ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TÂY PHƯƠNG
TRƯỚC MẦU NHIỆM CHÚA THÁNH THẦN
Hôm
nay chúng ta suy niệm về niềm tin vào Chúa Thánh Thần, chung cho Đông phương và
Tây phương, và cố gắng làm điều đó "trong Thần Khí" trước sự hiện diện
của Ngài, vì biết rằng, như lời Kinh Thánh nói, "miệng lưỡi con chưa thốt
nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết” (x. Tv 139,4).
1. Hướng tới một sự đồng
thuận về Filioque
Trong
nhiều thế kỷ, giáo lý về sự phát xuất của Chúa Thánh Thần trong Ba Ngôi đã là
điểm xích mích và cáo buộc lẫn nhau giữa Đông phương và Tây phương, vì chữ “filioque” nổi tiếng. Tôi muốn lướt qua vấn
đề, để đánh giá tốt hơn ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta hôm nay, để có
thể cũng đồng tình với nhau về vấn đề gai góc này.
Niềm
tin của Giáo Hội vào Chúa Thánh Thần, như chúng ta biết, được định tín trong Công
đồng chung Constantinopoli, năm 381, theo các tín khoản sau đây: "... (và
chúng tôi tin) Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi
Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức
Chúa Cha và Đức Chúa Con, Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Nếu xét kỹ,
công thức này trả lời cho hai câu hỏi căn bản về Chúa Thánh Thần. Đối với câu hỏi
"Chúa Thánh Thần là ai ? Kinh tin kính trả lời : Người là "Chúa"
(nghĩa là, Người thuộc phạm vi Đấng Tạo Hóa, không phải thụ tạo), Người bởi
Chúa Cha mà ra, được phụng thờ ngang bằng với Chúa Cha và Chúa Con ; đối với
câu hỏi "Chúa Thánh Thần làm gì? Kinh tin kính trả lời: "Người là Đấng
ban sự sống" (tóm tắt tất cả hành động thánh hóa, nội tâm và đổi mới của Thần
Khí) và: "Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy" (tóm tắt hành động đặc
sủng của Chúa Thánh Thần).
Mặc
dù những yếu tố này rất có giá trị, tín khoản phản ánh một giai đoạn vẫn còn tạm
thời, nếu không liên quan đến đức tin, thì ít nhất cũng liên quan đến hệ thống
thuật ngữ về Chúa Thánh Thần. Sự thiếu sót rõ ràng nhất chính là Chúa Thánh Thần
vẫn chưa minh nhiên được tước hiệu "Thiên Chúa". Thánh Grêgoriô
Nadian là người đầu tiên than phiền. Chính ngài đã phá vỡ mọi trì hoãn khi viết:
"Thiên Chúa có phải là Thần Khí không ? Phải ! Người có đồng bản thể không
(homoùsion) ? Có, vì Người là Thiên Chúa”. Sự thiếu sót này đã được lấp đầy de facto, trong thực hành. Sau khi vượt
qua những động cơ ngẫu nhiên đã ngăn giữ mình, Giáo Hội không còn do dự và cuối
cùng gán tước hiệu "Thiên Chúa" cho Thần Khí, tuyên bố Người "đồng
bản thể" với Chúa Cha và Chúa Con.
Nhưng
đó không phải là "thiếu sót" duy nhất. Cũng vì lịch sử cứu độ, người
ta sớm thấy bất thường khi chỉ có hành động duy nhất được gán cho Chúa Thánh Thần
là "đã dùng các tiên tri mà phán dạy", bỏ qua mọi hành động khác Người
đã làm trong Tân Ước. và nhất là trong cuộc đời Đức Giêsu. Cũng trong trường hợp
này, công thức tín điều sẽ được bổ túc và sẽ tự động được sử dụng trong đời sống
Giáo Hội, như người ta có thể thấy rất rõ trong kinh epiclesis của phụng vụ được gọi là của thánh Giacôbê, là kinh gán
cho Thần Khí một mối tương quan đồng bản thể (những câu trích trong kinh tin
kính được in nghiêng):
"Xin
sai... Thánh Thần của Ngài, là Chúa và là Đấng ban sự sống, ngự trị với Ngài, là Thiên Chúa và là Cha, và với Con duy nhất của Ngài ; Đấng hiển
trị, đồng bản thể và đồng hằng hữu. Người
đã phán dạy trong Lề Luật, trong các
Tiên Tri, và trong Tân Ước ; Người đã xuống dưới hình chim bồ câu trên Chúa
chúng con là Đức Giêsu Kitô trên bờ sông Giođan, đậu trên Người, và đã xuống
trên các thánh tông đồ... ngày Lễ Ngũ Tuần".
Tương
quan giữa Chúa Thánh Thần và Chúa Con, và do đó giữa Kitô học và Thánh thần học,
là một điểm khác, quan trọng nhất, mà công thức của Công đồng không nói gì cả. Người
ta thấy ám chỉ duy nhất theo nghĩa này trong câu "bởi phép Đức Chúa Thánh
Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria", là câu có lẽ đã thấy
trong tín biểu được Công đồng Constantinôpôli chấp nhận làm cơ sở cho credo của mình.
Về
điểm này, sự du nhập của tín biểu được thực hiện một cách ít tương đồng và bình
an. Một số Giáo Phụ Hy lạp bày tỏ mối quan hệ vĩnh cửu giữa Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, cho rằng Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha "nhờ Chúa Con",
là "hình ảnh của Chúa Con", Người "phát xuất từ Chúa Cha và nhận
được từ Chúa Con", Người là "tia sáng" phát ra bởi mặt trời (Chúa
Cha) qua sự huy hoàng của mình (Chúa Con), là dòng suối đến từ nguồn (Chúa Cha)
qua con sông (Chúa Con).
Khi
cuộc tranh luận về Chúa Thánh Thần truyền sang thế giới La tinh, cách diễn đạt
mối tương quan này trở thành : Chúa Thánh Thần phát xuất “từ Chúa Cha và Chúa Con.”
Kiểu nói "và Chúa Con" dịch sang tiếng La tinh là "Filioque", điều này giải thích ý
nghĩa đầy ý tứ mà kiểu nói này nhận được trong các cuộc tranh cãi giữa Đông phương
và Tây phương và những kết luận rõ ràng được phóng đại đôi khi đã được rút ra từ
kiểu nói đó.
Thánh
Ambrosiô là người đầu tiên hình thành ý tưởng Chúa Thánh Thần phát xuất "từ
Chúa Cha và Chúa Con". Ngài không chịu ảnh hưởng của Tertullianô (người mà
ngài không biết và không bao giờ trích dẫn), nhưng chịu ảnh hưởng của những kiểu
nói mà chúng ta vừa trích dẫn và được rút ra từ những nguồn thông thường của Hy
lạp : thánh Basiliô, và nhất là thánh Athanasiô và Điđymô Alexanđria. Tất cả những
cách giải thích này đều nhấn mạnh mối tương quan, tuy không giải thích được và mầu
nhiệm, đã ràng buộc Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong nguồn gốc chung của các
Ngài liên quan đến Chúa Cha. Nếu "bởi Chúa Con" có nghĩa là điều gì
đó, thì "điều gì đó" này là điều Ambrosiô (người cùng với mọi người
La tinh không biết đến sự khác biệt tinh tế giữa những động từ Hy lạp "đến
từ", ekporeuesthai, và "phát
xuất từ", proienai) đã muốn sử dụng
kiểu nói "và Chúa Con".
Thánh
Augustinô đã gán cho kiểu nói "từ Chúa Cha và Chúa Con" (ngài vẫn chưa
sử dụng kiểu nói văn chương Filioque)
sự biện minh thần học rồi ra sẽ là đặc điểm của tất cả môn Thánh thần học La tinh.
Ngài sử dụng những kiểu nói có nhiều sắc thái và chắc chắn không đặt Chúa Cha ngang
hàng với Chúa Con, liên quan đến Chúa Thánh Thần, như lời khẳng định nổi tiếng
cho thấy: "Chúa Thánh Thần phát xuất chính yếu từ Chúa Cha (de Patre
principaliter) và nhờ ân huệ Chúa Cha ban cho Chúa Con, từ đời đời, Chúa Thánh
Thần đã phát xuất từ cả hai cùng một lúc".
Kết
luận này dường như là do nhiều đoạn Tân Ước đòi hỏi ("Tất cả những gì Chúa
Cha có đều là của Thầy", "Ngài (Đấng Bảo Trợ) sẽ lấy những gì của Thầy"),
mà còn bằng cách quan niệm các mối tương quan Ba Ngôi, mà theo ngài, là những tương
quan dựa trên tình yêu. Kết luận ấy cũng cho phép giải quyết một vấn nạn chưa có
câu trả lời : Chúa Cha đã chưa hoàn toàn chính mình bày tỏ điều gì trong việc
sinh ra Chúa Con, một việc có thể biện minh cho một hoạt động thứ hai của Ba
Ngôi ? Điều gì phân biệt sự phát xuất của Chúa Thánh Thần với việc sinh ra Ngôi
Lời ?
Fulgence
de Ruspe, được biết đến như là người đã làm cho các công thức khác đang dao động
của thần học La tinh được chắc chắn, là người đầu tiên sử dụng kiểu nói văn
chương Filioque để mô tả sự phát xuất
của Chúa Thánh Thần “từ Chúa Cha và Chúa Con." Ngài không nhắc đến sự
chính xác của Augustinô, người đã nói rằng Chúa Thánh Thần phát xuất "chính
yếu" từ Chúa Cha, ngược lại, thích nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần "phát
xuất từ Chúa Con như (sicut) Ngài phát xuất từ Chúa Cha", "hoàn toàn
(totus) từ Chúa Cha và hoàn toàn từ Chúa Con”, do đó đặt ngang nhau hai mối
tương quan về nguồn gốc. Cách giải thích không phân biệt này sẽ đánh dấu giáo
lý về sự phát xuất của Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha và Chúa Con đi vào trong các
định tín của Giáo Hội La tinh, kể từ công đồng III Toledo, năm 589.
Bao
lâu cách giải thích này vẫn ở yên mức đó, thì sự việc không gây ra phản đối nào
nơi người Đông phương. Nhưng vào năm 809, theo yêu cầu của Charlemagne, một hội
đồng được tổ chức tại Aachen để bảo trợ cho việc đưa Filioque vào trong tín biểu Nicêa-Constantinôpôli, bắt đầu được hát
trong thánh lễ ở một số nhà thờ. Không chỉ bằng xác tín thần học cá nhân, Hoàng
đế còn theo đuổi ước muốn biện minh cả về giáo lý cho chính sách giải phóng của
mình ở Đế quốc Đông phương.
Vào
cuối Công đồng, một phái đoàn của Hoàng đế đã đến với Đức Giáo Hoàng Leo III ở
Rôma để đưa ngài đứng về phía mình. Dù hoàn toàn chia sẻ giáo lý về Filioque, tuy nhiên Đức Giáo hoàng thấy mình
xen vào tín biẻu là không phù hợp và kiên quyết duy trì quyết định của mình.
Trong việc này, ông theo cách xử sự như Giáo Hội Hy lạp, vốn đưa những du nhập
quan trọng vào tín khoản về Chúa Thánh Thần, mà không phải thay đổi bản văn của
tín biểu. Nhưng trước áp lực mới của Hoàng đế Henri II nước Đức năm 1014, Đức
Giáo hoàng Biển Đức VIII chấp nhận đưa Filioque
vào kinh credo khi đọc trong phụng vụ,
chính việc đó sau này sẽ khiến người Đông phương chính thống giáo đả kích cách
chính đáng.
Ngày
nay, trong bầu khí đối thoại và quý mến nhau vừa tạo ra được giữa Chính thống
giáo và Giáo hội Công giáo, vấn đề này dường như không còn là một trở ngại
không thể vượt qua cho sự hiệp thông trọn vẹn. Một số nhà thần học chính thống có
đầu óc lớn sẵn sàng công nhận, với một số điều kiện, tính hợp pháp của giáo lý
La tinh. Nhà thần học Gioan Zizioulas cho biết những điều kiện này:
"Quy
tắc vàng phải là sự giải thích của thánh Maximô Người Tuyên Tín về Thánh thần học
La tinh : khi tuyên xưng giáo lý về Filioque,
các anh em Tây phương không có ý định đưa vào một nguyên nhân thứ hai (aition)
trong Thiên Chúa ngoài Chúa Cha, đàng khác, vai trò trung gian của Chúa Con
trong nguồn gốc của Chúa Thánh Thần không thể bị giới hạn trong nhiệm cục của
Thiên Chúa, mà còn đề cập đến bản tính Thiên Chúa. Trong thời đại chúng ta, nếu
Đông phương và Tây phương coi hai yếu tố này của thánh Maximô là của mình, thì
điều đó sẽ cung cấp đủ cơ sở để hai truyền thống xích lại gần nhau”.
Qua
những lời trên, quan điểm của Chính thống giáo coi Chúa Cha là nguyên nhân duy
nhất "không có nguyên nhân" (non causée) của sự phát xuất của Chúa
Thánh Thần, vẫn không thay đổi, một điều không phải là không phù hợp với quan
điểm của Augustinô, được mô tả ở trên ; vả lại quan điểm này công nhận giá trị
của quan điểm La tinh gán cho Chúa Con một vai trò tích cực trong sự phát xuất
vĩnh cửu của Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha, nhưng không chia sẻ sự chính xác của
người Tây phương "như từ một nguyên lý duy nhất" (tamquam ex uno
principio).
Về
vấn đề này, sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo nói rằng: "sự bổ túc hợp
pháp, nếu không bị thổi phồng, thì không ảnh hưởng gì đến sự đồng nhất của đức
tin vào thực tại của cùng một mầu nhiệm được tuyên xưng" (số 248). Quan điểm
này, chúng ta thấy trong một tài liệu năm 1995 của Hội đồng Giáo hoàng về hiệp
nhất các Kitô hữu, được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gợi ra và được các đại
biểu cấp cao của thần học Chính thống giáo tích cực đón nhận. Trong một cử chỉ
hòa giải, Đức Gioan Phaolô II đã có thói quen bỏ qua chữ đọc thêm Filioque "và Chúa Con" trong một
số cử hành đại kết tại đền thờ thánh Phêrô và các nơi khác, nơi kinh credo được công bố bằng tiếng La tinh.
2. Hướng tới một tổng hợp
mới
Như
mọi lần, đối thoại khi được thực hiện trong tinh thần hiệp thông, không giới hạn
vàn việc san bằng những khó khăn của quá khứ, thì mở ra những viễn tượng mới.
Trong Thánh thần học ngày nay, quả thực sự mới mẻ lớn lao không phải là để cuối
cùng tìm ra một thỏa thuận về Filioque,
nhưng ở chỗ bắt đầu lại từ Kinh Thánh để làm một tổng hợp và một loạt các vấn đề
rộng lớn hơn, ít bị ảnh hưởng bởi lịch sử trong quá khứ .
Việc
đọc lại này, bắt đầu một thời gian trước đây, đã mạc khải một sự kiện chính xác
: Chúa Thánh Thần, trong lịch sử cứu độ, không chỉ được Chúa Con sai đi, mà còn
được sai đến với Chúa Con ; Chúa Con không chỉ là người ban Thần Khí, mà còn là
người lãnh nhận Thần Khí. Thời điểm đánh dấu từ giai đoạn này sang giai đoạn
khác của lịch sử cứu độ, từ Đức Giêsu lãnh nhận Thần Khí đến Đức Giêsu sai Thần
Khí đến, được cấu tạo bởi biến cố thập giá.
Trong
tài liệu của Hội đồng Giáo hoàng về sự hiệp nhất các Kitô hữu vừa trích dẫn,
chúng ta thấy có một bản văn hay, tóm tắt tất cả những lần can thiệp của Thần
Khí "trên" Đức Giêsu : khi sinh ra, lúc Ngài chịu phép rửa, hiến mình
làm hy lễ lên Chúa Cha (Dt 9,14), lúc Ngài phục sinh. Mối quan hệ hỗ tương này
trong lịch sử cứu độ không thể không phản ánh cách nào đó mối tương quan tồn tại
trong chính lòng Ba Ngôi, do đó tài liệu này rút ra kết luận:
"Vai
trò của Thần Khí trong chỗ sâu thẳm nhất của cuộc sống nhân loại của Con Thiên
Chúa phát xuất từ một mối tương quan Ba ngôi vĩnh cửu, qua đó, trong mầu nhiệm Hồng
ân tình yêu của mình, Thần Khí nêu rõ đặc điểm của mối tương quan giữa Chúa Cha
như nguồn suối tình yêu và Chúa Con yêu quý của Người."
Nhưng
làm thế nào để quan niệm sự hỗ tương này trong trật tự Ba Ngôi ? Ngày hôm nay câu
hỏi này mở ra một chương mới trong suy tư thần học về Thần Khí. Điều đáng khích
lệ là thấy rằng các nhà thần học của tất cả các Giáo Hội Kitô giáo lớn (Chính thống
giáo, Công giáo, Thệ phản) đang đi theo cùng một hướng, hiệp nhất trong một cuộc
đối thoại huynh đệ và xây dựng. Một trong những điểm vững chắc, mà suy tư của các
Giáo Phụ, đặc biệt suy tư của Augustinô, khởi đi (và chịu ảnh hưởng) từ đó, là
sự thiếu hỗ tương giữa Chúa Thánh Thần và hai ngôi khác. Theo các ngài, chúng
ta có thể gọi Chúa Thánh Thần là “Thần Khí Chúa Cha”, nhưng không thể gọi Chúa Cha
là “Cha của Thần Khí” ; chúng ta có thể gọi Chúa Thánh Thần là "Thần Khí Chúa
Con," nhưng không thể gọi Chúa Con là "Con của Thần Khí".
Điểm
này đặt ra vấn nạn mà người ta đang cố gắng khắc phục ngày hôm nay. Đúng là
chúng ta không thể gọi Thiên Chúa là "Cha của Thần Khí", nhưng có thể
gọi Ngài là "Cha trong Thần Khí"; đúng là chúng ta không thể gọi Chúa
Con là "Con của Thần Khí", nhưng có thể gọi Chúa Con là "Con
trong Thần Khí". Giới từ được sử dụng trong Kinh Thánh để nói về Chúa
Thánh Thần không phải là "của" nhưng là "trong" ; Đức Kitô
kêu cầu Abba dưới đất "dưới hành
động của Thần Khí" (Lc 10,21). Nếu chúng ta thừa nhận rằng điều đang xảy
ra trong lịch sử phản ánh điều đang xảy ra trong Ba Ngôi, thì từ đó phải kết luận
rằng chính dưới hành động của Thần Khí mà Chúa Con đã kêu lên tiếng Abba vĩnh cửu của Ngài trong sự sinh ra,
qua đó Ngài phát xuất từ Chúa Cha. Nhà thần học chính thống giáo Olivier
Clément đã cho thấy trước kết luận này khi nói "Chúa Con phát xuất từ Chúa
Cha trong Thần Khí".
Điều
này đủ để cho thấy một cách mới quan niệm về những mối tương quan Ba Ngôi. Ngôi
Lời và Thần Khí phát xuất đồng thời từ Chúa Cha. Phải từ bỏ bất kỳ ý tưởng ưu
tiên nào giữa hai ngôi, không chỉ về thời gian mà còn về tính hợp lý. Cũng như
bản tính tạo thành ba ngôi là độc nhất, thì cũng vậy là hoạt động có nguồn gốc nơi
Chúa Cha và làm cho Chúa Cha thành một "Cha", làm cho Chúa Con thành một
"Con" và làm cho Chúa Thánh Thần thành một "Thần Khí". Chúa
Con và Chúa Thánh Thần không thể được nhìn thấy ngôi này sau ngôi kia, hay ngôi
này cạnh ngôi kia, nhưng là "ngôi này trong ngôi kia." Sinh ra và
phát xuất không phải là "hai hành vi tách biệt", nhưng là hai khía cạnh,
hoặc hai kết quả, của cùng một hành vi.
Làm
sao quan niệm và diễn tả hành vi cao cả này mà từ đó phát xuất tất cả Ba Ngôi ?
Ở đây chúng ta đang đối mặt với cốt lõi thâm sâu nhất của mầu nhiệm Ba Ngôi vượt
khỏi khuôn khổ của khái niệm và loại suy của con người. Về điểm này, tôi thấy
thú vị cách cắt nghĩa của nhà thần học chính thống giáo Olivier Clément, người
nói về một "sự xức dầu vĩnh cửu" của Chúa Con, bởi Chúa Cha qua Thần
Khí. Trực giác này có một nền tảng Giáo phụ vững chắc trong công thức "người
xức dầu, được xức dầu, và dầu" được sử dụng trong thần học lâu đời nhất của
các Giáo Phụ. Thánh Irênê viết: "Trong tên “Kitô", Đấng xức dầu, Đấng
được xức dầu, và chính Dầu mà Ngài được xức, được hiểu ngầm ; Đấng xức dầu là Chúa
Cha, Đấng được xức dầu là Chúa Con, và Ngài được xức dầu trong Thần Khí là Dầu".
Thánh
Basiliô lấy lại nguyên văn quả quyết này, rồi đến lượt Thánh Ambrosiô lặp lại. Thừ
khởi thủy, quả quyết này đề cập trực tiếp việc xức dầu lịch sử của Đức Giêsu khi
Ngài chịu phép rửa trong sông Giođan. Sau này, người ta thấy việc xức dầu này
như đã được thực hiện lúc nhập thể. Các Giáo Phụ khác bắt đầu đi ngược lại còn
xa hơn trong thời gian. Giustinô, Irênê, Origen, đã nói về một "sự xức dầu
vũ trụ" của Ngôi Lời, nghĩa là, về một sự xức dầu mà Chúa Cha trao cho
Ngôi Lời lúc tạo dựng thế giới, theo nghĩa "Chúa Cha đã xức dầu và làm mọi
sự nhờ Ngài".
Eusêbiô
Cêsarêa còn đi xa hơn bằng cách nói về việc xức dầu thậm chí vào lúc sinh ra Ngôi
Lời : "Việc xức dầu nêu rõ đặc điểm của sự sinh ra Ngôi Lời; nhờ việc xức
dầu, Thần Khí của Chúa Cha sang qua Chúa Con, giống như nước hoa có mùi hương dễ
chịu". Gây ảnh hưởng nhiều hơn là ý kiến của thánh Grêgoriô Nyssê, người
đã dành cả một chương cho sự xức dầu Ngôi Lời của Chúa Thánh Thần, trong sự
sinh ra từ đời đời của Ngài bởi Chúa Cha. Khởi đi từ giả định rằng tước hiệu
"Kitô", Đấng được xức dầu, luôn thuộc về Chúa Con:
"Dầu
của niềm vui biểu thị sức mạnh của Chúa Thánh Thần, với sức mạnh đó Thiên Chúa
nhận được sự xức dầu của Thiên Chúa, tức là Con duy nhất của Chúa Cha... Cũng
giống như người công chính không thể vừa công chính vừa không công chính, người
đã nhận được sự xức dầu đã không thể không được xức dầu. Người không bao giờ
không có sự xức dầu chắc chắn luôn luôn có nó. Và mọi người phải thừa nhận rằng
Chúa Cha là Đấng xức dầu và Chúa Thánh Thần là dầu".
Hình
ảnh xức dầu (vì sự xức dầu luôn là một hình ảnh) thêm một điều gì đó mới mẻ không
thấy có trong hình ảnh linh hứng, phổ biến hơn. Bên Tây phương, người ta thường
nói rằng danh xưng Thần Khí là do Người được linh hứng và linh hứng. Từ góc độ
này, Chúa Thánh Thần thực hiện một vai trò "tích cực" duy nhất bên
ngoài Ba Ngôi, theo mức độ Người linh hứng Kinh Thánh, các tiên tri, các thánh,
vv, trong khi ở Ba Ngôi, Người hẳn chỉ có phẩm chất thụ động là được linh hứng bởi
Chúa Cha và bởi Chúa Con.
Việc
Thần Khí không có một vai trò tích cực trong lòng Ba Ngôi, được coi là sự thiếu
sót nghiêm trọng nhất trong môn Thánh thần học truyền thống, được khắc phục theo
cách này. Quả thực, nếu chúng ta thừa nhận Chúa Con có một vai trò tích cực
liên quan đến Thần Khí, được diễn tả trong hình ảnh linh hứng, người ta cũng thừa
nhận Chúa Thánh Thần có một vai trò tích cực liên quan đến Chúa Con, được diễn
tả trong hình ảnh xức dầu. Người ta không thể nói Ngôi Lời là "Con của
Chúa Thánh Thần", nhưng có thể nói Ngài là "Đấng được xức dầu của Thần
Khí".
3. Thần Khí sự thật và Thần
Khí bác ái
Việc
bắt đầu lại từ Kinh Thánh còn cho thấy hai Thánh thần học, Đông phương và Tây phương,
bổ sung cho nhau. Trong Tân ước, người ta nhận thấy Gioan nhấn mạnh hơn về
"Thần Khí sự thật" và Phaolô nhấn mạnh hơn về "Thần Khí bác ái".
“Thần Khí sự thật” trong Phúc Âm thứ tư giống như một tên khác của Đấng Bảo Trợ
(Ga 14,16-17) ; những người thờ phượng Chúa Cha phải tôn thờ Người "trong thần
khí và sự thật"; Người dẫn đưa đến "tất cả sự thật" ; dầu của Người
"ban ơn hiểu biết và dạy dỗ mọi điều" (1Ga 2,20.27). Ngược lại, theo
Phaolô, Thần Khí có tác dụng chính là “tuôn đổ tình yêu” vào lòng; hoa quả của Thần
Khí là "tình yêu, niềm vui, và bình an" (Gl 5,21); tình yêu tạo nên
"luật của Thần Khí" (Rm 8,2), tình yêu là "con đường trổi vượt",
ân huệ của Chúa Thánh Thần, cao trọng nhất trong các ân huệ (1Cr 12,31).
Như
đã xảy ra với giáo lý về Đức Kitô, sự khác biệt này trong cách làm nổi bật Chúa
Thánh Thần được lưu giữ trong truyền thống và, một lần nữa, Đông phương phản
ánh rõ hơn tầm nhìn của Gioan và Tây phương phản ánh rõ hơn tầm nhìn của Phaolô.
Thánh thần học Chính thống giáo đã làm nổi bật hơn Thần Khí ánh sáng, và Thánh
thần học La tinh làm nổi bật hơn Thần Khí tình yêu. Dầu sao, người ta thấy rất
rõ sự khác biệt này trong hai tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển
của các thần học tương ứng về Chúa Thánh Thần. Trong khảo luận Về Chúa Thánh Thần của thánh Basiliô, chủ
đề Thần Khí tình yêu không đóng vai trò nào, trong khi chủ đề Thần Khí
"ánh sáng thông hiểu" đóng vai trò trung tâm. Trong khảo luận Về Ba Ngôi của thánh Augustinô, chủ đề
Thần Khí ánh sáng không đóng vai trò nào, trong khi chúng ta biết rằng chủ đề
Thần Khí tình yêu đóng một vai trò, và là vai trò trung tâm.
Ánh
sáng, với tất cả các hiện tượng thường đi kèm với nó (sự biến hình của con người,
và sự dìm mình hoàn toàn bên trong và bên ngoài trong ánh sáng) là yếu tố ổn định
nhất nơi những người Đông phương, trong thần bí học về Chúa Thánh Thần.
"Hãy đến, hỡi ánh sáng thật !”, lời cầu nguyện với Chúa Thánh Thần của thánh
Symêon, nhà Thần học Mới, đã bắt đầu như thế. Lời kinh nổi tiếng "ánh sáng
trên núi Tabor", rất thường thấy trong linh đạo và trong ảnh thánh Đông phương,
được liên kết mật thiết với Chúa Thánh Thần. Một bản văn Chính thống giáo nói rằng
ngày Lễ Hiện Xuống, "nhờ Chúa Thánh Thần, cả thế giới lãnh nhận một phép rửa
ánh sáng".
Tôi
kết luận bằng một tư tưởng của thánh Augustinô về Thần Khí tình yêu, được áp dụng
trong các mối tương quan giữa các Giáo Hội khác nhau, hẳn sẽ tạo ra một bước
quyết định hướng tới sự hiệp nhất các Kitô hữu. Thánh Augustinô có suy tư này
khi bình giải giáo lý của thánh Phaolô trong 1Cr 12 về các đặc sủng. Khi nghe tất
cả những đặc sủng tuyệt vời này (tiên tri, khôn ngoan, biện phân, chữa lành, nói
tiếng lạ), ai đó có thể lấy làm buồn, cảm thấy mình bị loại trừ khi nghĩ rằng mình
không có những đặc sủng này. Nhưng coi chừng, thánh nhân viết tiếp: "Nếu bạn
yêu mến Giáo Hội, chắc chắn bạn không tuyệt đối thiếu những đặc sủng này ; vì nếu
bạn gắn bó với toàn thể Giáo Hội, bạn chia sẻ với những người có những ân huệ của
Thần Khí Thiên Chúa. Nếu bạn không ghen tỵ, tất cả những gì tôi có đều thuộc về
bạn, và nếu tôi không ghen tỵ, tất cả những gì bạn có đều là của tôi. Ghen tỵ tạo
ra xa cách ; hiệp nhất là hiệu quả của bác ái. Trong thân thể con người, chỉ
con mắt có đặc ân nhìn thấy ; nhưng phải chăng thân thể có mắt cho một mình nó ?
Nó có mắt cho tay chân, và cho tất cả các chi thể khác... Chỉ có tay là chi thể
duy nhất làm việc ; nhưng nó có làm việc cho một mình nó chăng ? Nó cũng làm điều
đó cho mắt. Như vậy, khi có ai muốn đánh không phải vào tay, nhưng vào mặt, phải
chăng tay sẽ nói : tôi chẳng cần động đậy, vì không phải tôi mà người ta muốn đánh
?
Người
ta được biết tại sao bác ái lại là "con đường trổi vượt" (1Cr 12,31) :
nó làm cho tôi yêu thân thể Đức Kitô, hoặc cộng đồng mà tôi sống, và trong sự hiệp
nhất, mọi đặc sủng đều "thuộc về tôi", không có ngoại lệ. Bác ái làm
gia tăng thật sự các đặc sủng : nó làm cho đặc sủng của một người thành một đặc
sủng cho mọi người. Chỉ cần đừng làm vì chính mình, nhưng vì Đức Kitô, tâm điểm
lợi ích ; đừng muốn "sống cho chính mình, nhưng là cho Chúa", như Tông
đồ Phaolô nói (Rm 14,7-8).
Áp
dụng cho các mối tương quan giữa hai Giáo Hội, Đông phương và Tây phương,
nguyên tắc này đưa đến chỗ nhìn những gì khác nhau nơi một Giáo Hội so với Giáo
Hội kia, không phải như một lầm lỗi hoặc một mối đe dọa, nhưng như một sự phong
phú để vui mừng. Áp dụng cho các mối tương quan hàng ngày của chúng ta, giữa
lòng Giáo Hội chúng ta hoặc trong cộng đồng sinh sống của chúng ta, nguyên tắc
này giúp khắc phục những tình cảm tự nhiên của bị tước đoạt, ganh đua và ghen
tuông. Thánh Phanxicô Assisi viết: "Phúc thay đầy tớ nào không tự hào về
điều tốt mà Chúa nói và làm bởi Ngài, hơn là về điều tốt mà Chúa nói và làm bởi
một người khác,". Chúa Thánh Thần giúp ta đi theo con đường này, một con đường
đòi hỏi, nhưng được hứa hẹn những hoa quả của Thần Khí là : tình yêu, niềm vui
và an bình.
(lấy ý trong R.
Cantalamessa, Bài giảng Mùa Chay năm 2015, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm Micae Trần Đình Quảng