Nhà tĩnh tâm Thầy Chí Thánh ở Ariccia - ANSA
21/02/2018 12:46
Sáng thứ tư 21/02, cha José Tolentino Mendonça, giảng thuyết viên
tuần tĩnh tâm dành cho Đức Thánh Cha và giáo triều Roma, đã bắt đầu bài suy
niệm thứ 6 với tựa đề “Nước mắt nói lên cơn khát”. Trong suy niệm, cha José
giải thích rằng nước mắt của các phụ nữ trong Tin mừng diễn tả cơn khát Chúa
Giêsu. Cha đọc lại ý nghĩa của nước mắt trong cuộc sống con người và trong mối
quan hệ với Thiên Chúa.
Nước mắt của các phụ nữ trong Tin mừng
Bà Maria, bà góa thành Naim, người phụ nữ tội lỗi. Không thể phủ
nhận rằng có nhiều phụ nữ trong Tin mừng với những cảnh đời, tuổi tác, điều
kiện kinh tế, cách sống khác nhau, rao giảng Tin mừng. Cách thế của họ là phục
vụ; họ không bao giờ đặt câu hỏi để gài bẫy Chúa Giêsu. Điểm chung liên kết tất
cả họ là nước mắt, đầy cảm xúc, xung đột, niềm vui và thương đau.
Nhưng nước mắt nói rằng Thiên Chúa nhập thể trong cuộc sống chúng
ta, trong các thất bại của chúng ta, trong các cuộc gặp gỡ chúng ta. Trong các
Tin mừng, Chúa Giêsu cũng khóc. Chúa Giêsu mang lấy thân phận của chúng ta,
Ngài trở thành một người trong chúng ta, và vì điều này, nước mắt của chúng ta
được kết hợp trong nước mắt của Người. Người thực sự mang lấy những giọt nước
mắt. Khi Người khóc, Người thu nhận và cách liên đới, lau đi tất cả nước mắt
của thế giới.
Ước muốn sống
Chính các phụ nữ trong các Tin mừng đã trao quyền công dân cho
nước mắt khi tỏ cho thấy tầm quan trọng của dấu hiệu này. Cha Josè đến nhận
định của nhà nhà tâm lý học Julia Kristeva: khi một bệnh nhân tuyệt vọng đến
phát khóc trên ghế sofa, một điều rất quan trọng đã xảy ra. Đó là anh ta bắt
đầu đi xa khỏi cám dỗ tự tử, bởi vì những giọt nước mắt không nói lên ước muốn
chết mà là “khao khát sống”.
Thiên Chúa biết nỗi đau khóc lóc
Ngay từ những đứa bé, tiếng khóc cho biết khát mong mối liên hệ.
Nhiều vị thánh, như Inhaxiô thành Loyola, đã khóc rất nhiều. Triết gia Cioran
nói rằng trong cuộc phán xét cuối cùng sẽ chỉ nước mắt được coi trọng vì nó đem
lại cảm giác vĩnh hằng cho tương lai chúng ta, và món qua của tôn giáo chính là
điều dạy chúng ta khóc: nước mắt là thứ có thể đưa chúng ta trở thành thánh sau
khi là con người.
Tiểu sử của chúng ta có thể được kể lại qua nước mắt: của vui
mừng, của ngày hội, của cảm xúc rực sáng; và của đêm tối tăm, khóc lóc, bị bỏ
rơi, ăn năn và hối cải. Chúng ta nghĩ đến những giọt nước mắt của chúng ta đã
đổ ra, và đến những người vẫn còn nghẹn trong cổ họng và sự thiếu thốn của họ
đã khiến chúng ta cảm thấy nặng nề hay cảm thấy nặng nề. Sự đau đớn của những
giọt nước mắt đó không phải nước mắt đổ ra vì khóc. Thiên Chúa biết tất cả và
đón nhận chúng như một lời cầu nguyện. Do đó, chúng ta tin cậy. Đừng che giấu
những giọt nước mắt với Ngài.
Tìm kiếm mối tương giao
Theo Gregorio Nazianzeno, nước mắt theo một nghĩa nào đó là phép
thanh tẩy thứ năm. Khi ở trong tù, Nelson Mandela đã khôi phục lại được đôi mắt
bị hư, mất đi khả năng đổ lệ, chứ không phải là khao khát công bằng. Cuối cùng,
khi người ta khóc, thậm chí là cố gắng không để cho người khác thấy chúng ta
khóc, sự thật là chúng ta luôn luôn khóc để người khác nhìn thấy. “Đó là nỗi
khao khát người khác làm cho chúng ta khóc”: một người bạn đến và
chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có thể để cho bản thân mình rơi vào những cảm
xúc sâu thẳm nhất của chúng ta.
Cuối cùng, cha Josè đề cập đến người phụ nữ đã khóc và rửa chân
Chúa Giêsu bằng nước mắt của bà. Cha lưu ý là nhiều lần, người ta giữ thái độ
xa cách và phê bình lòng đạo đức bình dân, trong đó người ta thể hiện mình với
vô vàn nước mắt. Đôi khi các mục tử khó có thể nhận ra tôn giáo của những người
đơn giản, không dựa trên ý tưởng, mà chỉ dựa vào cử chỉ. Ngược lại, đôi khi
người ta có thể sống theo cách dửng dưng lạnh lùng. Chính phẩm chất ấn tượng
của những gì người phụ nữ mang đến cho Chúa Giêsu cho phép chúng ta thấy rằng
Simon, chủ nhà, đã không cho bất cứ điều gì. Cha Josè kết luận: “Đó là lòng
hiếu khách chưa từng thấy mà Chúa Giêsu muốn khen ngợi”. Cơn khát này, mà nước
mắt là dấu chỉ, là điều đến lượt chúng ta cần phải học hỏi. (