Tĩnh
tâm Mùa Chay 2023 cùng Giáo triều Rôma
Bài
thứ Nhất: Canh tân sự mới mẻ
Trong
bài giảng đầu tiên của mình cho Mùa Chay 2023, diễn ra hôm Thứ Sáu 3 tháng Ba
tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục, vị giảng thuyết của Phủ Giáo hoàng, Đức Hồng
Y Raniero Cantalamessa, đã tập trung vào “sự mới mẻ của Thần Khí” và nhu cầu
đổi mới và hoán cải liên tục, cả cá nhân cũng như toàn thể Giáo Hội.
Ngài
nói, vấn đề không phải là sự mới lạ tự nó, mà là cách chúng ta đối phó với nó.
“Mọi sự mới lạ và mọi sự thay đổi đều là một ngã rẽ; nó có thể đi theo hai con
đường đối nghịch nhau: con đường của thế gian hoặc con đường của Thiên Chúa;
hoặc là con đường của cái chết hoặc con đường của sự sống”.
Đức
Hồng Y Cantalamessa tiếp tục nói rằng trong Giáo Hội, “chúng ta luôn có một
phương thế không thể sai lầm để đi trên con đường sự sống và ánh sáng: đó là
Chúa Thánh Thần”. Ngài giải thích rằng loạt bài giảng trong Mùa Chay năm nay
nhằm “khuyến khích chúng ta đặt Chúa Thánh Thần ở trung tâm của toàn bộ đời
sống Giáo Hội,” và đặc biệt là trong công việc của Thượng Hội đồng đang diễn
ra.
Trong
bài giảng đầu tiên của mình, Đức Hồng Y đã tìm đến những bài học được dạy bởi
cộng đồng Kitô giáo sơ khai. Trong những ngày đầu tiên, Giáo Hội được Chúa
Thánh Thần dẫn dắt, được Ngài hướng dẫn trong các vấn đề lớn nhỏ.
Phương
pháp hướng về Chúa Thánh Thần này để đưa ra các quyết định của Giáo Hội – như Giáo
Hội đã làm đối với vấn đề chấp nhận dân ngoại vào Giáo Hội – cũng có thể được
thấy trong các nỗ lực của Công đồng Vatican II nhằm đổi mới giáo huấn của Giáo
Hội về chính mình, và đặc biệt là vai trò của giáo dân.
Nó cũng
giúp chúng ta thấy rằng các vấn đề trong Giáo Hội không chỉ được giải quyết
bằng các Thượng Hội Đồng hoặc các sắc lệnh, mà còn bằng việc tiếp nhận những
giáo huấn đó.
Sau đó,
Đức Hồng Y Cantalamessa đã nhắc lại vai trò của Thánh Phêrô trong việc làm
trung gian giữa các mối quan tâm cạnh tranh nhau trong Giáo Hội sơ khai, một
vai trò ngày nay vẫn được các Giáo hoàng với tư cách là những người kế vị Thánh
Phêrô tiếp tục.
Kết
thúc bài giảng của mình, Vị giảng thuyết của Phủ Giáo hoàng nhấn mạnh tầm quan
trọng của lòng nhân từ, đối xử tốt với người khác, đồng thời nghiêm khắc với
chính mình. Như một biện pháp khắc phục sự phân cực và chia rẽ trong Giáo Hội,
ngài đề xuất cố gắng xem xét các vấn đề từ quan điểm của người khác.
Thay vì
phán xét người khác bằng sự kết án, Đức Hồng Y Cantalamessa nói, “vấn đề không
phải là loại bỏ sự phán xét khỏi trái tim của chúng ta, mà là loại bỏ chất độc
khỏi sự phán xét của chúng ta”.
Ngài
nói: “Sức mạnh của tình yêu Kitô giáo nằm ở chỗ nó có khả năng thay đổi sự phán
xét từ một hành động không yêu thương, biến nó thành một hành động yêu thương,”
nhờ vào ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Đức
Hồng Y Cantalamessa kết thúc bài giảng của mình với Kinh Hòa Bình “Hãy biến con
thành khí cụ bình an của Chúa,” đôi khi được cho là của Thánh Phanxicô thành
Assisi.
Nguyên
bản tiếng Ý tại http://www.cantalamessa.org/?p=4059&lang=it. Dưới đây
là bản dịch toàn văn bài giảng của Đức Hồng Y sang Việt Ngữ.
“Ipsa
novitas innovanda est”,
Canh tân sự mới mẻ
Bài giảng thứ nhất mùa Chay
03-3-2023
“IPSA
NOVITAS INNOVANDA EST” Canh tân sự mới mẻ
Lịch sử
Giáo Hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã để lại cho chúng ta một bài học cay
đắng mà chúng ta không được quên để không lặp lại lỗi lầm đã gây ra. Tôi muốn
nói về sự chậm trễ (thực sự là sự phủ nhận) trong việc ghi nhận những thay đổi
đã diễn ra trong xã hội, và về cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa Hiện đại là hậu
quả của nó.
Bất cứ
ai đã nghiên cứu về thời kỳ đó, dù chỉ một cách hời hợt, đều biết những thiệt
hại mà sự phủ nhận đó gây ra cho cả bên này và bên kia, nghĩa là cho cả Giáo
Hội và những người được gọi là “những người theo chủ nghĩa hiện đại”. Một mặt,
việc thiếu đối thoại đã đẩy một số người theo chủ nghĩa hiện đại nổi tiếng nhất
vào những quan điểm cực đoan hơn bao giờ hết và cuối cùng rõ ràng là dị giáo;
mặt khác, nó tước đi nguồn năng lượng to lớn của Giáo Hội, gây ra những vết
rách và đau khổ vô tận trong Giáo Hội, khiến Giáo Hội ngày càng thu mình lại và
khiến Giáo Hội lạc nhịp với thời đại.
Công
đồng Vatican II là một sáng kiến mang tính tiên tri để bù đắp thời gian đã mất.
Công Đồng đã mang lại một sự canh tân mà chắc chắn không phải là trường hợp để
minh họa lại ở đây. Hơn cả nội dung của Công Đồng, tại thời điểm này, chúng ta
quan tâm đến phương pháp mà Công Đồng đã khởi xướng, đó là đi xuyên qua lịch
sử, bên cạnh nhân loại, cố gắng phân định các dấu chỉ của thời đại.
Lịch sử
và đời sống của Giáo Hội không dừng lại ở Công đồng Vatican II. Khốn cho những
ai đã làm điều mà một số người đã cố gắng làm với Công Đồng Trentô, nghĩa là
xem đó là một lằn ranh đã hoàn thành và một mục tiêu cố định. Nếu cuộc sống của
Giáo Hội dừng lại, tình hình sẽ xảy ra giống như một dòng sông chạm đến một rào
cản: nó chắc chắn sẽ biến thành một vũng lầy hoặc một đầm lầy.
Hồi thế
kỷ thứ ba, Origen đã viết: “Đừng nghĩ rằng chỉ cần đổi mới một lần là đủ; chúng
ta cần canh tân cả sự mới lạ” – Ipsa novitas innovanda est.[1]
Trước ngài, tân tiến sĩ của Giáo Hội, Thánh Irênê đã viết: chân lý được mặc
khải “giống như thứ rượu quý chứa trong một cái bình quý giá. Nhờ công việc của
Chúa Thánh Thần, nó luôn trẻ hóa và cũng làm cho bình chứa nó trẻ lại”.[2]
“Cái bình” chứa đựng chân lý mạc khải là truyền thống sống động của Giáo Hội.
“Rượu quý” trước hết là Kinh thánh, nhưng Kinh thánh được đọc trong Giáo Hội,
đó là định nghĩa đúng đắn nhất của Truyền thống. Về bản chất, Thần Khí là sự
mới lạ. Thánh Tông Đồ khuyến khích những người đã được rửa tội phục vụ Thiên
Chúa “theo sự mới mẻ của Thần Khí chứ không theo sự cũ kỹ của văn tự” (Rm 7:6).
Xã hội
không những không dừng lại vào thời Công đồng Vatican II, mà còn trải qua một
sự tăng tốc chóng mặt. Những thay đổi trước đây mất một hoặc hai thế kỷ, giờ
đây mất một thập kỷ. Nhu cầu đổi mới liên tục này không gì khác hơn là nhu cầu
hoán cải liên tục, được mở rộng từ cá nhân tín hữu cho đến toàn thể Giáo Hội
trong thành phần nhân bản và lịch sử của mình. Ecclesia semper reformanda -
Giáo Hội phải luôn canh tân. Do đó, vấn đề thực sự không nằm ở tính mới mẻ;
nhưng đúng hơn là trong cách chúng ta đối phó với sự mới mẻ. Hãy để tôi giải
thích. Mọi sự mới lạ và mọi sự thay đổi đều là một ngã rẽ; nó có thể đi theo
hai con đường trái ngược nhau: con đường của thế gian hoặc con đường của Thiên
Chúa: con đường của sự chết hoặc con đường của sự sống. Giáo huấn của 12 Tông
đồ, hay Didache, được viết khi ít nhất một trong số mười hai Tông đồ vẫn còn
sống, đã minh họa hai cách này.
Bây giờ
chúng ta có một phương tiện không thể sai lầm để đi trên con đường sự sống và
ánh sáng mọi lúc: đó là Chúa Thánh Thần. Đó là điều chắc chắn mà Chúa Giêsu đã
trao cho các Tông Đồ trước khi từ giã các ông: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người
sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16).
Và một lần nữa: “Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. (Ga
16:13). Chúa Thánh Thần sẽ không làm tất cả cùng một lúc, hoặc một lần và mãi
mãi, nhưng khi có tình huống phát sinh. Trước khi dứt khoát từ giã họ, vào lúc
về trời, Đấng Phục Sinh đã trấn an các môn đệ về sự trợ giúp của Đấng Bảo Trợ :
“Anh em sẽ nhận được,” Người nói, “sức mạnh từ Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự
xuống trên anh em, và anh em sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem, trong tất
cả miền Giuđêa và Samari, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Mục
đích của năm bài giảng Mùa Chay mà chúng ta bắt đầu hôm nay, rất đơn giản,
chính là điều này: khuyến khích chúng ta đặt Chúa Thánh Thần ở trung tâm của
toàn bộ đời sống Giáo Hội, và đặc biệt, vào thời điểm này, ở trung tâm. của các
công trình đồng nghị. Nói cách khác, hãy đón nhận lời mời khẩn thiết mà Đấng
Phục Sinh ngỏ lời trong Sách Khải Huyền với từng Giáo Hội trong số bảy Giáo Hội
của Tiểu Á: “Ai có tai, hãy nghe điều Thần Khí phán cùng các Giáo Hội” (Kh
2:7).
Đó là
cách duy nhất mà bản thân tôi không được phép hoàn toàn xa lạ với cam kết liên
tục đối với thượng hội đồng. Trong một trong những bài giảng đầu tiên của tôi
trước Phủ Giáo hoàng, cách đây 43 năm, tôi đã nói trước mặt Thánh Gioan Phaolô
II: “Suốt cuộc đời tôi, tôi tiếp tục làm công việc khiêm tốn mà tôi đã làm khi
còn nhỏ”. Và tôi đã giải thích tại sao. Ông bà ngoại tôi canh tác trên một vùng
đất đồi núi rộng lớn với tư cách là người lĩnh canh. Vào tháng 6 hoặc tháng 7,
có vụ thu hoạch, tất cả đều được thực hiện bằng tay, với lưỡi liềm, còng lưng
dưới nắng. Đó là một công việc rất khó khăn! Tôi và mấy đứa em họ phụ trách
việc liên tục mang nước cho thợ gặt uống. Tôi nói đó là điều tôi đã làm trong
suốt phần đời còn lại của mình. Thợ gặt đã thay đổi, giờ đây họ là những người
thợ trong vườn nho của Chúa, và nguồn nước đã khác, giờ đây là Lời Chúa. Thành
thật mà nói, một công việc của tôi ít mệt mỏi hơn nhiều so với công việc của
những người lao động ngoài đồng, nhưng tôi hy vọng cũng hữu ích và cần thiết ở
một mức độ nào đó.
Trong
bài giảng đầu tiên này, tôi sẽ giới hạn bản thân mình trong việc thu thập bài
học đến với chúng ta từ Giáo Hội sơ khai. Nói cách khác, tôi muốn trình bày
cách Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các Tông Đồ và cộng đồng Kitô hữu thực hiện
những bước đầu tiên trong lịch sử. Khi những lời của Chúa Giêsu được đề cập ở
trên về sự trợ giúp của Đấng Bảo Trợ được Thánh Sử Gioan ghi lại, Giáo Hội đã
có kinh nghiệm thực tế về những lời này, và các nhà chú giải cho chúng ta biết
chính kinh nghiệm này đã được phản ánh trong lời của vị thánh sử.
Sách
Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy một Giáo Hội từng bước “được Thánh Thần hướng
dẫn”. Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần dành cho Giáo Hội được thực hiện không
chỉ trong các quyết định lớn mà còn trong các vấn đề nhỏ. Phaolô và Timôthêô
muốn rao giảng Phúc Âm ở A-si-a, nhưng “Chúa Thánh Thần ngăn cản các ngài;” các
ngài chuẩn bị tiến về Bithynia, nhưng có lời chép rằng “Thánh Linh của Chúa
Giêsu không cho phép họ” (Công vụ 16:6). Từ những điều sau đó, chúng ta hiểu lý
do của sự hướng dẫn cấp bách này: Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Giáo Hội sơ khai
rời bỏ Á Châu và hướng về một lục địa mới, Âu Châu (x. Cv 16:9). Trong các lựa
chọn của mình, Thánh Phaolô tự xác định mình, là “tù nhân của Thánh Linh” (Cv
20:22).
Con
đường của Giáo Hội non trẻ không phải là con đường thẳng tắp và bằng phẳng.
Cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên liên quan đến việc thu nhận dân ngoại vào Giáo
Hội. Không cần phải nhắc nhớ lại tiến trình của nó. Chúng ta chỉ quan tâm đến
việc ghi nhớ cách giải quyết khủng hoảng. Thánh Phêrô đến gặp Conêliô và những
người dân ngoại — chính Thánh Linh truyền lệnh cho ngài (xem Cv 10:19; 11:12).
Và quyết định của các Tông Đồ ở Giêrusalem chào đón những người ngoại giáo vào
cộng đồng mà không buộc họ phải cắt bì và tuân thủ tất cả luật pháp Môise, được
thúc đẩy và truyền đạt như thế nào? Nó được giải quyết bằng những lời mở đầu
phi thường đó: “Chúa Thánh Thần và chúng ta thấy điều đó tốt đẹp…” (15:28).
Vấn đề
không phải là tạo ra khảo cổ học của Giáo Hội, mà là đưa ra ánh sáng, luôn luôn
mới mẻ, khuôn mẫu của mọi quyết định của Giáo Hội. Trên thực tế, không cần
nhiều nỗ lực để thấy sự tương đồng giữa việc mở cửa lúc bấy giờ được thực hiện
đối với dân ngoại, và việc mở cửa ngày nay áp đặt cho giáo dân, và đặc biệt là
đối với phụ nữ. Do đó, điều đáng nhắc lại là động lực đã thúc đẩy Thánh Phêrô
vượt qua sự bối rối của mình và làm phép rửa cho Conêliô cùng gia đình ông.
Chúng ta đọc thấy trong sách Tông đồ Công vụ:
Ông
Phêrô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những
người đang nghe lời Thiên Chúa. Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với
ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả
các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương
Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phêrô nói rằng: “Những người này đã nhận được Thánh
Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa
cho họ? (Cv 10:44-47)
Được
kêu gọi để biện minh cho hành vi của mình ở Giêrusalem, Thánh Phêrô kể lại
những gì đã xảy ra trong nhà của Conêliô và kết luận bằng cách nói:
Tôi nhớ
lại lời Chúa đã nói: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước nhưng anh em sẽ được rửa
bằng Thánh Thần”. Vậy nếu Thiên Chúa ban cho họ ân sủng giống như Ngài đã ban
cho chúng ta khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể cản
trở Thiên Chúa?
Nếu
chúng ta nhìn kỹ, thì đó chính là động lực đã thúc đẩy các Nghị phụ của Công
đồng Vatican II xác định lại vai trò của giáo dân trong Giáo Hội, cụ thể là học
thuyết về các đặc sủng. Chúng ta biết rõ văn bản, nhưng việc nhớ lại nó luôn
hữu ích:
Không
phải chỉ nhờ các bí tích và các thừa tác vụ của Giáo Hội mà Chúa Thánh Thần
thánh hóa, dẫn dắt dân Chúa và làm phong phú dân Chúa bằng các nhân đức, nhưng
còn “phân phát các ân huệ của Người cho mọi người tuỳ ý Người” (1Cr 12:11),
Ngài phân phát những ân sủng đặc biệt giữa các tín hữu thuộc mọi cấp bậc. Bằng
những hồng ân này, Ngài làm cho họ thích hợp và sẵn sàng đảm nhận các nhiệm vụ
và chức vụ khác nhau góp phần vào việc đổi mới và xây dựng Giáo Hội, theo lời
của Thánh Tông đồ: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích
chung” ( 1Cr 12:7). Những đặc sủng này, dù nổi bật hơn hay đơn giản hơn và phổ
biến rộng rãi hơn, đều phải được đón nhận với lòng tạ ơn và an ủi vì chúng hoàn
toàn phù hợp và hữu ích cho các nhu cầu của Giáo Hội.[3]
Chúng
ta đang đối mặt với việc tái khám phá bản chất của Giáo Hội không chỉ có phẩm
trật mà còn có đặc sủng. Thánh Gioan Phaolô II, trong Tông Thư Novo millennio
ineunte – Khởi đầu ngàn năm mới (số 45) đã làm cho điều đó trở nên rõ ràng hơn
bằng cách định nghĩa Giáo Hội như một phẩm trật và như một sự hiệp thông
(koinonia). Thoạt đọc, tông hiến gần đây về việc cải cách Giáo triều Praedicate
Evangelium (ngoài tất cả các khía cạnh pháp lý và kỹ thuật mà tôi hoàn toàn
không biết gì) đã cho tôi ấn tượng về một bước tiến theo cùng một hướng: nghĩa
là, trong việc áp dụng nguyên tắc được Công đồng phê chuẩn cho một khu vực cụ
thể của Giáo Hội, đó là việc cai quản Giáo Hội với sự tham gia nhiều hơn của
giáo dân và phụ nữ.
Nhưng
bây giờ chúng ta phải tiến thêm một bước nữa. Tấm gương của Giáo Hội tông
truyền soi sáng cho chúng ta không chỉ về các nguyên tắc linh hứng, nghĩa là về
lý thuyết, mà còn về thực hành của Giáo Hội. Tấm gương ấy cho chúng ta biết
rằng không phải mọi thứ đều được giải quyết bằng các quyết định được đưa ra
trong một công đồng hoặc bằng một sắc lệnh. Cần phải biến những quyết định này
thành thực tế, thành điều gọi là “sự tiếp nhận” các tín lý. Và để làm được điều
này, chúng ta cần thời gian, sự kiên nhẫn, đối thoại, lòng khoan dung; thậm chí
đôi khi thỏa hiệp. Khi được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, sự thỏa hiệp không
phải là nhượng bộ hay giảm giá trị chân lý, mà là bác ái và tuân theo hoàn
cảnh. Thiên Chúa đã kiên nhẫn và bao dung biết bao sau khi ban Mười Điều Răn
cho dân Người! Ngài đã chờ đợi bao lâu - và vẫn vậy - để được chúng ta tiếp
nhận!
Xuyên
suốt câu chuyện vừa đề cập, rõ ràng Thánh Phêrô xuất hiện với tư cách là người
hòa giải giữa Thánh Giacôbê và Thánh Phaolô mới cải đạo, tức là giữa mối quan
tâm về tính liên tục và tính mới mẻ. Trong buổi hòa giải này, chúng ta chứng
kiến một sự việc có thể giúp ích cho chúng ta cho đến tận ngày nay. Sự việc là
của Phaolô, người ở Antiôkia đã khiển trách Phêrô là đạo đức giả vì đã tránh
ngồi cùng bàn với những người ngoại đạo cải đạo. Hãy nghe những gì đã xảy ra từ
chính giọng nói của ngài:
Nhưng
khi ông Kêpha đến Antiôkia, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm
điều đáng trách. Thật vậy, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại
trước khi có những người của ông Giacôbê đến; nhưng khi những người này đến,
ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì. (Gal 2:11-12).
Những
người bảo thủ thời đó đã trách móc Thánh Phêrô vì đã đi quá xa khi tìm đến
người ngoại đạo Conêliô; Phaolô trách ông đã không đi đủ xa. Thánh Phaolô là vị
thánh mà tôi yêu quý nhất, là người tôi ngưỡng mộ và yêu mến nhất. Nhưng trong
trường hợp này, tôi tin chắc rằng Thánh Phaolô đã để bản thân bị lôi cuốn (và
đó không phải là lần duy nhất!) bởi tính cách bốc lửa của mình. Tại Antiôkia,
chính Thánh Phêrô mới đúng chứ không phải ông. Thánh Phêrô không hề phạm tội
đạo đức giả. Bằng chứng là vào một dịp khác, chính Phaolô đã làm y như Thánh
Phêrô đã làm ở Antiôkia. Tại Lystra, ông đã yêu cầu người bạn đồng hành của
mình là Timôthêô chịu phép cắt bì “vì”, theo trình thuật, ông “nể nang những
người Do Thái ở các vùng đó” (Cv 16:3), nghĩa là, để không gây tai tiếng cho
bất kỳ ai. Với dân thành Côrintô, Thánh Phaolô viết rằng ngài đã trở thành
“người Do Thái với người Do Thái, để chinh phục người Do Thái” (1 Cor 9:20) và
trong Thư gửi tín hữu Rôma, ngài khuyên nên gặp gỡ những người chưa đạt được tự
do mà những người khác được hưởng, để không biến nước Thiên Chúa thành “chuyện
của ăn của uống” (Rm 14:1ff).
Vai trò
trung gian mà Thánh Phêrô thực hiện giữa các lựa chọn tương phản của Giacôbê và
Phaolô vẫn tiếp tục nơi những người kế vị ngài. Một điều tốt cho Giáo Hội là
chắc chắn không có sự đồng nhất nơi mỗi người trong số họ, nhưng theo đặc sủng
riêng của mỗi người mà Chúa Thánh Thần (và các cộng sự viên dưới quyền của
Ngài) đã coi là cần thiết nhất vào một thời điểm nhất định của lịch sử Giáo
Hội.
Đối mặt
với các sự kiện và thực tế chính trị, xã hội và Giáo Hội, chúng ta thường có
khuynh hướng ngay lập tức xếp hàng về một phía và coi phe đối lập là ma quỷ, để
mong muốn chiến thắng cho sự lựa chọn của chúng ta đối với lựa chọn của đối
phương. (Nếu chiến tranh nổ ra, mọi người đều cầu nguyện cùng một Thiên Chúa
ban cho quân đội của họ chiến thắng và tiêu diệt quân của đối phương – là điều
mà ngay cả đối với Thiên Chúa cũng không thể đạt được!). Tôi không nói rằng
không được có những ưa thích: trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, thần học,
v.v., cũng không nói rằng có thể không có những ưa thích. Nhưng chúng ta đừng
bao giờ mong đợi Thiên Chúa đứng về phía chúng ta chống lại đối phương. Chúng
ta cũng không nên yêu cầu điều này từ những người cai trị chúng ta. Nó giống
như yêu cầu một người cha chọn giữa hai đứa con; như thể nói với người cha
rằng: “Hãy chọn: hoặc tôi hoặc đối phương của tôi; hãy thể hiện rõ ràng ông
đứng về phía ai! Thiên Chúa ở với mọi người và do đó Ngài không thể chống lại
bất cứ ai! Ngài là cha của tất cả.
Hành
động của Thánh Phêrô ở Antiôkia - giống như hành động của Phaolô ở Lystra -
không phải là đạo đức giả, mà là sự thích nghi với các tình huống, nghĩa là lựa
chọn điều gì là phù hợp, trong một tình huống nhất định, ủng hộ lợi ích lớn hơn
của sự hiệp thông. Về điểm này, tôi muốn tiếp tục và kết thúc bài suy niệm đầu
tiên này, cũng bởi vì điều này cho phép chúng ta chuyển từ những gì liên quan
đến Giáo Hội hoàn vũ sang những gì liên quan đến Giáo Hội địa phương, thực sự
là cộng đồng hoặc gia đình của chúng ta, và đời sống thiêng liêng của mỗi người
của chúng ta (tôi nghĩ đó là điều mà người ta mong đợi từ việc suy niệm Mùa
Chay!).
Có một
đặc quyền của Thiên Chúa trong Kinh thánh mà các Giáo phụ thích nhấn mạnh:
synkatabasis, nghĩa là sự hạ mình. Đối với Thánh Gioan Kim khẩu, đó là một loại
chìa khóa để hiểu toàn bộ Kinh thánh. Trong Tân Ước, đặc quyền tương tự này của
Thiên Chúa được diễn tả bằng thuật ngữ nhân từ (chrestotes). Thiên Chúa hoá
thành nhục thể để hạ cố đến với chúng ta được coi là biểu hiện tối cao của lòng
nhân từ của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân từ và tình yêu thương của
Ngài đối với loài người” (Tít 3:4).
Lòng
nhân từ là một cái gì đó khác hơn là lòng tốt đơn thuần; đó là tốt cho người
khác. Thiên Chúa tốt lành trong chính Ngài và nhân từ với chúng ta. Lòng nhân
từ là một trong những hoa trái của Thần Khí (Gal 5:22) và là thành phần thiết
yếu của đức ái (1 Cr 13:4). Lòng nhân từ chiếm một vị trí trung tâm trong tính
cách của người Tông Đồ. Chẳng hạn, chúng ta đọc trong Thư gửi tín hữu thành
Côlôxê:
Anh em
là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh
em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu
đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc
người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ
cho nhau (Cl 3:12-13)
Năm nay
chúng ta kỷ niệm 400 năm ngày mất của một vị thánh là mẫu mực tuyệt vời của
nhân đức này trong một thời đại không kém phần nổi bật bởi những tranh cãi gay
gắt: Thánh Phanxicô Đệ Salê. Trong Giáo Hội, tất cả chúng ta nên trở thành
“những người Salêdiêng”, theo nghĩa này: hạ mình hơn, tử tế hơn và khoan dung
hơn, bớt bám víu vào những điều chắc chắn của cá nhân mình, nhận thức được bao
nhiêu lần chúng ta đã phải thừa nhận trong lòng rằng chúng ta đã sai về một
người, hoặc một tình huống, và bao nhiêu lần chúng ta cũng phải thích nghi với
các tình huống. Cảm ơn Chúa., trong các mối quan hệ Giáo Hội của chúng ta,
không có – và không bao giờ nên có – khuynh hướng xúc phạm và phỉ báng đối
phương, là điều dễ nhận thấy trong một số cuộc tranh luận chính trị và gây ra
rất nhiều thiệt hại cho sự chung sống dân sự hòa bình.
Đúng là
có một người mà tôi không thể nào khoan nhượng đối với người đó, nhưng người đó
chính là bản thân tôi. Về bản chất, chúng ta có khuynh hướng không khoan nhượng
với người khác và khoan dung với chính mình, trong khi chúng ta nên bắt đầu làm
điều ngược lại: nghiêm khắc với bản thân và nhịn nhục với người khác. Thực hiện
một cách nghiêm túc, chỉ riêng nghị quyết này thôi cũng đủ để thánh hóa Mùa
Chay của chúng ta. Nó sẽ miễn cho chúng ta khỏi bất kỳ hình thức ăn chay nào
khác và sẽ giúp chúng ta làm việc hiệu quả hơn và thanh thản hơn trong mọi lĩnh
vực của đời sống Giáo Hội.
Một bài
tập hữu ích trong lĩnh vực này là hãy trung thực, trước tòa án của trái tim anh
chị em, với người mà anh chị em không đồng ý. Khi tôi nhận thấy rằng tôi đang
buộc tội ai đó bên trong tâm hồn mình, tôi phải cẩn thận để không đứng về phía
mình ngay lập tức. Tôi phải ngừng nhắc đi nhắc lại lý do của mình như nhai kẹo
cao su, nhưng thay vào đó, hãy cố gắng đặt mình vào vị trí của người khác để
hiểu động cơ của họ và họ có thể nói gì để đáp lại tôi.
Bài tập
này không được thực hiện chỉ đối với một người duy nhất, mà còn cả với luồng tư
tưởng mà tôi không đồng ý và với giải pháp do luồng tư tưởng đó đề xuất cho một
vấn đề nhất định đang được thảo luận (tại Thượng Hội đồng hoặc vào những thời
điểm khác). Thánh Thomas Aquinas cho chúng ta một ví dụ: ngài bắt đầu mỗi bài
viết trong Tổng luận của mình bằng những lập luận của đối thủ, không bao giờ
tầm thường hóa hoặc chế nhạo họ, và sau đó ngài đáp lại bằng Sed contra, tức là
bằng những lý do mà ngài cho là phù hợp với đức tin và đạo đức. Hãy tự hỏi
chính mình trước: chúng ta có làm như vậy không?
Chúa
Giêsu nói: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. [...] Tại sao anh em nhìn
thấy cái rác trong mắt anh em mình, trong khi anh em không nhận thấy cái xà
trong mắt mình? (Mt 7:1-3). Nhưng chúng ta có thể sống mà không bao giờ phán
xét không? Khả năng phán đoán là một phần trong cấu trúc tinh thần của chúng
ta, nó là một món quà từ Chúa. Trong Tin Mừng Luca, mệnh lệnh của Chúa Giêsu:
“Anh em đừng xét đoán, thì anh em khỏi bị xét đoán” ngay sau đó – như để làm
sáng tỏ ý nghĩa của những lời này – Chúa đưa ra một mệnh lệnh: “Chớ lên án thì
anh em khỏi bị lên án” ( Lc 6:37). Vì vậy, vấn đề không phải là loại bỏ sự xét
đoán khỏi tâm hồn của chúng ta, mà đúng hơn là loại bỏ chất độc khỏi sự xét
đoán của chúng ta! Tức là lòng căm ghét, thái độ lên án, bác bỏ thẳng thừng.
Cha mẹ,
bề trên, cha giải tội, thẩm phán - bất cứ ai có trách nhiệm đối với người khác
- đều phải phán xét. Quả thực, đôi khi, phán đoán chính xác là kiểu phục vụ mà
một người được mời gọi thực hiện trong xã hội hoặc trong Giáo Hội. Sức mạnh của
tình yêu Kitô giáo nằm ở chỗ nó có khả năng thay đổi sự phán xét từ một hành
động không yêu thương, biến nó thành một hành động yêu thương. Không phải bằng
sức riêng của chúng ta, nhưng nhờ vào tình yêu “đã được đổ vào lòng chúng ta
nhờ Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta” (Rm 5:5).
Chúng
ta hãy kết thúc bằng cách biến lời cầu nguyện đẹp đẽ của Thánh Phanxicô thành
Assisi thành lời cầu nguyện của riêng mình. (Có thể nó không phải của thánh
nhân, nhưng nó phản ánh hoàn hảo tinh thần của ngài):
Lạy
Chúa từ nhân!
Xin cho
con biết mến yêu
và
phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy
Chúa xin hãy dùng con
như khí
cụ bình an của Chúa,
để con
đem yêu thưong vào nơi oán thù,
đem thứ
tha vào nơi lăng nhục,
đem an
hòa vào nơi tranh chấp,
đem
chân lý vào chốn lỗi lầm.
Ðể con
đem tin kính vào nơi nghi nan,
chiếu
trông cậy vào nơi thất vọng,
để con
dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
đem
niềm vui đến chốn u sầu.
Và
chúng ta có thể thêm:
Nơi nào
có ác ý, xin cho con thể hiện lòng tốt.
Nơi nào
có sự khắc nghiệt, xin cho con mang đến lòng từ nhân!
[1] Cf. Origène, In
[2] Saint Irénée, Adversus
Haereses, III, 24, 1.
[3] Lumen Gentium, 12.