THÁNH GRÊGORIÔ NYSSÊ,
CON ĐƯỜNG BIẾT ĐỨC KITÔ
1. Hai chiều kích đức
tin
Về
đức tin, thánh Augustinô đã phân biệt, một sự phân biệt vẫn còn tính chất cổ điển
ngay cả ngày nay : giữa những điều được tin và hành vi tin: "Aliud sunt ea quae creduntur, aliud fides
qua creduntur", giữa fides quae
và fides qua, như nói trong thần học.
Fides quae còn được gọi là "đức
tin khách quan," fides qua là
"đức tin chủ quan." Tất cả suy tư Kitô giáo về đức tin diễn ra giữa
hai cực này.
Từ
đó có hai hướng. Một đàng, có những người nhấn mạnh tầm quan trọng của trí tuệ
trong đức tin và do đó đức tin khách quan, như đồng ý với các chân lý được mạc
khải ; đàng khác có những người nhấn mạnh tầm quan trọng của ý chí và tình cảm, do đó đức
tin chủ quan, tin vào một người nào đó ("tin vào"), hơn là tin điều
gì đó ("tin rằng"). Một đàng, nhấn mạnh những lý do của lý trí, đàng
khác, nhấn mạnh "những lý do của con tim", như Pascal nói.
Sự
dao động này xuất hiện lại, dưới các hình thức khác nhau, ở mỗi khúc quanh của
lịch sử thần học : thời Trung Cổ, có sự nhấn mạnh khác nhau giữa thần học của thánh
Tôma và thần học của thánh Bonaventura ; thời Cải Cách, giữa đức tin "phó
thác" của Luthêrô và đức tin Công giáo được định hình bởi đức ái ; sau đó,
giữa đức tin của Kant trong những giới hạn của lý trí thuần túy và đức tin dựa
trên tình cảm của Schleiermacher và của chủ nghĩa lãng mạn nói chung ; gần chúng
ta hơn, giữa đức tin của thần học tự do và đức tin hiện sinh của Bultmann, thực
tế không có bất kỳ nội dung khách quan nào.
Như
những lần khác trong quá khứ, thần học công giáo đương đại cố gắng cân bằng giữa
hai chiều kích đức tin. Người ta vượt qua giai đoạn trong đó, vì những lý do bút
chiến ngẫu nhiên, các sách giáo khoa thần học cuối cùng đều tập chú vào đức tin
khách quan (fides quae), có nghĩa là vào toàn bộ những chân lý phải tin. Người
ta đọc thấy trong một từ điển có uy tín về thần học (Dictionnaire critique de
théologie): "Trong trào lưu nổi bật của tất cả các giáo phái, ngày nay hành
vi tin xuất hiện như khám phá ra “một Thiên Chúa ở ngôi thứ hai” (un Tu divin, a
divine You). Từ đây khoa hộ giáo của bằng chứng có xu hướng đứng sau khoa sư phạm
về kinh nghiệm thiêng liêng, một kinh nghiệm có xu hướng khai mào một kinh nghiệm
Kitô giáo, mà người ta công nhận là có thể được tiên thiên ghi khắc nơi mỗi người"
(art. ‘Foi’). Nói khác đi, thay vì dựa vào sức mạnh của những luận chứng bên
ngoài con người, người ta muốn giúp người đó tìm thấy nơi mình sự củng cố đức
tin, cố gắng đánh thức tia lửa sáng lên trong "con tim xao xuyến" của
mỗi người, vì họ được tạo dựng "theo hình ảnh của Thiên Chúa".
Tôi
mở đầu như vậy để một lần nữa cho thấy các Giáo Phụ có thể góp phần vào nỗ lực
của chúng ta, hầu làm cho đức tin của Giáo Hội lại được huy hoàng và mạnh mẽ.
Điều lớn nhất trong số đó là những mô hình duy nhất của một đức tin vừa khách
quan vừa chủ quan, nói cách khác, vừa bận tâm về nội dung và tính chính thống của
đức tin, đồng thời đức tin đó được tin và được sống với tất cả sự nhiệt thành của
tâm hồn. Thánh Tông Đồ đã tuyên bố: "tin trong lòng" (Rm 10,10), người
ta tin bằng trái tim của mình, và, như chúng ta biết, chữ "trái tim"
trong Kinh thánh chỉ ra hai chiều kích thiêng liêng của con người, tức trí khôn
và ý chí, nơi tượng trưng cho tri thức và tình yêu. Theo viễn tượng này, các
Giáo Phụ là một dây liên kết cần thiết để tái khám phá đức tin như Kinh Thánh mong
muốn.
2. "Tôi tin kính một
Thiên Chúa"
Trong
bài suy niệm này, chúng ta nại tới các Giáo Phụ để canh tân đức tin vào đối tượng
đầu tiên của nó, vào những gì người ta thường hiểu về chữ “tin” và dựa trên những
gì tạo nên sự khác biệt giữa người tin và người không tin : tin có Thiên Chúa. Chúng
ta đã suy niệm về thần tính của Đức Kitô, Chúa Thánh Thần và Ba Ngôi. Nhưng tin
vào Thiên Chúa Ba Ngôi là giai đoạn cuối cùng của đức tin, "mục nói thêm"
này về Thiên Chúa được Đức Kitô mạc khải. Để có được đức tin đầy đủ này, tiên
vàn phải tin vào Thiên Chúa. Trước khi tin Thiên Chúa Ba Ngôi, phải tin một
Thiên Chúa duy nhất.
Thánh
Grêgoriô Nadian nhắc chúng ta đường lối sư phạm của Thiên Chúa khi Người tỏ
mình ra cho chúng ta. Trong Cựu Ước, Chúa Cha được mặc khải cách công khai, Chúa
Con được mạc khải cách che giấu ; trong Tân Ước, Chúa Con được mạc khải cách
công khai và Chúa Thánh Thần được mạc khải cách che giấu. Giờ đây, trong Giáo Hội,
tất cả Ba Ngôi cùng với ánh sáng đầy đủ của Người được mạc khải cách công khai.
Đức Giêsu cũng bảo : Ngài không nói với các tông đồ những điều họ “chưa có sức chịu
nổi" (Ga 16,12). Chúng ta phải theo phương pháp sư phạm ấy đối với những
người mà chúng ta muốn loan báo đức tin hôm nay.
Thư
Do thái nói rằng bước đầu tiên để đến với Thiên Chúa là "phải tin là có
Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người"
(Dt 11, 6). Tất cả tùy thuộc vào bước đầu tiên này, và nó sẽ vẫn cần thiết ngay
cả khi đã tin vào Ba Ngôi. Chúng ta hãy thử xem các Giáo Phụ có thể gợi hứng
cho chúng ta thế nào từ quan điểm này, mà vẫn nhìn đến mục tiêu chính của chúng
ta, không phải mục tiêu hộ giáo, nhưng là thiêng liêng, nghĩa là tập trung vào
việc củng cố đức tin của chúng ta hơn là vào việc truyền đạt nó cho người khác.
Người hướng dẫn mà chúng ta chọn trong cách tiếp cận này là thánh Grêgoriô
Nyssê.
Grêgoriô
Nyssê (331-394), em ruột thánh Basiliô, bạn và người đồng thời với Grêgoriô Nadian,
là một Giáo Phụ và Tiến Sĩ Giáo Hội ngày càng cho thấy rõ tầm vóc trí tuệ và tầm
quan trọng quyết định trong sự phát triển tư tưởng Kitô giáo. "Một trong
những nhà tư tưởng uy thế và độc đáo nhất
trong lịch sử của Giáo Hội" (L. Bouyer), "người sáng lập một cách sống
đạo thần bí mới lạ và xuất thần" (H. von Campenhausen).
Không
như chúng ta, các Giáo Phụ không cần phải chứng minh sự hiện hữu của Thiên
Chúa, nhưng là sự duy nhất của Thiên Chúa ; các ngài không phải chống lại thuyết
vô thần, nhưng là thuyết đa thần. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy rằng con đường các
ngài vạch ra để có thể biết một Thiên Chúa độc nhất, cũng là con đường có thể dẫn
dắt con người ngày nay khám phá không gì hơn là Thiên Chúa.
Để
làm nổi bật sự đóng góp của các Giáo Phụ, đặc biệt của Grêgoriô Nyssê, phải biết
vấn đề về sự duy nhất của Thiên Chúa được trình bầy như thế nào trong thời đại
của các ngài. Khi giáo thuyết về Ba Ngôi ngày càng trở nên rõ ràng hơn, các
Kitô hữu đã bị cáo buộc cùng một vấn đề như họ đã cáo buộc dân ngoại : tin vào đa
thần. Điều này giải thích sự bổ sung, tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa, vào câu đầu
tiên trong Kinh Credo của các Kitô hữu.
Sau ba thế kỷ khi mà kinh tin kính trong tất cả các lần biên tập đều bắt đầu bằng
câu "Tôi tin kính Thiên Chúa" (Credo in Deum), thì vào thế kỷ IV, người
ta thấy xuất hiện công thức "Tôi tin kính một Thiên Chúa (Credo in unum
Deum ), rồi ra sẽ không thay đổi nữa.
Ở
đây, không cần phải ghi lại đầu đuôi con đường dẫn đến kết quả này; chúng ta chỉ
cần để ý nó kết thúc như thế nào. Khoảng cuối thế kỷ IV, việc thay đổi thuyết độc
thần của Cựu Ước thành độc thần ba ngôi của các Kitô hữu sắp chấm dứt. Để diễn
tả hai khía cạnh của mầu nhiệm, người Latinh đã sử dụng công thức "một bản
thể và ba ngôi vị", người Hy Lạp thì sử dụng công thức "ba hypostasis, một ousia". Sau những cuộc thảo luận khó khăn, quá trình này dường
như đã được ký kết bằng một thỏa thuận hoàn toàn giữa hai nền thần học. Grêgoriô
Nadian đã kêu lên: "Người ta có thể quan niệm một thỏa thuận đầy đủ hơn và
nói điều đó cách tuyệt đối hơn, bằng cách dùng các từ khác nhau sao?"
Thực
sự vẫn có một sự khác biệt giữa hai cách diễn tả mầu nhiệm. Ngày nay, người ta
thường bảo người Hy Lạp và người Latinh xem xét vấn đề Ba Ngôi với lăng kính
khác nhau ; người Hy Lạp đi từ các ngôi vị, nghĩa là từ ba ngôi đến sự duy nhất
bản tính (từ số nhiều đến số ít) ; ngược lại, người Latinh đi từ sự duy nhất bản
tính đến ba ngôi vị. "Người Latinh xem ngôi vị như một cách hiện hữu của bản
tính ; người Hy Lạp xem bản tính như là nội dung của ngôi vị”.
Nhưng
tôi nghĩ rằng sự khác biệt trên cũng có thể được giải thích theo cách khác. Cả người
Latinh lẫn người Hy Lạp, khởi đi từ sự duy nhất của Thiên Chúa ; cả tín biểu Hy
Lạp lẫn tín biểu Latinh bắt đầu bằng "Tôi tin kính một Thiên Chúa" (Credo in unum
Deum!). Ngoại trừ đối với người Latinh sự duy nhất này còn được hiểu là vô ngôi
hoặc trước ngôi vị ; chính là bản tính Thiên Chúa, sau đó được xác định bằng Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dĩ nhiên không được nghĩ là bản tính ấy có
trước ngôi vị. Trái lại, đối với người Hy Lạp, đây là một sự duy nhất đã có
ngôi vị, vì đối với họ "sự duy nhất là Chúa Cha, từ Người và hướng tới Người
mà hai ngôi kia có danh xưng." Tín khoản đầu tiên của tín biểu Hy Lạp cũng
là: "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng" (Credo trong unum
Deum Patrem omnipotentem), trừ ra ở chỗ này: "Cha toàn năng" không
tách khỏi 'unum Deum', như trong tín biểu Latinh, nhưng cùng với ‘unum Deum’
làm thành toàn bộ: "Tôi tin kinh một Thiên Chúa là Cha toàn năng".
Chính
bằng những thuật ngữ này mà ba Giáo Phụ vùng Cappađocia quan niệm tính duy nhất
của Thiên Chúa, đặc biệt thánh Grêgoriô Nyssê. Theo ngài, sự duy nhất của ba ngôi
Thiên Chúa là vì Chúa Con hợp nhất với Chúa Cha cách hoàn hảo (theo bản thể), cũng
như Chúa Thánh Thần hợp nhất với Chúa Cha cách hoàn hảo nhờ Chúa Con". Đây
là chủ đề khó cho người Latinh, vì họ nhìn thấy nguy cơ bắt Chúa Con tùy thuộc vào
Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần tùy thuộc vào Chúa Cha và Chúa Con. Augustinô viết:
"Danh xưng Thiên Chúa chỉ tất cả Ba Ngôi, chứ không chỉ mình Chúa Cha”.
Thiên
Chúa là danh xưng chúng ta gán cho thần linh khi chúng ta không xem xét Người
nơi chính Người, nhưng trong mối liên hệ với con người và thế giới, vì tất cả
những gì Người thực hiện bên ngoài Người, Người đều thực hiện cùng nhau, như
nguyên nhân tác thành duy nhất. Từ tất cả những điều trên, chúng ta có thể rút
ra kết luận quan trọng là : đức tin Kitô giáo cũng chính là đức tin tính độc thần
; người Do thái tin vào một Thiên Chúa duy nhất, thì người Kitô hữu đã không từ
bỏ đức tin ấy, nhưng đúng hơn, họ đã làm cho nó thêm phong phú, cho nó nội dung,
cũng như cho sự duy nhất này một ý nghĩa mới mẻ và tuyệt vời. Thiên Chúa là Một,
nhưng không có một mình.
3. "Môsê vào trong
đám mây"
Tại
sao chọn thánh Grêgoriô Nyssê làm ngưới hướng dẫn giúp hiểu biết Thiên Chúa này,
một Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và chúng ta đứng trước Người như là những thụ tạo?
Lý do là vì ngài là người đầu tiên trong Kitô giáo đã vạch ra con đường dẫn đến
chỗ hiểu biết Thiên Chúa, con đường có thể thực sự đáp ứng với tình hình tôn
giáo của con người ngày nay : một con đường hiểu biết đi qua... chỗ không hiểu
biết.
Ngài
đã có dịp làm điều ấy trong cuộc bút chiến với người lạc giáo Eunomiô, đại diện
cho một chủ thuyết Ariô cực đoan mà tất cả những Giáo Phụ nổi tiếng thế kỷ thứ IV
đều chống lại : Basiliô, Grêgoriô Nadian, Gioan Kim Khẩu và, gay gắt hơn hết
chính là Grêgoriô Nyssê. Eunomiô đã định nghĩa yếu tính Thiên Chúa bằng thuật
ngữ "không được sinh ra" (agennetos). Theo nghĩa này, ông coi yếu
tính này hoàn toàn có thể biết được và không có gì mầu nhiệm; chúng ta có thể
biết Thiên Chúa cũng như chính Người biết Người.
Các
Giáo Phụ đồng loạt phản ứng, ủng hộ luận chứng cho rằng "không thể biết
Thiên Chúa" trong thực tại thâm sâu của Người. Nhưng trong khi những vị khác
chỉ biết phản bác Eunomiô, chủ yếu dựa trên những lời Kinh Thánh, thì Grêgoriô
Nyssê đi xa hơn, chứng minh rằng thừa nhận sự không hiểu biết chính là con đường
dẫn đến sự hiểu biết thực sự về Thiên Chúa (theognosia). Ngài làm như vậy bằng
cách lấy lại một chủ đề đã được Philô Alexanđria phác họa : chủ đề về Môsê, người
gặp Thiên Chúa khi vào trong đám mây. Bản văn Kinh thánh lấy trong Xuất hành 24,15-18
và đây là nhận xét của ngài:
"Chính
trong ánh sáng mà Thiên Chúa bắt đầu tỏ mình ra với Môsê. Rồi Người nói với ông
trong đám mây. Cuối cùng, khi đã trở nên hoàn hảo hơn, ông chiêm ngắm Thiên
Chúa trong bóng tối. Từ bóng tối qua ánh sáng là sự tách rời đầu tiên khỏi những
ý tưởng giả dối và sai lầm về Thiên Chúa ; trí khôn chú tâm hơn đến những điều ẩn
giấu, dẫn dắt linh hồn qua những điều hữu hình tới thực tại vô hình, thì cũng
giống như một đám mây làm mờ tất cả những gì là nhạy cảm và thường làm linh hồn
chiêm niệm những điều ẩn giấu ; cuối cùng, linh hồn đã đi theo những con đường
này và đang tiến về những sự trên trời, sau khi đã để các sự dưới đất, ngần nào
có thể, cho bản tính nhân loại, linh hồn đi vào trong cung thánh của sự hiểu biết
Thiên Chúa (theognosia), được bao quanh tư bề bởi những bóng tối thần linh".
Sự
hiểu biết chân thực và tầm nhìn về Thiên Chúa hệ tại ở chỗ "thấy rằng Người
vô hình, vì người mà linh hồn tìm kiếm vượt qua mọi kiến thức, tách rời khỏi mọi
chỗ bởi sự không thể hiểu được của nó cũng như bởi bóng tối". Ở giai đoạn
cuối cùng của hiểu biết, người ta không có một khái niệm về Thiên Chúa, nhưng
điều Grêgoriô Nyssê, bằng một cách diễn đạt nổi tiếng, định nghĩa là "một
cảm giác nào đó về sự hiện diện" (aisthesin tina tes parusias). Cảm thấy
không phải với giác quan của cơ thể, nhưng với những giác quan bên trong của
trái tim. Cảm giác này không phải là vượt quá đức tin, nhưng thể hiện đức tin ở
mức cao nhất. Trong sách Diệu ca, nàng kêu lên: "Bằng đức tin, tôi đã tìm thấy
người mà trái tim mình yêu" (Dc 3,6). Nàng không hiểu chàng, nhưng nàng
làm tốt hơn, là "cầm giữ" được chàng!”
Những
ý tưởng này ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Kitô giáo của các thế hệ tiếp theo, đến
mức Grêgoriô Nyssê sẽ được coi là người sáng lập thần bí Kitô giáo. Thông qua Dionysiô
Arêopagô và Maximô Người Tuyên Tín, những người lấy hứng từ ngài về chủ đề này,
ảnh hưởng này sẽ mở rộng trong cả thế giới Hylạp và Latinh. Người ta thấy lại chủ
đề về sự hiểu biết Thiên Chúa trong bóng tối nơi những nhà thần bí như Angêla
Folignô, Gioan Thánh Giá và nhiều người khác.
4. Ai thực sự hạ nhục lý
trí?
Giờ
đây tôi muốn cho thấy làm thế nào trực giác của Grêgoriô Nyssê có thể giúp tín
hữu chúng ta đào sâu đức tin và chỉ cho con người thời nay, đang hoài nghi về
"năm con đường" của thần học truyền thống, tìm lại một con đường có
thể dẫn đến Thiên Chúa như thế nào.
Sự
mới lạ do Grêgoriô Nyssê đưa vào tư tưởng Kitô giáo là phải vượt qua những ranh
giới của lý trí để gặp gỡ Thiên Chúa. Chúng ta đi ngược với dự phóng của Kant là
giữ tôn giáo "trong bối cảnh của lý trí thuần túy". Trong văn hoá bị
tục hóa hôm nay, người ta vượt xa Kant : Kant nhân danh lý trí (ít nhất là lý trí thực tiễn)
"giả định" Thiên Chúa hiện hữu, điều mà các nhà duy lý của các thời kỳ
tiếp theo cũng phủ nhận.
Điều
này cho thấy tư tưởng của Grêgoriô Nyssê mang tính thời sự đến mức nào. Ngài
cho thấy phần cao hơn hết của con người, tức lý trí, không bị loại trừ khi người
ta tìm kiếm Thiên Chúa ; cho thấy người ta không buộc lựa chọn theo đức tin hay
theo lý trí. Khi đi vào đám mây, nghĩa là khi tin, người ta không từ bỏ lý tính
của mình, nhưng vượt qua nó, điều này hoàn toàn khác. Có thể nói người ta kín
múc ở đó nguồn ‘tài nguyên’ của lý trí riêng của mình, cho phép lý trí thực hiện
hành vi cao quý nhất, bởi vì, như Pascal nói, "đề xuất cuối cùng của lý
trí là thừa nhận rằng có vô số sự vật vượt qua nó".
Thánh
Tôma Aquinô được coi là một trong những người bảo vệ lớn nhất cho các đòi hỏi của
lý trí, đã viết: "Người ta nói rằng vào cuối sự hiểu biết của chúng ta,
Thiên Chúa được biết đến như là Đấng Vô Danh, vì tâm trí chúng ta đã chạm tới
giới hạn chót của sự hiểu biết về Thiên Chúa, khi mà cuối cùng, người ta nhận
ra rằng yếu tính của Người ở trên tất cả những gì họ có thể biết ở trần gian
này". Ngay lúc lý trí nhận ra giới hạn của nó, nó phá vỡ giới hạn đó và đi
xa hơn. Nó hiểu rằng mình không thể hiểu, "thấy mình không thể thấy,"
như Grêgoriô nói, nhưng nó cũng hiểu rằng một Thiên Chúa hiểu được sẽ không còn
là Thiên Chúa nữa. Nhờ lý trí mà người ta thừa nhận như thế, sự thừa nhận này
là một hành vi hoàn toàn thuộc lý trí. Theo nghĩa đen, nó là một "sự vô
tri uyên bác", vô tri mà "biết lý do".
Do
đó, đúng hơn chúng ta phải nói ngược lại, nghĩa là người đặt ra giới hạn cho lý
trí và hạ nhục lý trí là người không thừa nhận lý trí có khả năng vượt qua
chính mình. Kierkegaard viết: "Cho đến nay, người ta đã luôn luôn nói:
'Nói rằng chúng ta không thể hiểu điều này điều khác, là không làm thỏa mãn
khoa học muốn hiểu'. Sai lầm là ở đó. Người ta phải nói ngược lại: "Nếu
khoa học không muốn thừa nhận rằng có cái gì đó nó không thể hiểu, hoặc - chính
xác hơn – có cái gì nó không thể hiểu rõ là nó không thể hiểu', khi ấy, thế giới
đảo ngược'. Do đó, nhiệm vụ của kiến thức con người là hiểu rằng có những sự vật
nó không hiểu được, và cũng không hiểu được những những sự vật này là gì.
Nhưng
loại bóng tối này là gì? Người ta nói về đám mây xảy ra, trong một thời gian nhất định, chen
vào giữa người Ai Cập với người Do Thái, đám mây ấy "vừa là bóng tối vừa
là ánh sáng ban đêm" (x. Xh 14,20). Thế giới đức tin là bóng tối cho người
nhìn nó từ bên ngoài, nhưng là ánh sáng cho người ở bên trong. Một ánh sáng đặc
biệt xuất phát từ trái tim hơn là tâm trí. Trong Đêm u tối của thánh Gioan Thánh Giá (một biến thể liên quan đến đám
mây của Grêgoriô Nyssê!), linh hồn tuyên bố đã đi theo con đường mới,
"không có ánh sáng khác hoặc hướng dẫn nào ngoại trừ ánh sáng đã cháy lên trong
trái tim tôi". Tuy nhiên, đó là một ánh sáng "bảo đảm hơn ánh mặt trời
giữa trưa".
Chân
phước Angêla Folignô, một trong những đại diện lớn nhất của cái nhìn về Thiên
Chúa trong bóng tối, nói rằng Mẹ Thiên Chúa "đã được kết hợp với cả Ba
Ngôi tuyệt đối khôn tả, rằng bà đã trải nghiệm trong cuộc đời cũng một niềm vui
mà các thánh trên trời đang được hưởng, niềm vui về cái không thể hiểu (gaudium
incomprehensibilitatis), bởi các ngài hiểu rằng người ta không thể hiểu".
Đây là một sự bổ sung tuyệt vời cho giáo thuyết của Grêgoriô Nyssê về sự không
hiểu biết Thiên Chúa. Nó bảo đảm với
chúng ta rằng sự không hiểu biết này không những không hạ nhục chúng ta và làm
chúng ta mất đi điều gì đó, mà còn làm cho con người tràn đầy nhiệt tình và hân
hoan ; nó nói với chúng ta rằng Thiên Chúa vô cùng lớn hơn, đẹp hơn, tốt hơn
nhiều so với những gì chúng ta tưởng tượng, và đó là tất cả cho chúng ta, để niềm
vui của chúng ta trọn vẹn và hoàn toàn ; để không bao giờ chúng ta có thể nghĩ là
sẽ chán chường khi phải vĩnh viễn sống gần Người.
Một
ý tưởng hữu ích khác của Grêgoriô Nyssê trong cuộc đương đầu với văn hoá tôn
giáo hiện đại là ý tưởng về "cảm giác về một sự hiện diện" mà ngài đặt
ở tột đỉnh hiểu biết về Thiên Chúa. Với Rudolph Otto, hiện tượng học tôn giáo đã
cho thấy rõ sự hiện hữu của một nguyên tố chính, hiện diện ở các mức độ thuần
khiết khác nhau, trong tất cả các nền văn hoá và ở mọi lứa tuổi, mà ông gọi là
"cảm giác về cái thần thiêng (numineux)",
một cảm giác kinh sợ xen lẫn thu hút, đột nhiên chiếm đoạt con người khi một sự
kiện siêu nhiên hay siêu lý xảy ra trước mắt người đó. Nếu việc bảo vệ đức tin,
theo những chỉ dẫn cuối cùng của khoa hộ giáo nói ở đầu bài, "được đặt sau
một sư phạm về kinh nghiệm thiêng liêng, mà người ta thừa nhận nó có thể tiên
thiên được ghi khắc nơi mỗi người", chúng ta không thể bỏ qua sự liên kết mà
hiện tượng học tôn giáo hiện đại cung cấp cho chúng ta.
Chắc
chắn "cảm giác về một sự hiện diện nào đó" của Grêgoriô Nyssê khác với
ý thức về cái thần thiêng và cảm giác hồi hộp về cái siêu nhiên, nhưng cả hai đều
có điểm chung. Một bên là khởi đầu khám phá ra Thiên Chúa hằng sống, bên kia là
kết thúc công cuộc khám phá ấy. Theo Grêgoriô Nyssê, sự hiểu biết về Thiên Chúa
bắt đầu đi từ bóng tối đến ánh sáng và kết thúc bằng đi từ ánh sáng đến bóng tối.
Người ta không đến bước thứ hai mà không qua bước đầu ; nói cách khác, không tiên
vàn thanh tẩy tội lỗi và dục vọng. Người vô đạo nói: "Nếu tôi có đức tin,
tôi sẽ từ bỏ lạc thú". Nhưng tôi (Pascal) trả lời anh ta: Nếu bạn có đức
tin, bạn sẽ từ bỏ lạc thú".
Hình
ảnh đã đi cùng chúng ta trong suốt bài suy niệm này, nhờ Grêgoriô Nyssê, là hình
ảnh của Môsê leo lên núi Sinai và vào trong đám mây. Lễ Phục sinh sắp đến khuyến
khích chúng ta vượt qua hình ảnh này, từ biểu tượng sang thực tế. Có một ngọn
núi khác, nơi mà một Môsê khác đã gặp Thiên Chúa "lúc bóng tối bao phủ khắp
mặt đất" (Mt 27,45). Trên Núi Canvê, Đức Giêsu Nadaret, đã hợp nhất mãi
mãi con người với Thiên Chúa. Kết thúc cuốn Itinerarium
mentis in Deum (Hành trình của tâm trí tới Thiên Chúa), thánh Bonaventura
viết:
"Sau
tất cả những xem xét trên đây, cái còn lại trong tâm trí chúng ta là nâng mình
lên bằng cách chiêm quan không chỉ bên trên thế giới nhạy cảm này mà còn bên dưới
nó nữa ; và trong cuộc khổ hạnh này, Đức Kitô là đường và là cửa, Đức Kitô là cái
thang và chiếc xe... Người nào kiên quyết và trọn vẹn hướng về Đức Kitô bằng
cách nhìn Ngài bị treo trên thập giá, với lòng tin cậy mến, với lòng đạo đức, ngưỡng
mộ, hoan hỷ, biết ơn, ca ngợi và hân hoan, thì cử hành Lễ Vượt Qua với Ngài, có
nghĩa là vượt qua".
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ tư Mùa Chay năm 2012, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm
Micae Trần Đình Quảng