HiẾn
chẾ “Dei Verbum”,
40 năm nhìn lẠi
Lm. Giuse Võ Đức Minh
Đối với Dân Chúa và đối với lịch sử hình thành của Thánh Kinh, 40 năm
chỉ là một khoảnh khắc ; nhưng là một khoảnh khắc có tính lịch sử rất quan
trọng. Con số 40 trong Thánh Kinh và trong lịch sử Dân Chúa có một trùng hợp
thật thú vị : 40 năm Dân Chúa thực hiện cuộc hành trình sa mạc, cuộc hành trình
khiến họ gặp gỡ Thiên Chúa tại núi Sinai để trở nên Dân riêng của Thiên Chúa,
cuộc hành trình mà sau này các Tiên tri luôn nhắc tới và mời gọi Dân Chúa đừng
bao giờ quên như là thời gian của “mối tình đầu” ; con số 40 còn gợi lên cho
chúng ta thời gian 40 ngày Chúa Giêsu ở trong hoang địa để cầu nguyện và chịu
thử thách trước khi công khai thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng ; ngoài ra,
Thánh Kinh cũng ghi lại thời gian 40 ngày Chúa Kitô phục sinh khai mở tâm trí
các Tông đồ, chuẩn bị cho họ lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần, trước khi Ngài
lên trời vinh hiển.
Do đó, thật là ý nghĩa, khi chúng ta cùng nhau nhìn lại chặng đường 40
năm sau khi Công đồng Vatican II công bố Hiến chế tín lý về Mặc khải “Dei
Verbum”.
40 năm trôi qua, nhìn lại thành quả của Dei Verbum trong mối tương quan
với Công đồng Vatican II, chúng ta có thể nói Công
đồng Vatican II là “Công đồng của Thánh Kinh”. Đây là nhận định của
Đức Cha John Onaiyekan, Tổng Giám Mục Abuja, Nigeria, trình bày tại Hội nghị
Thánh Kinh Quốc tế vừa qua tại Roma, từ ngày 14.9.2005 đến 18.9.2005, do Hội
Đồng Giáo Hoàng cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu và Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh
tổ chức, để đánh dấu 40 năm Công đồng Vatican II công bố Hiến chế tín lý về Mặc
Khải “Dei Verbum”. Chúng ta nhớ lại : Đức Thánh Cha Gioan XXIII triệu tập và
khai mạc Công đồng Vatican II. Ngài dùng một hình ảnh thật sống động để nói về
Công đồng : “Cha muốn mở rộng cánh cửa sổ
của tòa nhà Hội Thánh cho làn gió mát thổi vào” ; và ngay từ khóa
họp đầu tiên cũng chính Ngài muốn các Nghị phụ bàn về Thánh Kinh, để có thể
dùng Lời Chúa soi dẫn cho các khóa họp Công đồng ; Ngài còn cho đặt cuốn Thánh
Kinh ngay tại trung tâm Đền thờ Thánh Phêrô, nơi các Nghị phụ hội họp và cử
hành các Nghi lễ trong suốt thời gian các khóa họp Công đồng. Rồi, như Đức Hồng
Y Walter Kasper, Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu,
trong Hội nghị vừa qua tại Roma, đã nói : “Sấm
sét đã nổ ra ngay từ buổi đầu tại Hội trường, khi các Nghị phụ trao đổi ý kiến
về bản Dự thảo Văn kiện về Thánh Kinh”. Bản Dự thảo đó đã bị đa số
Nghị phụ phủ quyết ; nhưng lại không hội đủ hai phần ba số phiếu phủ quyết, như
luật định ; do đó, chính Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã phải trực tiếp can thiệp,
bằng cách lập ra một Ủy Ban hỗn hợp do hai Đức Hồng Y đại diện cho hai lập
trường đối nghịch nhau là Đức Ottaviani và Đức Bea làm đồng trưởng ban ; Ủy Ban
này có nhiệm vụ bổ sung, soạn thảo lại Dự thảo Văn kiện về Thánh Kinh để trình
các Nghị phụ. Các Ngài tiếp tục cầu nguyện, suy nghĩ, thảo luận, trao đổi với
nhau, trong Khóa họp thứ nhất, rồi Khóa họp thứ hai, sang Khóa họp thứ ba, mãi
đến Khóa họp thứ tư, trước khi kết thúc Công đồng ; chính Đức Thánh Cha Phaolô
VI, Đấng kế vị Đức Gioan XXIII, góp thêm một số ý kiến bổ sung, để các Nghị phụ
bỏ phiếu với kết quả thật lạ lùng : 2344 phiếu thuận và 6 phiếu chống. Đức
Phaolô VI cùng các Nghị phụ Công đồng đã long trọng công bố Hiến chế tín lý về
Mặc khải “Dei Verbum”
ngày 18.11.1965. Đức Hồng Y Walter Kasper nhận định : “Tiếng sấm sét buổi ban đầu” nhường chỗ
cho bầu khí hân hoan, an bình, vui mừng và hy vọng, khi Công đồng lên tiếng
khai mở Hiến chế Dei Verbum : “Trong niềm
thành kính lắng nghe và tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa, Thánh Công đồng lặp
lại lời Thánh Gioan : “Chúng tôi loan truyền cho anh em sự sống đời đời, đã có
nơi Chúa Cha và đã hiện đến với chúng tôi : điều chúng tôi đã thấy, đã nghe,
chúng tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp nhất với chúng tôi
và chúng tôi hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô, Con Ngài” (1Ga 1,2-3) (Dei Verbum religiose audiens et fidenter proclamans, Sacrosancta
Synodus…). Lắng nghe với thái độ thành kính, vì Lời Thiên Chúa là
Lời hằng sống ; tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa, vì đây là sứ điệp cứu độ.
Những lời đầu tiên khai mở Hiến chế tín lý về Mặc Khải của Công đồng đã
thể hiện ý tưởng nòng cốt của tòan thể văn kiện, giúp chúng ta đi sâu vào việc
tìm hiểu những gì Công đồng muốn nói về mối tương quan của Lời Chúa trong đời
sống của Hội Thánh.
Thêm vào đó, nhờ lời tuyên xưng này, Công đồng cho chúng ta hiểu ơn gọi
và sứ mạng của Hội Thánh là “lắng nghe Lời Thiên Chúa trong niềm thành kính” và “tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa”. Đây chính là khẳng định của Công đồng về
vai trò ưu việt của Lời Thiên Chúa trên mọi lời nói và hành động của Hội Thánh,
trong tư cách là Dân Thiên Chúa. Hội Thánh thể hiện đúng ơn gọi của mình, khi
Hội Thánh “thành kính lắng nghe Lời Thiên Chúa” ; và càng thành kính lắng nghe,
thì Hội Thánh mới “tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa”.
Trong dịp tiếp các thành viên tham dự Hội nghị về Thánh Kinh, kỷ niệm
40 năm “Dei Verbum”, tại Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã nói :
“Chỉ người nào biết đặt mình trước hết vào thái độ lắng nghe lời Thiên Chúa,
thì mới có thể loan báo Lời Thiên Chúa ; vì người ta không dạy bảo sự khôn ngoan của mình, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên
Chúa”.
I. MỘt thoáng
nhìn lẠi bỐi cẢnh
cỦa Giáo HÔi trưỚc Công ĐỒng.
Thật vậy, đại đa số linh mục, tu sĩ và giáo dân chúng ta đều thuộc thế
hệ sau Công đồng Vatican II. Do đó, cần nhìn lại bối cảnh của Hội Thánh trước
Công đồng Vatican II, chúng ta mới thấy rõ hơn ảnh hưởng của Dei Verbum đối với
Hội Thánh ; để rồi càng xác tín hơn Công đồng Vatican II quả thật là Công đồng của Thánh Kinh. Đức Hồng Y Carlo
Maria Martini SJ., nguyên Tổng Giám Mục Milanô, nguyên Viện trưởng, Giáo sư tại
Học Viện Giáo Hoàng Thánh Kinh ở Rôma, và là bậc thầy nổi tiếng về Thánh Kinh
trên thế giới, đã trích một nhận xét của Paul Claudel nói về người tín hữu
trong Hội Thánh cho đến đầu thế kỷ thứ
XX : “họ đã có một sự tôn kính Thánh Kinh cho đến độ họ sống xa cách Lời Chúa”.
Người Việt Nam chúng ta thường gọi là thái độ “Kính
nhi viễn chi”.[1]
Lời nhận định này có vẻ thái quá, nhưng thể hiện khá đúng thực trạng của người
tín hữu Kitô, cách riêng là hàng ngũ giáo dân. Ngay bên xã hội Tây Phương, một
xã hội có gốc rễ là Kitô giáo, thì phải nhìn nhận rằng, một trong những rào cản
là tình trạng mù chữ của đại đa số dân chúng, mãi cho đến thế kỷ XVIII ; thêm
vào đó, thái độ của thẩm quyền trong Giáo Hội không muốn cho người giáo dân đọc
Thánh Kinh ! Thái độ này hình như phát xuất từ phản ứng chống lại Phong trào
cải cách của Thệ phản, cũng như chống lại một số trào lưu từ thời Trung Cổ
khuyến khích giáo dân tiếp xúc nhiều hơn với Thánh Kinh để nhằm mục đích đẩy
người giáo dân thoát ly ra khỏi khung cảnh đời sống nền nếp của Giáo Hội ! Thêm
vào đó, một số quyết định của Giáo quyền hạn chế giáo dân tiếp cận với Thánh
Kinh, như Công đồng miền Tôlêđô năm 1229, trong thời gian Giáo Hội phải chiến
đấu chống lại bè rối Albigeois ; hay như một số hạn chế khác tại các Giáo Hội ở
Anh, ở Pháp, và một số nơi khác.Vào năm 1559, Đức Thánh Cha Phaolô IV và vào
năm 1564, Đức Thánh Cha Piô IV đã công bố danh sách liệt kê một số sách bị cấm
lưu hành (Index), thì các Ngài cũng cấm in ấn và lưu giữ những sách Thánh Kinh
được dịch ra tiếng bản xứ, ngọai trừ có phép đặc biệt. Như vậy, hàng ngũ giáo
dân thời bấy giờ chắc chắn không thể tiếp xúc với sách Thánh Kinh trong ngôn
ngữ địa phương. Thời gian ấy, chỉ có bản văn Thánh Kinh bằng tiếng latin (Bản
Vulgata = Bản Phổ thông) được phép lưu hành mà thôi. Ngay tại nước Italia, phải
chờ đến năm 1700 mới có bản dịch Thánh Kinh ra tiếng Ý của Antonio Martini để
phổ biến cho người Công Giáo. Đến năm 1757, tại Italia, mới có phép của Giáo
quyền để dịch bản Latin Vulgata ra tiếng bản xứ ; và phải được Giáo quyền chuẩn
ấn (Imprimatur), cùng phải kèm theo những ghi chú, giải thích cụ thể. Mãi đến
đầu thế kỷ XX, tại nước Italia, mới xuất hiện những bản dịch Thánh Kinh từ
nguyên bản Do Thái, Hy Lạp, do những người Công Giáo thực hiện.
Tại Việt Nam chúng ta, trước khi Dei
Verbum ra đời, đã có 2 bản dịch Thánh Kinh trọn bộ do các tác giả
Công Giáo thực hiện ; đó là bản dịch Thánh Kinh của Cố Chính Linh, xuất bản năm
1913 và bản phỏng dịch Thánh Kinh của Cha Gérard Gagnon CSSR vào năm 1963.
Ở đây, chúng ta còn phải gợi lên một sự kiện này – dầu không nói ra,
nhưng vẫn ảnh hưởng đến những sinh hoạt trong Giáo Hội cách chung trước Công
đồng Vatican II – đó là bầu khí và tâm lý lo sợ, dè dặt đối với các Phong trào
cổ võ học Thánh Kinh. Biết bao nhiêu học giả tiên phong trong lãnh vực này, đặc
biệt từ khoảng thời gian sau đệ nhất thế chiến 1914-1918 ; họ ước mong Thánh
Kinh không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ hay những hạng ưu tú, mà phải
được phổ biến rộng rải cho tất cả mọi thành phần Dân Chúa : “Lời Chúa phải được
loan báo cho những người nghèo hèn”. Họ muốn tạo điều kiện cho người tín hữu
trực tiếp đọc Lời Thiên Chúa được dịch ra từ các nguyên bản ; họ ước mong người
tín hữu có thể cầu nguyện với cuốn sách Thánh Kinh ; họ muốn người tín hữu trở
về nguồn, như thời Giáo Hội sơ khai… Một trong những câu nói rất thời danh của
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu như thúc đẩy và gợi nguồn cảm hứng cho nhiều học
giả trong lãnh vực này. Ngài nói : “Nếu tôi
là linh mục, tôi sẽ học tiếng Do Thái và tiếng Hy lạp, để có thể đọc được Lời
Thiên Chúa trong chính nguyên bản”.
Gợi lên một số nét như thế trong Giáo Hội, để chúng ta hiểu sâu hơn vai
trò to lớn mà Dei Verbum đem lại
cho Giáo Hội và đã ảnh hưởng đến các sinh hoạt trong Giáo Hội chúng ta như thế
nào từ 40 năm qua.
II. Ảnh hưỞng
cỦa LỜi Chúa đỐi vỚi Công ĐỒng Vatican II.
Lời Chúa chiếm vị trí quan trọng trong phụng tự Kitô giáo. Việc Đức
Thánh Cha tôn vinh và cho đặt cuốn sách Thánh Kinh ở trung tâm Đền thờ Thánh
Phêrô, nơi diển ra các Khóa họp Công đồng Vatican II, có ý nghĩa thật đặc biệt.
Sự kiện này như muốn nói rằng, Lời Chúa hiện diện, đồng hành và soi sáng cho
các Nghị phụ những lúc cầu nguyện, trao đổi ý kiến và đưa ra những quyết định
quan trọng trong Giáo Hội. Rất có thể ý định của Đức Thánh Cha Gioan XXIII là
Lời Chúa phải có vị trí trung tâm trong suy nghĩ và quyết định của Công đồng.
Điều này, chúng ta nhận ra nơi tất cả 16 Văn
kiện của Công đồng Vatican II :
4 Hiến Chế :
-
về
Hội Thánh “Lumen Gentium”,
-
về
Phụng vụ “Sacrosantum Concilium”,
-
về
Mặc khải “Dei Verbum”,
-
về
Hội Thánh trong thế giới hôm nay “Gaudium et
Spes”
9 Sắc lệnh :
-
về
nhiệm vụ của Giám mục “Christus Dominus”,
-
về
Chức vụ và đời sống Linh mục “Presbyterorum
Ordinis”,
-
về
Đào tạo Linh mục “Optatam Totius”,
-
về
Dòng Tu “Perfectae Caritatis”,
-
về
Tông đồ Giáo dân “Apostolicam actuositatem”,
-
về
Truyền giáo “Ad Gentes”,
-
về
Hiệp nhất “Unitatis redintegratio”,
-
về
Giáo hội Đông phương công giáo “Orientalium
ecclesiarum”,
-
về
Truyền thông xã hội “Iter mirifica”
3 Tuyên ngôn :
-
về
Tự do tôn giáo “Dignitatis humanae”,
-
về
Hội Thánh liên lạc với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo “Nostra Aetate”,
-
về
Giáo dục Kitô giáo “Gravissimum educationis momentum”.
Trong tất cả các văn kiện này, và đương nhiên là trong Hiến chế tín lý
Dei Verbum, các Nghị phụ Công đồng đã trích dẫn dồi dào các bản văn Thánh Kinh.
Đúng như lời khai mở của Dei Verbum : “trong niềm thành kính lắng nghe và tin tưởng công bố Lời
Thiên Chúa, Thánh Công đồng…”. Cho nên, Vatican II để lại trong lịch
sử như là là Công đồng chung làm cho Giáo Hội Công Giáo được “Aggiornamento” (cập
nhật) để hiện diện và phục vụ con người thời đại hôm nay, như giáo huấn của Đức
Thánh Cha Phaolô VI đã gợi ý trong Thông điệp “Giáo Hội Chúa Kitô” (Ecclesiam
suam) mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã cảm hứng và bắt gặp ánh sáng khi soạn
thảo ra Bức Thư Chung lịch sử năm 1980 : “Mối
bận tâm chính của Người xoay quanh ba tư tưởng lớn. Tư tưởng thứ nhất là đã đến
lúc Giáo Hội phải có một nhận định sâu xa về chính mình, phải suy gẫm về mầu
nhiệm của chính mình. Tư tưởng thứ hai là đem bộ mặt thực của Giáo Hội ngày nay
đối chiếu với hình ảnh lý tưởng của Giáo Hội như Chúa Kitô đã thấy, đã muốn và
đã yêu như Bạn thánh thiện và tinh tuyền của mình (Ep 5,27)
; từ đó sinh ra một ước muốn quảng đại và bức thiết là phải canh tân. Còn tư
tưởng thứ ba là như kết luận của hai tư tưởng trên, nói về những quan hệ phải
có giữa Giáo Hội và thế giới”.[2]
Vatican II còn được gọi là Công đồng mở rộng con đường cho sự sự hiệp nhất. Tinh
thần cũng như các Văn kiện của Công đồng tỏa ra hướng đi hiệp nhất, lắng nghe
và đối thọai, nổ lực xóa dần những khoảng cách, những căng thẳng, những phân
rẽ, không những trong nội bộ Giáo Hội của Chúa Kitô, mà còn giữa Giáo Hội với
các tôn giáo khác và ngay cả với mọi thành phần nhân loại trên địa cầu. Phát
xuất từ ý hướng cao cả trên, một số tổ chức cao cấp của Giáo Hội đã được thiết
lập, như Hội Đồng Giáo Hoàng cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Hội Đồng Giáo Hoàng
về đối thoại liên Tôn, Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn hóa, Hội Đồng Giáo Hoàng về
Công lý và Hòa bình, Hội Đồng Giáo Hoàng về Mục vụ cho người Di dân và Du mục,
Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm, Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền thông xã hội, …
Vatican II là Công đồng đổi mới, canh tân nhiều mặt, trong sự kế thừa với truyền
thống. Đây phải chăng là hoa quả hết sức cụ thể của Thánh Thần, Đấng ban sự
sống, Đấng luôn canh tân, đổi mới, nhưng không bao giờ phá bỏ đi những tinh hoa
của quá khứ. Từ các phong trào canh tân đã có trong lòng Giáo Hội, như phong
trào cổ vũ sự hiệp nhất giữa các tín hữu của Chúa Kitô, phong trào canh tân các
đoàn sủng trong đời sống tu trì, phong trào canh tân lòng yêu mến, hăng say học
hỏi, cầu nguyện và đào sâu Lời Chúa trong Thánh Kinh, phong trào đọc các bản
văn Lời Chúa trước các Thánh lễ, mục đích cho tín hữu có thể hiệp thông dễ dàng
hơn khi tham dự Thánh lễ (vì trước Công đồng Vatican II, mọi Thánh lễ, cũng như
các cử hành Bí tích đều sử dụng tiếng La tinh, ngay cả việc đọc Thánh thư và
Phúc âm).
Như vậy, Dei Verbum đúng ra theo dự kiến là
văn kiện được thảo luận và công bố đầu tiên, lại trải qua chặng đường dài xuyên
suốt thời gian tất cả bốn Khóa họp Công đồng (1962, 1963, 1964, 1965), như thể
là Chúa Thánh Thần tác động, khiến các Nghị Phụ, trong khi cầu nguyện, thảo
luận, quyết định về biết bao vấn đề trong Giáo Hội, thì luôn luôn phải suy
nghĩ, trao đổi, bàn bạc với nhau về Văn kiện quan trọng là Lời Thiên Chúa.
III. Công ĐỒng
chỈ rõ phương hưỚng
HỌc hỎi và yêu mẾn Thánh Kinh.
Sau lời khai mở thật tuyệt vời : “Trong niềm thành kính lắng nghe và tin tưởng công bố Lời
Thiên Chúa”, Công đồng Vatican II đã chỉ ra phương hướng rất cụ
thể và chính xác về việc học hỏi, đào sâu Thánh Kinh ; đó là quy hướng về Mầu nhiệm Chúa Kitô và
trải dài trong lịch sử cứu độ, trong sự kết hợp hài hòa giữa Thánh Kinh – Thánh
truyền và Huấn quyền trong Giáo Hội. Bằng cách lập lại lời tuyên
xưng của Thánh Gioan Tông Đồ : “Chúng tôi
loan truyền cho anh em sự sống đời đời, đã có nơi Chúa Cha và đã hiện đến với
chúng tôi : điều chúng tôi đã thấy, đã nghe, chúng tôi loan truyền cho anh em,
để anh em cũng được hiệp nhất với chúng tôi và chúng tôi hiệp nhất với Chúa Cha
và với Chúa Giêsu Kitô, Con Ngài” (1Ga
1,2-3), Công đồng Vatican II mời
gọi chúng ta năng đọc Thánh Kinh, để không những học biết “khoa học siêu việt của Chúa Kitô” (Pl 3,8) ;
mà còn để biết ngày càng rõ hơn mầu nhiệm Chúa Kitô, như lời Thánh Hiêrônimô
đã từng nói và được lưu truyền như kinh nghiệm sống cho cả Hội Thánh chúng ta
trải qua hằng ngàn năm nay ; và chính Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI, trong lần gặp
gỡ các vị đại biểu tham dự Hội nghị về Thánh Kinh ở Rôma, cũng lập lại lời nói
lừng danh đó : “Không biết Thánh Kinh là
không biết Chúa Kitô”. Thật vậy, các Nghị Phụ trong suốt quá trình 4
Khóa Họp Công đồng, đã cầu nguyện, cân nhắc, lắng nghe biết bao ý kiến, đặc
biệt đã nhờ các chuyên viên về Thánh Kinh, để thẩm định các phương pháp, các
trào lưu nghiên cứu và học hỏi Thánh Kinh, từ thời các Thánh Tông Đồ, thời các
Thánh Giáo Phụ và xuyên qua dòng thời gian ; tiếp thu các phong trào tìm hiểu
và giảng dạy về Thánh Kinh trong những khoảng thời gian cuối thế kỷ 19, đầu thế
kỷ 20, các Ngài đã đề ra phương hướng học hỏi, nghiên cứu Thánh Kinh trong Dei
Verbum : đó là, tiếp xúc với Thánh Kinh như tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu ;
học hỏi Thánh Kinh như học hỏi trực tiếp với Chúa Giêsu ; yêu mến Thánh Kinh
như yêu mến chính con người Chúa Giêsu Kitô ; vì như chính Chúa đã nói năm xưa
với những bậc thầy Do Thái đã từng được huấn luyện, đào sâu và có trách nhiệm
giảng dạy Thánh Kinh cho Dân Chúa : “các
ngươi truy tìm Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó, các ngươi có sự sống đời đời
; ấy mà chính Kinh Thánh lại làm chứng cho Ta” (Ga 5,39) ; như vậy, Thánh Kinh là phương
thế rất hữu hiệu để giúp con người chúng ta trực tiếp với Chúa Giêsu, khác nào
như kinh nghiệm của Thánh Gioan Tông đồ : chạm tới Chúa Giêsu : “Điều từ thuở ban đầu đã có, điều chúng tôi đã từng
nghe, điều chúng tôi đã từng thấy tận mắt, điều chúng tôi đã cung chiêm và tay
chúng tôi đã rờ đến, về Lời Sự Sống ; Sự Sống ấy ở nơi Cha và đã tỏ hiện cho
chúng tôi, chúng tôi đã từng thấy và chúng tôi làm chứng cùng loan báo cho anh
em sự sống đời đời” (1Ga
1,1-2). Thấy, Nghe, Chạm tới, Cung chiêm… là những sinh hoạt liên hệ tới sự
sống thường nhật của con người ; và bất cứ ai thấy, nghe, chạm tới, cung chiêm,
… đều có những kinh nghiệm sống cho cuộc đời mình. Thánh Kinh giúp chúng ta có
kinh nghiệm như thế đối với Chúa Giêsu. Mà vì Chúa Giêsu là nhân vật lịch sử đã
xuất hiện và sinh sống trong một khoảng thời gian và không gian rất cụ thể ;
nên việc nghe, thấy, chạm tới, cung chiêm Chúa Giêsu nhờ Thánh Kinh, là những
hành vi mang đầy tính lịch sử. Điều dó, khiến niềm tin mà chúng ta đặt để nơi
Chúa Giêsu là niềm tin có tính lịch sử vô cùng cao quý. Rồi, từ niềm tin đó,
Thánh Kinh giúp chúng ta chia sẻ với niềm tin của các Tông đồ vào biến cố lịch
sử, đồng thời cũng là đỉnh cao trong cuộc đời của Đức Giêsu, đó là việc Người,
trước khi chịu chết, sống lại và lên trời, đã thiết lập phép Thánh thể, hầu có
thể vượt ra khỏi thời gian và không gian mà hiện diện một cách hết sức cụ thể
với loài người ; nên, cũng nhờ Thánh Kinh soi sáng mà chúng ta có thể nói : “Đức Giêsu hôm qua và hôm nay vẫn là một và cho đến
muôn đời” (Dt 13,8).
Ngoài ra, Dei Verbum còn
đặt để Mầu Nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong dòng lịch
sử cứu độ. Đây là nét mới của Công đồng Vatican II trong việc tìm
hiểu và học hỏi Thánh Kinh ; nói cho đúng hơn, Công đồng nhấn mạnh đến lịch sử
cứu độ, vì Công đồng muốn trở về nguồn. Ngay trong Tân Ước, trong những lời rao
giảng của Thánh Phêrô, Thánh Phaolô và Giáo Hội sơ khai, phương hướng tìm hiểu mầu nhiệm Chúa Kitô trên nền tảng lịch sử
cứu độ đã gắn kết những gì Thánh Kinh trong Cựu Ước đã nói với chính
mầu nhiệm Chúa Kitô : “Đã lắm phen cùng
nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta nơi các tiên tri :
vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con,
mà Người đã đặt làm Đấng Thừa tự tất cả mọi sự và cũng nhờ Ngài mà Người đã làm
ra các thế giới : Ngài là phản ánh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh
Người và cầm giữ cả vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài ; sau khi đã thi hành
việc thanh tẩy tội lỗi, Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng,
trổi hơn Thiên thần vạn bội, bởi khác với họ, Ngài đã thừa hưởng một Danh khôn
ví” (Dt 1,1-4 ; xem
thêm : Lời rao giảng tiên khởi : Cv
2,14-39 ; 3,12-36 ; 4,9-12 ; 5,29-32 ; 10,34-43 ; 13,16-41). Mầu nhiệm Chúa
Kitô trên nền tảng lịch sử cứu độ, chính là Mặc Khải của Thiên Chúa tỏ bày
trong Thánh Kinh, được lưu truyền từ đời nọ sang đời kia trong Thánh Truyền và được bảo đảm tính chân
thực và chính thống bởi Huấn Quyền.
Thật vậy, Giáo Hội đón nhận Mặc
Khải của Thiên Chúa trong dòng lịch sử cứu độ và lưu giữ một cách toàn vẹn
trong kho tàng của Truyền thống ; trong đó, Thánh Kinh được xem như viên ngọc
quý báu nhất của Truyền thống, như bản tóm lược tuyệt vời của Truyền thống ;
bởi vì, Thánh Kinh được ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần. Và ai là người thẩm
định và đặt đúng địa vị của Thánh Kinh trong kho tàng của Truyền Thống, nếu
không phải là Huấn Quyền trong Hội Thánh. Chính Huấn Quyền đã công bố cuốn sách
nào được xem là có ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần và cần được lưu giữ lại
trong kho tàng của Thánh Kinh : Cựu Ước cũng như Tân Ước ; và chính vì thế,
Huấn Quyền là Thẩm quyền bảo đảm cho việc giải thích Lời Thiên Chúa mặc khải
trong Thánh Kinh. Công đồng Vatican II chỉ rõ chỗ đứng của Thánh Kinh, Thánh
Truyền, Huấn Quyền của Giáo Hội trước kho tàng Mặc Khải của Thiên Chúa. Đó là
lý do sâu xa mà Giáo Hội của Công đồng Vatican II luôn cử hành Lời Chúa trong
Thánh Kinh với lòng thành kính, mến yêu như việc cử hành Bí tích Thánh Thể. Đây
chính là điểm son của Công đồng Vatican II khi tái khám phá kho tàng Lời Chúa
và Thánh Thể để nuôi dưỡng và đồng hành với Dân Chúa trong dòng Lịch sử cứu độ.
IV. NhỜ Dei
Verbum, Thánh Kinh
trỞ nên “Sách Thánh” cỦa Giáo HỘi.
Nói như thế, phải chăng trước Công đồng Vatican II, Thánh Kinh không được
Giáo Hội xem là “Sách Thánh” ?
Thật ra, Thánh Kinh luôn được Giáo Hội tôn kính là Sách Thánh” ; nhưng, như đã
trình bày ở phần trên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, Thánh Kinh chỉ
thực sự là “Sách Thánh” đối với một số rất ít thành phần Dân Chúa trong Giáo
Hội ; còn hầu hết, chỉ được biết là có “Sách Thánh”, nhưng nhận được một cách
gián tiếp qua các bài học giáo lý, các lời kinh, các bài giảng trong Thánh lễ,
… Một hình ảnh khá tiêu biểu, đó là người Công giáo trước kia thường đến nhà
thờ đem theo tràng hạt Mân côi cùng với cuốn sách kinh và cuốn sách giáo lý
(sách bổn) ; trong khi người tin lành đến nhà thờ đem theo cuốn sách Thánh Kinh
và sách thánh ca.
Đương nhiên, chúng ta không trở
lại bàn luận lý do tại sao. Huấn quyền trong Giáo Hội vẫn có những sự khôn
ngoan trong việc hướng dẫn và nuôi dưỡng con cái của mình. Và một trong những
thành quả rõ rệt nhất, là trong những thế kỷ qua, biết bao người con của Giáo
Hội đã không những sống trung thành với đức tin tông truyền, mà còn trở nên
những vị thánh hết sức gương mẫu cho mọi thời đại.
Cùng với “làn gió mát của Chúa
Thánh Thần”, Công đồng Vatican II đưa Giáo Hội tiến một bước xa hơn nữa trong
dòng lịch sử cứu độ. Chắc hẳn đến lúc Thánh Thần khai mở rộng rãi hơn nữa kho
tàng Lời Chúa, không phải chỉ cho một số ưu tuyển trong Giáo Hội, mà cho mọi
thành phần Dân Chúa. Chính vì thế, mà Dei Verbum ra đời, để biến Thánh Kinh
thật sự là “Sách Thánh” cho Giáo Hội vào những năm cuối cùng của Thiên niên kỷ
thứ hai, bước sang Thiên niên kỷ thứ ba.
Công đồng truyền dạy phải “mở rộng
lối vào Thánh Kinh cho các Kitô hữu trong Hội Thánh” (DV, 22). Nhờ vậy, trong Giáo Hội, khoa học
về Thánh Kinh nở rộ, không phải chỉ để đào tạo những nhà chuyên môn mà thôi, mà
còn trải rộng và phổ biến rộng khắp, nhằm mục đích “cho người nghèo khó được nghe rao giảng Tin Mừng”.
Biết bao nỗ lực đáng trân trọng xuất hiện khắp nơi, trong việc dịch
Thánh Kinh từ nguyên bản Do Thái, Hy Lạp ra tiếng bản xứ ; ngay cả có không ít
những người con của Giáo Hội, dầu không được tiếp cận với các nguyên bản Thánh
Kinh, thì cũng với lòng yêu mến Lời Chúa, nỗ lực cùng nhau dịch các bản dịch
Thánh Kinh từ tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, … ra ngôn ngữ
bản xứ của mình. Có thể nói, Thánh Thần tác động mạnh mẽ cho đến độ, ngay tại
nhiều nơi trong các Giáo hội địa phương, dầu đã có những bản dịch Thánh Kinh,
thì vẫn có nhiều người muốn đóng góp công sức của mình làm thêm những bản dịch
mới, cốt để làm phong phú kho tàng Lời Chúa, hầu có thể phổ cập Lời Chúa ngần
nào có thể trong mọi hàng ngũ Dân Chúa. Rồi, cũng xuất hiện biết bao tác phẩm
đào sâu Lời Chúa phù hợp với các trình độ trong Giáo Hội. Các phong trào học
hỏi, chia sẻ Lời Chúa xuất hiện. Các phong trào đọc Lời Chúa, cầu nguyện bằng
Lời Chúa nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của biết bao tín hữu trong Giáo Hội.
Đương nhiên, không ai có thể phủ nhận nét phong phú của Lời Chúa trong các cử
hành Phụng vụ, từ cử hành Bí tích Thánh Thể, đến các cử hành các Bí tích khác,
… Lời Chúa được công bố, được cử hành, được tôn vinh, được rao giảng, được trở
nên thực sự là lương thực nuôi dưỡng Dân Chúa. Từ ngữ “bàn tiệc Lời Chúa” bên cạnh “bàn tiệc Thánh Thể” thực sự thấm vào đời
sống tín hữu.
Thêm vào đó, Vatican II, trong
thao thức và quyết định trở về nguồn, đã khơi dậy điều mà Đức Thánh Cha Lêô
XIII từng nói năm xưa : “Thánh Kinh chính là
hồn của Thần học”. Trong giảng trình của Khoa Thần học, Thánh Kinh
không còn là một môn phụ nữa, mà ngược lại, trở nên, không những môn học chính
yếu, còn là môn học cội nguồn của các môn học về tín lý, luân lý, mục vụ, phụng
vụ, v.v. Thánh Kinh còn là môn học mở đường hết sức thuận lợi cho phong trào
đại kết giữa các Giáo Hội của Chúa Kitô : Đông phương và Tây phương, Công Giáo
– Tin Lành – Chính Thống ; nhờ phương hướng của Công đồng Vatican II, Thánh
Kinh còn là nhịp cầu giữa người tín hữu Kitô với những người thuộc đoàn dân gắn
bó ngàn đới với Giao Ước Sinai. Nhờ sự liên hệ mật thiết giữa Cựu Ước và Tân
Ước, mà tâm tình của người tín hữu Kitô ham thích học hỏi và yêu mến Thánh
Kinh, sẽ luôn coi trọng, biết ơn, nỗ lực đào sâu, để đón nhận những nét phong
phú từ thuộc miêu duệ của Tổ phụ Abraham theo nghĩa xác phàm (trong khi người
tín hữu Kitô chúng ta được gọi là thuộc miêu duệ của Tổ phụ Abraham theo nghĩa
thiêng liêng).
V. Dei Verbum vỚi Giáo HỘi ViỆt Nam.
Trong Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2005 với tựa đề
“Sống Lời Chúa”, tại số 8, nói về việc tăng cường vai trò ưu tiên của Thánh
Kinh, các Đức Giám Mục của chúng ta đã nhận định : “Yêu mến Thánh Kinh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Thánh
Kinh, mà còn là siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể
của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm
hướng đi cho cuộc đời. Nhìn chung, Kitô hữu Viêt Nam còn chưa thực sự chú trọng
đến việc đọc Thánh Kinh. Có thể nói, chúng ta rất siêng năng đọc kinh, nhưng
còn chưa chú trọng đến việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Thánh Kinh chưa có chỗ
đứng xứng đáng trong các sinh họat đạo đức, nhất là trong đời sống gia đình”.
Với nhận định trên, các vị Chủ chăn cho thấy lòng “yêu mến Thánh Kinh” là điểm
son của người tín hữu chúng ta. Chính phát xuất từ lòng yêu mến này, mà đã có
những nỗ lực không nhỏ trong Giáo Hội Việt Nam đối với Thánh Kinh, trong đó có
nỗ lực phiên dịch và phổ biến Thánh Kinh. Ngay từ trước khi có Dei Verbum, đã
có những bản dịch toàn bộ Thánh Kinh của Cố Chính Linh, vào năm 1913, bản phỏng
dịch của linh mục Gérard Gagnon CSSR vào năm 1963 ; hoặc bản dịch một vài phần
trong bộ Thánh Kinh của ông Mai Lâm Đoàn Văn Thăng, của Linh mục An Sơn Vị,
linh mục Trần Văn Kiệm ; chưa kể bản dịch của anh em Tin Lành. Rồi trong vòng
40 năm nay, sau khi Dei Verbum ra đời, có bốn bản dịch toàn bộ Thánh Kinh : của
Linh mục Đaminh Trần Đức Huân, dịch từ bản tiếng La tinh, xuất bản năm 1970 ;
của Linh mục Giuse Nguyễn Thế Thuấn CSSR, dịch từ nguyên bản Do Thái, Hy Lạp,
Aram, xuất bản năm l976 ; của Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, xuất bản
năm 1985 ; của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, dịch từ nguyên bản tiếng Do Thái, Hy
lạp, Aram, xuất bản năm 1998. Nỗ lực của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ trong việc
phiên dịch và xuất bản, phổ biến Thánh Kinh rất đáng được trân trọng. Nhóm đã
bắt đầu hình thành vào năm 1971, nghĩa là 6 năm sau khi Dei Verbum ra đời ; và
đã kiên trì làm việc trong lãnh vực phiên dịch và chú thích toàn bộ Thánh Kinh
cho tới nay, nghĩa là liên tục 34 năm miệt mài với công trình phiên dịch.
Ngoài ra, Thánh Kinh cũng được các Vị Mục tử, các Dòng Tu nam nữ và Đại
Chủng viện quan tâm rất nhiều, không những trong việc cử hành Phụng vụ, giảng
dạy, mà còn trong việc tổ chức nhiều lớp học, khóa học về Thánh Kinh.
Ngay trong thời gian họp Công đồng và nhất là sau khi Công đồng bế mạc,
có nơi các Đức Giám Mục đã bắt đầu việc cử hành Nghi thức phụng vụ suy tôn Lời
Chúa tại các nhà thờ chánh tòa. Cuốn sách Lời Chúa thường được đặt trang trọng
trên cung thánh tại hầu hết các nhà thờ, nhà nguyện, để làm nổi bật giá trị của
Lời Chúa bên cạnh Nhà Tạm lưu giữ Mình Thánh Chúa. Thêm vào đó, phong trào đọc Lời
Chúa, học hỏi Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa cũng được rất nhiều nơi, nhiều giáo
xứ, nhiều nhóm sinh hoạt, ca đoàn, giảng viên giáo lý hưởng ứng. Cũng có một số
giáo sư cố gắng nghiên cứu, soạn thảo một số sách, đề tài về Thánh Kinh…
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận như điều các Đức Giám Mục đã nói trong
lá Thư Mục vụ 2005 : “Nhìn chung, Kitô hữu
Việt Nam còn chưa thực sự chú trọng đến việc đọc Thánh Kinh. Có thể nói, chúng
ta rất siêng năng đọc kinh, nhưng còn chưa chú trọng đến việc đọc và suy niệm
Lời Chúa. Thánh Kinh chưa có chỗ đứng xứng đáng trong các sinh họat đạo đức,
nhất là trong đời sống gia đình”. Chúng ta chân thành cám ơn các Đức
Cha đã chỉ rõ cho thấy những gì chúng ta cần phải chú tâm hơn trong việc tăng
cường vai trò ưu tiên của Thánh Kinh trong các sinh họat đạo đức và nhất là
trong đời sống gia đình của người tín hữu Việt Nam. Chúng ta không biện minh
cho những giới hạn và thiếu sót của mình trong quá khứ, đối với thao thức và
lời dạy của Công đồng trong Hiến chế Dei Verbum. Nhưng dầu sao, hoàn cảnh lịch
sử của Giáo Hội Việt Nam 40 năm qua quả có nhiều điều để nói. Phân nữa Giáo Hội
chúng ta trong suốt thời gian diển ra Công đồng, đã không có điều kiện khách
quan để đón nhận những chỉ dẫn và soi sáng của Công đồng, nói chi đến việc tiếp
cận với Dei Verbum ! Do hoàn cảnh, có thể nói, mọi nỗ lực chủ yếu là để giữ đạo
và tồn tại. Rồi, từ khi hai miền Giáo Hội hiệp nhất với nhau, cũng lại những nỗ
lực chủ yếu là để giữ đạo và tồn tại, kéo dài một thời gian khá lâu. Có chăng
một số thao thức, cố gắng và thực hiện trong những khả năng rất giới hạn của
mình, để có thể làm một cái gì đó trong việc phiên dịch, phổ biến Thánh Kinh,
tìm đọc và học hỏi, chia sẻ Lời Chúa, v.v. như vừa nêu ở trên. Do đó, trong
vòng 40 năm qua, không biết có nơi nào đã triển khai, chứ chưa dám nói tới việc
đào sâu Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei
Verbum ! Cũng chưa có những tổ chức cụ thể và có thẩm quyền trong
việc “aggiornamento” (cập nhật) các kiến thức từ các Hội nghị, phong trào quốc
tế rất phong phú của Giáo Hội toàn cầu, cũng như của các Học viện Thánh Kinh,
nhằm thúc đẩy việc học hỏi, đào sâu Lời Chúa. Chúng ta còn rất giới hạn và chịu
nhiều thiệt thòi trong lãnh vực này, chưa có tiếng nói đóng góp đúng mức với
Giáo hội trong Nước, nói chi đến Giáo Hội toàn cầu, như các Giáo Hội trong khu
vực, cũng như hầu hết các nơi trong Giáo Hội toàn cầu.
VI. Dei Verbum
khai mỞ nguỒn LỜi Chúa
cho mỌi sinh hOẠt cỦa HỘi Thánh.
Trong chương VI của Hiến chế tín lý về Mặc khải “Dei Verbum”, Công đồng Vatican II mở rộng
kho tàng Lời Chúa cho mọi sinh họat của Hội Thánh, cũng như cho mọi thành phần
Dân Chúa trong Hội Thánh. Với tựa đề “Thánh Kinh trong đời sống Giáo Hội”, ở số
21 của Dei Verbum, các Nghị phụ
đã viết như sau : “Giáo Hội luôn tôn kính
Thánh Kinh như chính Thân thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo Hội
không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình
Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và
đang được Giáo Hội xem như quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa
linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phân phát cách
bất di bất dịch lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh
Thần qua các Ngôn Sứ cùng các Tông Đồ. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo
Hội cũng như chính Đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng
dẫn. Thực thế, trong các Sách Thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu
mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có một sức mạnh và
quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con
cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và
trường cửu cho con cái Giáo Hội. Bởi thế, lời nói sau đây thật xứng hợp cho
Thánh Kinh : “Thực vậy, Lời Thiên
Chúa sống động và linh nghiệm” (Dt
4,12), “có khả năng gây dựng và ban gia tài
cho mọi người đã được thánh hóa” (Cv
20,32 ; 1Tx 2,13). Thật là kỳ
diệu, khi Công đồng quả quyết : “Giáo Hội
luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể của Chúa”. Tưởng không
có lời tuyên xưng nào long trọng và cao quý hơn lời này mà Công đồng dành cho
Thánh Kinh. Từ lời tuyên xưng này mà nẩy sinh ra trong lòng Giáo Hội từ ngữ
“bàn tiệc Lời Chúa” bên cạnh “bàn tiệc Thánh Thể”.
Nhà thần học Lawrence Cunningham, giáo sư Thần học tại Đại học Notre
Dame, USA, trong hội nghị với các Đức Giám Mục Hoa Kỳ, được tổ chức tháng 6 năm
2005, tại Đại học Notre Dame, nhằm đánh dấu kỷ niệm 40 năm Hiến chế Dei Verbum,
đã có một bài thuyết trình thật đặc sắc. Ông nói : “Điều gây ấn tượng chớ không làm ngạc nhiên, là chương VI của Hiến chế
tín lý về Mặc khải Dei Verbum, thường sử dụng những hình ảnh của ăn và dinh dưỡng khi nói về Thánh
Kinh”.
Từ xưa, trong Giáo Hội, chúng ta đã quen với Mình Thánh Chúa Giêsu như
là lương thực nuôi dưỡng người tín hữu. Nay, Công đồng lại viết : “Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn
tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu” (ex
mensa tam verbi Dei quam Corporis Christi panem vitae). Làm sao Lời Chúa trở
nên “bánh ban sự sống”, trở nên lương thực để nuôi dưỡng Dân Chúa ? Công đồng
chỉ rõ cho các tín hữu biết, qua kinh nghiệm ngàn đời trong Hội Thánh, khi
chuyên cần lắng nghe lời rao giảng trong Hội Thánh đã được Thánh Kinh soi sáng
và nuôi dưỡng (nutriatur), thì Lời Chúa trở nên lương thực cho chính bản thân
của mình ; khi đó, Lời Chúa không những là của ăn nuôi dưỡng linh hồn (animae
cibus), mà còn là nguồn nước tinh sạch cho đời sống thiêng liêng (vitae
spriritualis fons purus). Hội Thánh, trong tư cách là Hiền Thê của Ngôi Lời
nhập thể, luôn thụ giáo với Chúa Thánh Thần, để hiểu biết ngày càng sâu rộng
hơn về Thánh Kinh, mà không ngừng thi hành sứ mạng của người Mẹ hiền “lấy Lời Chúa nuôi dưỡng (pascat) con cái mình”.
Thật vậy, Công đồng đã nêu ra một nguyên lý vững vàng : “mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính Đạo
thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn” (DV 21). Chính vì thế, Công đồng long trọng
tuyên bố : “Phải mở rộng lối vào Thánh Kinh
cho các Kitô hữu” (DV
22). Do đó, cần tạo điều kiện cho các tín hữu tiếp cận với Lời Chúa trong Thánh
Kinh, lý tưởng nhất là trong chính nguyên bản, được viết bằng tiếng Do Thái và
Aram (bộ sách Cựu Ước) và bằng tiếng Hy lạp (bộ sách Tân Ước) ; trên thực tế,
cần tạo điều kiện để có những bản phiên dịch tốt, có chất lượng ra tiếng bản
xứ, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Giải thích điều này, chính Công đồng đã nói rõ
: “Chính vì thế mà từ buổi đầu, Giáo Hội đã
công nhận như của riêng mình bản dịch Cựu Ước bằng tiếng Hy lạp, một bản văn
rất cổ và được gọi là bản Bảy mươi. Ngòai ra Giáo Hội luôn coi trọng các bản
dịch của Đông Phương hay các bản dịch La tinh, nhất là bản thường gọi là bản
“Phổ thông”. Vì phải đem Lời Chúa đến cho mọi thời đại, Giáo Hội như một người
mẹ ân cần lo liệu cho các Sách Thánh được dịch ra các thứ tiếng cách thích hợp
và đúng đắn, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Mọi Kitô hữu có thể sử dụng những bản
dịch được thực hiện chung với cả những anh em ly khai trong trường hợp thuận
tiện và được Giáo quyền chấp thuận” (DV 22). Dịch Thánh Kinh ra tiếng bản xứ, mới chỉ là bước khởi
đầu, lối vào Thánh Kinh cho các Kitô hữu còn cần phải có các môn học chuyên về
Thánh Kinh, thường được gọi là dẫn nhập vào Thánh Kinh, chú giải Thánh Kinh,
v.v. Học Viện Giáo Hoàng Thánh Kinh ở Rôma đã được Đức Thánh Cha Piô X thiết
lập nhằm vào năm 1909, mục đích đào tạo những chuyên viên về Thánh Kinh trong
Hội Thánh ; rồi nhiều Phân Khoa, Học viện về Thánh Kinh cũng được thiết lập tại
Giêrusalem cũng như tại một số nơi khác… Tất cả những Học viện và Phân Khoa này
thực hiện quyết tâm của Giáo Hội trong tư cách là “Hiền Thê của Ngôi Lời nhập thể, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, hằng cố
gắng hiểu biết Thánh Kinh ngày càng sâu rộng hơn, hầu không ngừng lấy Lời Chúa
nuôi dưỡng con cái mình. Do đó, Giáo Hội có lý khi khuyến khích việc học hỏi
các Thánh Giáo Phụ Đông Phương và Tây Phương cũng như các Phụng vụ thánh….
Thánh Công đồng khuyến khích con cái Giáo Hội đang chuyên cần học hỏi những
khoa học Thánh Kinh, hãy tiếp tục theo đuổi công trình đã khởi sự cách tốt đẹp
với những năng lực ngày được đổi mới, và bằng tất cả hăng say hợp với cảm thức
của Giáo Hội” (DV 23).
Ngoài ra, Công đồng cũng lập lại điều mà Đức Thánh Cha Lêô XIII, trong Thông
điệp Providentissimus Deus đã nói “Thánh
Kinh là Linh hồn của Khoa Thần học thánh” ; vì Thánh Kinh chứa đựng
Lời Chúa và vì được linh ứng, nên thực sự là Lời Chúa. Do đó, “Khoa Thần học thánh dựa trên Thánh Kinh và Thánh
Truyền như dựa vào một nền tảng vĩnh cửu. Trên nền tảng này, thần học được củng
cố, trở nên vững chắc và được trẻ trung mãi, trong khi tìm kiếm, dưới ánh sáng
đức tin, tất cả chân lý tiềm ẩn trong Mầu nhiệm Chúa Kitô” (DV 24). Chính trong buổi tiếp kiến các đại
biểu tham dự Khóa hội nghị về Thánh Kinh vừa qua ở Rôma, Đức Thánh Cha cũng có
một nhận định tương tự : “Lời Chúa không già
cỗi bao giờ ; vì thế, Giáo Hội cần được đổi mới không ngừng”. Công
đồng cũng không quên nhắc nhỡ những ai thi hành “thừa tác vụ Lời Chúa – nghĩa là việc rao giảng mục vụ, dạy giáo lý và
toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài giảng phục vụ phải chiếm một chỗ
quan trọng – phải được nuôi dưỡng lành mạnh và gia tăng sinh lực cách thánh
thiện nhờ lời Thánh Kinh” (DV
24).
Sau cùng, để “Lời Chúa trở nên đèn rọi bước chân, ánh sáng cho nẻo
đường đi” (Tv 119,
105) của người tín hữu, Công đồng khuyên nhủ mọi tín hữu chuyên cần và siêng
năng đọc Lời Chúa : “Vì thế, tất cả các giáo
sĩ, trước hết là các linh mục của Chúa Kitô và những người có bổn phận phục vụ
Lời Chúa, như các Phó tế và những người dạy giáo lý, phải gắn bó với Thánh Kinh
nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi, để khi họ truyền đạt kho tàng bao la của
Lời Chúa, nhất là trong Phụng vụ thánh, cho các giáo hữu được ủy thác cho họ,
không ai trong họ sẽ trở thành “kẻ huyênh hoang rao giảng Lời Thiên Chúa ngoài
môi miệng bởi không lắng nghe Lời Thiên Chúa trong lòng”. Thánh Công đồng cũng
tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, cách riêng các tu sĩ, hãy năng
đọc Thánh Kinh để học biết “khoa học siêu việt của Chúa
Kitô” (Pl 3,8). Vì “không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Việc năng đọc Thánh Kinh, trong truyền
thống ngàn đời của Giáo Hội – trước kia đặc biệt dành riêng cho các Đan viện –
được gọi là Lectio divina (việc đọc sách Thánh Kinh). Đức Hồng Y Carlo Maria
Martini, qua kinh nghiệm bản thân là nhà nghiên cứu,là bậc thầy nổi tiếng về
Thánh Kinh và là mục tử sáng chói ở Giáo phận Milanô trong nhiều thập kỷ vừa
qua, chia sẻ cho chúng ta phương đáp của ngài về việc đọc Sách Thánh cho hữu
ích qua 3 quá trình : lectio, meditatio, contemplatio (đọc, suy gẫm, chiêm
niệm).
KẾT LUẬN
Nhìn lại biết bao điều kỳ diệu trong Hội Thánh kể từ ngày Thánh Công đồng công bố Hiến chế tín lý về Mặc Khải Dei Verbum thời gian 40 năm qua, chúng ta chỉ biết dâng lời chúc tụng, tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi đã đoái thương ban cho Hội Thánh kho tàng mặc khải vô cùng quý báu ẩn chứa nơi bộ Thánh Kinh ; để nhờ đó, chúng ta khám phá ra điều mà Mẹ Maria đã tuyên bố trong lời kinh Magnificat : “Lòng nhân nghĩa Chúa trải qua đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Chúa” ; và trong tư cách là con cái của Hội Thánh, chúng ta sẽ mãi mãi hiệp thông với mọi thành phần Dân Thiên Chúa thuộc mọi thời đại để “thành kính lắng nghe Lời Thiên Chúa mà có thể tin tưởng công bố Lời của Ngài”.
[1] Paul Claudel trong tác phẩm “L’Ecriture Sainte dans La Vie intellectuelle” 16
[2] x. Ecclesiam suam, số 9-14