NHÂN ĐỌC THÔNG ĐIỆP DEUS CARITAS EST
Không
một chỗ nào trong Thông điệp minh nhiên nói về bác ái mục vụ. Thậm chí những
chữ ‘bác ái mục vụ’, nếu không lầm, cũng không thấy có trong bản văn. Đây không
phải là điều Đức Giáo Hoàng muốn đề cập. Trong Thông điệp đầu đời giáo hoàng
của mình, ngài muốn nhấn mạnh về tình yêu nói chung, một tình yêu là của Thiên
Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa, được ban tặng cho con người, để người ta, nhất
là người Kitô hữu, có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau, nghĩa là trao
ban tình yêu của Thiên Chúa cho người khác.
Ngay
cả trong phần thứ hai là phần khai triển nhiều hơn khía cạnh thực hành, Thông
điệp cũng chỉ nói chung về hoạt động bác ái, phục vụ bác ái, coi đó tiên vàn là
công tác của cả Hội Thánh, của từng cá nhân cũng như các tổ chức trong Hội
Thánh, “trên các bình diện, bắt đầu từ các giáo xứ đến các Giáo Hội từng vùng,
từng miền, cho đến Giáo Hội toàn cầu” (s.32), trong đó trách nhiệm về hoạt động
bác ái được coi như… bổn pnận thuộc thừa tác vụ của Giám mục (ibid.).
Tuy
vậy, những ý tưởng được gợi ra trong Thông điệp cho phép chúng ta nghĩ đến một
sự bác ái chuyên biệt hơn, cụ thể hơn cho linh mục chúng ta. Đó là bác ái của
người mục tử, bác ái mục vụ. Và đây là điều chúng ta muốn cùng nhau suy nghĩ
trong dịp thường huấn này.
Theo
Đức Gioan Phaolô II, bác ái mục vụ là “nguyên lý nội tại thôi thúc và hướng dẫn
đời sống của linh mục…, tạo nên nguyên lý nội tại và động lực có thể thống nhất
những hoạt động phong phú và đa dạng của linh mục”[1].
Không những thế, nó còn là “phương thế thiết yếu để đưa con người vào đời sống
ân sủng”[2]].
Một nhân đức có tầm quan trọng và hiệu năng lớn lao như thế phải được linh mục
chúng ta quan tâm và thực hành.
Đề
tài được giới hạn vào 3 điểm : động lực và kiểu mẫu của bác ái mục vụ ; thể
hiện bác ái mục vụ ; những phương thế vun trồng bác ái mục vụ.
I. ĐỘNG
LỰC VÀ KIỂU MẪU
CỦA
BÁC ÁI MỤC VỤ.
Trong Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập, chỉ có một Mục Tử duy nhất là
chính Ngài. Nhưng “để chăn dắt và phát triển dân Chúa luôn mãi, Chúa Kitô đã
thiết lập các thừa tác vụ khác nhau trong Hội Thánh hầu mưu ích cho toàn thân”.[3]
Không những thiết lập, Ngài còn “trao ban quyền hành và sứ mạng, phương hướng
và cứu cánh cho thừa tác vụ Giáo Hội”.[4]
Trong số những người lãnh nhận thừa tác vụ này, có Giám Mục và linh mục được
đặt làm mục tử, hành động nhân danh Đức Kitô, “hành động với thần lực và vai
trò của chính Đức Kitô”,[5]
thi hành chức vụ thủ lãnh của Đức Kitô (in persona Christi Capitis).
Là
những mục tử hữu hình trong Giáo Hội, các ngài “đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô Mục Tử”[6].
Chính ấn tích của bí tích Truyền Chức Thánh làm cho các ngài đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô về phương diện hữu thể học. Nhưng điều này chỉ có ý nghĩa nếu
các ngài đồng hình đồng dạng với Đức Kitô về phương diện luân lý và tu đức,
nghĩa là trong cách sống và hoạt động của mình, các ngài làm nổi bật hình ảnh
Đức Kitô, những nét của khuôn mẫu là Đức Kitô, cách riêng tình yêu của Đức Kitô
Mục Tử. Chính tình yêu này làm cho việc chăn dắt đàn chiên của Chúa trở thành
một dịch vụ tình yêu.[7]
Chính tình yêu này phải là khuôn mẫu và động lực thúc đẩy các linh mục thi hành
bác ái mục vụ.
Vậy
Đức Kitô đã thể hiện tình yêu này như thế nào ?
Trước
hết, Chúa xưng mình là một mục tử tốt (Ga 10,11). Theo bản văn hy lạp, ‘tốt’
gợi lên ý tưởng về một mục tử thật, hoàn toàn xứng danh là mục tử, ngược với
mục tử giả. Nhưng hiểu ‘tốt’ theo nghĩa thông thường cũng không sai, vì tốt
lành là đặc điểm của mục tử đích thực, và nơi Chúa Giêsu Mục Tử, biểu lộ sự tốt
lành vô biên của Thiên Chúa. Khi tự xưng như vậy, Chúa muốn cho thấy Ngài sẽ
đảm nhận hoàn toàn trách nhiệm về đàn chiên, đồng thời cũng cho thấy một sự bảo
đảm và đoan hứa mãi mãi sẽ là Mục Tử tốt ỡ giữa đàn chiên.
Người
mục tử chúng ta hôm nay theo gương Chúa, phải luôn tỏ ra là một mục tử tốt.
Đương nhiên chúng ta không dám tự xưng mình là mục tử tốt, nhưng sự tốt lành
theo khuôn mẫu của Chúa phải luôn là mục tiêu để chúng ta vươn tới, bằng cách
không ngừng cải thiện đời sống và hoạt động thừa tác vụ của mình, sao cho mỗi
ngày một tốt hơn.
Sự
tốt lành được biểu lộ qua nhiều khía cạnh nói lên tình yêu sâu xa của Chúa.
Trông
thấy đám đông đi theo mình, Chúa động lòng xót thương họ, vì họ lầm than vất
vưởng như bầy chiên không có người chăn (Mt 9,36 ; Mc 6,3-4). Nói đúng ra, họ
vẫn có người chăn, nhưng chỉ là những người chăn thuê, không thiết gì đến chiên
(Ga 10,13), nên chiên phải bơ vơ.
Linh
mục chúng ta không phải là người chăn thuê, cũng không phải như một thứ công
chức, sống theo một thứ chủ nghĩa công chức (fonctionnalisme). Thực tế, một số
linh mục có não trạng thu hẹp chức tư tế thừa tác vào những khía cạnh thuần túy
công vụ. Não trạng này có nguy cơ làm cho đời sống linh mục trở thành trống
rỗng, thường được bù trừ bằng những lối sống không phù hợp với thừa tác vụ của
mình.[8]
Chúng ta đã tự nguyện lãnh nhận sứ mạng từ Chúa. Phải quan tâm đến những người
được trao phó cho mình. Phải hun đúc cho mình một sự mẫn cảm đối với những
người đáng thương, nhất là những người đói khát chân lý hoặc cần được thông
truyền chân lý, vì chúng ta được sai đến chủ yếu để cung ứng cho họ chân lý của
Thiên Chúa.
Mục
tử cũng là người có tương giao tốt với từng con chiên. Chúa Giêsu Mục Tử lên
tiếng gọi chiên và được chiên nhận ra tiếng (Ga 10,3-5). Ngài âu yếm gọi tên
từng người, như đã gọi tên các Tông Đồ ngày xưa, đã gọi tên Dakêu khi vào thành
Giêricô, đã gọi tên Maria Magđala sau khi sống lại… Ngài có thể kêu gọi qua lời
Ngài trong Sách Thánh, qua tiếng nói tự thâm tâm mỗi người, qua thừa tác viên
trong Giáo Hội… Ngài cũng kêu gọi từng người đi theo Ngài trong một ơn gọi phù
hợp với họ, đưa họ tới sự sống, như chiên được dẫn tới đồng cỏ xanh tươi. Dù
Chúa có gọi theo cách thức nào thì con chiên biết và yêu Chúa vẫn nhận ra đó là
tiếng nói của Ngài và đáp lại, giống như Maria Magđala, lúc đầu trông thấy Chúa
Phục Sinh lại tưởng là người giữ vườn, nhưng khi nghe Chúa gọi tên mình thì đã
nhận ra Chúa ngay và đã đáp lại : Rabbouni (Ga 20,16).
Người
mục tử hôm nay, sống tinh thần bác ái mục vụ, có kêu mời ai thì cũng phải kêu
mời họ đến với Chúa, đi theo Chúa, và phải giúp cho họ nhận ra chính là tiếng
Chúa gọi mình. Tương quan của chúng ta với con chiên phải đưa đến tương quan
tốt của họ với Chủ Chiên đích thực là Chúa.
Chúa
Giêsu Mục Tử cũng là người biết chiên và chiên biết Ngài. Biết, không chỉ là
một thái độ thuần túy tri thức, hoặc biết hời hợt như khi nghe nói về một người
nào mà bảo rằng mình có biết người đó. Đây là một sự biết vào sâu, diễn tả một
cộng đồng sinh mệnh dựa trên cả tri thức lẫn tình yêu. Chúa Giêsu biết rõ và
yêu thương con chiên, như Ngài biết rõ và yêu mến Chúa Cha. Sự hiểu biết của
Ngài về con chiên bắt nguồn từ tình yêu liên kết Ngài với Chúa Cha, và có được
sự sung mãn trong tình yêu này. Nhưng Ngài chỉ có thể là Mục Tử tốt khi giúp
cho con chiên cũng biết và yêu mến Chúa Cha.
Người
mục tử hôm nay dễ có khuynh hướng biết nhiều thứ ‘đàn’ hay ‘đoàn’ diễn ra trước
mắt, qua cuộc sống cụ thể và những phương tiện thông tin hiện đại. Nhưng nếu
muốn là mục tử tốt thì phải ưu tiên biết và yêu thương đàn chiên được trao phó
cho mình, không những thế, còn phải giúp họ biết và yêu mến Chúa Giêsu Mục Tử,
và qua Ngài mà biết và yêu mến Thiên Chúa.
Có
lẽ nét đặc trưng nhất nơi một mục tử chân chính là hy sinh mình cho đàn chiên
(Ga 10,11.15.17-18), để chúng được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Chúa Giêsu
chính là mẫu mục tử như vậy. Qua việc hiến mạng sống mình, Ngài bộc lộ tấm lòng
chân thành và vô vị lợi tuyệt đối khi nhận chăm sóc đàn chiên. Đàn chiên này là
xương bởi xương Ngài và thịt bởi thịt Ngài, theo cách Ađam nói với Evà (x. St
2,23). Những gì liên hệ đến đàn chiên thì cũng liên hệ đến Ngài. Mọi nguy hiểm
đe dọa đàn chiên đều làm cho Ngài lo lắng. Nhưng Chúa Giêsu Mục Tử không chỉ hy
sinh để cung ứng những nhu cầu bên ngoài của đàn chiên. Sự hy sinh độc đáo
nhất, cao quý nhất, nói lên tình yêu cao cả nhất, là Ngài đã hy sinh mạng sống,
đã tự nguyện chấp nhận hy tế Thập giá. Ở đây, hình ảnh mục tử hòa lẫn với hình
ảnh Chiên Con, hình ảnh người Tôi Tớ đau khổ, mang lấy mọi tội lỗi của đàn
chiên, hy sinh thân mình để lôi kéo ơn tha thứ của Thiên Chúa. Là Mục Tử tốt
trong cái chết, Chúa Giêsu cũng là Mục Tử tốt trong sự sống lại. Nhờ sự sống
lại này, Ngài đã hoàn tất công cuộc cứu độ, đưa đoàn chiên trở lại với Chúa
Cha, làm cho họ được sống bằng sự sống vĩnh cửu của Ngài (Ga 14,19).
Người
mục tử hôm nay cũng phải biết hy sinh cuộc sống của mình vì đàn chiên. Hy sinh
đến nỗi chấp nhận chết vì đàn chiên chắc hẳn chỉ là trường hợp hãn hữu, nhưng
hy sinh những gì thuộc về đời sống như tiền bạc, thời giờ, tiện nghi, sở thích…
là điều có thể làm và phải làm. Những hy sinh như vậy cũng là một cách chết,
chết dần chết mòn. “Yêu là chết trong lòng một tí”. Nhưng chết đó là để sống,
đặc biệt ở đây là để làm cho đàn chiên của mình được sống.
Cuối
cùng, người mục tử tốt đi tìm chiên lạc (Lc 15,3-7 ; Mt 18,12), quy tụ chiên
thành một bầy. Chiên lạc là hình ảnh người tội lỗi. Chúa Giêsu Mục Tử sẵn sàng
bỏ 99 con chiên còn lại để đi tìm một con xa bầy, vì Ngài đến để kêu gọi và tìm
kiếm kẻ có tội. Chiên lạc cũng còn được hiểu là những người khác được Ngài gọi
trước là con chiên nhưng chưa thuộc về đàn chiên. Ngài cũng có sứ mệnh quy tụ
những con chiên đó, đưa về làm thành một đàn chiên duy nhất, dưới sự chăn dắt
của một chủ chăn.
Người
mục tử hôm nay cũng có trọng trách với hai loại chiên này. Một đàng phải quan
tâm đến những người tội lỗi trong cộng đồng, tìm cách đưa họ về đường chính,
không an tâm với ý nghĩ “sống chết mặc bay”. Đàng khác, không chỉ hài lòng với
đàn chiên được trao phó, mà còn phải hướng tới những người ở ngoài đàn chiên,
chưa được biết Chúa. Ý hướng truyền giáo luôn luôn phải được khơi dậy nơi bất
cứ mục tử nào.
Tóm
lại, mọi mục tử tốt đều phải sống bác ái mục vụ trên đây, theo gương Chúa Giêsu
Mục Tử “trong sự hiến mình và phục vụ của Người”.[9]
II. THỂ HIỆN BÁC ÁI MỤC VỤ.
Linh
mục là Thày dạy lời Chúa, thừa tác viên các bí tích và người lãnh đạo cộng
đồng. Đó là những hoạt động chuyên biệt của người mục tử. Ngài phải thể hiện
bác ái mục vụ trong những hoạt động chuyên biệt này.
1.
Thày dạy lời Chúa
Lời
Chúa là lời thần linh, lời mạc khải, lời đem lại sự sống đời đời cho những ai
tin, lắng nghe và thực hành. Lời đó được truyền đạt trong và qua Giáo Hội, là
một phương tiện nhờ đó Chúa Kitô hiện diện và hành động. Lời Chúa khi được lắng
nghe và đón nhận sẽ giúp con người gặp gỡ một Thiên Chúa nói, sẽ chất vấn tâm
hồn họ, sẽ đòi buộc họ quyết định thay đổi đời sống.
Bởi
vậy, lời cần phải được loan báo và giảng dạy. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của linh
mục,[10]
là món nợ mà linh mục mắc với mọi người, là nhiệm vụ mà “các linh mục bị ràng
buộc cách chặt chẽ hơn bất cứ nhiệm vụ nào khác, nghiêm khắc hơn bất cứ nhiệm
vụ nào khác”.[11]
Việc dùng lời Chúa để dạy dỗ các tín hữu nổi bật trong số những việc làm thể
hiện lòng bác ái mục vụ, vì nó đáp ứng nhất với điều người ta chờ đợi nơi các
mục tử. Đó là bác ái trí thức.[12]
Thông
thường thì người mục tử truyền đạt lời Chúa qua hai công việc là dạy giáo lý và
giảng giải lời Chúa trong các bí tích, nhất là trong Thánh Lễ. Nhưng trên thực
tế, việc dạy giáo lý thường được trao cho các giáo lý viên, chỉ còn công việc
thứ hai dành cho mục tử, là công việc chỉ người có chức thánh mới có quyền làm.
Chúng
ta hẳn được nghe nhiều phản ánh không thuận lợi của giáo dân về bài giảng của
linh mục, trong đó có những điều thực sự không phù hợp với tinh thần bác ái mục
vụ. Thử ghi nhận một số phản ánh đáng lưu ý :
Linh
mục chửi mắng giáo dân trên tòa giảng. Dân chúng chờ đợi nghe những lời giúp
cho họ hiểu biết hơn về tình thương của Chúa, giúp họ cảm thấy được an ủi,
khích lệ, để can đảm đi theo Chúa, thì thay vào đó lại là những lời của con
người trách mắng con người, trực tiếp hoặc gián tiếp, những lời thay vì đem đến
sự sống lại đem đến sự chết, không chết về thể xác mà là chết về tinh thần nếu
như đó là những lời thậm tệ. “Trời đánh còn tránh bữa ăn”. Trời tránh, nhưng
linh mục không tránh. Lương thực lời Chúa đã bị linh mục thao túng một cách tệ
hại, làm sao giáo dân có thể nuốt trôi cho được ?
Có
những bài giảng không đụng chạm tới ai, thậm chí có thể làm cho một số người
thích thú, nhưng lại không chứng tỏ bác ái mục vụ chân thực. Nội dung chỉ là
những chuyện giời ơi đất hỡi, những sự khôn ngoan thuần túy của con người hay
của mình, chứ không phải sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Augustinô bảo rằng :
“Kiến thức của chúng ta là Đức Kitô, sự khôn ngoan của chúng ta cũng là Đức
Kitô”.[13]
Thánh Phaolô thì khẳng định : “Chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được
nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần
Khí ; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc
về Thần Khí” (1Cr 2,13). Thêm thắt một câu truyện như gia vị để cho bài giảng
thêm đậm đà cũng tốt thôi, nhưng đừng để cho người nghe chỉ nhớ đến truyện mà
quên mất lời Chúa. Liên hệ với hoàn cảnh cụ thể và vấn nạn thực tế của người
nghe là điều nên làm và phải làm, nhưng phải biết dùng lời Chúa để giải thích
và soi sáng những điều đó. Dân Chúa đói khát lời Chúa không tìm đến tòa giảng
để nghe những chuyện đâu đâu, hoặc những gì ai nấy đều có thể biết chi tiết qua
các phương tiện thông tin hiện đại của ngày hôm nay.
Bác
ái mục vụ đòi linh mục cung cấp cho họ của ăn đích thực, có chất lượng, để đời
sống đạo của họ không suy dinh dưỡng. Của ăn này không gì khác hơn là chính lời
Chúa. Muốn vậy, chúng ta phải không ngừng học hỏi và nghiền ngẫm lời Chúa, vì
“không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô”.[14]
Lười biếng trí thức, trong đó có lười biếng học hỏi Kinh Thánh, là nguy cơ đáng
báo động nơi không ít linh mục. Có thể do lười biếng thực. Có thể do tự phụ
mình đã biết đủ nên không chịu học hỏi thêm.[15]
Dĩ nhiên, biết ở đây không chỉ thuần túy về tri thức, nhưng còn biết bằng tấm
lòng : yêu mến lời Chúa, để lời Chúa thấm nhập và biến cải tâm hồn chúng ta
trước, qua suy niệm, cầu nguyện và thực hành. Khi có đầy trong lòng, tự nhiên
lời Chúa sẽ trào ra ngoài miệng. Khi ấy, chúng ta sẽ không “trở thành những kẻ
huênh hoang rao giảng lời Thiên Chúa bằng môi miệng, bởi đã không nghe lời Chúa
trong lòng”.[16]
Một
việc cụ thể mà trước đây Đức Cha Bartôlômêô đã có lần nhắc nhở : “Đừng bao giờ
suy nghĩ bài giảng mà không đọc trước các bài Kinh Thánh của Thánh Lễ, vì bài
giảng phải được múc từ nguồn Kinh Thánh và phụng vụ. Đừng mở miệng sau Phúc Âm
khi không biết, không nghe, không suy lời Chúa vừa được công bố”.[17]
Một lời nhắc nhở không phải là thừa.
Ngoài
ra, để giúp cho việc giảng được hiệu quả, phải biết trau dồi hình thức giảng,
làm sao cho sứ điệp được trình bày mạch lạc, hấp dẫn, bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu
nhưng không tầm thường, phù hợp với trình độ và não trạng người nghe. Không
phải ai cũng có thể trở thành nhà hùng biện. Nhưng nếu yêu mến lời Chúa, yêu
thương và tôn trọng người nghe, chuyên cần học hỏi cả về những điều phải giảng
lẫn cách thức giảng, với thái độ chân thành và khiêm tốn, thì lời Chúa mà chúng
ta truyền đạt vẫn có thể giúp biến cải tâm hồn họ. “Linh mục không phải là nhà
hoạt náo truyền thông (showmaster) đang biểu diễn một cái gì đó do ông tự nghĩ
ra. Trái lại, ông có thể là một diễn viên rất tồi, nhưng ông đang đại diện cho
một cái gì đó hoàn toàn khác, và cái đó hoàn toàn không tùy thuộc ông”.[18]
Tóm
lại, bác ái mục vụ đòi người mục tử phải rao truyền trung thực và trọn vẹn lời
Chúa, và cố làm sao cho lời Chúa đạt được hiệu quả tối đa nơi người nghe.
2.
Thừa tác viên bí tích.
Linh
mục là người “quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 4,1) là những kho tàng
ân sủng nuôi dưỡng đời sống và đức tin của người tín hữu. Thuộc vào kho tàng ân
sủng này là các bí tích.
Các
bí tích có vai trò quan trọng trong đời sống người Kitô hữu. Các bí tích khai
tâm đặt nền tảng cho toàn thể đời sống của họ, giúp họ hiệp thông sâu xa hơn
vào đời sống thần linh và ngày càng tiến tới đức mến hoàn hảo, đồng thời cũng
đặt nền tảng cho ơn gọi chung của người môn đệ Chúa Kitô : ơn gọi nên thánh và
được sai đi rao giảng Tin Mừng cho thế giới. Các bí tích Thống Hối và Xức Dầu
Bệnh Nhân giúp họ được chữa lành, đặc biệt được tha thứ tội lỗi. Các bí tích
Truyền Chức Thánh và Hôn Nhân nhằm xây dựng cộng đồng và cũng góp phần cứu rỗi
bản thân.
Được
tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô và hành động như thừa tác viên của Ngài,
linh mục thi hành chức tư tế này đặc biệt trong việc cử hành các nghi thức
phụng vụ và bí tích. Tuy chúng ta thường xuyên cử hành các bí tích Thánh Tẩy,
Thánh Thể, Thống Hối, Xức Dầu Bệnh Nhân, Hôn Nhân, nhưng có hai bí tích cần
được lưu ý nhiều hơn, vì tầm quan trọng đặc biệt của chúng trong đời sống, hầu
như được làm hằng ngày, và cũng vì có nhiều vấn đề đặt ra cho mục vụ. Đó là các
bí tích Thánh Thể và Thống Hối. Bác ái mục vụ của chúng ta cần được đặt ưu tiên
cho những bí tích này.
Đối
với các bí tích nói chung, bổn phận của linh mục là giúp cho giáo dân hiểu biết
ý nghĩa của chúng, ý nghĩa giáo hội và quy hướng về Thánh Thể, cũng như tập cho
họ, khi tham dự, biết yêu mến, đón nhận và sống ơn bí tích nhờ chức tư tế cộng
đồng của họ. Như vậy, họ sẽ tránh được ý tưởng sai lầm coi bí tích như một thứ
ma thuật tự nó có hiệu lực không liên hệ gì đến đời sống Kitô giáo.[19]
Liên hệ với ý tưởng sai lầm trên đây, cần giúp cho họ biết dọn mình xứng đáng,
vì chỉ khi chuẩn bị tâm hồn cẩn thận và xứng đáng, họ mới có quyền và có thể
lãnh nhận bí tích cách hữu hiệu.[20]
Riêng
về Bí tích Thánh Thể, chúng ta đều biết Thánh Thể có vai trò trung tâm, là
nguồn mạch và tột đỉnh của toàn thể đời sống người Kitô hữu, vì chính nhờ tác
động của bí tích này và chung quanh bí tích này mà cộng đồng được sống động và
trường thành.[21]
Nhưng để cho thấy giá trị và hiệu quả của Thánh Lễ trong đời sống thì ngoài
việc chuẩn bị cho giáo dân như nói trên, bác ái mục vụ còn đòi hỏi chính thừa
tác viên phải góp phần xứng hợp vào cử hành, qua việc tổ chức, thái độ và hành
động của mình trong Thánh Lễ. Quy Chế Tổng Quát của Sách Lễ Rôma đã đưa ra
những chỉ dẫn tổng quát như sau : “Phải hết sức lo cho việc cử hành Thánh Lễ…
được tổ chức thế nào, để các thừa tác viên và các tín hữu, khi tham dự tùy theo
địa vị của mình, được lãnh nhận các hiệu quả dồi dào hơn” và “điều này có thể
đạt được, nếu ta để ý đến bản chất và hoàn cảnh của mỗi cộng đoàn, mà xếp đặt
toàn bộ việc cử hành thế nào, để giúp các tín hữu tham dự với cả xác hồn, một
cách ý thức, tích cực, đầy đủ, và với lòng tin cậy mến nồng nàn. Đó là việc
tham dự mà Hội Thánh mong muốn, và bản chất việc cử hành đòi hỏi, lại cũng là
quyền lợi và nghĩa vụ của giáo dân, phát xuất từ bí tích Thánh Tẩy”.[22]
Chúng ta thấy một trong những lý do Quy Chế đưa ra liên hệ đến quyền lợi của
giáo dân, tức còn hơn cả bác ái nữa, vì liên hệ đến sự công bằng mà người giáo
dân phải được hưởng khi tham dự Thánh Lễ.
Xin
được gợi ra một vài điểm về sự công bằng và bác ái này.
-
Giữ đúng giờ lễ. Nhiều người càm ràm không chỉ vì lễ lâu (nhiều phần vì giảng
dài), mà còn vì Thánh Lễ bắt đầu trễ hơn giờ quy định. Trong cuộc sống hôm nay,
thời giờ phân chia cho những công việc trong ngày thường sít sao. Ngay cả ngày
Chúa nhật, dù không có lao động, dịch vụ hay học hành đi nữa (thường ra vẫn có
đối với một số người), vẫn còn có những công việc khác để làm. Làm lễ trễ giờ
có thể gây khó khăn cho công việc của họ. Vả lại, dù không thực sự bận gì sau
đó thì tâm lý của người đi lễ vẫn khó chịu khi phải chờ đợi. Chính sự khó chịu
hoặc lo lắng làm cho tâm hồn họ không còn được sự thanh thản và sốt sắng.
-
Giữ đúng quy luật phụng vụ. “Trong số những khía cạnh khác nhau của kỷ luật
Giáo Hội, sự tuân phục đối với những luật lệ và quy định phụng vụ của Giáo Hội,
nghĩa là trung thành với các quy tắc tổ chức việc phụng thờ Thiên Chúa theo ý
muốn của Linh Mục Thượng Phẩm đời đời và Nhiệm Thể của Người, có tầm quan trọng
đặc biệt… Việc ấn định các quy tắc phụng vụ thuộc thẩm quyền Giáo Hội tức Tòa
Thánh mà thôi và, trong những điều Giáo luật quy định, thuộc thẩm quyền Giám
Mục. Không ai khác, ngay cả linh mục, được phép thêm bớt hay thay đổi bất cứ
điều gì trong phụng vụ theo ý mình”.[23]
Linh mục chỉ là thừa tác viên, cử hành phụng vụ nhân danh Chúa Kitô và Giáo
Hội, phải thi hành những gì Chúa và Giáo Hội dạy về việc này. Giáo dân có quyền
được tham dự phụng vụ theo nghi thức của Giáo Hội thì linh mục có bổn phận cho
họ được hưởng quyền đó, chứ không phải những gì theo ý muốn và sáng kiến riêng
của mình. Đừng gây thắc mắc và chia rẽ nơi họ liên can đến việc cử hành phụng
vụ.
-
Thái độ cử chỉ của chủ tế. Muốn cho giáo dân tham dự Thánh Lễ sốt sắng thì
chính chủ tế phải cử hành sao cho sốt sắng, qua thái độ, cử chỉ và lời đọc của
mình. “Việc thiếu lưu tâm đến những khía cạnh biểu trưng của phụng vụ hoặc, hơn
nữa, sự cẩu thả, vội vã, hời hợt và vô trật tự sẽ làm mất hết ý nghĩa đồng thời
làm suy giảm chức năng của phụng vụ là làm tăng trưởng đức tin. Ai cử hành cẩu
thả chứng tỏ đức tin yếu kém và không thể dạy người khác đạt tới đức tin. Ngược
lại, cử hành tốt là một huấn giáo đầu tiên và quan trọng nhất về Hy Lễ Thánh”.[24]
Để
được như vậy, phải luôn ý thức về công việc thiêng thánh sắp làm, và có sự
chuẩn bị cần thiết ngay trước khi làm. Còn về lâu về dài, phải tập cho mình một
thái độ nghiêm trang, một cung giọng tự nhiên, nhịp nhàng, những cử chỉ vừa
phải và đúng phép, không như một kịch sĩ diễn trò cũng không phải một pháp sư
vẽ bùa. Sự múa máy gây phản cảm của chủ tế có thể là một trong những nguyên
nhân khiến nhiều giáo dân thích tham dự Chầu phép lành hơn là tham dự Thánh Lễ,
dù họ biết Thánh Lễ có giá trị hơn. Ít ra khi chầu, người ta được thanh thản,
đối diện trực tiếp với Thánh Thể, không phải thông qua một chủ sự làm cho họ
chia trí và khó chịu.
Về
việc ban bí tích Thống Hối hay Giải Tội, có nhiều điểm cũng cần được đề ra cho
bác ái mục vụ. Thống hối, đặc biệt qua bí tích, là điều kiện cần thiết để có
thể tin và được cứu độ, và để có thể lãnh nhận ơn ích khi tham dự mầu nhiệm
thánh. Việc thống hối càng phải được nhấn mạnh trong một thế giới ít nhạy cảm
với tội lỗi, với thực tại tội lỗi. Bởi vậy, người mục tử sẽ không ngừng dựa vào
lời Chúa kêu gọi người ta thống hối nhất là qua bí tích.
Nhưng
để giáo dân có thể làm việc này thì một trong những điều kiện là linh mục phải
năng ngồi tòa. Không những có thời biểu ấn định việc ngồi tòa,[25]
mà còn phải sẵn sàng giải tội bất cứ lúc nào khi có thể, nhất là cho những hối
nhân có hoàn cảnh đặc biệt. Bác ái mục vụ đòi chúng ta phải sẵn sàng như vậy,
giúp cho người ta tìm lại được tình yêu thương tha thứ của Chúa. Thường thi
linh mục trẻ mới ra lò thích ngồi tòa hơn làm lễ có giảng, vì giảng chưa thông,
còn linh mục cao tuổi, do “bệnh mục xương đã nhập vào mình” (Kb 3,16), không
thể ngồi lâu nên thích giảng hơn giải tội. Nhưng trên thực tế, phải nói thành
thật là lắm cha già lại siêng năng giải tội hơn cha trẻ. Cha trẻ muốn có những
hoạt động này khác ở bên ngoài cho ra trò, chứ chuyện lủi thủi một mình trong
tòa, đối diện với một hối nhân thôi, thì có mòi không ưa.[26]
Trong
khi giải tội, cũng phải thể hiện lòng bác ái với hối nhân : kiên nhẫn khi hối
nhân xưng có vẻ vớ vẩn hoặc không chuẩn bị kỹ ; không la rầy về những tội hối
nhân phạm ; không to tiếng quá khiến hối nhân có thể cảm thấy xấu hổ với người
khác. Nhiều trường hợp hối nhân chết khiếp khi đến với tòa có cha giải tội theo
cung cách ấy. Thư luân lưu của Bộ Giáo sĩ viết : “Nhiệm vụ của linh mục trong
nghi thức xá giải là đặt hối nhân trước Chúa Kitô, nhờ vậy, bằng sự hết sức tế
nhị tạo điều kiện dễ dàng cho một cuộc gặp gỡ lòng thương xót Chúa”, và không
quên cảnh báo : “Việc xưng tội giảm sút… gây thiệt hại cho đời sống luân lý và
lương tâm của người tín hữu, nguy hiểm đó đôi khi là do sự sa sút phẩm chất
phục vụ của thừa tác viên xá giải về phương diện thần học và mục vụ”.[27]
3.
Người lãnh đạo cộng đồng.
Người
mục tử được đặt làm thủ lãnh cộng đồng. Lãnh đạo là một vinh dự, đồng thời cũng
là một trách vụ nặng nề (honor – onus). Đối với người mục tử chúng ta, vinh dự
không phải là điều chúng ta tìm kiếm, nhưng trách vụ là điều chúng ta phải
không ngừng và hết sức quan tâm.
Chúng
ta đảm nhận chức vụ trong vai trò của Đức Kitô là Đầu. Qua bí tích Truyền Chức
Thánh, chúng ta được Chúa ban quyền để làm công việc này. Đây là quyền thánh
(potestas sacra) để phục vụ cho dân thánh của Chúa, nên được thực hiện khác với
quyền cai trị trong một xã hội hay tổ chức dân sự. Tư cách của người thể hiện
quyền này phải là tư cách của chính Đức Kitô là Đầu đã thể hiện, tức là lãnh
đạo dân Chúa trong tinh thần bác ái yêu thương. Chức linh mục chính là “tình
yêu của Trái Tim Chúa Giêsu”, nói theo cha sở họ Ars.[28]
Để
có được tinh thần trên đây, người mục tử phải yêu Chúa trước đã. Chúng ta hẳn
nhớ câu truyện Chúa Phục Sinh trao cho Phêrô quyền chăn dắt đàn chiên của Ngài,
với đòi hỏi đi kèm như thế nào. “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thày
hơn các anh em này không ?” (Ga 21,15). Chúa không đòi hỏi gì khác hơn là phải
yêu Ngài. Chúa còn hỏi đi hỏi lại tới 3 lần để cho thấy tầm quan trọng của vấn
đề. Mà quan trọng và cần thiết thật ! Không yêu Chúa, làm sao Phêrô có thể chăn
dắt những con chiên được Chúa yêu thương và trao phó cho mình ?
Nơi
người mục tử lãnh đạo cộng đồng hôm nay, Chúa cũng đòi hỏi như vậy. Có yêu
Chúa, chúng ta mới có thể chuyển đạt tình yêu của Ngài cho các con chiên của
Ngài. Có yêu Chúa, chúng ta mới có thể chăn dắt đàn chiên của Ngài.
Trong
vai trò lãnh đạo, người mục tử tập họp dân Chúa, tổ chức cộng đồng, dẫn dắt đàn
chiên, chăm lo cho sự sống của con chiên. Đi vào những khía cạnh cụ thể của vai
trò này, thiết tưởng chỉ cần đọc lại những gì đã được quy định trong khoản 529
của Giáo luật. Khoản này đúc kết những chỉ thị chính yếu trong các văn kiện
khác nhau của Tòa Thánh về những việc mà người mục tử phải ưu tiên để ý và thi
hành, cũng như tinh thần phải có khi thi hành những việc này : “Để nhiệt thành
chu toàn chức vụ chủ chăn, cha sở phải cố gắng biết các tín hữu đã được ủy thác
cho mình chăm sóc ; vì vậy, cần thăm viếng các gia đình, chia sẻ những lo lắng,
ưu tư và nhất là những tang tóc của các tín hữu và an ủi họ trong Chúa ; đồng
thời sửa bảo họ cách khôn khéo nếu họ có những thiếu sót nào đó ; đối với những
bệnh nhân, nhất là những người sắp qua đời, hãy lấy hết tình bác ái mà giúp đỡ
bằng cách dùng các bí tích giúp họ vững lòng và phó thác linh hồn họ cho Thiên
Chúa ; phải đặc biệt chú ý tới những người nghèo, những người đau khổ, những
người cô đơn, những người bị đày biệt xứ cũng như những người đang gặp khó khăn
đặc biệt ; cũng phải cố gắng sao cho các đôi vợ chồng và những người làm cha mẹ
được nâng đỡ trong sự chu toàn những phận sự riêng của họ, và cổ võ sự tăng
trưởng đời sống Kitô giáo trong gia đình”.
Tiếp
đến, cũng trong khoản này, Giáo luật muốn cha sở hướng giáo dân lên một tầm mức
cao hơn, trên bình diện Giáo Hội : “Cha sở phải nhận biết và thúc giục mọi tín
hữu giáo dân góp phần riêng của họ vào sứ mệnh của Giáo Hội, bằng cách cổ võ
các hiệp hội của họ vào những mục tiêu tôn giáo… cũng phải cố làm sao cho các
tín hữu quan tâm tới sự hiệp thông trong giáo xứ và chính họ tự cảm thấy mình
vừa là phần tử của giáo phận vừa là phần tử của Giáo Hội phổ quát, sao cho tham
dự hoặc nâng đỡ những công trình nhằm cổ võ sự hiệp thông ấy”.
Các
cha sở, hoặc nói chung là các mục tử, ai nấy đều biết rõ những trách nhiệm trên
đây. Nhưng thực tế thì thi hành thế nào ?
Nói
chung, các ngài ý thức sứ mệnh, cố gắng thi hành theo gương Chúa cũng như theo
tinh thần lời Chúa dạy : “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục
vụ anh em ; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc
10,43-44). Ngay trong Giáo Hội Việt Nam, không thiếu những tấm gương để đời của
những mục tử như vậy.
Nhưng
cũng phải nói thành thật, một số mục tử điều hành cộng đồng không có được phẩm
chất như lòng Chúa mong ước. Chức vụ vương đế, lẽ ra phải được thể hiện theo
tinh thần Tin Mừng, lại biến các ngài thành như những đế vương hoặc những ông quan thực sự.
Lý do có thể ở nơi các ngài và có thể một phần cũng ở nơi con chiên. Các ngài
đã không muốn biết đến những lời căn dặn như : người làm lớn không được bắt
người khác phục quyền như nơi các dân (x. Mc 10,42), “đừng lấy quyền mà thống trị
những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đàn
chiên” (1Pr 5,3), hoặc tự phụ tự mãn về địa vị làm cha của mình, về khả năng có
thật hay tưởng tượng của mình so với giáo dân, nên có những cách hành xử cha
chú, kẻ cả (paternalisme), độc đoán chuyên quyền (autoritarisme) gây ra những
khó khăn, khổ sở chia rẽ trong cộng đồng. Có vô vàn lời càm ràm của giáo dân về
cách hành xử này của các linh mục. Thái độ trên của người mục tử lại có vẻ được
khích lệ do sự kính trọng, đôi khi thái quá, của giáo dân, nhất là những giáo
dân chân chất miền quê, đối với các ngài. Nguyên một cách chào cha chẳng hạn,
cũng phải “con xin phép lạy cha”, thì tránh sao cho linh mục khỏi lên nước ?[29]
Người
mục tử chúng ta, suy nghĩ về bác ái mục vụ, phải thường xuyên tra xét về tư
cách và cung cách hành xử trong vai trò lãnh đạo dân Chúa.
III. NHỮNG
PHƯƠNG THẾ
VUN TRỒNG BÁC ÁI MỤC VỤ.
Bác ái là tình yêu được Thiên Chúa đổ xuống lòng ta (Rm 5,5), để ta
thể hiện cho người khác, và đối với mục tử thì thể hiện đặc biệt cho các con
chiên của mình. Tuy là ơn Chúa ban nhưng bác ái cần được vun trồng không ngừng
để ngày một hoàn hảo hơn. Bác ái mục vụ cũng vậy. Có rất nhiều phương thế giúp
chúng ta làm việc này. Ngoài những gì đã nói rải rác ở trên, xin đề nghị một
vài phương thế chính.
1.
Gắn bó với Thánh Thể.
Nếu
Thánh Thể là trọng tâm sinh hoạt cộng đồng Kitô giáo, của đời sống người Kitô
hữu nói chung, thì không những cũng phải là trọng tâm thừa tác vụ của người mục
tử mà còn là trọng tâm của chính đời sống người mục tử. Thánh Thể là mầu nhiệm
tình yêu. Gắn bó với Thánh Thể là gắn bó với nguồn mạch tình yêu, luôn được
Chúa ban thêm tình yêu, được tình yêu này thúc đẩy để biết chia sẻ cho người
khác qua thừa tác vụ của chúng ta.
Trong
những phương tiện giúp chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Thể thì Thánh Lễ phải ưu
tiên, phải là mối quan tâm hàng đầu. “Tinh thần tư tế của linh mục là cố lo sao
để nội tâm hóa những gì được thực hiện trên bàn thờ. Linh mục phải có một đời
sống Thánh Thể tràn đầy và sốt sắng, để từ đó tìm được đà tiến và sức lực cho
đời sống thiêng liêng của mình. Việc cử hành Thánh Lễ, cũng như hằng ngày viếng
Đức Kitô nơi Thánh Thể… là những thời khắc đầy ý nghĩa và là một trợ lực không
gì thay thế được cho đời sống thiêng liêng”.[30]
Có
lẽ ở đây nên nhắc lại lời của Giám Mục nói với tân chức linh mục trong nghi
thức trao bánh rượu : “Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực
hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thập giá Chúa”.
Để
giúp chúng ta ý thức thì ngoài việc chuẩn bị xa là học hỏi và suy niệm về Thánh
Thể, thiết tưởng cần lưu ý đến việc chuẩn bị gần ngay trước Thánh Lễ. Giáo luật
khoản 909 có lời khuyên chung chung như sau : “Linh mục đừng quên cầu nguyện để
dọn mình thích đáng và xong lễ rồi đừng quên cám ơn Chúa”. Ngày xưa, trước giờ
lễ có Giờ Kinh Laudes, có những kinh đọc tùy ý để dọn mình làm lễ,[31]
mặc phần nào của lễ phục đều có kinh nguyện đi kèm. Nay tuy không còn, nhưng
không vì vậy mà xao lãng sự chuẩn bị cần thiết.
Nhưng
quan trọng hơn, chính là điểm cuối trong lời nhắc của Giám Mục : rập đời sống
chúng ta theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thập giá Chúa hoặc, nói như Chỉ Nam linh mục,
nội tâm hóa những gì thực hiện trên bàn thờ. Việc truyền phép nhắc cho ta bổn
phận phải biến đổi mình nên giống Chúa Kitô Linh Mục. Mầu nhiệm tế sát nhắc cho
ta bổn phận phải tế sát mình để phục vụ Chúa Kitô. Sự tự hiến của Chúa Kitô
trong việc trao ban mình nhắc cho ta phải hiến thân cho các linh hồn. Ba việc
trên đây được cha Antoine Chevrier thâu tóm trong một câu nói thời danh : Le
prêtre est un homme dépouillé, un homme crucifié, un homme mangé. Ba việc
trên đây cũng chính là thực hiện điều chúng ta đã long trọng hứa trong ngày
chịu chức khi Giám Mục hỏi : “Con có muốn ngày càng liên kết mật thiết hơn với
Đức Kitô Thượng Tế, Đấng đã tự hiến mình cho Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì
chúng ta, và có muốn cùng với Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài
người không ?”
Cũng
như bánh và rượu, nhờ lời truyền phép, biến thành Thịt Máu Chúa, con người
chúng ta, nhờ tiếp xúc gần gũi với mầu nhiệm, cũng phải biến đổi sao cho nói
được như Phaolô : “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2,20). Khi cử hành Thánh Lễ, chúng ta không những là tư tế mà
còn là tế vật, như Chúa Kitô Thượng Tế và Tế Vật, biết “hiến dâng thân mình làm
lễ tế sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Bàn tay chúng ta
được xức dầu thánh không chỉ để làm các việc thánh, mà còn phải bị đâm thủng
như bàn tay của Chúa Kitô trên Thánh giá. Nói khác đi, Chúa Kitô phải tìm lại
được các dấu thánh khổ nạn của Ngài nơi ta. Và cũng như Chúa Kitô Thánh Thể ban
mình cho ta làm của ăn, chúng ta cũng phải trở thành lương thực cho người khác,
tiêu hao mình vì con chiên (x. 2Cr 12,15), đặc biệt ban cho họ những gì thuộc
Thiên Chúa (tình yêu, sự sống, lời Chúa, chân lý của Thiên Chúa).
2.
Thực hành sự khiêm nhu.
Trong
số các gương mẫu của Chúa đã nêu trên, thiết tưởng người mục tử cần quan tâm
tới một trong những gương mẫu này : sống khiêm nhu. Gương mẫu này đã được chính
Chúa mời gọi chúng ta thụ giáo : “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và
khiêm nhường” (Mt 11,29).
Hiền
lành và khiêm nhường, hai đặc tính sóng đôi. Đó là hai mặt của một thái độ tâm
trí. Có khiêm nhường là có hiền lành. Và chính khi có sự hiền lành và khiêm
nhường trong lòng, chúng ta mới có thể thật tình yêu thương con chiên. Hai đức
tính này thuộc nền tảng của tình yêu, là cánh cửa đầu tiên mở vào con đường bác
ái. Trước khi kêu gọi chúng ta lấy tình bác ái mà cư xử với nhau, Phaolô đã
nhắc phải ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại (x. Ep 4,2).
Có
thể có mục tử xấu, nhưng chắc không có mục tử dữ. Tuy nhiên, từ chỗ không dữ
đến chỗ thực sự hiền lành, khoảng cách có khi còn khá xa, nhất là khi tính tự
nhiên vào loại nóng. Có người cho rằng phải nóng tính mới được việc. Quả có thế
thật trong một số trường hợp. Thế nhưng điều muốn nói ở đây không chỉ là được
việc mà còn được lòng người. Con chiên làm mà lòng hậm hực, nhất là vì sợ cha
nóng tính mà giữ thái độ kính nhi viễn chi là điều không hay. Chưa kể nóng quá
đến chỗ nóng giận thì nguy. Giận quá mất khôn như người ta thường nói. Khi nóng
giận, chúng ta có thể dễ dàng để lộ ra những lời nói hay hành động không phù
hợp với tư cách một linh mục và mục tử.
Ở
đây cũng cần phân biệt. Hiền lành không đồng nghĩa và đồng tình với nhu nhược,
yếu đuối. Chính Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường đấy, nhưng không bao giờ
lùi bước khi phải bảo vệ chân lý, luôn mạnh mẽ chống lại những gì xúc phạm tới
phẩm giá con người, nhất là ơn cứu rỗi của họ. Hiền lành không phải là thiếu cá
tính, “hiền như Bụt”, mặc ai muốn làm gì thì làm. Tuy phải đơn sơ như chim bồ
câu, nhưng cũng phải khôn ngoan như rắn, Chúa nói vậy (x. Mt 10,16).
Lấy
thí dụ về một cách thực hành bác ái mục vụ là sửa lỗi con chiên. Đây là một
trong 7 mối thương linh hồn người ta (trong kinh Thương người có 14 mối),
thường được đọc là răn bảo kẻ có tội. Trước một lỗi nặng của người khác, gây
tác hại cho cả cộng đồng, khiêm nhường không lên án vì thấy mình cũng tội lỗi,
là một chuyện, hiền lành để tỏ ra bao dung, muốn chín bỏ làm mười cho xong, là
một chuyện, nhưng lợi ích của cộng đồng lại là chuyện khác. Có khi tự nhủ : hơi
đâu mà lo, mặc xác nó ! Nhiều trường hợp không mặc xác được đâu. Có khi ngần
ngại, sợ chả được tích sự gì, lại thêm mất lòng, gây thêm thù oán. Phaolô ngày
xưa đâu có ngại làm mất lòng Phêrô khi mạnh mẽ chống lại vị Tông Đồ trưởng, vì
Phêrô muốn người ngoại trở lại phải giữ những tập tục của người Do Thái (x. Gl
2,1tt). Dĩ nhiên, khi sửa lỗi, chúng ta không thể không nhớ tới lời khuyên của
Phaolô : “Hãy lấy tinh thần hiền hòa mà sửa dạy” (Gl 6,1), và làm theo cách mà
chính Chúa gợi ra : “Hãy đi sửa lỗi nó, một mình với nó thôi (Mt 18,5), trừ khi
bất đắc dĩ phải làm cách khác. Đó là cách thể hiện bác ái mục vụ mà vẫn dung
hòa được với tấm lòng hiền lành.
Mục
vụ của chúng ta là sự phục vụ của người mục tử. Nhưng sự phục vụ này chỉ có ý
nghĩa đích thực nếu làm không những vì bác ái mà còn phải có lòng khiêm nhường.
“Đâu có khiêm nhường, đấy có bác ái” (Augustinô).[32]
Bác ái và khiêm nhường cộng lại làm nên sự phục vụ theo Tin Mừng. Không có bác
ái, chúng ta chỉ có thể phục vụ theo kiểu công chức phục vụ người dân, hoặc như
kiểu người bán hàng phục vụ khách hàng. Có coi khách hàng là Thượng Đế đi nữa
thì cũng chỉ vì hầu bao của khách hàng mà thôi. Nhưng có bác ái mà thiếu sự khiêm
nhường, sự phục vụ của chúng ta có khi không phải là phục vụ người mà là phục
vụ mình, hoặc chỉ là cái cớ để bắt người phục vụ mình.
Phục
vụ mình là khi phục vụ không hoàn toàn vô vị lợi, không hẳn vì người khác,
nhưng là muốn cho người khác thấy mình đang phục vụ, mong cho người khác hiểu
là mình đang làm ơn cho họ. Về điểm này, Chúa Giêsu có những đòi hỏi triệt để :
“Đừng để tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Một kiểu nói thật thú vị để
diễn tả hành động ngược với những kẻ giả hình. Chẳng những không tìm cách rao
báo cho mọi người biết, mà còn phải âm thầm khiêm tốn, không khoe khoang, không
tự mãn, không thích hãnh diện về việc mình làm. Làm cốt cho người khác thấy,
mong được người khác ca ngợi, thì dù có tất bật với việc phục vụ, việc này cũng
chả còn mấy ý nghĩa. Phải luôn nhớ là “Đức Kitô đã không chiều theo sở thích
của mình” (Rm 15,3). Đó là luật vàng của phục vụ.
Muốn
phân biệt đâu là lý do thúc đẩy ta phục vụ, cứ xem những việc phục vụ nào ta
hăng hái vui lòng làm, và những việc nào ta muốn tránh né. Khi phải làm cho ai
một việc gì, cứ xem ta có sẵn sàng bỏ những việc đem lại danh giá, để nhận một
việc âm thầm ít ai chuộng không. Việc phục vụ bảo đảm nhất là việc ta làm mà
không ai biết đến, hoặc không nhằm để cho nhiều người biết đến, nhưng chỉ có
Thiên Chúa ngự trong nơi bí ẩn thấu suốt mà thôi (x. Mt 6,4).
Phục
vụ trong yêu thương và khiêm nhường còn ở chỗ không lấy cớ phục vụ để bắt người
khác phục vụ mình. Điều này không hiếm, nhất là nơi những người lãnh đạo như
mục tử. Khổ nỗi, thường thường chính đương sự lại không nhận ra hay không muốn
nhận ra. Nó che giấu một tham vọng thống trị, một thói quen áp đặt cho người
khác ý muốn hay cách thức hành động của mình. Nói tắt là muốn ra oai, chứng tỏ
ta đây có quyền. Uy quyền trong tay một người như thế giống như một cái búa.
Người đó có khuynh hướng coi mọi vấn đề như những cái đinh, chỉ biết lấy búa mà
đóng, mà nện.
Xin
ra ví dụ : thấy một việc mình cho là hay, một phương pháp là hợp, rồi chẳng bàn
bạc với ai, hoặc có hỏi ý mà không nghe người nào, cứ thế bắt người khác cùng
với mình làm theo đó, cho dù đa số người khác không đồng tình.
Phục
vụ trong hoạt động tông đồ, lại nhiệt thành nữa, tự nó là điều tốt chứ đâu có
xấu. Nhưng vì cung cách làm như vậy, chúng ta thực ra đã vô tình bắt người khác
phục vụ mình, chứ không phải mình phục vụ người khác. Chúng ta đã không lưu ý
đến những đau khổ bực bội gây ra cho con chiên. Thậm chí còn ngạc nhiên không
hiểu sao con chiên lại không thích hoặc chê bai điều mình làm cho họ, không
thấy những cố gắng của mình phục vụ họ. Do đó mà đâm buồn, thấy nản, trách con
chiên vô ơn, bạc bẽo. Thực ra con chiên không thấy, không thích sự phục vụ của
mình, vì mình đã phục vụ mà thiếu sự khiêm tốn, chỉ chiều theo sở thích riêng,
theo đầu óc quen độc đoán và áp chế của mình.
Bởi
vậy, cần biết khiêm tốn và kiểm điểm lại sự phục vụ của ta.
Dù
sao, cũng nên giữ sự tự do của Tin Mừng. Khi phục vụ, đã đành chúng ta không
coi mình hơn người khác, nhưng không phải lúc nào cũng nhất thiết coi mình ở
dưới người khác. Không tự tôn mà cũng không tự ti. “Có những người tỏ ra rất
khiêm nhường để đặt mình dưới người khác, nhưng lại không khiêm nhường để giống
như họ” (Manzoni). Một nhận xét thật tinh tế.
Đôi khi sự phục vụ tốt nhất không ở chỗ phục
vụ người khác, nhưng để người khác phục vụ mình. Ở đây, nhận cũng quý như cho,
cũng là một cách cho. Bởi vậy, có lúc Chúa Giêsu đã để cho người khác rửa chân
cho mình (Lc 7,38). Và Ngài có để cho các phụ nữ đi theo hầu hạ trong suốt hành
trình truyền giáo cũng là theo ý hướng đó.[33]
***
Nếu bác ái huynh đệ ngày càng được coi là dấu
chỉ đặc trưng và khả tín nhất của một người Kitô hữu, thì bác ái mục vụ cũng
được coi là dấu chỉ đặc trưng và khả tín nhất của một mục tử. Điều quan trọng
là ý thức và nhất là thực hành. Chúa nói với các môn đệ : “Anh em đã biết những
điều đó, nếu anh em thực hành thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17). Vấn đề
chẳng qua là thực hành. Học hỏi bác ái mục vụ bằng cách tập thực hành bác ái
mục vụ và rà soát xem thời biểu, cách sống và công việc đã giúp cho việc thực hành
này như thế nào. Cố gắng vươn tới hình ảnh về một mục tử như lòng Chúa mong
ước.
Trên
bia mộ của một cha xứ, người ta đọc được những hàng chữ sau đây :
PASCEBAT GREGEM (ngài đã chăn dắt đoàn chiên)
AMORE |
(bằng tình yêu) |
MORE |
(bằng đời sống tốt) |
ORE |
(bằng lời giảng dạy) |
RE |
(bằng những gì mình có) |
Tuy
là cách chơi chữ, câu trên đây cũng cho thấy vị linh mục quá cố đã chu toàn sứ
mệnh của mình như thế nào. Tất cả đều phát xuất từ tình yêu. Ngài đã chăn dắt
đoàn chiên của ngài bằng tấm lòng bác ái.
Ước
mong cho mọi mục tử trong Giáo Hội, nếu được người khác nhớ đến, thì cũng được
nhớ đến bằng những lời tương tự.
Lm. Micae Trần Đình
Quảng
[1] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, 25/3/1992, số 23
[2] Bộ Giáo
sĩ, Kim Chỉ
[3] CĐ Vat.II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 18
[4] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, số 874
[5] ĐGH. Piô XII, Thông điệp Đấng Trung Gian của Thiên Chúa
[6] ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, số 21
[7] “Sit amoris officium pascere dominicum gregem”, Thánh Augustinô, Tract. In Io., 123,5 : PL 35, 1967
[8] Bộ Giáo
sĩ, Kim Chỉ
[9] ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, số 23
[10] CĐ Vat. II, Sắc lệnh về Thừa tác vụ và đời sống linh mục, số 4
[11] ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Sacerdotii nostri primordia, 1/8/1959 : AAS 51 (1959), 572
[12] Bộ Giáo sĩ, Luân thư Linh mục và ngàn năm Kitô giáo thứ ba, 19/3/1999, ch. II, 2
[13] De Trinitate, 13, 19, 24
[14] Thánh Hiêronimô, Comm. in Is., Prol. : PL 24, 17
[15] Thánh Augustinô bảo rằng : “Khi bạn nói : đủ rồi, tức là bạn đã chết (Ubi dixisti : satis, periisti)
[16] CĐ Vat. II, Hiến chế về Mạc khải, số 25
[17] Tuần Tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Đàlạt, 1988, bài 5 : Đổi mới huấn giáo
[18] Joseph Ratzinger, Muối cho đời, Bản dịch của Phạm Hồng Lam và Trần Hoành, Phong trào giáo dân Việt Nam hải ngoại ấn hành, 2005, tr. 181
[19] Bộ
Truyền bá Phúc Âm, Chỉ
[20] ibid. ; Giáo luật §§213 và 843
[21] Bộ
Truyền bá Phúc Âm, Chỉ
[22] Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 2 và 3
[23] Bộ Giáo sĩ, Huấn thị Linh mục mục tử và người lãnh đạo cộng đồng giáo xứ, 4/8/2002, số 15
[24] Bộ Giáo sĩ, Luân thư Linh mục và Ngàn năm Kitô giáo thứ ba, ch. III, 2
[25] ibid., ch. III, 3
[26] Sự sẵn sàng trên đây cũng cần phải có khi ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, vì thực ra về bí tích này, không thể quy định giờ giấc. Giáo dân có thói quen đi tìm linh mục khi bệnh nhân gần ‘sinh thì’, dù đã chịu đủ các phép không lâu trước đó. Đáng ngại là bệnh nhân hay người cao tuổi thường ‘sinh thì’ vào ban đêm, nhưng không vì vậy mà linh mục thẳng thừng từ chối.
[27] ibid.
[28] x. Jean-Marie Vianney, curé d’Ars : sa pensée, son coeur, présentés par Bernard Nodet, Le Puy, 1960, p. 100
[29] Đức Cha Bartôlômêô có lần đã nhắc nhở các linh mục trong giáo phận, khi nói về việc tiếp đón giám mục : “Hãy đơn giản hóa lễ nghi đón tiếp giám mục theo kiểu ngày xưa. Cuộc rước mở đầu Thánh Lễ như phụng vụ chỉ dẫn đã quá đủ rồi. Những sáo ngữ giới thiệu mũ ngọc gậy vàng không đúng với sự thật để nói về cái mũ và cây gậy của người chăn chiên. Các bài chào nừng với những kiểu nói : Đức Cha bớt thì giờ vàng ngọc, không quản đường xa trắc trở đến thăm giáo xứ chúng con. Ngay cả kiểu nói “Đại diện Thiên Chúa và Đức Kitô” cũng chỉ nên tin khi giám mục, linh mục cử hành những hành vi cứu độ mà Chúa Kitô đã thiết lập, hơn là nhắc đi nói lại mãi trong những bài chào mừng theo nghi thức” (Tuần Tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Đàlạt, 1988, bài 7 : Đổi mới lãnh đạo.
[30] Bộ
Truyền bá Phúc Âm, Chỉ
[31] Trong bản mẫu la tinh Sách Lễ Rôma, phần Phụ lục có in những kinh này. Nhiều kinh rất hay, như kinh của thánh Ambrosiô, thánh Tôma. Tiếc rằng bản tiếng Việt lại không dịch.
[32] Ubi humilitas ibi caritas (Aug.,In Io., Epist V, Prologue : PL 35, 1977)
[33] Về sự phục vụ, x. Raniero Cantalamessa, L’Eucharistie notre sanctification, éd. Centurion, 1989, pp. 93-112