THÁNH AUGUSTINÔ,
“TÔI TIN GIÁO HỘI DUY NHẤT,
THÁNH THIỆN”
1. Từ Đông phương đến
Tây phương
Chúng
ta đến với bốn vị đại tiến sĩ của Giáo Hội Latinh - Augustinô, Ambrosiô, Lêô Cả
và Grêgoriô Cả - để xem những gì các ngài nói với chúng ta hôm nay về chân lý đức
tin trong những địa hạt mà các ngài bàn đến cách đặc biệt, đó là : bản chất của
Giáo hội, sự hiện diện thực của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, tín điều
Kitô học của Công đồng Calcêđonia và cách hiểu Kinh Thánh theo nghĩa thiêng
liêng.
Mục
đích là để theo chân những thánh Giáo Phụ này khám phá lại sự phong phú, vẻ đẹp
của đức tin, hạnh phúc được tin, và, như Phaolô nói, đi "từ đức tin tới đức
tin" (Rm 1,17), từ một đức tin được tin tới một đức tin được sống. Chính đó
là "khối lượng" gia tăng đức tin giữa lòng Giáo Hội, sẽ tạo nên sức tác
động quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới.
Tiêu
đề của chu kỳ này được lấy từ một ý tưởng mà các nhà thần học thời Trung Cổ yêu
thích. Bênađô thành Chartres nói: "Chúng ta giống như những người lùn ngồi
trên vai những người khổng lồ. Nếu chúng ta nhìn thấy nhiều điều hơn họ, nhìn
xa hơn họ, đó không phải là vì cái nhìn sáng suốt của chúng ta, hay về sự vĩ đại
của chúng ta, nhưng là vì chúng ta được ngồi trên vai họ". Ý tưởng này đã được
nghệ thuật diễn tả trong một số bức tượng và kính màu ở các nhà thờ gôtích của
thời Trung Cổ. Nơi các kính mầu này, người ta thấy có các nhân vật tầm cỡ mang trên vai những người nhỏ thó, gần
như là những người lùn. Những người khổng lồ này, đối với họ cũng như đối với chúng
ta, là những Giáo Phụ.
Sau
khi nói đến Athanasiô, Basiliô Cêsarêa, Grêgoriô Nazian và Gregoriô Nyssê, qua các đề tài tương
ứng với mỗi vị về thần tính của Chúa Kitô, về Chúa Thánh Thần, về Ba Ngôi và về
sự hiểu biết Thiên Chúa, người ta có thể có cảm tưởng rằng sẽ có rất ít việc để
làm cho các Giáo Phụ Latinh trong việc xây dựng tín điều Kitô giáo. Một cái
nhìn lướt qua lịch sử thần học cho chúng ta thấy ngay điều ngược lại.
Do
nền văn hoá của các ngài, do ưa chiêm niệm và do phải chống lại các lạc giáo
(Ariô, Apollinariô, Nestoriô, Nhất tính thuyết), các Giáo Phụ Hylạp đã tập
trung chủ yếu vào các khía cạnh hữu thể học của tín điều : thần tính của Đức
Kitô, hai bản tính của Ngài và cách hiệp nhất của hai bản tính, sự duy nhất và
ba ngôi của Thiên Chúa. Các chủ đề quen thuộc nhất của Phaolô - sự công chính
hóa, tương quan Lề Luật-Phúc Âm, Giáo Hội thân thể Đức Kitô – không được các
ngài chú ý nhiều, hoặc chỉ bàn thoáng qua. Gioan, khi nhấn mạnh đến việc nhập
thể, đã đáp ứng mục tiêu của các ngài tốt hơn Phaolô rất nhiều, vì Phaolô đặt mầu
nhiệm vượt qua ở trung tâm mọi sự, tức là chú trọng đến "hành động" hơn
là "hữu thể" của Đức Giêsu.
Tính
khí của các người Latinh (trừ Augustinô) hướng đến chỗ giải quyết các vấn đề cụ
thể, luật pháp và tổ chức, hơn là các vấn đề suy tư, và sự xuất hiện của những lạc
giáo mới, như của Đonatô và Pêlagiô, đã kích thích một sự suy tư mới mẻ và độc
đáo về các chủ đề dựa theo Phaolô về ân sủng, về Giáo Hội, về các bí tích và
Kinh Thánh. Đây là những chủ đề mà chúng ta muốn suy niệm trong các bài này.
2. Giáo Hội là gì ?
Hãy
bắt đầu với Thánh Giáo Phụ vĩ đại nhất : Augustinô. Vị tiến sĩ thành Hippon đã
để lại dấu vết của mình trong hầu hết các lãnh vực thần học, đặc biệt trong hai
lãnh vực ân sủng và Giáo Hội. Lãnh vực đầu tiên là kết quả của việc chống lại Pêlagiô,
lãnh vực thứ hai là kết quả của việc chống lại Đonatô.
Sự
quan tâm đến giáo thuyết của Augustinô về ân sủng đáng lưu ý hơn từ thế kỷ XVI,
cả trong môi trường thệ phản (Luthêrô với giáo thuyết về công chính hóa và Calvinô
với giáo thuyết về tiền định), lẫn trong môi trường công giáo vì những tranh luận
do Giansêniô và Baiô gây ra. Ngược lại, sự quan tâm đến những giáo thuyết của ngài
về Giáo Hội là điều đáng để ý hôm nay, vì Công đồng Vatican II lấy Giáo Hội làm
chủ đề trọng tâm và vì phong trào đại kết, trong đó ý tưởng về Giáo Hội là nút
quan trọng phải tháo gỡ. Bằng việc tìm kiếm nơi các Giáo Phụ sự hỗ trợ và nguồn
cảm hứng cho đức tin ngày hôm nay, chúng ta sẽ giải quyết lãnh vực quan tâm thứ
hai này của Augustinô : Giáo hội là gì.
Về
đề tài Giáo Hội, các Giáo Phụ Hylạp và các văn sĩ trước Augustinô (Cyprianô,
Hilariô, Ambrosiô) không phải là không biết đến, nhưng những quả quyết của các
ngài thường chỉ lặp lại và bình giải các quả quyết và hình ảnh của Kinh Thánh. Giáo
Hội là dân mới của Thiên Chúa ; được hứa là sẽ không phá nổi ; là "trụ cột
và nền tảng chân lý" ; có Chúa Thánh Thần là thầy dạy tối cao ; Giáo Hội
là công giáo vì mở rộng tới mọi dân tộc, dạy mọi tín điều và có mọi đặc sủng ;
theo bước chân Phaolô, người ta nói về Giáo Hội như là mầu nhiệm thân nhập
chúng ta vào Đức Kitô qua phép rửa tội và nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần ; sự
thân nhập này phát xuất từ cạnh sườn bị
đâm thủng của Đức Giêsu trên thập giá, giống như Evà từ cạnh sườn của Ađam đang
ngủ.
Tất
cả những điều trên đây thỉnh thoảng được bàn, nhưng câu hỏi về Giáo Hội vẫn
chưa được đặt ra. Augustinô, người đã phải đấu tranh hầu như cả đời chống lại
ly giáo của phái Đonatô, sẽ bị buộc phải làm điều đó. Ngày nay có lẽ không ai
nhớ được giáo phái ở Bắc Phi này, nếu không vì nó đã là cơ hội làm phát sinh
khoa giáo hội học, nghĩa là một diễn từ cho biết Giáo Hội là gì trong dự định của
Thiên Chúa, bản chất và cách thức hoạt động của nó.
Khoảng
năm 311, giám mục Numidia là Đonatô, đã lại từ chối nhận vào hiệp thông Giáo Hội
những người, trong cơn bách hại của Đioclêtianô, đã nộp Sách Thánh cho nhà cầm
quyền, chối bỏ đức tin để giữ được mạng sống. Năm 311, Cêcilianô được bầu làm
giám mục Carthagô, một người bị buộc tội (theo người công giáo, nhưng sai) đã
phản bội đức tin trong cuộc bách hại của Đioclêtianô. Một nhóm gồm bảy mươi
giám mục Bắc Phi, do Đonatô dẫn đầu, phản đối việc bổ nhiệm này, loại bỏ Cêcilianô
và bầu Đonatô thay thế. Bị Giáo hoàng Miltiađê phạt vạ tuyệt thông năm 313, Đonatô
vẫn tại vị, phát động một ly giáo tạo ra ở Bắc Phi một Giáo Hội song song với
Giáo Hội công giáo, cho đến cuộc xâm lăng của dân man di Vanđal, một thế kỷ sau
đó.
Trong
cuộc bút chiến, những người ly giáo đã cố gắng biện minh cho quan điểm của mình
bằng các luận chứng thần học. Chính khi phản bác họ mà Augustinô dần dần xây dựng
giáo thuyết của mình về Giáo Hội. Ngài thực hiện việc này trong hai bối cảnh
khác nhau : trong các tác phẩm trực tiếp chống phái Đonatô và trong các bình giải
của ngài về Kinh Thánh và những bài thuyết giảng cho dân. Phân biệt hai bối cảnh
này là quan trọng, vì theo những bối cảnh này, Augustinô sẽ nhấn mạnh nhiều hơn
khía cạnh này hay khía cạnh kia của Giáo Hội và chỉ từ toàn bộ mà người ta có
thể rút ra giáo thuyết đầy đủ của ngài. Thế nên chúng ta luôn xem xét, trong những
nét lớn, các kết luận của thánh nhân trong từng bối cảnh này, bắt đầu với bối cảnh
minh nhiên chống lại phái Đonatô.
a.
Giáo Hội, hiệp thông các bí tích và cộng đoàn các thánh. Ly giáo của phái Đonatô
dựa trên sự xác tín này: ân sủng không thể được chuyển đạt do một thừa tác viên
không có nó ; vậy các bí tích do thừa tác viên loại đó ban thì không sinh hiệu
quả nào. Hồi đầu, luận chứng này được áp dụng cho việc truyền chức giám mục của
giám mục Cêcilianô, và rất nhanh chóng áp dụng cho các bí tích khác, đặc biệt
phép Rửa tội. Với việc này, phái Đonatô biện minh cho việc họ tách ra khỏi người
công giáo và rửa tội lại cho những người gia nhập hàng ngũ của họ.
Để
đáp lại, Augustinô đưa ra một nguyên tắc thần học sẽ trở thành vĩnh viễn và tạo
cơ sở cho khảo luận tương lai De
sacramentis : phân biệt giữa quyền hành (potestas) và thừa tác vụ (ministerium),
tức là giữa nguyên nhân của ân sủng và thừa tác viên. Ân sủng phát sinh từ các
bí tích là công trình độc hữu của Thiên Chúa và của Chúa Kitô; thừa tác viên chỉ
là dụng cụ: "Phêrô làm phép rửa là chính Đức Kitô làm phép rửa; Gioan làm
phép rửa là chính Đức Kitô làm phép rửa; Giuđa làm phép rửa là chính Đức Kitô
làm phép rửa”. Tính thành sự và hiệu quả của các bí tích không bị ngăn cản bởi thừa
tác viên bất xứng : một sự thật mà dân Kitô giáo hôm nay vẫn cần phải nhớ ...
Khi
vũ khí của các kẻ thù trở thành vô hiệu, Augustinô có thể xây dựng tầm nhìn vĩ
đại của mình về Giáo Hội, khi đưa ra một số phân biệt căn bản. Thứ nhất là phân
biệt giữa Giáo hội hiện tại hay dưới đất và Giáo hội tương lai hay trên trời. Chỉ
Giáo Hội thứ hai mới là một Giáo Hội gồm toàn các thánh ; còn trong Giáo Hội hiện
tại người ta sẽ luôn thấy lúa xen lẫn với cỏ lùng ; Giáo Hội là lưới bắt được cả
cá tốt lẫn cá xấu, gồm cả thánh nhân lẫn tội nhân.
Giữa
lòng Giáo Hội trần gian, Augustinô đưa ra một phân biệt khác, phân biệt giữa sự
hiệp thông các bí tích (communio sacramentorum) và cộng đoàn các thánh
(societas sanctorum). Sự hiệp thông liên kết hữu hình tất cả những ai tham dự bằng
cùng những một dấu chỉ bên ngoài : các bí tích, Kinh Thánh, quyền bính ; cộng
đoàn các thánh chỉ liên kết những người,
ngoài các dấu chỉ, còn có chung là thực tại ẩn giấu trong các dấu chỉ (res sacramentorum),
tức là Chúa Thánh Thần, ân sủng, bác ái.
Vì
ở trần gian này, người ta sẽ không luôn có thể biết chắc ai có được Chúa Thánh Thần
và ân sủng - và thậm chí không thể biết chắc người đó có bền đỗ đến cùng trong
tình trạng này hay không – nên cuối cùng Augustinô đồng hóa cộng đoàn vĩnh viễn
các thánh với Giáo Hội trên trời của những người được tiền định. Ngài nói: "Biết
bao nhiêu cừu bây giờ đang ở bên trong
thì sẽ ở bên ngoài, và biết bao nhiêu sói bây giờ đang ở bên ngoài sẽ ở bên
trong!"
Điều
này cũng có liên quan đến Cyprianô. Theo Cyprianô, điều làm cho Giáo Hội hợp nhất
là ở bên ngoài và hữu hình, tức sự hòa hợp giữa mọi giám mục, trong khi đó, đối
với Augustinô, sự hợp nhất hệ tại ở điều gì đó bên trong, tức Chúa Thánh Thần.
Sự hợp nhất của Giáo Hội được thực hiện do chính Đấng thực hiện sự hợp nhất
trong Ba Ngôi. "Chúa Cha và Chúa Con muốn chúng ta hợp nhất với nhau và với
Ba Ngôi, bởi mối dây liên kết là tình yêu, tức là Chúa Thánh Thần. Trong Giáo Hội,
Chúa Thánh Thần thi hành một chức năng giống như linh hồn thi hành trong thân xác
tự nhiên của chúng ta : Ngài là nguyên lý linh hoạt và thống nhất của Giáo Hội.
"Linh hồn là gì đối với thân xác con người, thì Thần Khí cũng là như thế đối
với thân thể Đức Kitô là Giáo Hội".
Viêc
thuộc về Giáo Hội cách đầy đủ đòi hỏi một trật hai điều : sự hiệp thông hữu
hình của các dấu chỉ bí tích và sự hiệp thông vô hình của ân sủng. Nhưng sự thuộc
về đó có mức độ, đến nỗi không thể nói rằng người ta nhất thiết phải ở trong hay
ở ngoài, nhưng có thể một phần ở trong và một phần ở ngoài. Có một sự hiệp
thông bên ngoài, hoặc bằng các dấu chỉ bí tích ; những người phái Đonatô và những
người công giáo xấu thuộc số này. Và có một sự hiệp thông đầy đủ và toàn diện. Sự
hiệp thông trước hệ tại ở việc có dấu chỉ bên ngoài của ân sủng (sacramentum),
nhưng không nhận được thực tại bên trong (res sacramenti), hoặc nhận được nó,
nhưng là để bị lên án chứ không phải để được cứu độ, như trong trường hợp phép Rửa
tội do các người ly giáo ban, hoặc phép Thánh Thể do người công giáo lãnh nhận cách
bất xứng.
b.
Giáo Hội, Thân Thể Đức Kitô được Chúa Thánh Thần làm linh hoạt. Trong các tác
phẩm bình giải và trong các bài thuyết giảng cho dân, người ta thấy lại những
nguyên tắc tương tự làm nền tảng của khoa giáo hội học ; nhưng, do ít bị những
cuộc bút chiến hối thúc và nói chuyện như trong nhà, Augustinô đã có thể nhấn mạnh
hơn đến những khía cạnh bên trong và thiêng liêng của Giáo Hội mà ngài tâm đắc
nhất. Giáo Hội được trình bầy như Thân Thể Đức Kitô (tính từ ‘mầu nhiệm’ được
thêm vào sau này, lúc ấy chưa có), được Chúa Thánh Thần làm linh hoạt. Augustinô
tạo ra một sự song đối rất chặt chẽ giữa Giáo Hội và Mình Thánh Đức Kitô đến nỗi
cuối cùng gần như đồng hóa hai thực tại ấy. Về vấn đề này, chúng ta hãy nghe những
gì đã được các tín hữu của ngài nghe vào một ngày lễ Hiện Xuống :
"Bạn
có muốn hiểu Thân Thể Đức Kitô là gì không? Bạn hãy nghe lời thánh Tông Đồ nói
với các tín hữu : Anh em là Thân Thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận (1Cr
12,27). Vậy nếu bạn là Thân Thể Đức Kitô và là một bộ phận, thì chính là biểu tượng
riêng của bạn được đặt trên bàn tiệc của Chúa. Chính là biểu tượng riêng của bạn
mà bạn lãnh nhận. Bạn là gì qua lời thưa "Amen", và câu trả lời này
đánh dấu sự gắn bó của bạn. Bạn nghe thấy câu "Mình Thánh Đức Kitô",
và bạn thưa "Amen". Hãy trở thành bộ phận của Thân Thể Đức Kitô, để lời
thưa "Amen" của bạn là chân thật... Hãy là cái bạn thấy và nhận cái bạn
là".
Theo
Augustinô, tương quan giữa hai Thân Thể Đức Kitô dựa trên sự tương ứng đặc thù
và mang tính biểu tượng giữa cái đang hình thành của bên này và cái đã hình
thành của bên kia. Bánh Thánh là kết quả của bột từ bao nhiêu hạt lúa mì và rượu
từ vô số trái nho, như vậy Giáo Hội được tạo thành bởi nhiều người, liên kết và
hợp nhất với nhau bởi đức ái là Chúa Thánh Thần. Giống như lúa mì rải rác trên
những ngọn đồi, trước hết được thu lại, rồi được xay và nhồi trong nước và được
nướng trong lò, các tín hữu rải rác trên khắp thế giới đã được lời Chúa quy tụ,
được các nghi thức thống hối và trừ quỷ nghiền nát trước lúc rửa tội, được nhồi
trong nước rửa tội và được thanh tẩy bằng lửa của Thần Khí. Đối với Giáo Hội, người
ta phải nói rằng bí tích "significando
causat": biểu thị sự kết hợp của nhiều người thành một, Thánh Thể thực
hiện điều ấy, gây ra điều ấy. Chính theo nghĩa này người ta có thể nói rằng
"Thánh Thể làm nên Giáo Hội".
3. Tính thời sự của giáo
hội học của Augustinô
Bây
giờ chúng ta hãy thử xem những ý tưởng của Augustinô về Giáo Hội có thể giúp
làm sáng tỏ những vấn đề mà Giáo Hội phải đối mặt ngày hôm nay chăng. Đặc biệt,
tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo hội học của Augustinô đối với cuộc
đối thoại đại kết. Một hoàn cảnh đang làm cho sự lựa chọn này đặc biệt mang
tính thời sự. Thế giới Kitô giáo đang chuẩn bị kỷ niệm năm trăm năm cuộc Cải
cách của Thệ phản. Các tuyên bố và các tài liệu chung bắt đầu được lưu hành để
phục vụ biến cố này. Điều rất quan trọng cho toàn thể Giáo Hội là chúng ta
không bỏ phí cơ hội này. Ước gì chúng ta thực hiện một bước nhảy vọt về phẩm chất,
như xảy ra trong cống ngăn của một con sông hoặc một kênh đào, để những chiếc
tàu có thể tiếp tục chuyển hải hành ở một mực nước cao hơn.
Tình
hình thế giới, Giáo Hội và thần học đã thay đổi so với quá khứ. Vần đề là phát
xuất lại từ con người Đức Giêsu, khiêm tốn giúp những người thời nay khám phá
ra con người Đức Kitô. Chúng ta phải trở lại với thời của các tông đồ. Các ngài
đã đối diện với một thế giới tiền-Kitô giáo, chúng ta thì đối diện với một thế
giới đa phần hậu-Kitô giáo. Khi Phaolô muốn tóm lược bản chất của sứ điệp Kitô
giáo trong một câu, ngài không nói: "Chúng tôi loan báo giáo thuyết này
hay giáo thuyết kia", nhưng nói: "Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị
đóng đinh" (1Cr 1,23) hoặc: "Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu Kitô là
Chúa" (x. 2Cr 4,5).
Không
phải là bỏ qua sự phong phú về thần học và tu đức của phong trào Cải cách, hoặc
muốn trở lại điểm trước, nhưng đúng hơn, cho phép tất cả các Kitô hữu được hưởng
lợi từ các cuộc chinh phục của mình, một khi được giải thoát khỏi những bức
bách do bầu khí nóng bỏng vào lúc ấy và do những cuộc bút chiến theo sau. Sự
công chính hóa bởi đức tin, phải được rao giảng ngày hôm nay chẳng hạn, và rao
giảng mạnh mẽ hơn bao giờ hết, tuy vậy không phải bằng cách đối nghịch nó với
việc lành (một vấn đề từ đây đã lỗi thời!), nhưng đối nghịch nó với sự tự phụ của
con người thời nay, là có thể tự mình cứu lấy mình, không cần Thiên Chúa hay Đức
Kitô. Tôi tin rằng nếu Luthêrô sống ngày hôm nay, thì chính theo cách này mà ông
sẽ rao giảng sự công chính hóa bởi đức tin.
Giờ
đây chúng ta hãy xem thần học của Augustinô có thể giúp chúng ta thế nào trong
nỗ lực vượt qua rào cản hàng thế kỷ giữa các Kitô hữu. Con đường phải vượt qua
hôm nay, một cách nào đó, theo chiều ngược lại với chiều hướng mà Augustinô đã theo
khi chống lại phái Đonatô. Khi ấy, cần
phải đi từ sự hiệp thông các bí tích đến sự hiệp thông trong ân sủng của Chúa
Thánh Thần và trong tình bác ái ; còn ngày hôm nay chúng ta phải đi từ sự hiệp
thông thiêng liêng của bác ái đến sự hiệp thông trọn vẹn trong các bí tích, đặc
biệt là bí tích Thánh Thể.
Sự
phân biệt giữa hai mức độ thực hiện Giáo Hội chân chính - mức độ bên ngoài của
các dấu chỉ và mức độ bên trong của ân sủng - cho phép Augustinô hình thành một
nguyên tắc có lẽ không thể tưởng tượng nổi trước ngài: "Có thể có trong
Giáo Hội công giáo điều gì đó không phải công giáo, cũng như có thể có ngoài
Giáo Hội công giáo điều gì đó là công giáo". Hai khía cạnh này của Giáo Hội
– vừa hữu hình và thể chế, lẫn vô hình và thiêng liêng - không thể tách rời
nhau. Đức Piô XII đã tái khẳng định điều ấy trong Mystici Corporis và Công đồng Vatican II trong Lumen Gentium, nhưng chừng nào những điều này không trùng hợp với
nhau, vì những sự chia rẽ lịch sử và tội lỗi của con người, người ta không thể
coi trọng sự hiệp thông thể chế hơn sự hiệp thông thiêng liêng.
Theo
tôi, điều đó thực sự đặt ra câu hỏi. Là người công giáo, liệu tôi có thể cảm thấy
hiệp thông với vô số những người, tuy đã chịu phép rửa tội trong cùng một Giáo
Hội, nhưng lại hoàn toàn không quan tâm tới Đức Kitô hay Giáo Hội, hay tôi cảm
thấy hiệp thông hơn với tất cả những người, tuy thuộc các hệ phái Kitô khác, nhưng
tin vào những chân lý căn bản như tôi tin, yêu Chúa Giêsu Kitô đến độ hy sinh mạng
sống cho Ngài, loan truyền Tin Mừng, quan tâm làm giảm bớt sự nghèo khó của thế
giới và đang sở hữu những ân huệ của Chúa Thánh Thần như chúng ta ? Những cuộc
bách hại, thường xẩy ra hôm nay ở một số nơi trên thế giới, không tạo ra sự
khác biệt : người ta không phóng hỏa các nhà thờ, không giết người vì họ là người
công giáo hay thệ phản, nhưng vì họ là người Kitô hữu. Trước mắt kẻ bách hại, công
giáo hay thệ phản cũng như nhau!
Tất
nhiên, đây là câu hỏi mà cả các Kitô hữu thuộc những Giáo Hội khác, đối mặt với
người công giáo, phải đặt ra cho mình, và, tạ ơn Chúa, đó chính là điều đang xảy
ra, theo cách ẩn giấu, nhưng tốt hơn những gì xuất hiện trước công chúng. Một
ngày nào đó, tôi tin chắc người ta sẽ ngạc nhiên khi không để ý trước điều Chúa
Thánh Thần đang thực hiện nơi các Kitô hữu trong thời đại ta. Có rất nhiều Kitô
hữu thuộc các hệ phái khác đang nhìn Giáo Hội công giáo bằng đôi mắt mới và bắt
đầu nhận ra nơi Giáo Hội công giáo những căn rễ riêng của mình.
Trực
giác mới mẻ và phong phú nhất của Augustinô liên quan đến Giáo Hội, như chúng
ta đã thấy, là đã tìm ra nguyên lý cơ bản của sự hiệp nhất trong Thần Khí, chứ
không phải trong sự hiệp thông hàng ngang giữa các giám mục với nhau và giữa các
giám mục với Đức Giáo hoàng Rôma. Cũng như sự hợp nhất của cơ thể con người được
thực hiện bởi linh hồn, khi linh hồn làm sống động và linh hoạt tất cả các chi
thể, cũng vậy là sự hợp nhất của Thân Thể Đức Kitô. Quả thực đó là một sự kiện
thần bí, ngay cả trước khi là một thực tế phô bầy như một xã hội và hữu hình ở
bên ngoài ; là phản chiếu sự hợp nhất hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con nhờ Thần
Khí. Chính Đức Giêsu đã vĩnh viễn quyết định nền tảng thần bí này của sự hợp nhất
khi Ngài nói: "Xin cho chúng nên một như chúng ta là một" (Ga 17,22).
Sự hợp nhất chủ yếu trong học thuyết và kỷ luật sẽ là hiệu quả, chứ không bao
giờ có thể là nguyên nhân, của sự hợp nhất thần bí và thiêng liêng này.
Thế
nên những bước cụ thể nhất đi tới hợp nhất không phải là chuyện được thực hiện ở
bàn họp hoặc trong các tuyên bố chung (cho dù tất cả những việc đó rất quan trọng)
; nhưng là những gì được thực hiện khi những tín hữu thuộc các hệ phái khác
nhau, tuyên xưng sự trung thành của họ với Giáo Hội riêng của họ, tìm đến với
nhau để cùng nhau công bố Đức Giêsu là Chúa, trong sự hiểu biết huynh đệ, mỗi
người chia sẻ đặc sủng của mình và coi nhau như những người anh em trong Đức Giêsu
Kitô.
4. Bộ phận của Thân Thể Đức
Kitô, được Thần Khí làm cho linh hoat!
Trong
các bài thuyết giảng cho dân chúng, Augustinô không bao giờ đưa ra những ý tưởng
của mình về Giáo Hội, mà không lập tức rút ra những hậu kết thực tế cho cuộc sống
hàng ngày của các tín hữu. Đây là việc chúng ta cũng muốn làm, trước khi kết
thúc bài suy niệm này.
Nơi
Augustinô, hình ảnh Giáo Hội như Thân Thể Đức Kitô không phải là mới. Điều mới đối
với ngài là những kết luận cụ thể mà ngài đem áp dụng cho cuộc sống của các tín
hữu. Tôi chỉ đề cập một kết luận : chúng ta không có lý do để nhìn nhau bằng com
mắt ghen tị. Những gì tôi không có và người khác có, cũng đều là của tôi. Bạn
nghe thấy thánh Tông Đồ liệt kê tất cả những đặc sủng tuyệt diệu này : công việc
tông đồ, tiên tri, chữa bệnh..., và nghĩ rằng có lẽ bạn buồn vì không có đặc sủng
nào. Nhưng Augustinô cảnh báo bạn: "Nếu bạn yêu, bạn không phải là không
có đặc sủng nào. Vì nếu bạn gắn bó với toàn thể Giáo Hội, bạn chia sẻ với những
người sở hữu các ân huệ của Thần Khí Thiên Chúa. Đừng ghen tị : tất cả những gì
tôi có đều thuộc về bạn : chính tôi không muốn có bất kỳ cảm giác ghen tị nào,
vì những gì bạn có cũng là của tôi".
Trong
cơ thể con người, chỉ có mắt mới nhìn thấy. Nhưng phải chăng mắt thấy là thấy cho
một mình nó ? Không phải là tất cả thân thể hưởng lợi sao ? Chỉ có bàn tay hành
động, nhưng phải chăng nó hành động cho một mình nó? Nếu một hòn đá sắp va vào
mắt, phải chăng bàn tay vẫn bất động, vì nghĩ rằng dù sao cú va đó không nhắm vào
mình ? Điều tương tự cũng xảy ra với thân thể Đức Kitô : điều mỗi bộ phận là và
làm, là và làm cho mọi người!
Chúng
ta thấy bí mật được mạc khải theo đó bác ái là "con đường trổi vượt"
(1Cr 12,31) : bác ái làm cho tôi yêu mến Giáo Hội, hoặc cộng đồng mà tôi thuộc
về, và, trong sự hợp nhất, mọi đặc sủng thuộc về tôi, chứ không chỉ một vài đặc
sủng nào đó. Thực sự, còn có điều tốt hơn thế nữa. Nếu bạn yêu sự hợp nhất hơn
tôi, đặc sủng mà tôi có thuộc về bạn hơn thuộc về tôi. Giả sử tôi có đặc sủng
loan báo Tin Mừng; Tôi có thể vui mừng hay khoe khoang về nó, nhưng khi đó tôi
trở thành "một thanh la phèng phèng" (1Cr 13,1); đặc sủng của tôi
"chẳng ích gì cho tôi", nhưng lại luôn giúp ích cho người lắng nghe,
bất chấp tội lỗi của tôi. Bác ái thực sự làm gia tăng đặc sủng; nó biến đổi đặc
sủng của một người thành một đặc sủng cho mọi người.
Augustinô
hỏi các tín hữu của mình : Bạn có phải là một bộ phận của Thân Thể Đức Kitô
không ? Bạn có yêu sự hợp nhất này của Giáo Hội không ? Khi ấy, nếu một người
ngoại giáo hỏi bạn tại sao bạn không nói được mọi thứ tiếng, vì có lời chép rằng
những ai lãnh nhận Chúa Thánh Thần thì
nói được mọi thứ tiếng, hãy trả lời không do dự: "Chắc chắn tôi nói được mọi
thứ tiếng ! Bởi vì tôi thuộc về thân thể này là Giáo Hội, một Giáo Hội nói mọi
thứ tiếng và loan báo các kỳ công của Thiên Chúa trong mọi thứ tiếng".
Khi
chúng ta có thể áp dụng chân lý này không chỉ đối với các mối quan hệ trong cộng
đồng của chúng ta và với Giáo Hội của chúng ta, mà còn với những liên hệ nối kết
một Giáo Hội Kitô này với một Giáo Hội Kitô khác, thì khi ấy sự hợp nhất của các
Kitô hữu thực tế đã được thực hiện.
Chúng
ta hãy theo lời khuyên được Augustinô dùng để kết luận rất nhiều bài giảng của ngài
về Giáo hội: "Nếu bạn muốn sống bằng Thần Khí, hãy duy trì đức ái, yêu sự
thật và bạn sẽ đạt tới vĩnh cửu. Amen".
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ hai Mùa Chay năm 2014, tai Phủ Giáo hoàng)
Lm Micae Trần Đình Quảng