ĐÔI ĐIỀU VỀ BÁC ÁI MỤC VỤ
THÁNH GIOAN MARIA VIANNEY,
BỔN MẠNG CÁC CHA SỞ,
MỘT MẪU GƯƠNG BÁC ÁI MỤC VỤ.
“Có một người
được Thiên Chúa sai đến…”
Đề
tựa cho một cuốn sách viết về cha sở xứ Ars, Giám mục Henri Mazerat đã trích
dẫn lời Phúc Âm Gioan : “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan” (Ga
1,6). Gioan Tẩy Giả được sai đến, mở đầu một khúc quanh của lịch sử là thời kỳ
cứu thế do Đức Kitô thực hiện. 18 thế kỷ sau, một Gioan khác, Gioan Maria
Vianney, cũng được Thiên Chúa sai đến, không tạo ra một khúc quanh, nhưng chính
là một hiện tượng nổi bật trong đời sống Giáo Hội. Ngài không chỉ làm biến đổi
hoàn toàn bộ mặt của một giáo xứ nhỏ bé heo hút ở miền nam nước Pháp, mà ảnh
hưởng của ngài còn lan rộng tới tầm mức Giáo Hội.
Cuộc
đời và hoạt động của Gioan Maria Vianney phản chiếu tuyệt vời những khía cạnh
của Vị Mục Tử tối cao là Đức Giêsu. Được như vậy một phần là vì ước vọng duy
nhất của ngài là trở thành một mục tử tốt. Theo ngài, một mục tử tốt là “kho
tàng lớn lao nhất mà Thiên Chúa có thể ban cho một giáo xứ”, đồng thời là “một
trong những hồng ân cao quý nhất của lòng thương xót Chúa”. “Sau Thiên Chúa thì
linh mục là tất cả hạnh phúc của người Kitô hữu”, vì “chức linh mục là tình yêu
của Trái Tim Chúa Kitô”.
Chương
trình của ngài gói gọn trong những chữ : biết, yêu, tận tụy, hạnh phúc. Ngài
biết con chiên và con chiên biết ngài. Ngài yêu thương con chiên và hết lòng lo
cho họ. Là người lãnh đạo giáo xứ, ngài nhiệt thành hướng dẫn và dạy dỗ họ. Là
thừa tác viên của lòng thương xót, ngài luôn là bạn của các tội nhân. Là mục tử
của đàn chiên, ngài trở thành lễ vật của tình yêu cho họ. Tất cả đều nhằm đem
sự sống và hạnh phúc đến cho con người. Mục tiêu này đã hé mở và được xác quyết
ngay trong câu nói đầu tiên của ngài vào ngày đến xứ Ars. Sau khi cám ơn một em
chăn cừu đã chỉ đường cho mình, ngài nói với em : “Con đã chỉ cho cha đường về
xứ Ars, cha sẽ chỉ cho con đường về quê trời”.
“Tôi sẽ đưa
nhiều linh hồn về cho Chúa”
Những
hoạt động biểu lộ lòng bác ái mục vụ sâu xa của cha Gioan thì rất nhiều, nhưng
chỉ cần nhìn vào một công việc thôi cũng đủ cho thấy lòng bác ái ấy như thế
nào. Đó là công việc ngồi tòa, việc giải tội. Nhiều người coi đây là chương đẹp
đẽ nhất trong cuộc đời của cha thánh, là hoạt động sáng chói nhất trong nhiệm
vụ của một mục tử. Hồi còn trẻ, lúc mà chức linh mục mới chỉ là điều mơ ước,
Gioan Maria Vianney đã có một tâm nguyện : “Nếu một ngày nào đó tôi được làm
linh mục, tôi sẽ đưa nhiều linh hồn về cho Chúa”. Một khi làm linh mục, ngài đã
thực hiện tâm nguyện ấy, và một trong những phương tiện ngài sử dụng là tòa
giải tội. Chính tòa giải tội đã giúp ngài nhiều nhất trong việc đưa các linh
hồn về cho Chúa. Chính tòa giải tội là nơi thể hiện rõ nhất lòng thương xót của
Chúa cũng như của ngài đối với các chiên lạc. Chính tòa giải tội đã thu hút
biết bao nhiêu người tìm đến với xứ Ars, để được ban ơn tha thứ cứu độ. Chính
tòa giải tội, với hàng hàng lớp lớp tội nhân vây quanh, là phép lạ lớn nhất
trong cuộc đời của
vị thánh.
Các
chứng nhân cho biết có nhiều ngày người cha tinh thần của họ đã ngồi tòa 18
giờ. Trong mùa đông, từ tháng 11 đến tháng 3, số khách hành hương ít hơn, ngài
vẫn ngồi tòa 11-12 giờ. “Ngài chỉ rời khỏi đó khi đã làm hài lòng hầu như mọi
người”. Vào thời kỳ cao điểm, bình quân mỗi ngày có từ 300 đến 400 người xếp
hàng xưng tội. Công việc vất vả và liên tục trong 30 năm này đã làm cho ngài
kiệt lực, đến nỗi có lần ngài tự thú : “Khi tôi rời tòa giải tội, tôi phải lấy
tay sờ vào đùi xem nó có còn ở đấy không. Đôi khi ra khỏi nhà thờ, tôi phải vịn
vào tường mà đi cho khỏi ngã. Đầu tôi nặng trĩu. Thực sự tôi đã không biết mình
chống lại như thế nào”. Cho tới cuối đời, ngài vẫn dành tất cả sức cùng lực
kiệt để cứu tội nhân.
Những
tội nhân này là ai ? Đủ mọi hạng người. Giám mục có, linh mục có, tu sĩ có,
giáo dân có, sang hay hèn, học thức hay dốt nát, đều có tất. Họ kéo đến từ khắp
nơi trong nước Pháp, kể cả từ Paris hoa lệ. Ở nhà ga Lyon, có loại vé tầu lửa
riêng đi Ars, có giá trị trong 8 ngày, vì để có thể xưng tội, phải chờ đợi mấy
ngày là chuyện thường. Cũng ở Lyon, mỗi ngày còn có những xe lớn chở khách hành
hương đến Ars. Hầu hết đến đây vì thật lòng hoán cải, nhưng cũng có một số đến
vì tò mò, hoặc miễn cưỡng đến vì một lý do nào đó, rồi cuối cùng cũng bị khuất
phục. Sở dĩ thế vì họ được gặp không phải một cha sở bình thường, mà là một mục
tử sẵn sàng làm mọi sự để giúp họ ăn năn trở lại mà được sống.
“Một chuyên viên thành thạo nhất về các tội nhân” (Đức Piô XII)
Đương
nhiên sự thành thạo này không thể có được nơi một con người như Gioan Maria
Vianney, học hành kém cỏi, trí thức còn chưa được xếp vào loại “thường thường
bậc trung” nữa. Đây là ơn của Chúa Thánh Thần ban cho một mục tử thánh thiện
dám sống chết với các tội nhân. Không khoan nhượng với tội lỗi, nhưng lại hết
lòng yêu thương kẻ có tội. Nói như lời một bài hát : “Kẻ thù ta đâu có phải là
người”, nhưng là gian ác, là mưu mô, là hờn căm, là hận thù và bao nhiêu hình
thức khác nữa. Cần phải giải thoát con người khỏi những kẻ thù trên, để trả lại
cho họ hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa. Trung thành với mục tiêu đặt ra từ đầu,
Gioan đã suốt đời tận tụy với công việc này.
Ngài
đã thực hiện thế nào ?
Người
ta thường nói về việc giải tội đến độ anh hùng của ngài mà có khi quên đi những
việc khác cũng phát xuất từ tấm lòng của một người rất mực yêu thương kẻ có
tội.
Trước
hết là cầu nguyện cho họ. Xen lẫn với kinh nguyện hằng ngày, ngài thường khóc
lóc mà thưa với Chúa đại khái : “Lạy Chúa, Chúa không muốn kẻ có tội phải chết…
Những người có tội thật đáng thương. Ước gì con có thể thú tội thay cho họ”.
Một người thân tín nói với ngài : “Cha cầu nguyện cho họ ít đi một tí được
không ? Thấy cha vất vả đau khổ quá !”, thì được trả lời : “Biết sao được. Cha
đã hứa cầu nguyện cho họ, cha không thể bỏ…”. Lần khác ngài tâm sự : “Tôi chỉ
thực sự là tôi khi tôi cầu nguyện cho những người tội lỗi”.
Điều
đáng khâm phục hơn nữa là không những cầu nguyện cho họ mà ngài còn đền tội
thay cho họ. Những hy sinh hãm mình thường là để chống lại những cám dỗ của
Satan, những khuynh hướng xấu, những yếu đuối của con người xác thịt, mà không
ai tránh khỏi, thì đối với ngài, còn là để đền bồi tội lỗi của biết bao nhiêu
người. Trong những năm cuối đời, do ảnh hưởng của một số người, nhất là quan
điểm khoan hòa trong thần học luân lý của Anphong Liguori, ngài thường ra việc
đền tội nhẹ cho hối nhân, vì lòng nhân từ thương xót cũng có, vì không muốn cho
những đã quá vất vả phải vất vả thêm cũng có, nhưng nhất là vì như ngài nói :
“Tôi ra việc đền tội nhẹ cho họ, phần đền tội còn lại, tôi sẽ làm thay”. Và
ngài làm thay bằng chính sự khổ chế của mình. Tất nhiên, không phải lúc nào
cũng vậy. Đối với những lỗi nặng mà cứ tái phạm mãi, ngài bắt hối nhân phải làm
những việc đền tội nặng, để họ chứng tỏ sự chân thành và quyết tâm sửa đổi, hầu
đem lại lợi ích cho chính họ. Chẳng hạn ngài bắt một mệnh phụ ở Paris phải đốt
hết sách bậy bạ trong tủ sách của bà thì ngài mới ban phép xá giải.
Đối
với những tội nhân cứng lòng, ngài tìm hết cách giúp họ thống hối : gặp gỡ,
khuyên nhủ, khi nặng khi nhẹ, và ngay cả bằng nước mắt. Nước mắt và Thánh giá,
nhờ ngài, có thể làm cho một trái tim chai đá trở thành trái tim thịt mềm. Có
người lúc trước đã trả lời thẳng thừng : “Tôi không muốn xưng tội”, hoặc : “Tôi
không đến đây để làm cái chuyện đạo đức của mấy bà”. Mặc kệ. Cuối cùng tất cả
đều quỳ xuống dưới chân ngài và xưng thú. Chúa đã ban cho ngài một trực giác lạ
lùng để nhận ra giữa đám đông hoặc giữa những người đi qua, ai là kẻ cần được
đưa về với Chúa nhất để giúp họ, trước sự ngạc nhiên của chính họ. Do đó mà khi
có người buột miệng hỏi : “Mỗi năm cha bắt được bao nhiêu cá lớn ?”, ngài có
thể trả lời ngay, không lưỡng lự : “Hơn 700”. Không nhớ con số sao được đối với
những con cá như thế !
Một
dù vất vả ngồi tòa và có những chuyện dễ làm người ta bực mình, nhưng ngài thì
không. Ngược lại, ngài tỏ ra đặc biệt nhẫn nại. Đây là một trong những đức tính
nổi bật nhất nơi ngài. Một linh mục đã nhận xét : Tôi đã từng quan sát kỹ xem
ngài có tỏ ra bất nhẫn bực tức lúc nào không, mà không thấy. Đem chuyện này hỏi
ngài thì được ngài trả lời : “Phải nhẫn nại mới có thể cho cái người ta cần chứ
! Bất nhẫn thì được cái gì ?” Ngài cũng nói với một cha bạn : “Hãy học tập sự nhẫn
nại của Chúa”.
Cùng
với sự nhẫn nại là thái độ hiền hòa, tế nhị, kính trọng đối với hối nhân, bất
kể là ai. Có linh mục sa ngã nặng đến xưng tội vẫn được ngài yêu mến, kính
trọng. Lời khuyên dành cho Đức Giám mục giáo phận đến xưng tội với ngài là : xin
Đức Cha hãy yêu thương các linh mục của Đức Cha.
Dù
có đông người xếp hàng bên tòa giải tội, ngài vẫn dành cho mỗi người một thời
gian cần thiết, bởi người nào cũng có vấn đề riêng của mình. Ngài không khuyên
dài, nhiều khi chỉ một lời thôi, nhưng là lời làm cho hối nhân phải động tâm
suy nghĩ, một lời tác động mạnh trên họ có khi cả đời. Chính sự thánh thiện và
yêu thương đem lại sức mạnh và hiệu năng cho lời đó.
***
Thái
độ và hành động của cha thánh Gioan Maria Vianney đối với kẻ có tội giống như
người cha trong dụ ngôn về tình phụ tử (Lc 15,11-32), hoặc như người chăn chiên
tìm lại được con chiên lạc (Lc 15,4-7) thật đáng là mẫu gương cho người mục tử
hôm nay. Cùng với bác ái mục vụ nói chung được ngài thể hiện, ngài trở thành “le
plus imitable des prêtres”, như tựa đề của một cuốn sách viết về
ngài.
Lm. Micae Trần Đình Quảng
Tài liệu sử dụng :
-
Mgr. Francis Trochu, Le curé d’Ars, éd. Emmanuel
Vitte, 1925.
-
Jacques Pagnoux, Le plus imitable des prêtres,
éd. Saint-Paul, 1959.
-
Daniel Pézéril, Pauvre et saint curé d’Ars, éd.
Du Seuil, 1959.
-
Bernard Nodet, Le curé d’Ars, sur la foi du
serment, éd. Xavier, Mappus, 1959