và phong phú sau đây : (… Iesus…) eucharisticum corporis sui sanguinisque
Sacrificium (instituit) : (… Đức Giêsu… đă thiết
lập) Hy tế mang tính
chất Lễ tế Tạ ơn hiến dâng Ḿnh và Máu
của Ngài.
(3).
cụm từ Mysterium
eucharisticum.
17 lần, tạm dịch Mầu nhiệm mang tính chất Hy lễ Tạ ơn
hoặc đơn giản Mầu
nhiệm Hy lễ Tạ ơn : Mysterium Eucharistiae (tại các số : 2 ; 9 ba lần
; 10 ; 12 ; 26 ; 29 ; 30 ; 38 ; 49 ; 51 ; 55 ; 58 ; 60 ; 61 ; 62).
(4).
từ Missa
hoặc sancta Missa : Thánh
Lễ.
14 lần (tại các số : 4 ; 8 ; 12 ; 15 ; 25 ; 30 ; 33 ; 34
; 41 hai lần ; 49 ; 52 ; 59 ; 61).
(5).
cụm từ sanctum
Sacrificium Missae
2 lần, tạm dịch
Hy tế Thánh Lễ (tại
các số : 9 ; 25).
(6).
cụm từ Sacramentum
eucharisticum
4 lần, tạm dịch Bí tích Hy lễ Tạ
ơn ( tại các số : 3 ;
12 ; 34 ; 39)
Thêm 1 lần Sacramentum Eucharistiae
(x. số 12),
Tổng
côïng : 5 lần.
(7).
cụm từ Sacramentum
Paschalis mysterii như là đồng nghĩa với Eucharistia
1 lần,
tạm dịch Bí tích của
mầu nhiệm Vượt Qua (tại số 3).
(8).
cụm từ Sacramentum
Altaris : Bí tích Bàn thờ
1 lần (tại số
1).
(9).
cụm từ Sanctissimum
Sacramentum : Bí Tích Cực Thánh :
7 lần. Cụm từ này được Đức
Thánh Cha dùng theo 2 nghĩa hơi khác nhau trong những văn
mạch khác nhau :
(a). 4
lần tại các số 2 ; 26 ; 46 và 53 : "Bí Tích Cực Thánh" đồng nghĩa
với "Lễ tế
Tạ ơn" (Eucharistia) ; Đức Thánh Cha c̣n dùng
thêm cụm từ Divinum
Sacramentum : “Bí Tích Thần linh" (x. số 1 ; 15), magnum Sacramentum : Bí tích vĩ
đại (x. số 47), Bí
Tích kỳ diệu : mirabile Sacramentum (x. số 10), Bí Tich Tối cao của sự
hiệp nhất Dân Thiên Chúa : supremum Populi Dei unitatis Sacramentum
(x.số 43) với nghĩa tương tự như Bí Tích Cực Thánh, để
chỉ Lễ tế Tạ
ơn : Eucharistia.
(b). Tại
số 25 : cụm từ expositio
Sanctissimi Sacramenti có nghĩa trưng
bày - hoặc đặt ra
ngoài Nhà Tạm - Bí Tích
Cực Thánh. Trong số 25 này cụm từ "Bí Tích Cực Thánh"
xuất hiện hai lần và đều có nghĩa chỉ Ḿnh Thánh Chúa được
cất giữ trong Nhà Tạm hoặc đặt ra ngoài Nhà
Tạm để cho Dân Chúa thờ phượng. Số 10
cũng đề cập tới việc thờ
phượng và rước kiệu Bí Tích Cực Thánh, hiểu theo nghĩa Ḿnh Thánh Chúa. Nghĩa này
của Bí Tích Cực Thánh
(xuất hiện 3 lần)
rất gần với nghĩa của cụm từ
tiếp theo sau đây.
(10).
cụm từ corporis
sanguinisque Sacramentum, Bí tích Ḿnh và Máu (Chúa Kitô)
2 lần (tại các
số 6 và 38). Bí Tích Ḿnh và Máu Chúa Kitô cung cấp chất
liệu cho việc hiệp
thông bí tích : communio sacramentalis (x. số 21 ; 22) hoặc hiệp thông Hy lễ Tạ
ơn : communio eucharistica (x. số 22 ), nghĩa là hiệp thông với Ḿnh và Máu Chúa
Kitô, thường gọi là
rước lễ [có lẽ là h́nh thức vắn
tắt của thành ngữ suscipere
Eucharistiam : rước
nghĩa là đón nhận Hy lễ Tạ ơn (x.
số 36)], hoặc rước (= hiệp thông
với) Ḿnh và Máu Chúa Kitô [communio
cum corpore et sanguine Christi (x. số 22 ; 36 ; 44) hoặc communio corporis et sanguinis Domini
(x. số 17 ; 25)]. Việc rước lễ c̣n
được diễn tả bằng những cụm
từ như : ăn Bánh sự
sống : panis vitae (x. số 14), Bánh hằng sống : panis vivus (x. số 14 ; 17), Bánh Hy lễ Tạ ơn
hoặc đơn giản Bánh
Thánh Thể : panis eucharisticus (x. số 18 ; 21). Có lẽ v́
Dân Chúa thường được rước lễ
dưới h́nh Bánh mà thôi – đúng cho thời gian truớc
Công đồng Vatican II – nên tiếng Việt công giáo
gọi Bí Tích Ḿnh và Máu Chúa Kitô
cách vắn tắt là Phép Ḿnh
Thánh, Bí Tích Thánh Thể, và
rước Ḿnh Thánh, chầu Thánh Thể, kiệu Thánh
Thể…
(a). 13 lần Bữa
ăn tối cuối cùng hoặc Bữa tiệc ly : Ultima Cena, Cena Domini (x. số 3
; 9 ; 20 ; 21 hai lần ; 29 ; 30 ; 40 ; 47 ; 54 ; 56 ; 59 ; 62) ;
(b). Việc
Bẻ Bánh : fractio panis (x. số 3 hai lần ; 47 ; 53…)
(c).
Bữa Tiệc Hy lễ Tạ ơn hoặc Bữa Tiệc Thánh Thể :
convictus eucharisticus (x. số 48),
convivium (x. số 16 ; 53),
mensa eucharistica (x. số 42).
(x.
số 5 ; 6 ; 8 ; 9 ; đầu đề Chương I ;
số 11 ; 15 ; 25 ; 54 hai lần...).
Từ
bảng thống kê – có thể chưa hoàn chỉnh -- trên
đây, chúng tôi thử rút ra vài nhận định và tŕnh
bày một số suy tư dựa trên cách dùng từ ngữ
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
(3).
Như vậy, làn ranh phân
biệt hai khía cạnh : hành động cử hành Hy
lễ Tạ ơn (b/(1)) và sự tôn sùng Thánh
Thể (b/(2)) chạy qua cụm từ Bí Tích Cực Thánh : Sanctissimum Sacramentum, xuất hiện 7 lần trong
Thông điệp : 4 lần, cụm từ này
đồng nghĩa với Eucharistia
: Hy lễ Tạ ơn ; 3 lần, cụm từ này
có liên hệ minh nhiên với Ḿnh và Máu Chúa Kitô,
được người công giáo Việt Nam gọi
vắn tắt là Ḿnh Thánh
hoặc Thánh Thể,
để rước vào ḷng hoặc để thờ
phượng và rước kiệu (x. mục a/(9)/(b) và
a/(10)). Cách phân biệt này có cơ sở là chính tư
tưởng của Đức Thánh Cha tại số 61 : “Mầu nhiệm Hy lễ Tạ
ơn – hy tế, sự hiện diện, bữa tiệc –
không chấp nhận bị cắt xén hay bị lạm
dụng. Chúng ta phải sống Mầu nhiệm ấy trong
sự toàn vẹn của nó, bao gồm hành động cử hành (in celebrativo eventu)
và cuộc đàm đạo
thân mật với Đức Giêsu (in intimo cum Iesu
colloquio) mà chúng ta vừa đón
tiếp khi rước lễ, hoặc hơn thế
nữa, trong thời gian thờ phượng Thánh Thể
với đặc điểm phân biệt là sự cầu
nguyện tha thiết, ngoài Thánh Lễ”. Cần nói thêm
rằng : phân biệt không có nghĩa là tách rời, nhưng
chỉ có nghĩa nhấn mạnh hoặc nêu bật
một trong hai khía cạnh bổ sung cho nhau của Eucharistia, và cuối cùng
phải nh́n nhận rằng khía cạnh tạ ơn có
ưu thế hơn và có tầm quan trọng bao quát hơn,
như sẽ thấy sau đây.
Bây giờ chúng ta có
thể gọi phương tŕnh Bí Tích Cực Thánh = Hy
lễ Tạ ơn cách vắn tắt và đơn giản
là Hy
lễ Tạ ơn.
(a). Trước tiên chúng tôi nhận thấy Đức
Thánh Cha đặc biệt chú ư tới việc cử hành (celebrare, celebratio liên quan tới celebrativus eventus của số 61) Hy lễ Tạ
ơn qua những cụm từ như : Eucharistiam celebrare : cử
hành Hy lễ Tạ ơn (x. số 2 ; 6 ; 11 ; 27 ; 31…) ; celebratio eucharistica : cuộc cử hành mang tính
chất Hy lễ Tạ ơn (x. số 3 ; 5 ; 8 ;
18 ; 21 ; 38 ; 39 ; đầu đề Chương V ; số
49 ; 51 ; 52 bốn lần ; 53
; 56 ; 57 hai lần…) hoặc đơn giải celabratio Eucharistiae : cuộc
cử hành Hy lễ Tạ ơn (x. số 33 ; 35 hai
lần ; 39 ; 52) ; Missam celebrare : cử hành Thánh Lễ (x. số 8 ; 33 ;52) ; Missae celebratio : cuộc cử hành
Thánh Lễ (x. số 33 ; 35 hai lần ; 39 ; 52…) ; Eucharistia celebratur : Hy lễ
Tạ ơn được cử hành (x. số 8 ; 25 ;
29 ; 35 ; 39 ; 48…) ; Sacrificium
calebrare : cử hành Hy tế (x. số 19 ; 25…) ; celebratio eucharistici Sacrifici :
cuộc cử hành Hy tế mang tính chất Hy lễ Tạ
ơn (x. số 25 ; 39 hai
lần ; 43…) ; Cenam celebrare :
cử hành Tiệc Ly (x. số 40), v.v…
(b). Thứ đến,
Đức Thánh Cha theo sát nguyên nghĩa của danh từ Eucharistia và động từ eucharistein bên tiếng Hy
lạp để đề cao khía cạnh tạ ơn. Ngài
viết tại số 58 : “Eucharistia enim, sicut Mariae canticum,
praesertim laus est et gratiarum actio” : “Thật vậy, Hy lễ
Tạ ơn, cũng như bài ca (Magnificat) của
Đức Maria, chủ yếu là một lời ngợi khen và một lời tạ
ơn”
Trong Bữa Tiệc Ly,
trước khi tuyên bố lời truyền phép trên Bánh và
Rượu, Đức Giêsu đă dâng lên Chúa Cha lời chúc
tụng và tạ ơn. Hai động từ chúc
tụng và tạ ơn đều có mặt trong 4 bản
thuật tŕnh về vịêc thiết lập Hy lễ
Tạ ơn hoặc Bí Tích Thánh Thể (Mt 26,26-29 // Mc
14,22-25 ; Lc 22,19-20 // 1Cr 11,23-25).
Trước
khi truyền phép Bánh,
- theo truyền thống Marcô-Matthêu, Đức Giêsu
đă dâng lời chúc tụng : eulogesas = benedicens
(Mc 14,22) hoặc benedixit
(Mt 26,26) ;
- theo truyền thống Phaolô-Luca, th́ ngài dâng lời tạ
ơn : eucharistesas = gratias agens (1Cr 11,23) hoặc gratias egit (Lc 22,19).
Trước
khi truyền phép Rượu,
- theo truyền thống Marcô-Matthêu, ngài đă dâng lời
tạ
ơn : eucharistesas = gratias agens (Mc 14,23) hoặc gratias egit (Mt 26,27) ;
- theo truyền thống Phaolô-Luca, lời tạ
ơn là chung cho cả Bánh và Rượu.
Như
vậy, có cả tạ ơn và chúc tụng, trong đó
yếu tố tạ ơn đậm nét hơn.
Bốn Kinh
Tạ Ơn (= Ktơ : preces
eucharisticae) đang được sử dụng trong Sách lễ Rôma hiện nay
phản ánh đúng các dữ liệu từ ngữ Kinh Thánh
về việc thiết lập Lễ tế Tạ ơn,
trong đó yếu tố tạ ơn cũng đậm nét
như yếu tố chúc tụng.
Trước
khi truyền phép Bánh :
-
Theo Ktơ 1 : (Đức Giêsu Kitô)… dâng
lời chúc tụng tạ ơn Cha… : … tibi gratias agens benedixit… ;
-
Theo Ktơ 2 : (Người)… tạ ơn … : … gratias agens… ;
-
Theo Ktơ 3 : (Người)… dâng lời chúc
tụng tạ ơn Cha… : … tibi gratias agens benedixit… ;
-
Theo Ktơ 4 : (Người)… dâng lời chúc
tụng… : … benedixit… ;
Trước
khi truyền phép Rượu :
-
Theo Ktơ 1 : (Người)… dâng lời chúc
tụng tạ ơn Cha… : … tibi gratias agens benedixit… ;
-
Theo Ktơ 2 : (Người)… cũng tạ
ơn… : … iterum gratias agens…
;
-
Theo Ktơ 3 : (Người)…tạ
ơn ( bản Việt
ngữ bỏ sót chúc tụng
; đáng lư phải dịch : … dâng
lời chúc tụng tạ
ơn Cha… : … tibi gratias
agens benedixit…) ;
-
Theo Ktơ 4 : (Người)… dâng lời tạ
ơn… : … gratias egit …
Nh́n
chung, trong Phụng vụ Thánh
Thể : Liturgia eucharistica (mà chúng tôi muốn đề
nghị dịch thành Phụng vụ
Hy lễ Tạ ơn) của Thánh lễ, các lời kinh
đi kèm hành động dâng Bánh và Rượu làm nổi
bật yếu tố chúc
tụng ; c̣n trong toàn bộ mỗi Kinh nguyện Hy lễ Tạ ơn : prex eucharistica,
th́ yếu tố chúc tụng
và tạ ơn đan xen
nhau đậm nét, từ Lời
Tiền Tụng cho đến đỉnh cao của
Thánh lễ là lời kinh Per
ipsum, et cum ipso, et in ipso : Chính nhờ Đức Kitô, cùng
với Đức Kitô và trong Đức Kitô…
Theo
các chuyên gia Kinh Thánh, nghĩa của chúc tụng
(eulogein, benedicere) tương đương với
nghĩa của tạ ơn (eucharistein, gratias
agere) [1]
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă tổng hợp
truyền thống Kinh Thánh và truyền thống Phụng
Vụ, khi viết tại số 58 của Thông điệp Ecclesia de Eucharistia : “Eucharistia…
praesertim laus est et gratiarum actio” : Hy
lễ Tạ ơn… chủ yếu là một
lời ngợi khen và một lời tạ ơn. Laus
: ngợi khen, ca ngợi cũng tương đương
với benedictio : chúc tụng.
(c). Khía cạnh tạ ơn và ngợi khen là nổi
bật hàng đầu, nhưng tại số 61, Đức
Thánh Cha nêu rơ ba nội dung thiết yếu của “Mầu nhiệm Hy lễ Tạ
ơn : Eucharisticum Mysterium – đó là Hy tế : sacrificium,
Praesentia : sự hiện diện, convivium : bữa tiệc.
Ba yếu tố này đă được ngài triển khai
sâu sắc và cô đọng trong Chương
I : Mầu nhiệm Đức tin, đặc biệt
tại các số 12 đến số 17.
Đứng đầu ba nội dung này là Hy
tế : Sacrificium. Theo bảng thống kê tại
mục a., Đức Thánh
Cha đă dùng cụm từ Sacrificium
eucharisticum 18 lần và 1 lần cụm từ Sacrificium Eucharistiae : Hy tế
của Hy lễ Tạ ơn, côïng thêm 2 lần cụm từ sanctum
Sacrificium Missae : Hy tế Thánh Lễ. Ngoài ra ngài c̣n dùng
những kiểu nói như : Hy
tế của Đức Kitô : Sacrificium Christi (x. số
12 hai lần ; 15), giá trị hy
tế : virtus sacrificalis của Ḿnh và Máu mà Đức Kitô
ban tặng làm của ăn và của uống (x. số 12).
Chính số 12 này chứa đựng một lời
khẳng định then chốt : Hy tế của
Đức Kitô và Hy tế của Hy lễ Tạ ơn là
một Hy tế duy nhất : Sacrificium Christi et Sacrificium
Eucharistiae unum sunt sacrificium, trong đó cụm từ Hy tế của Hy lễ Tạ
ơn được Đức Thánh Cha lấy lại từ hiến chế
về Phụng Vụ của Công Đồng Vatican II (x. PV, số 2).
Liên
quan tới luận điểm này, chúng tôi được
đọc những tư tưởng của Đức
Thánh Cha mà chúng tôi cảm nhận là sâu sắc và đẹp
nhất trong Thông điệp Ecclesia
de Eucharistia. Ví dụ :
-
Tại
số 13 : Do mối liên
hệ chặt chẽ với Hy tế Núi Sọ, Hy lễ
Tạ ơn là một Hy tế theo nghĩa đặc thù
(sensu proprio : b/d Vn1 và b/d Vn2
dịch là : theo nghĩa đen), chứ không chỉ theo
một nghĩa chung chung nào đó (non tantum quadam universali
significatione), như thể đây đơn thuần là hành
động Đức Kitô tự hiến ban chính ḿnh (oblatio
Christi) làm lương thực thiêng liêng cho các tín hữu.
Quả thật, hành động Đức Kitô dâng hiến
t́nh yêu và ḷng vâng phục (donum amoris atque oboeditionis) cho
đến giây phút cuối đời (x. Ga 10,17-18) tiên vàn là
một của lễ (donum) dâng hiến cho Cha của
Người (Patri ipsius oblatum). Đành rằng quà tặng
đó (donum hoc) mưu ích cho chúng ta (nobis favet) và cho cả
nhân loại (x. Mt 26,28 ; Mc 14,24 ; Lc 22,20 ; Ga 10,15), nhưng trước hết là của
lễ dâng lên Chúa Cha (donum imprimis ad Patrem) : “Đó là Hy
tế mà Chúa Cha đă ưng nhận, và để đáp
trả lại sự tự hiến trọn vẹn của
Con ḿnh, Đấng đă vâng lời cho đến chết (x.
Ep 2,8), th́ Chúa Cha trao ban quà tặng đầy t́nh từ
phụ, là quà tặng sự sống mới và bất
tử khi làm cho Con của ḿnh sống lại.” Chính
Đức Thánh Cha trích dẫn đoạn này từ Thông
điệp Redemptor hominis :
Đấng Cứu Chuộc con người do ngài ban hành
ngày 15-3-1979, số 20. Sự tự hiến trọn vẹn
của Chúa Con (plena donatio Filii) mà Đức Thánh Cha
đề cập ở đây, chắc hẳn tương
ứng với điều Lá thư Do Thái viết về
hành động Đức Kitô,
nhờ Thần Khí vĩnh hằng thôi thúc, tự hiến
dâng chính ḿnh cho Thiên Chúa như của lễ vô t́ tích :
Christus, qui per Spiritum sanctum (trong bản Hy lạp là aioniou : vĩnh
cửu) semetipsum obtulit immaculatum Deo (x. Dt 9,14).
-
Tại
số 8 : … Hy lễ
Tạ ơn, theo một nghĩa nào đó, luôn
được cử hành trên bàn thờ của thế
giới. Hy Lễ Tạ ơn kết
nối trời với đất. Hy lễ Tạ ơn bao
gồm và thấm nhập toàn thể thụ tạo. Con
Thiên Chúa đă làm người để phục hồi toàn
thể thụ tạo, và trong
một hành vi tuyệt vời của lời ca ngợi (extremo
quidem laudis actu) Ngài dâng về
lại cho Đấng đă lôi kéo chúng ra từ hư vô.
Chính v́ thế mà Ngài, Tư Tế Tối cao và Vĩnh
hằng, đă đi vào cung thánh vĩnh cửu qua ḍng máu
đổ ra trên Thánh Giá và đă dâng trả về lại
cho Đấng là Tạo Hoá và là Cha, mọi thụ tạo
đă được cứu chuộc. Ngài thực hiện
điều đó xuyên qua thừa tác vụ tư tế
của Giáo Hội, nhằm tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.
Đó đích thực là Mầu
Nhiệm Đức Tin được thể hiện
toàn măn trong Hy lễ Tạ ơn : thế giới xuất
phát từ hai bàn tay Thiên Chúa Tạo Hoá nay quay về lại
với Thiên Chúa sau khi được Đức Kitô cứu
chuộc.” Đức Thánh Cha chiêm ngắm Hy lễ
Tạ ơn bằng một tầm nh́n vừa cao vừa
sâu, nghĩa là vừa bao quát vừa vĩ đại.
Cụm từ hành vi tuyệt
vời của lời ca ngợi chắc hẳn vọng
lại tư tưởng của Công Đồng Vatican II
chứa đựng trong Hiến chế về Phụng
Vụ Thánh :
“Là Thượng Tế
của Giao ước Mới và vĩnh cửu, Đức
Kitô Giêsu, khi nhận lấy bản tính nhân loại, đă
đưa vào cuộc lưu đày ở trần gian này bản thánh ca từng
được hát lên muôn thuở nơi ngai ṭa thiên
quốc. Chính Ngài liên kết toàn thể cộng đồng
nhân loại lại với ḿnh để cùng hát bài thánh ca ngợi khen ấy.
Thật vậy, Ngài tiếp tục chức
vụ tư tế đó xuyên qua Chính Giáo Hội của
Ngài. Giáo Hội không chỉ cử
hành Hy Lễ Tạ ơn, mà c̣n dùng nhiều cách khác,
nhất là việc chu toàn Thần
Vụ (Officium divinum) để không ngừng ca ngợi Thiên Chúa và chuyển
cầu cho phần rỗi của cả thế giới” (x. PV, số 83).
Nếu
“Hy tế mang tính chất Hy
lễ tạ ơn (Sacrificium eucharisticum) là nguồn mạch
và đỉnh cao của toàn bộ đời sống Kitô
giáo” (x. GH, số 11), th́
cũng là nguồn mạch và đỉnh cao của Thần
vụ, c̣n gọi là Kinh Nhật tụngï hoặc các giờ
kinh Phụng Vụ. Do đó lời khẳng định
của Đức Thánh Cha trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia vẫn
đúng một cách sâu sắc và toàn diện : “Hy lễ Tạ ơn chủ
yếu là một lời ngợi khen và một lời
tạ ơn” (x. số 58). Lời ngợi khen và tạ
ơn đậm đặc ấy là trung tâm có sức
mạnh lan toả sang Thần vụ và toàn bộ cuộc
sống các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân theo tiến tŕnh ly
tâm của những ṿng tṛn đồng tâm.
(5).
Bây giờ cần suy nghĩ thêm về
phương tŕnh thứ hai :
Sanctissimum Sacramentum = Corporis sanguinisque (Christi) Sacramentum
: Bí Tich Cực Thánh = Bí Tích Ḿnh và Máu (Đức Kitô). Ở đây chúng ta có
thể đơn giản nói về Bí Tích Ḿnh và Máu
Đức Kitô. Theo cách tŕnh bày của Đức Thánh Cha,
đây chính là điểm tựa của hai chủ
đề sự hiện
diện : Praesentia và bữa tiệc : Convivium (x. số
61).
Đức
Kitô hiện
diện thật sự trong Bí Tích Ḿnh và Máu Thánh, v́ do
lời Truyền phép mà Linh mục đọc theo lệnh
Đức Kitô (x. Lc 22,19 // 1Cr 11,24-25) và nhờ tác
động thánh hóa của Chúa Thánh Thần (x. Nghi thức Thánh Lễ :
Ktơ II, số 103 ; Ktơ III, số 110 ; Ktơ IV, số
119), Bánh được biến đổi từ bản
thể bánh sang bản thể Thân Ḿnh Đức Kitô, và
Rượu được biến đổi từ
bản thể rượu sang bản thể Máu Đức
Kitô. Đó là giáo huấn của Công Đồng Trentô về
sự biến đổi
bản thể : transsubstantiatio (x. số 15).
Sự biến đổi bản thể
của Bánh và Rượu và sự hiện diện thực
sự của Đức Kitô trong Bí Tích Ḿnh và Máu Thánh là
để tạo điều kiện cụ thể,
hữu h́nh và hữu hiệu cho các tín hữu
được tiếp xúc, được hiệp thông
với Ngài, được đón rước Ngài vào
trong trái tim và cuộc sống của ḿnh, và bằng cách
đó họ được sống và sống dồi dào
(x. Ga 10,10), nghĩa là
được sống nhờ Đức Kitô, như
Đức Kitô sống nhờ Chúa Cha là Đấng hằng
sống (x. Ga 6,57).
Về
sự hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể, Đức
Thánh Cha đă viết ra một tư tưởng rất
đặc sắc tại số 22 : “Chúng ta có thể nói rằng không những mỗi
người chúng ta tiếp nhận Đức Kitô, nhưng
chính Đức Kitô cũng tiếp nhận mỗi
người chúng ta”. Chúng ta có thể bị chi phối
mạnh mẽ bởi quan điểm chiếm hữu ích
kỷ : tiếp nhận hoặc rước Chúa Kitô vào ḷng
ḿnh cho
ḿnh, để được Ngài nuôi sống và
bổ sức cho ḿnh, và “cuộc
đàm đạo thân mật với Ngài” (x. số 61) có
thể chỉ xoay quanh trọng tâm là cái tôi của chúng ta,
nhằm t́m sự an ủi dịu ngọt và thỏa măn
những nhu cầu tâm lư t́nh cảm nào đó của mỗi
ngườiù. Ở đây, lời cảnh báo của Thánh
Vinh Sơn đệ Phaolô đáng được nhắc
lại : Đó mới chỉ là “t́nh
yêu cảm ái : amour affectif, chưa phải là t́nh yêu thiết
thực : amour effectif”. Theo Thánh nhân, t́nh yêu cảm ái
phải dẫn đến t́nh yêu thiết thực
được thể hiện trong những hành
động từ bỏ ḿnh, hy sinh, vâng lời và phục vụ,
nhất là phục vụ người nghèo. Đức Thánh
Cha Gioan-Phaolô II nhắc chúng ta nhớ rằng phải
để cho Chúa Kitô tiếp nhận chúng ta, biến
đổi chúng ta “thành Bí tích
cho nhân loại, thành dấu chỉ và dụng cụ của
ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện, thành ánh sáng
và muối cho thế gian (x. Mt
5,13-16) để cứu
rỗi mọi người” (x. số 22). Ḿnh và Máu Chúa
Kitô chúng ta rước lấy trong Hy lễ Tạ ơn
đúng là lương thực, v́ Hy lễ Tạ ơn
đúng là một bữa tiệc (x. số 16), nhưng
lương thực đó tiên vàn là một hiến lễ
mang tích chất và giá trị hy
tế (x. số 12), tiên vàn là một của lễ dâng
lên Chúa Cha (x. số 13). V́ thế, hiệp thông với Ḿnh và
Máu Thánh Chúa Kitô trước hết là hiệp thông với Hy
tế của Ngài, hiệp thông với hành động
của Ngài hiến tặng t́nh yêu và ḷng vâng phục như
của lễ dâng lên Chúa Cha (x. số 13). Cuối cùng
hiến lễ hoặc hy tế đó trở thành lời
ngợi khen và tạ ơn hoàn hảo và tuyệt vời (x.
số 8 ; 58). Toàn bộ con người và cuộc
đờùi Chúa Kitô mang tính chất Hy lễ Tạ ơn (x.
số 8), th́ mỗi người chúng ta, khi hiệp thông
với Ḿnh và Máu Thánh Ngài, cũng phải để cho Ngài
tiếp nhận chúng ta vào trong thân phận Hy tế của
Ngài, vào trong năng động Hy lễ Tạ ơn
của Ngài, và bằng cách đó toàn bộ con người
và cuộc đời chúng ta cũng “mang tính chất Hy lễ Tạ ơn” hoặc “hướng về Hy lễ
Tạ ơn” (“eucharisticus, a,
um”), như Chúa Kitô.
Nh́n
dưới góc độ từ ngữ tiếng Việt,
cụm từ Thánh Thể, Bí Tích Thánh Thể, Phép Thánh Thể là
cách phiên dịch rất sát cụm từ La tinh Corporis
Sanguinisque Sacramentum (x. a/(10)),
chỉ có điều là diễn tả vắn tắt
hơn, v́ trong Ḿnh Thánh có ẩn chứa Máu Thánh, nên chỉ
cần nói Thánh Thể là
đủ hiểu cả hai. Cụm từ ấy diễn
tả ưu tiên hai yếu tố sự hiện diện
và bữa
tiệc, sau yếu tố thứ nhất và cơ
bản là Hy tế, cả ba yếu tố cấu tạo
nên “Mầu
nhiệm Hy lễ Tạ ơn : eucharisticum Mysterium” (x.
số 61). Theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, không ai
được phép cắt xén hoặc giảm thiểu
(extenuatio) và lạm dụng (abusio), nghĩa là sử dụng sai lệch Mầu
nhiệm Hy lễ Tạ ơn với ba yếu tố
được ngài kê khai theo thứ tự tầm quan
trọng : Hy tế, sự hiện diện và bữa
tiệc. Vậy các lư luận hơi dài ḍng và khô khan,
nhưng cần thiết trên đây dẫn chúng tôi tới
những kết luận và những lời chất vất
như sau :
Dựa
vào cách dùng từ ngữ, đặc biệt những chuyên
từ thần học (terminus technicus theologicus) của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cụ thể dựa trên
những dữ liệu thống kê cũng như sự phân
tích từ ngữ, chúng tôi cảm thấy cần thiết :
a.
Phải dịch danh từ Eucharistia trong đầu
đề cũng như toàn bộ văn bản Thông
điệp Ecclesia de Eucharistia
thành Hy lễ Tạ ơn thay v́ (Bí Tích) Thánh Thể ;
b.
Phải dịch cụm từ mulier “eucharistica” trong
đầu đề Chương VI cũng như số 53
của Thông điệp thành người phụ nữ “luôn
hướng về Hy lễ Tạ ơn” thay v́ người nữ “Thánh Thể”
(b/d Vn1) hoặc “người
phụ nữ của Thánh Thể” (b/d Vn2). Thêm chữ luôn,
v́ tại số 53 Đức Thánh Cha viết : Maria mulier tota sua vita est “eucharistica” : suốt cả cuộc đời Đức Maria
là một phụ nữ “hướng về Hy lễ Tạ
ơn”.
c.
Cụm từ vita tota
“eucharistica” tại số 20 cũng phải
được hiểu và dịch tương tự như
thế. Đây là văn mạch của cụm từ
ấy (nhân tiện, chúng tôi ghi nhận cả 4 bản
dịch chúng tôi có trong tay đều dịch không sát câu
văn La ngữ) : Domini mortem
annuntiare “donec veniat” (1Cr
11,26) idem est Eucharistiam participantibus ac vitam ex officio transformare, ut
certo modo tota “eucharistica” fiat
: Công bố cái chết của Chúa “cho tới khi Ngài lại
đến” (1Cr 11,26), đối
với những người tham dự Hy lễ Tạ ơn, cũng đồng nghĩa
(idem est ac) với nhiệm
vụ (ex officio) biến đổi cuộc sống,
để một cách nào đó cuộc sống “mang tính chất Hy lễ Tạ
ơn” trọn vẹn (cũng
có thể dịch : để…
cuộc sống hoàn toàn “hướng về Hy lễ Tạ
ơn”). (cụm từ idem
est ac đă được dịch như sau : b/d P : implique, từ đó b/d Vn1 : đ̣i buộc ; b/d A : entails, từ đó b/d Vn2 : đ̣i hỏi. Thực ra implique và entails đều có nghĩa hàm ư hoặc kéo theo. C̣n
đ̣i hỏi, đ̣i buộc là exigit, x. số 50). Riêng
việc b/d Vn1 và b/d Vn2 đă dịch danh từ Eucharistia và tính từ “eucharistica” thành “Thánh Thể” th́ thực
sự có vấn đề, như chúng tôi sẽ đề
cập ngay.
d. Và
cuối cùng cũng phải hiểu cụm từ Ecclesia penitus “eucharistica”
tại số 50 là một Giáo
Hội từ thâm sâu hướng về Hy lễ Tạ
ơn thay v́ một Giáo
Hội “Thánh Thể” sâu trầm (b/d Vn1) hoặc một Hội Thánh có tính chất
“Thánh Thể” sâu xa (b/d Vn2). Chúng tôi cố t́nh chọn cách
dịch một Giáo Hội
từ thâm sâu “huớng về Hy lễ Tạ ơn” của
số 50, để có sự song đối với Đức Maria, người
phụ nữ luôn “hướng về Hy lễ Tạ
ơn” của số 53, v́ Đức Thánh Cha nhấn
mạnh chủ đề Đức
Maria là Mẹ và mẫu mực của Giáo Hội : Maria,
Mater Ecclesiaeque exemplar (x. số 53), một chủ
đề rất được Công Đồng Vatican II
ưa chuộng, theo gương các Giáo Phụ (x. GH, số 63-65).
Trong
Thông điệp này, Đức Thánh Cha đă dùng danh từ Eucharistia 145 lần và tính từ eucharisticus,
a, um 106 lần, trong lúc
ngài chỉ dùng cụm từ corporis
sanguinisque Sacramentum : Bí Tích Ḿnh và Máu (Chúa Kitô) 2 lần, thêm một số lần không nhiều lắm corpus và sanguis : Ḿnh và Máu (Chúa
Kitô) trong những kiểu nói như communio cum corpore et sanguine Christi, communio corporis et
sanguinis Domini : hiệp thông với Ḿnh và Máu Chúa Kitô. Từ
ngữ Hán Việt “Thánh
Thể” tương ứng chính xác với những
cụm từ xuất hiện không nhiều lắm này.
Vậy th́, việc phiên dịch danh từ Eucharistia và tính từ eucharisticus,
a, um một cách nhất
loạt và xuyên suốt trong Thônng điệp thành Thánh Thể có phù hợp
với tư tưởng và ư định của
Đức Thánh Cha không ? Và làm như thế, phải
chăng là một cách cắt xén hoặc làm giảm
thiểu (extenuatio) nội dung phong phú của Mầu nhiệm Hy lễ Tạ
ơn : eucharisticum Mysterium mà Đức Thánh Cha đề
cập tại số 61 với ba yếu tố cấu thành
là Hy tế : sacrificium, sự
hiện diện : praesentia, bữa tiệc : convivium ?
Trong hai bản dịch Việt ngữ đang lưu hành,
ngoại trừ một vài lần họa hiếm danh
từ Eucharistia
được phiên dịch thành Lễ
Tạ Ơn (x. số 2 của b/d Vn1) và cụm từ Sacrificium eucharisticum thành hy tế tạ ơn (x.
số 1 và 11 của b/d Vn2),
c̣n th́ 145-1 lần danh
từ Eucharistia và 106-2 lần tính từ eucharisticus, a, um đều
được dịch nhất loạt là Thánh Thể. Làm như thế có phải là lạm
dụng (abusio) cụm từ Hán Việt Thánh Thể quá không ? Tại số 61 ấy,
Đức Thánh Cha đă lưu ư mọi người
rằng không được phép làm bất cứ
điều ǵ có tính cách cắt xén, giảm thiểu và
lạm dụng đối với Mầu nhiệm Hy lễ
Tạ ơn.
-
Cụm từ Lễ
Tạ Ơn của b/d Vn1 có công trạng làm nổi
bật khía cạnh Tạ Ơn là khía quan trọng
nhất của Eucharistia
đúng với tư tưởng của Đức Thánh Cha
(x.số 58). Nhưng bên tiếng Việt, cụm từ
ấy có nguy cơ bị đánh đồng với
kiểu nói b́nh dân “xin lễ
tạ ơn”như môt thực hành đạo
đức, sau khi một tín hữu nào đó nhận
được một ơn lành hoăc gặp may mắn. Eucharistia là một chuyên từ
thần học thánh kinh, có ba nội dung phong phú như
Đức Thánh Cha đă xác định, trong đó yếu
tố cơ bản là Hy tế. Vậy trong cụm từ Hy lễ Tạ ơn, do chúng
tôi đề nghị, nổi rơ yếu tố Hy lễ,
đồng nghĩa với Hy tế đang được
cử hành trong Thánh Lễ.
-
Cụm từ Kinh
Tạ Ơn, mà Sách Lễ
Rôma bằng Việt ngữ đă dùng để phiên
dịch cụm từ La ngữ Prex
eucharistica, cũng có ưu và khuyết điểm
tương tự như Lễ
Tạ Ơn, nghĩa là có nguy cơ bị đánh
đồng với kiểu nói b́nh dân kinh cám ơn, là một thực hành đạo
đức ngoài Phụng Vụ. V́ thế chúng tôi xin
đề nghị dịch thành Kinh
nguyện Hy lễ Tạ ơn. Dầu sao cụm từ
Kinh Tạ Ơn vẫn
đă gần với bản gốc La ngữ hơn cụm
từ Kinh nguyện Thánh
Thể mà người ta gặp thấy trong Thư Chung
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm
2004, Giáo Hội Sống Mầu
Nhiệm Thánh Thể (x. TC số 7).
-
Cũng nhân tiện đây, chúng tôi mạo
muội đề nghị với các dịch giả Sách
Lễ Rôma thay đổi cách dịch cụm từ Liturgia eucharistica trong Nghi Thức Thánh Lễ, từ
số 17 –26 : Phụng Vụ Hy lễ Tạ ơn thay v́ Phụng Vụ Thánh Thể.
Tổng kết phần I, chúng tôi thấy
đầu đề của Chương VI đă chứa
đựng cả một khoa Thánh Mẫu học rất
phong phú và độc đáo của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, mà phần thân của Chương sẽ minh
họa rơ nét hơn nữa :
PHẦN II : NHỮNG BIỂU HIỆN
CỦA TÂM HỒN LUÔN “HƯỚNG VỀ HY LỄ TẠ
ƠN”
Chương
VI gồm 6 số, dài khoảng 2 trang giấy A 4. Một
bản văn ngắn gọn, nhưng chứa đựng một
trực giác mới về cách chiêm ngắm chân dung tinh
thần Đức Trinh Nữ Maria. Công Đồng Vatican II
đă làm mới lại chân dung mà Thánh Giáo Phụ Ambroxiô
thời xa xưa từng phác hoạ về một Đức Thiên Mẫu là khuôn
mẫu của Giáo Hội : Deipara est Ecclesiae typus trên b́nh
diện đức tin, đức ái và sự hiệp
nhất hoàn hảo với Đức Kitô. Công Đồng
triển khai đề tài này đặc biệt
dưới hai góc độ : Đức Maria là khuôn mẫu
của Giáo Hội trong tư cách : Hiền Mẫu và Trinh
Nữ (x. GH, số 63-65).
Sau đó, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Tông Huấn
lừng danh Marialis Cultus (MC) về Việc Tôn Sùng Đức Mẹ
(1974), tiếp tục triển khai đề tài Đức Maria khuôn mẫu của
Giáo Hội trong việc thực hành Phụng tự, với
bức chân dung bốn nét đă trở thành kinh điển
: Giáo Hội, họa ảnh
của Đức Maria, là một Trinh Nữ lắng nghe,
một Trinh Nữ cầu nguyện, một Trinh Nữ sinh
hạ, một Trinh Nữ hiến dâng (x. MC, số 16-23). Với Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (2003),
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đẩy tầm nh́n
của Công Đồng và của Đức Phaolô VI xa
hơn, sâu hơn và cụ thể hơn một
bước, bằng cách tập trung vào góc độ Đức Maria là khuôn mẫu
của Giáo Hội về thái độ nội tâm luôn
“hướng về Hy lễ Tạ ơn”.
Trước
khi nghiên cứu các biểu hiện cụ thể của
thái độ nội tâm này, chúng tôi muốn thử t́m cách
lư giải ư nghĩa của ngoặc kép mà Đức
Thánh Cha dùng để bao bọc lấy tính từ “eucharistica”, được
ngài ứng dụng cho ba trường hợp mà thôi :
Đức Maria (số 53), Giáo Hội (số 50) và
đời sống người tín hữu (số 20).
Khi
bàn về Giáo Hội, nếu gán cho Giáo Hội đặc
tính, được diễn tả bằng tính từ “eucharistica” mà chúng tôi đă
dịch thành “hướng
về Hy lễ Tạ ơn”, th́ đặc tính đó
không thể đặt ngang hàng với bốn đặc tính
kinh điển định nghĩa bản chất của
Giáo Hội là : duy nhất (una),
thánh thiện (sancta), công giáo (catholica) và tông truyền
(apostolica). Bốn tính từ này không bao giờ bị
đặt trong ngoặc kép v́ nghĩa của chúng luôn
được hiểu một cách đặc thù và tṛn
đầy. Cụm từ certo modo : một cách nào đó, mà Đức Thánh Cha ghép vào
câu ut (certo modo vita) tota
“eucharistica” fiat : để một
cách nào đó cuộc sống (các tín hữu) hoàn toàn
“hướng về Hy lễ Tạ ơn” (x. số 20), có thể ứng dụng cho
cả trường hợp Giáo Hội và Đức Maria.
Cụm từ ấy có thể được coi như
tương đương với ngoặc kép và muốn
nói lên rằng không nên hiểu tính từ eucharistica theo nghĩa đặc thù và tṛn
đầy, nhưng chỉ theo nghĩa loại suy hay nghĩa
rộng. Danh từ Eucharistia
và tính từ xuất phát từ đó, mà không bị
đặt trong ngoặc kép, phải được
hiểu theo nghĩa đặc thù và tṛn đầy,
biểu thị toàn bộ Mầu Nhiệm Hy lễ Tạ
ơn với ba yếu tố cấu thành là Hy tế, sư
hiện diện và bữa tiệc của Đức Kitô
(x. số 61). Hy lễ Tạ ơn là chính Đức Kitô ;
Đức Kitô do bản tính và sứ mạng là Hy lễ
Tạ ơn, là hiến lễ t́nh yêu và vâng
phục dâng lên Chúa Cha (x. số 13), là hành động ca
ngợi tuyệt vời và tạ ơn (x.
số 58) đi kèm với hành động dâng toàn thể
nhân loại đă được Ngài cứu chuộc
về lại cho Chúa Cha (x, số 8), và cuối cùng là hành
động trao tặng Thịt và Máu ḿnh làm lương
thực nuôi sống loài người (x. số 12 ;13).
Đời
sống người tín hữu cũng như chính Giáo
Hội và Đức Maria, khi được Đức
Thánh Cha gán cho tính từ “eucharistica”,
th́ tính từ này chỉ có thể có nghĩa là “hướng
về Hy lễ Tạ ơn” của Đức Kitô, nguồn
mạch và đỉnh cao đờùi sống của
người Kitô hữu, của Giáo Hội và của
Đức Maria (x. GH số
11).
Phần
thân của Chương VI mở đầu bằng một
lời khẳng định nền tảng : mối
tương quan mật thiết giữa Đức Maria và
Hy lễ Tạ ơn được xây trên một thái
độ nội tâm (interior habitus), mà Đức Thánh
Cha gọi là thái độ luôn
“hướng về Hy lễ Tạ ơn” (x. số 53) . Thái độ này, Mẹ
đă có trong suốt cuộc đờùi của Mẹ,
trước khi Con của Mẹ thiết lập Hy lễ
Tạ ơn, trước khi Mẹ được tham
dự những Thánh Lễ do các Tông Đồ cử hành cho
cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi sau khi Đấng
Phục Sinh về trời, và chắc chắn mỗi
lần như thế Mẹ đă hiệp lễ (x. số
53 ; 55). Trong suốt cuộc
đời, Đức Maria là một phụ nữ
“hướng về Hy lễ Tạ ơn”. Thái
độ nội tâm đó của Đức Maria
được Đức Thánh Cha triển khai thành
những biểu hiện sinh động, mà ngài luôn nh́n trong
sự song đối giữa Mẹ Chúa Kitô với Giáo
Hội hoặc với mỗi Kitô hữu, thành viên của
Giáo Hội. Biểu hiện mang tính nền tảng của
thái độ nội tâm luôn hướng về Hy lễ
Tạ ơn, chính là ḷng tin. Ḷng tin là căn
cơ đến nỗi chúng ta có thể đồng hoá nó
với chính thái độ nội tâm ấy. Và sau đây là
những biểu hiện cụ thể của ḷng
tin hướng về Hy lễ Tạ ơn (fides eucharistica) :
Đức
Thánh Cha xuất phát từ chân lư : Hy lễ Tạ ơn là
một mầu nhiệm đức tin, để nêu lên
yếu tố cơ bản nhất của đức tin
hiện sinh -- c̣n gọi là hành động tin (fides quă
creditur), cần phân biệt với nội dung đức
tin (fides quae creditur) -- , đó là thái độ nghe
và vâng
Lời Thiên Chúa hoặc vâng Lời Đức Kitô (x. số
54). Chính Thánh Phaolô đă từng nói rằng : đức tin
xuất phát từ hành động nghe (fides ex auditu : Rm 10, 17) : nghe giảng, mà nghe
giảng là nghe công bố lời Đức Kitô. Đối
với vị Tông đồ của Dân ngoại, tin
chính là vâng lời, khi ngài đề cập tới
sứ vụ tông đồ của ḿnh là khơi dậy
(nơi người nghe) sự vâng phục của ḷng tin
(eis hupakoen pisteos = ad oboeditionem fidei – theo bản dịch Nova
Vulgata, sát bản gốc Hy lạp hơn bản dịch
Vulgata cũ của Thánh Giêrôm). Sự vâng phục của
ḷng tin có nghĩa đơn giản : tin là nghe và vâng Lời
Thiên Chúa, hoặc vâng Lời Đức Kitô ; tin đồng
nghĩa với vâng lời, đức tin có nội dung là
sự vâng lời, như khi chúng ta nói : “ơn hoà b́nh = gratia
pacis, th́ nội dung của ơn đó chính là sự b́nh an.
Khi Giáo Hội, v́ vâng lời Đức Kitô, cử hành Hy
lễ Tạ ơn để
tưởng nhớ đến Người (x. Lc 22,19), th́ Giáo Hội cũng
đang vâng lời Đức Maria đă từng nói
với mọi người hiện diện tại tiệc
cưới Cana : “Hăy làm
những ǵ Ngài dạy bảo” (Ga 2,5). Vâng lời Mẹ, để vâng lời Con
của Mẹ. Đây là ư nghĩa sâu xa của cụm từ
“Ad Mariae scholam” trong
đầu đề Chương VI : Đức Thánh Cha
muốn chúng ta đến với mái trường của
Đức Maria để Mẹ dạy chúng ta vâng
lời Chúa Giêsu, nghĩa là làm theo lời Chúa Giêsu dạy.
Chương tŕnh học tại mái trường của
Đức Maria mang đặc điểm này : dạy hai
lần, th́ cũng học hai lần và vâng lời hai
lần. Vâng lời nối kết vâng lời,
đức tin nối kết đức tin. Triển khai
trực giác của Thánh Grignion de Montfort đă từng
đúc nên châm ngôn lừng danh : “Per Mariam ad Iesum : Nhờ Mẹ Maria
đến với Chúa Giêsu”, chúng ta có thể cô đọng sáng kiến của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào trong một công thức
mới : “Ad Mariam et per
Mariam ad Iesum : Đến với Mẹ Maria và nhờ Mẹ
Maria đến với Chúa Giêsu”. Linh đạo Thánh
Mẫu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thông
điệp này bao hàm một tiến tŕnh năng
động, một hành tŕnh của Giáo Hội có Mẹ
Maria đồng hành (x. số 57), để cùng với
Mẹ, đến với mái trường của
Đức Giêsu, và cả hai ngôi trường ấy
đều là trường dạy đức tin và
đức vâng lời. Hai ngôi trường ấy c̣n
giống nhau ở chỗ : trường trở thành
đường. Trường của Đức Maria
trở thành đường dẫn tới trường
của Đức Giêsu, và Đức Giêsu lại là Đường
dẫn tới Chúa Cha (x. Ga
14,6). Chương tŕnh học tại hai ngôi trường
ấy là một hành tŕnh và một nếp
sống, một linh đạo hay con đường
thiêng liêng, v́ hành tŕnh và nếp sống đó vận hành
dưới tác động của Chúa Thánh Linh, như Thánh
Phaolô đă giải thích cách cô đọng : “Nếu chúng ta sống
nhờ Thần Khí, th́ cũng hăy nhờ Thần Khí mà tiến
bước” (x. Gl
5,25). Điều này đúng một cách hoàn hảo với
Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Hiến
dâng chính ḿnh vào tay Thiên Chúa để Người dùng mà
thực hiện thánh ư và chương tŕnh của
Người (x. số 55). Ở đây Đức Thánh Cha
nới rộng tầm nh́n về Hy lễ Tạ ơn. Theo
ngài, Hy lễ Tạ ơn không những có liên quan tới
cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức
Giêsu, mà đồng thời c̣n mang theo hiệu quả là sự
tiếp nối mầu nhiệm Nhập Thể.
Đă từng có một trào lưu thần học
trước Vatican II nh́n Giáo Hội như sự nối dài
mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời. Trong
Thông điệp này, Đức Thánh Cha chỉ ứng
dụng sự nối dài mầu nhiệm Nhập Thể
cho Hy lễ Tạ ơn. Tại cuộc Truyền Tin,
Đức Maria đă cưu mang Con Thiên Chúa trong chính
thực tại vật lư thân xác và máu huyết, và khi hiến
dâng cung ḷng trinh vẹn để Ngôi Lời của Thiên Chúa
nhập thể, th́ Mẹ đă chứng tỏ niềm tin của Mẹ
hướng về Hy lễ Tạ ơn (fides eucharistica)
trước khi Hy lễ Tạ ơn được
thiết lập. Đức tin của Mẹ Maria,
được diễn tả bằng tiếng Fiat
(Xin vâng) tại cuộc Truyền Tin, trở thành khuôn
mẫu cho đức tin của người tín hữu,
diễn tả bằng tiếng Amen (Đúng thế) khi rước
Thánh Thể vào ḷng. Đức Maria được
mời gọi tin rằng Đấng mà ḿnh cưu mang nhờ
quyền năng của Chúa Thánh Thần, là chính Con Thiên Chúa
(x. Lc 1,30-35), th́ chúng ta, tiếp
nối ḷng tin của Mẹ, cũng được
mời gọi tin rằng người Con đó của Thiên
Chúa và của Mẹ Maria hiện diện thực sự
dưới dấu chỉ bí tích là h́nh bánh và h́nh
rượu, được biến đổi thành Ḿnh và
Máu với trọn vẹn hữu thể nhân bản và
thần linh của Người.
Đức
Thánh Cha sánh ví cung ḷng Đức Mẹ với “Nhà
Tạm cất giữ Thánh Thể” – và là Nhà Tạm
đầu tiên, một Nhà Tạm di động, trong
lịch sử – khi Mẹ mang Ngôi Lời Nhập Thể
đi viếng Bà Elisabeth. Hành động hiến dâng ḷng
ḿnh để đón tiếp Con Thiên Chúa Nhập
Thể, kèm với cái nh́n đắm say âu yếm
chiêm ngưỡng Hài Nhi bé bỏng được
Mẹ bồng ẵm trong tay, chẳng phải là mẫu
mực cho t́nh yêu khôn sánh gợi hứng cho chúng ta mỗi
lần chúng ta rước lễ đó sao (x. số 55) ?
Định
mệnh của Đức Giêsu được diễn
tả bằng biểu tượng Thập Giá, nơi
Người hiến tế chính ḿnh làm lễ vật vô t́
tích dâng lên Chúa Cha dưới sự thôi thúc của Thần
Khí hằng hữu (x. Dt
9,14), và cũng là nơi Người chứng tỏ t́nh yêu
lớn nhất dành cho Chúa Cha (x. Ga
14,31) và loài người (x. Ga
15,13). Hy tế Thập Giá được Đức Giêsu
liên kết một cách hữu ư với Hy lễ Tạ
ơn trong Bữa Tiệc Ly qua
lời truyền phép biến đổi Bánh thành Thân Ḿnh
của Người “sẽ
bị nộp”, và biến đổi Rượu thành Máu
của Người “sẽ
đổ ra cho mọi người đựơc tha
tội”, do đó Bữa Tiệc của Hy lễ Tạ
ơn luôn mang chiều kích hy tế ; và hy tế Núi
Sọ, nghĩa là hy tế Đức Kitô dâng hiến trên
Thập Giá và hy tế của Hy lễ Tạ ơn chỉ
là một hy tế duy nhất (x. số 12). Theo Đức Thánh
Cha, Đức
Maria đă đảm nhận chiều kích hy tế của
Hy lễ Tạ ơn làm của ḿnh, không phải chỉ
trên Núi Sọ, nhưng trong suốt cuộc đời
của Mẹ (x. số 56). Mẹ chia sẻ
định mệnh của Đức Giêsu, “dấu chỉ bị người đời
chống báng” bằng cách đón nhận lời tiên tri
của cụ già Simêon về “lưỡi
gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Mẹ” (x. Lc 2,34-35). Từng ngày chuẩn
bị cho biến cố Núi Sọ, Mẹ như đă
sống bằng tiên cảm một thứ Hy lễ Tạ
ơn, như một dạng “hiệp lễ thiêng liêng”
bằng ước muốn và tâm t́nh hiến dâng, và Hy
lễ Tạ ơn đó sẽ đạt tới
đỉnh điểm trong việc Mẹ thông dự vào
cuộc Thương Khó của Con ḿnh, rồi sau biến
cố Phục Sinh, sẽ được minh chứng
bằng việc Mẹ tham dự các cuộc cử hành Hy
lễ Tạ ơn do các Tông đồ chủ sự
để tưởng nhớ cuộc Thương Khó
của Chúa.
Tưởng
nhớ biến cố Núi Sọ, cũng là ôn lại lời
trăn trối của Đấng Chịu Đóng Đinh.
Đức Maria đă thực hành lời trăn trối ấy
bằng cách trở thành người Mẹ hoàn hảo
của tất cả các môn đệ của Con ḿnh.
Đối với chúng ta, việc chúng ta sống sự
tưởng niệm cái chết của Đức Kitô trong
Hy lễ Tạ ơn, cũng đ̣i hỏi chúng ta phải
liên lỉ đón nhận quà tặng Chúa ban là chính Mẹ
của Người. Chúng ta phải noi gương thánh
Gioan, tiếp đón Mẹ về nhà ḿnh. Điều đó
cũng có nghĩa là chúng ta phải năng lui tới mái trường của Mẹ
Đức Kitô và chấp nhận để cho Mẹ
đồng hành với chúng ta nhằm giúp chúng ta chu toàn
nhiệm vụ trở nên
đồng h́nh đồng dạng với Con của
Mẹ (x. số 57).
Cuối
cùng, v́ đức tin của Mẹ Maria là mẫu mực cho
đức tin của Giáo Hội và từng người tín
hữu, nên đối
với chúng ta, tin là tin như Đức Maria và sống theo tinh
thần của Đức Maria (x. số 58), nói cách
khác : tin là đi vào linh đạo của Mẹ. Theo
Đức Thánh Cha, linh đạo Thánh Mẫu
được diễn tả một cách đặc thù trong
bài ca Magnificat (x. Lc 1,46-55), và
cũng giống như bài ca
này, Hy lễ Tạ ơn chủ yếu là một lời
ngợi khen và một lời tạ ơn. Đức
Thánh Cha khẳng định tiếp rằng : không có ǵ giúp
chúng ta sông mầu nhiệm Hy lễ Tạ ơn bằng
linh đạo này. Và ngược lại, chúng ta có thể đọc bài ca
Magnificat một cách mới mẻ theo nhăn quan Hy lễ
Tạ ơn. Thật vậy, khi Đức Maria cất
tiếng hát : “Linh hồn tôi
ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui
mừng v́ Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”, th́
Đức Giêsu đang hiện diện trong ḷng Mẹ. Và
như vậy, Mẹ ngợi khen Chúa Cha “qua trung gian”
hoặc “nhờ”ø Đức Giêsu (“per” Iesum, mà b/d Vn1, theo sát b/d P : “pour Jésus”, dịch thành “thay cho” Đức
Giêsu, th́ không được chính xác lắm, v́ “thay cho” là “pro”
!) ; nhưng Mẹ cũng ngợi khen Chúa Cha “trong”
Đức Giêsu (“in” Iesu) và “cùng với” Đức Giêsu (“cum” Iesu). Hiển
nhiên Đức Thánh Cha có dụng ư liên tưởng tới
đỉnh cao của mỗi Kinh nguyện Hy lễ Tạ
ơn (Prex eucharistica) : Chính nhờ Đức Kitô, cùng
với
Đức Kitô và trong Đức Kitô… --
Đức Thánh Cha gọi cách ngợi khen như thế là “thái
độ mang tính chất Hy lễ Tạ ơn”
đích thực. Ngoài ra, bài ca Magnificat c̣n hàm chứa một sự
tưởng nhớ, v́ Đức Maria nhắc
lại những kỳ công Thiên Chúa đă thực hiện
trong lịch sử cứu độ, như chính
Người đă nói với cha ông chúng ta (x. Lc 1,55), và Mẹ loan báo kỳ
công trổi vượt hơn cả, là chính mầu
nhiệm Nhập Thể cứu thế. Cuối cùng, trong
bài ca Magnificat cũng có một đà vươn tới thời
đại cánh chung như trong Hy lễ Tạ ơn :
mỗi lần Con Thiên Chúa được giới thiệu
với chúng ta “trong sự nghèo khó” của những dấu
chỉ bí tích, bánh và rượu, th́ hạt giống của
lịch sử mới – hạt giống này là chính
Đức Kitô – Đấng “hạ bệ nhữn ai
quyền thế” và “nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”
(x. Lc 1,52), hạt giống
của lịch sử mới ấy được gieo vào
thế gian. Đức Maria cử hành “trời mới,
đất mới” là những thực tại
được thể hiện trước trong Hy lễ
Tạ ơn, và theo một nghĩa nào đó, thể theo
một “chương tŕnh” hành động đă
được Thiên chúa hoạch định sẵn.
KẾT LUẬN
Từ một Tông thư đến một Thông
điệp
Chương
VI của Thông điệp Ecclesia
de Eucharistia chứa đựng một linh đạo
Thánh Mẫu ở dạng “động” và quy chiếu
về một linh đạo Thánh Mẫu ở dạng “tĩnh”
đă được Đức Thánh Cha Giaon Phaolô II
triển khai trong Tông thư Rosarium
Virginis Mariae. Có thể xem đây như hai mặt không
thể tách ĺa của linh đạo Thánh Mẫu độc
đáo của một trong những vị Giáo Hoàng gắn bó
sâu sắc nhất với Đức Maria. Trên đây chúng
tôi đă tŕnh bày khá chi tiết mặt “động”. Bây
giờ chỉ xin nói thêm đôi điều về mặt
“tĩnh”.
Tông
thư ngày 16-10-2002, không những đă thông báo việc
Đức Thánh Cha quyết định đưa thêm Năm
Sự Sáng vào sau Năm Sự Vui và trước
Năm Sư Thương và Năm Sự Mừng (x. KMC số 19-23), nhưng
chủ yếu giới thiệu Kinh Mân Côi như
phương thế thích hợp và hữu hiệu giúp
mọi người chiêm ngưỡng Đức Kitô với
con mắt và trái tim Đức Maria, tại mái trường
của Đức Maria, nơi đó Mẹ là Thầy
Dạy và Gương Mẫu về đới sống chiêm
niệm. Chính Kinh Mân Côi là một kinh nguyện
mang tính chất chiêm niệm, trong đó người
tín hữu tưởng nhớ Đức Kitô với
Đức Maria (x. KMC số
13), học
tập Đức Kitô với Đức Maria (x. KMC số 14), trở nên giống
Đức Kitô với Đức Maria (x. KMC số 15), khẩn cầu Đức
Kitô với Đức Maria (x. số 16) và loan báo Đức
Kitô với Đức Maria (x. KMC
số 17). Tại mái trường của Đức Maria,
người tín hữu chọn tư thế của cô Maria
người làng Bêtania ngồi dưới chân Chúa Giêsu,
chăm chú lắng nghe và chiêm ngắm Người (x. Lc 10,39). Cô Maria làng Bêtania là
một hoạ ảnh của Đức Maria người
làng Nadarét, người đă 33 năm ở bên cạnh
Đức Giêsu với thái độ tâm hồn luôn sẵn
sàng ghi nhớ mọi điều liên quan tới Đức
Giêsu và suy đi nghĩ lại trong ḷng (x. Lc 2, 19.51).
Chiêm niệm, tĩnh
niệm là chiều kích thiết yếu trong đời
sống Chúa Kitô, Mẹ Maria và mỗi người tín
hữu. Nhưng chiều kích chiêm niệm phải được
nối dài sang chiều kích hoạt động, v́ không ai
chỉ sống cho chính ḿnh mà c̣n phải hướng
tới kẻ khác để phục vụ và cứu giúp
họ. Tiêu biểu cho sự chuyển tiếp này là cụm
từ “In Mariae schola” của
Tông thư Rosarium Virginis Mariae
và cụm từ “Ad Mariae scholam”
của Thông điệp Ecclesia
de Eucharistia. Trong Tông thư, Đức Maria là Thầy
dạy về việc chiêm ngưỡng gương mặt
Đức Kitô bằng con mắt trái tim của Mẹ. Trong
Thông điệp, Mẹ là người chỉ đạo,
hướng dẫn chúng ta đến với Đức
Kitô trong mầu nhiệm Hy lễ Tạ ơn (x. GHTT số 53).
Chúng
ta chỉ biết ngưỡng mộ và ghi ơn
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă ban tặng cho chúng ta ba
văn kiện lớn về Đức Mẹ : Thông
điệp Redemptoris Mater
(Mẹ Đấng Cứu Thế) ban hành ngày 25-3-1987
để chuẩn bị Năm Thánh Mẫu kéo dài từ
Lễ Hiện Xuống 1987 đến 15-8-1988 ; Tông thư KMC ngày 16-10-2002 để
chuẩn bị Năm Mân Côi từ tháng 10-2002 đến
tháng 10-2003 ; và Thông điệp GHTT
ngày 17-4-2003 để chuẩn bị Năm Thánh Thể
2004-2005, trong đó Chương VI đáng
được xem như một tiểu phẩm tuyệt
vời cống hiến cho Giáo Hội những trực giác
mới và tinh tế về Đức Maria, như
chúng tôi đă tŕnh bày trên đây. Châm ngôn “Totus Tuus” (“Hoàn toàn
thuộc về Mẹ”) đă để lại
dấu ấn sâu đậm không những trên tư
tưởng và cuộc đời Vị Giáo Hoàng
đến từ chân trời văn hóa Slavơ của
đất nước Ba Lan rất Công Giáo, mà c̣n trên cả
đời sống Giáo Hội hoàn vũ. Khoa Thánh Mẫu
học của ngài cũng đă ghi dấu ấn sâu
đậm và vĩnh viễn trên khoa Giáo Hội học
của chính ngài và của Giáo Hội hoàn vũ, khi Sách Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo
lấy lại tư tưởng sau đây từ Tông
thư Mulieris dignitatem : Phẩm giá phụ nữ (MD),
do ngài ban hành năm 1988 : “Trong
Hội Thánh, chiều kích Maria (nghĩa là chiều kích Thánh
Mẫu) trổi vượt hơn chiều kích Phêrô
(nghĩa là chiều kích Tông Đồ” (x. GL số 773).
PHỤ LỤC :
Ư NGHĨA ĐẦU ĐỀ
THÔNG ĐIỆP “ECCLESIA DE EUCHARISTIA”
Từ
tư tưởng của Công Đồng Vatican II : “Hy tế Tạ ơn là nguồn
mạch và đỉnh cao của toàn bộ đời
sống kitô hữu” (GH
số 11), mà Đức Thánh Cha đă trích dẫn trong
số đầu tiên của Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, chúng tôi
muốn t́m hiểu xem Đức Thánh Cha đă hiểu
đầu đề của Thông điệp này như
thế nào. Trung thành với phương pháp : ưu tiên
dựa vào cách sử dụng ngôn ngữ của Đức
Thánh Cha trong Thông điệp để hiểu tư
tưởng của ngài, chúng tôi ghi nhận những dữ
liệu sau đây :
-
Cụm từ Ecclesia
de Eucharistia chỉ xuất hiện 2 lần (ngay trong đầu đề và tại
số 5). Cái đinh của vấn đề là phải
hiểu giới từ La ngữ “de” như thế
nào. Về mặt lư thuyết, trong số các ngữ
nghĩa của giới từ này, có hai nghĩa quan
trọng đặc biệt đối với vấn
đề đang bàn. Đó là : “de” chỉ nguồn gốc xuất phát của Giáo Hội
(nghĩa a) hoặc chỉ chất liệu
được Giáo Hội sử dụng để nuôi
sống ḿnh (nghĩa b). Hai
bản dịch b/d Vn1, b/d Vn2 cũng như Thư Chung
năm 2004 của HĐGMVN đă dịch “de” thành “từ”
: Giáo Hội (b/d Vn1) hoặc Hội
Thánh (b/d Vn2) từ Bí Tích
Thánh Thể (b/d Vn1) hoặc từ Thánh Thể
(b/d Vn2). Thư Chung dung hoà và tổng hợp hai bản
dịch đang được lưu hành ấy khi chọn
kiểu nói : Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể (x.
TC số 2 và 5). Như
vậy, cả ba văn bản đă chọn nghĩa a biểu thị Hy lễ
Tạ ơn như là nguồn
gốc làm phát sinh Giáo Hội.
-
Một chi tiết đập vào tai
người nghe chăm chú : Thư Chung cũng như
bản dịch của Uỷ Ban Phụng Tự sử
dụng nhất loạt và xuyên suốt danh từ Giáo Hội, trong lúc b/d Vn2
sử dụng danh từ Hội
Thánh. Theo chúng tôi thấy, th́ cả hai đều
được chấp nhận và sử dụng một
cách tự nhiên trong ngôn ngữ Công giáo Việt Nam. Sách
Lễ Rôma vẫn dùng danh từ Hội
Thánh. Chắc hẳn không có vấn đề chọn
một bỏ một. Cả hai đều có chung chữ Hội,
hàm ư cuộc tụ hội
của những người được Thiên Chúa kêu gọi và triệu tập (ekklesia có nguồn gốc
ngữ vựng là danh từ klesis,
ek-klesis : tiếng gọi ; và động từ ek-kalein
: kêu gọi, triệu tập từ …muôn dân mà các Tông
đồ có sứ mạng biến thành môn đệ
của Chúa Kitô, (x. Mt 28, 19).
Danh từ Giáo Hội h́nh như phù hợp hơn
để diễn tả đặc biệt cơ cấu
xă hội, đoàn thể hữu h́nh, và yếu tố nhân
loại của Ecclesia, c̣n
danh từ Hội Thánh h́nh như đặc biệt nêu
bật khía cạnh cộng đoàn thiêng liêng, yếu tố
thần linh và sự hiện diện của Chúa Thánh Linh
trong Ecclesia như linh
hồn trong thân xác (x. GH,
số 8). Không từ nào lột tả hết, một ḿnh, ư
nghĩa phong phú của mầu nhiệm Ecclesia.
-
Ngoài ra, chúng tôi nhận định rằng
Thông điệp Ecclesia de
Eucharistia mang tính chất tu đức, linh đạo và
mục vụ, chứ không thuộc loại Thông
điệp tín lư (như Thông điệp Mystici Corporis : Nhiệm Thể do ĐGH Piô XII ban
hành năm 1943, hoặc Hiến chế tín lư của Vatican II
về Giáo Hội 1964). Thật vậy, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II ưu tiên nh́n Giáo Hội trong tương quan
mật thiết với Hy lễ Tạ ơn, trên b́nh diện
đời sống cụ thể của Giáo Hội (x.
số 53). Chính ví thế mà, để giải thích
đầu đề của Thông điệp, ngài đă nói
rơ : Ecclesia de Eucharistia vivit : Giáo Hội sống
bằng Hy lễ Tạ ơn (x. số 1) ; De
Christo eucharistico vivit Ecclesia, ab Eo nutrita
ab Eoque illustrata : Giáo Hội sống bằng
Đức Kitô Thánh Thể (chính xác : Đức Kitô hiện
diện trong Hy Lễ Tạ ơn), chính Ngài nuôi dưỡng và chiếu
soi Giáo Hội (x. số 6). Ở đây Đức
Thánh Cha nh́n Đức Kitô như hai loại lương
thực : Đức Kitô là Bánh bởi trời hoặc
từ trời xuống (x. Ga
6,51) và Đức Kitô là Ánh sáng thế gian (x. Ga 9,5) thể hiện trong lời
nói (x. Ga 6,63) và hành
động, nhất là hành động bí tích (x. Lc 24,30-31). Đức Thánh Cha
nhắc lại rằng Hy lễ Tạ ơn là một
mầu nhiệm sự sáng (x. số 6 ; 62) và chính ngài đă
đưa việc thiết lập Hy lễ Tạ ơn vào
danh sách Năm Sự Sáng (x. số 53). Tại số 7, thay
v́ “de”, Đức Thánh Cha dùng
giới từ “ex” có nghĩa tương đương
với “de” : Ex ipsa (Eucharistia) enim vivit Ecclesia : Giáo Hội sống
bằng Hy lễ Tạ ơn. Tại số 12, Đức Thánh Cha lại dùng
tiếp giới từ “de” : Continenter vivit
Ecclesia de hoc salutifero sacrificio… : Giáo Hội liên lỉ sống
bằng hy tế cứu độ này… -- Như
vậy, trong phần thân của Thông điệp,
Đức Thánh Cha đă 3
lần dùng cụm từ vivit de và 1 lần cụm từ vivit ex tương
đương với vivit de.
Bốn
lần là khá nhiều và điều này cho thấy khá
rơ ư của ngài muốn hiểu ưu tiên giới từ “de”
theo nghĩa b
biểu thị Hy lễ Tạ ơn như chất liệu Giáo Hội dùng để nuôi
sống ḿnh. Bản dịch của Uỷ Ban Phụng
Tự cả 4 lần đều nói : Giáo Hội sống
nhờ Thánh Thể. Nhưng chúng tôi chọn cách
diễn tả chính xác hơn của Thư Chung 2004 : sống
bằng. Tiêu biểu là câu sau đây : “Khía cạnh mà Giáo Hội kinh nghiệm nhiều
hơn cả là t́nh yêu tự hiến của Thiên Chúa nơi
Đức Giêsu Kitô, v́ Giáo Hội không ngừng đón
nhận và sống bằng
sự tự hiến ấy. Giáo Hội sống bằng Thân Ḿnh bị nộp của Chúa
Giêsu, bằng Máu của Chúa
đổ ra cho mọi người được tha
tội, bằng Thần Khí
hằng hữu đă thúc đẩy Chúa Kitô tự hiến
ḿnh làm lễ hy sinh vô t́ tích lên Thiên Chúa (x. Dt 9,14)” (x. TC số 8). B/d
Vn2 đă tránh né vấn đề bằng cách diễơn
dịch cả 4 lần thành : múc
nguồn sự sống từ Thánh Thể, và như
thế biến nghĩa b thành
nghĩa a của giới
từ La ngữ “de”.
-
Trong phần thân của Thông điệp,
chỉ một lần duy nhất, tại số 5,
Đức Thánh Cha nhắc lại nguyên văn
đầu đề Ecclesia de
Eucharistia. Rồi ngài viết rằng : “Nền tảng và nguồn
gốc của Giáo Hội chính là tất cả Tam
Nhật Vuợt Qua (Triduum Pascale), nhưng Tam Nhật này dường như (quasi)
được tập kết, được thực
hiện trước và “được cô đọng
lại” măi măi trong hồng ân
Hy lễ Tạ ơn.” Như vậy, dường như
Hy lễ tạ ơn là nền tảng và nguồn gốc
của Giáo Hội. Đức Thánh Cha chỉ triển khai
tư tưởng của Công Đồng Vatican II,
được đúc kết lại trong sách Giáo Lư Hội
Thánh Công Giáo.
-
Sách này đă tŕnh bày nguồn gốc (origo),
mà chúng tôi gọi là nguồn gốc xa và tối
hậu, của Hội Thánh là ư định của
Thiên Chúa Ba Ngôi (x. GL số
758). C̣n nguồi gốc gần th́ được mô
tả như sau : “… Hội Thánh phát sinh (nata est) chủ
yếu từ (ex) việc Đức Kitô tự
hiến thân hoàn toàn để cứu độ chúng ta ;
sự hiến thân này được thể hiện
trước trong việc thiết lập Hy lễ Tạ
ơn và được thực hiện trên Thập Giá.
‘Sự khai nguyên (exordium) và phát triển
của Hội Thánh được biểu thị bằng
máu và nước trào ra từ cạnh sườn bị
đâm thâu của Đức Kitô bị đóng đinh’ (x. GH số 3).’Chính từ
(“de”) cạnh sườn của Đức Kitô
chịu chết trên Thập giá đă phát sinh (ortum est) bí
tích kỳ diệu là toàn thể Hội Thánh’ (x. PV số 5 ; GL số 766).
-
Hai kiểu nói “chủ yếu” của Sách
GLHTCG và “dường như” của Đức Thánh Cha
cho thấy đây không phải là những lời khẳng
định mạnh mẽ dứt khoát. Dầu sao, nh́n trong
văn mạch của phần thân Thông điệp Ecclesia de
Eucharistia, tỷ lệ 4 lần xuất hiện của “de”
theo nghĩa b (biểu
thị chất liệu) trong cụm từ “vivit de hoặc ex”, chọi với 1 lần duy
nhất “de” được hiểu theo nghĩa a (biểu thị nguồn
gốc), kéo cán cân nghiêng về nghĩa chất liệu
nhiều hơn.
Dựa
trên các dữ liệu từ ngữ, chúng tôi xin đề
nghị một giải pháp dung hoà : tổng hợp cả
hai nghĩa a và b, và dịch đầu
đề Thông điệp Ecclesia
de Eucharistia như sau :
GIÁO HỘI TỒN TẠI VÀ SỐNG BỞI HY
LỄ TẠ ƠN.
[1] (x.
Pierre BENOIT, Eucharistie, trong Vocabulaire de théologie biblique. Paris
1970, cột 404 ; bản dịch Việt ngữ của Giáo
Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt, 1974, mục : Phép Thánh Thể).