Can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian
Bài
giảng thứ năm mùa Chay
Thứ
sáu 31-3-2023
https://www.youtube.com/watch?v=YzOZSVC35sc (33phut)
“Ở thế gian, anh em sẽ gặp khó khăn, nhưng can đảm lên,
Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Thưa quý cha đáng kính, thưa anh chị em, đây là một trong những lời cuối cùng
Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi từ giã các ngài. Đó không phải là câu
“can đảm lên” thông thường được gửi cho những người ở lại, bởi một người sắp ra
đi. Thực vậy, Người nói thêm: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng
anh em” (Ga 14,18).
“Thầy đến cùng anh em” có nghĩa là gì nếu Ngài sắp ra đi?
Làm thế nào và trong khả năng nào Ngài sẽ lại đến và ở lại với họ? Nếu không
hiểu câu trả lời cho câu hỏi này, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được bản chất
thực sự của Giáo hội. Câu trả lời được đưa ra – như một loại chủ đề lặp đi lặp
lại – trong các diễn từ chia tay của Tin Mừng Gioan; và sẽ thật tốt nếu ít nhất
một lần chúng ta nghe lần lượt từng câu, mà qua đó nó trở thành nốt chủ đạo.
Hãy làm điều đó với sự chú ý và lo lắng của những đứa con khi lắng nghe di chúc
của cha họ về tài sản quý giá nhất mà ông sắp để lại cho họ.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng
Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế
gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn
anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em (Ga 14,16-17).
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh
Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy
đã nói với anh em (Ga 14,26).
Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em
từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm
chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay
từ đầu (Ga 15,26-27).
Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy
không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ
sai Đấng ấy đến với anh em (Ga 16,7).
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ,
anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em
tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì
Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.
Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em (Ga 16,12-14).
Nhưng Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa là gì, hay đúng
hơn, là ai? Là Ngài, hay là ai khác? Nếu là chính Ngài, tại sao Ngài lại nói ở
ngôi thứ ba, “khi nào Đấng Bảo Trợ đến…”; nếu là người khác, tại sao Ngài lại
nói ở ngôi thứ nhất, “Thầy đến cùng anh em?”. Chúng ta chạm tới mầu nhiệm tương
quan giữa Đấng Phục Sinh và Thần Khí của Người. Đó là một mối quan hệ gần gũi
và nhiệm mầu đến nỗi đôi khi Thánh Phaolô dường như đồng nhất chúng. Ngài viết,
“Chúa là Thần Khí”, nhưng rồi ngài nhanh chóng thêm vào, “và ở đâu có Thần Khí
của Chúa, ở đó có tự do” (2Cr 3,17).
Nếu đó là Thần Khí của Chúa, thì đó không thể thuần túy và đơn giản là Chúa.
Câu trả lời của Kinh Thánh là Chúa Thánh Thần, qua sự cứu
chuộc, đã trở thành “Thần Khí của Chúa”; đó là cách thức mà Đấng Phục Sinh –
“đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng theo Thần Khí thánh hóa,
nhờ việc sống lại từ cõi chết” (Rm 1,4)
– giờ đây hoạt động trong Giáo Hội và trong thế giới. Đây là lý do tại sao Ngài
có thể nói với các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em”, và nói thêm,
“nhưng Thầy không để anh em mồ côi đâu”.
Chúng ta phải loại bỏ một tầm nhìn về Giáo hội đã trở nên
thống trị trong ý thức của nhiều tín hữu. Tôi gọi nó là hình ảnh về thần linh
hay hình ảnh của Descartes, bởi vì nó có mối quan hệ gần gũi với tầm nhìn của
Descartes về thần thánh. Mối quan hệ giữa Thiên Chúa và thế giới được hình
thành như thế nào trong tầm nhìn này? Thưa: Đại loại nó như thế này: Đầu tiên,
Chúa tạo ra thế giới và sau đó rút lui, để nó phát triển theo những quy luật mà
Ngài đã ban cho nó – giống như một chiếc đồng hồ đã được lên giây thiều để tự
chạy vô thời hạn. Bất kỳ sự can thiệp mới nào của Chúa sẽ làm xáo trộn trật tự
này, đó là lý do tại sao phép lạ được coi là không thể chấp nhận được. Chúa,
khi tạo ra thế giới, sẽ hành động giống như một người xoay một quả bóng nhẹ và
đẩy nó lên không trung, trong khi Ngài vẫn ở trên mặt đất.
Tầm nhìn này có ý nghĩa gì khi áp dụng cho Giáo hội?
Thưa: Tầm nhìn ấy cho rằng Chúa Kitô đã thành lập Giáo hội, ban cho Giáo hội
tất cả các cơ cấu phẩm trật và bí tích cần thiết để Giáo hội hoạt động, rồi rời
bỏ Giáo hội, lui về thiên đàng của Người vào thời điểm Thăng thiên. Giống như
ai đó đẩy một chiếc thuyền nhỏ xuống biển rồi bỏ đi xa bờ.
Nhưng không phải như thế đâu! Chúa Giêsu đã lên thuyền và
ở trong đó. Những lời cuối cùng của Người trong Tin Mừng Mátthêu phải được coi
trọng: “Này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Với mỗi cơn bão mới, bao
gồm cả những cơn bão hiện tại, Người lặp lại điều Người đã nói với các môn đệ
khi làm gió bão lặng yên: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!?” (Mt 8,26). Thầy không ở đây với anh em
sao? Ta có thể chìm không? Người đã tạo ra biển có thể chìm xuống biển không?
Tôi vui mừng ghi nhận rằng, trong Niên giám Tòa Thánh,
dưới tên của Đức Giáo Hoàng, chỉ có danh hiệu “Giám mục Rôma”; tất cả các danh
hiệu khác – Đại diện của Chúa Giêsu Kitô, Giáo hoàng tối cao của Giáo hội hoàn
vũ, Giáo chủ của Ý, v.v. – được liệt kê là “những danh hiệu lịch sử” trên trang
tiếp theo. Điều đó có vẻ đúng đối với tôi, đặc biệt liên quan đến danh xưng
“Đại diện của Chúa Giêsu Kitô”. Đại diện là người thế chỗ cho ông chủ khi ông
vắng mặt, nhưng Chúa Giêsu Kitô không bao giờ vắng mặt và sẽ không bao giờ vắng
mặt trong Giáo hội của Người. Với cái chết và sự phục sinh của mình, Người đã
trở thành “đầu của thân thể là Giáo hội” (Cl 1,18)
và sẽ tiếp tục như vậy cho đến tận thế, là Chúa thật và duy nhất của Giáo hội.
Sự hiện diện của Người không phải về mặt đạo đức và ý
hướng, có thể nói như thế. Đó không phải là quyền chủ tể được ủy quyền. Khi
không thể đích thân có mặt tại một sự kiện nào đó, chúng ta thường nói: “Tôi sẽ
có mặt trong tinh thần”, điều này không an ủi và giúp ích nhiều cho những người
đã mời chúng ta. Khi chúng ta nói về Chúa Giêsu rằng Người hiện diện “tinh
thần”, thì sự hiện diện tinh thần này không phải là một hình thức kém mạnh mẽ
hơn hình thức thể lý, nhưng thực tế và hiệu quả hơn rất nhiều. Đó là sự hiện
diện của Đấng Phục Sinh, Đấng hoạt động trong quyền năng của Chúa Thánh Thần,
trong mọi lúc và mọi nơi, và là Đấng hành động trong chúng ta.
Nếu trong tình hình khủng hoảng năng lượng ngày càng gia
tăng như hiện nay, người ta phát hiện ra sự tồn tại của một nguồn năng lượng
mới, vô tận; nếu cuối cùng chúng ta khám phá ra cách sử dụng năng lượng mặt
trời theo ý muốn và không có tác động tiêu cực, thì cả nhân loại sẽ nhẹ nhõm
biết bao! Trong lĩnh vực của mình, Giáo hội cũng có một nguồn năng lượng vô tận
tương tự – đó là “sức mạnh từ trên cao”, là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu có thể
nói về Ngài: “Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi,
anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16,24).
Có một thời điểm trong lịch sử cứu độ gợi lại rất gần gũi
những lời của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly. Đó là lời tiên tri của nhà tiên tri
Khácgai. Chúng ta hãy lắng nghe:
Tháng bảy ngày hai mươi mốt, có lời Thiên Chúa phán qua
trung gian ngôn sứ Khácgai rằng: “Ngươi hãy nói với tổng đốc xứ Giuđa là
Dơrúpbaven, con ông Santiên, nói với thượng tế Giêsua, con ông Giơhôxađắc và
nói với những người còn sót lại trong dân rằng: Ai trong các ngươi trong số
người còn sót lại đã từng được chứng kiến cảnh rực rỡ vinh quang của Đền Thờ
ban sơ? Và bây giờ các ngươi thấy Đền Thờ như thế nào? Trước mắt các ngươi, nó
chẳng còn là gì nữa đó sao? Vậy bây giờ, hỡi Dơrúpbaven, hãy mạnh bạo lên! Này
thượng tế Giêsua, con ông Giơhôxađắc, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh
bạo lên! Sấm ngôn của Thiên Chúa. Hãy bắt tay vào việc, vì chính Ta ở với các
ngươi. Sấm ngôn của Thiên Chúa các đạo binh. Chiếu theo lời Ta kết ước với các
ngươi lúc các ngươi ra khỏi Ai cập, thần khí Ta ở giữa các ngươi; các ngươi
đừng sợ” (Kg 2,1-5).
Đây là một trong số rất ít văn bản của Cựu Ước có thể
được xác định niên đại với độ chính xác cao – ngày 17 tháng 10 năm 520 trước
Công nguyên. Chẳng lẽ chúng ta không thấy rằng những lời của Khácgai đang mô tả
tình hình hiện tại của Giáo Hội Công Giáo và trong nhiều khía cạnh là tình hình
của toàn bộ Kitô giáo sao? Những người trong chúng ta, những người đã có tuổi
đều nhớ với một nỗi hoài niệm nhất định về thời điểm ngay sau khi Chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc. Các nhà thờ đầy người vào Chúa Nhật; đám cưới và lễ
rửa tội diễn ra tại các giáo xứ; chúng ta có thể nói như Khácgai: “Nhưng bây
giờ chúng ta thấy nó trong những tình trạng nào?”. Thật không đáng để dành thời
gian lặp lại danh sách những tệ nạn hiện tại, những thứ mà đối với một số người
chỉ xuất hiện như những tàn tích, không khác gì hơn những tàn tích của Rôma cổ
đại mà chúng ta có xung quanh thành phố này.
Không phải mọi thứ đã từng lấp lánh, và bây giờ chúng ta
đang hối tiếc, đều là vàng. Nếu tất cả đều là vàng ròng, nếu những chủng viện đông
nghẹt đó đã rèn giũa nên những mục tử thánh thiện, và nền đào tạo truyền thống
đã truyền đạt cho họ sự vững chắc và chân chính, thì chúng ta đã không phải
than khóc vì nhiều vụ tai tiếng như ngày nay… Nhưng đây không phải là điều
chúng ta cần nói đến ở đây, và tôi chắc chắn không phải là người đủ điều kiện
nhất để làm việc đó. Điều tôi nóng lòng muốn giữ lại là lời khuyên mà vị tiên
tri đã nói với dân Israel thời bấy giờ. Ông không khuyến khích họ cảm thấy tiếc
cho bản thân, cam chịu và chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Không. Ông nói, giống
như Chúa Giêsu, “Hãy can đảm và làm việc vì Thầy ở bên anh em – sấm ngôn của
Chúa – Thần Khi của Thầy sẽ ở bên anh em!”.
Nhưng hãy cẩn thận! Một lần nữa, đây không phải là một
câu nói “hãy can đảm lên” mơ hồ và trống rỗng. Trước đó, nhà tiên tri đã cho
biết “công việc” mà họ sẽ phải làm là gì. Và vì nó rất liên quan đến chúng ta,
nên chúng ta cũng hãy lắng nghe lời tiên tri trước đây của Khácgai với người
dân và các nhà lãnh đạo của họ:
Thiên Chúa các đạo binh phán thế này: Dân đó dám nói:
“Bây giờ chưa phải là lúc tái thiết Đền Thờ kính Thiên Chúa”. Nhưng có lời
Thiên Chúa phán, qua trung gian ngôn sứ Khácgai, rằng: “Bây giờ có phải là lúc
để các ngươi ở trong các nhà có ghép gỗ đóng trần, còn Đền Thờ thì lại hoang
tàn đổ nát không? Vậy giờ đây, Thiên Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi
hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Các ngươi gieo vãi nhiều,
nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ
say, mặc không đủ ấm. Đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng. Thiên
Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của
các ngươi. Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta. Ta sẽ vui thích và
tỏ vinh quang Ta ở đó, Thiên Chúa phán” (Kg 1,2-8).
Một khi được công bố, lời Chúa trở nên linh hoạt và sống
động trở lại mỗi khi được công bố. Lời Chúa không phải là một trích dẫn Kinh
Thánh đơn giản. Bây giờ chúng ta là “dân này” mà lời của Thiên Chúa hướng đến.
Đối với chúng ta ngày nay, “những ngôi nhà được lát ván đẹp đẽ” là gì để chúng
ta muốn ở yên trong đó? Tôi thấy ba ngôi nhà đồng tâm, ngôi nhà này nằm trong
ngôi nhà kia, từ đó chúng ta phải đi ra ngoài để leo lên núi và xây dựng lại
ngôi nhà của Chúa.
Ngôi nhà đầu tiên, được ốp gỗ cẩn thận, được chăm sóc và
trang bị nội thất, là “cái tôi” của tôi – là sự an khang của tôi, vinh quang
của tôi, địa vị của tôi trong xã hội hoặc trong Giáo hội. Đó là bức tường khó
phá vỡ nhất. Thật dễ nhầm danh dự của tôi với danh dự của Chúa và Giáo hội,
cũng như sự gắn bó với những ý tưởng của tôi và sự gắn bó với sự thật thuần
khiết và đơn giản. Tôi đây, người đang nói với anh chị em, không nghĩ mình là
ngoại lệ. Chúng ta ở trong lớp vỏ này của mình giống như con tằm trong vỏ của
nó: xung quanh nó là tơ, nhưng nếu con tằm không phá vỡ lớp vỏ, nó sẽ vẫn là
một con sâu bướm và sẽ không bao giờ trở thành một con bướm bay lượn tự do.
Nhưng hãy để chủ đề này sang một bên, có rất nhiều cơ hội
để nghe về điều đó. Ngôi nhà thứ hai được trang bị cẩn thận để từ đó ra đi làm
việc trong “ngôi nhà của Chúa” là giáo xứ của tôi, dòng tu của tôi, phong trào
hoặc hiệp hội của Giáo Hội, Giáo Hội địa phương của tôi, giáo phận của tôi…
Chúng ta không được nhầm lẫn. Khốn thay cho chúng ta nếu chúng ta không có tình
yêu và sự gắn bó với những thực tại cụ thể này mà Chúa đã đặt chúng ta vào đó,
và có lẽ chúng ta phải chịu trách nhiệm về những thực tại đó. Cái ác nằm ở chỗ
biến chúng thành tuyệt đối, không coi bất cứ thứ gì ngoài nó, không quan tâm
đến bất cứ thứ gì khác, chỉ trích và coi thường những người không chia sẻ thực
tại của chúng ta. Tóm lại, đánh mất tính Công Giáo của Giáo hội, quên mất điều
mà Đức Thánh Cha thường nói, rằng “toàn thể lớn hơn một phần.” Chúng ta là một
thân thể, thân thể của Chúa Kitô, và, như Thánh Phaolô nói, trong thân thể “nếu
một chi thể đau thì cả thân thể cùng đau” (1Cr 12,26).
Thượng hội đồng cũng nên phục vụ điều này: đó là làm cho chúng ta ý thức và
chia sẻ những vấn đề và niềm vui của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.
Nhưng chúng ta hãy đến ngôi nhà thứ ba được trang bị tốt.
Việc thoát ra khỏi nó trở nên đặc biệt khó khăn bởi thực tế là trong nhiều thế
kỷ, chúng ta đã được dạy rằng chỉ cần nhìn ra bên ngoài thôi cũng đã là tội lỗi
và phản bội. Gần đây tôi đang đọc, nhân dịp Tuần lễ Cầu nguyện cho Sự Hiệp nhất
Kitô hữu, chứng từ của một phụ nữ Công Giáo đến từ một quốc gia đa tôn giáo.
Linh mục giáo xứ của cô ấy từng dạy cộng đoàn rằng chỉ cần bước vào một nhà thờ
Tin lành thôi cũng đã là một tội trọng. Và tôi cho rằng, ở phía bên kia hàng
rào, điều tương tự cũng đã được nói về việc bước vào một nhà thờ Công Giáo.
Tất nhiên, tôi nói về ngôi nhà được ốp gỗ cẩn thận, là hệ
phái Kitô đặc biệt mà chúng ta thuộc về. Tôi làm như vậy khi trong ký ức vẫn
còn mới mẻ về sự kiện phi thường và mang tính tiên tri của cuộc gặp gỡ đại kết
ở Nam Sudan vào tháng 2 vừa qua. Tất cả chúng ta đều xác tín rằng một phần gây
ra sự yếu kém trong việc loan báo Tin Mừng và hành động của chúng ta trên thế
giới là do sự chia rẽ và đấu tranh lẫn nhau giữa các Kitô hữu. Điều Thiên Chúa
phán trong sách tiên tri Khácgai vẫn đang xảy ra:
Các ngươi mong đợi nhiều, nhưng mùa màng chẳng được bao
nhiêu. Các ngươi có đem được những thứ đó về nhà, Ta cũng sẽ thổi bay đi hết.
Vì sao vậy? Sấm ngôn của Thiên Chúa các đạo binh - vì Nhà của Ta vẫn còn tan
hoang, trong khi đó các ngươi ai nấy bận rộn lo cho nhà riêng của mình (Kg 1,9).
Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Trên đá này Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy”. Ngài không nói, “Thầy sẽ xây dựng NHỮNG Hội Thánh của Thầy”.
Phải có một cảm thức theo đó điều mà Chúa Giêsu gọi là “Hội Thánh của Thầy” bao
trùm tất cả những người tin vào Người và tất cả những người đã chịu phép rửa.
Thánh Phaolô có một công thức có thể hoàn thành nhiệm vụ ôm lấy tất cả những ai
tin vào Chúa Kitô. Mở đầu Thư Thứ Nhất gửi tín hữu thành Côrintô, ngài gửi lời
chào đến “tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức
Giêsu Kitô, là Chúa của họ và của chúng ta” (1Cr 1,2).
Tất nhiên, chúng ta không thể hài lòng với sự thống nhất
rất rộng lớn nhưng lại quá mơ hồ này. Và điều này biện minh cho sự cam kết và
thảo luận, ngay cả về giáo lý, giữa các Giáo hội. Nhưng chúng ta cũng không thể
khinh chê và coi thường sự hiệp nhất căn bản hệ tại ở việc kêu cầu cùng một
Chúa Giêsu Kitô. Ai tin vào Con Thiên Chúa thì cũng tin vào Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần. Điều đã được lặp đi lặp lại nhiều lần là rất đúng: “điều hợp nhất
chúng ta quan trọng hơn điều chia rẽ chúng ta.”
Có những trường hợp chúng ta nhất thiết phải phản đối
việc lạm dụng danh Chúa Giêsu và cách thức sai trái trong đó Tin Mừng được loan
báo. Trong những trường hợp như vậy, điều mà Thánh Phaolô đã viết về một số
người vào thời của ngài đã loan báo Tin Mừng “với tinh thần ganh đua và với ý
định bất chính” có thể giúp chúng ta vượt qua sự phủ nhận: “Nhưng điều đó có
quan trọng gì?” Ngài viết cho các tín hữu Philipphê: “Miễn là cách nào, hoặc vì
thuận tiện hay vì lòng thành, mà Đức Kitô được rao giảng, thì tôi vui mừng” (Pl 1,16-18). Đó là chưa kể đến việc
các Kitô hữu thuộc các giáo phái khác cũng tìm thấy những điều ở người Công
Giáo chúng ta mà họ không thể chấp nhận.
Lời tiên tri của Khácgai về ngôi đền mới được xây lại kết
thúc với một lời hứa rạng rỡ: “Vinh quang của Đền Thờ lúc này sẽ rạng ngời hơn
khi trước, Thiên Chúa các đạo binh phán; tại nơi này Ta sẽ ban tặng bình an -
sấm ngôn của Thiên Chúa các đạo binh” (Kg 2,9).
Chúng ta không dám nói rằng lời tiên tri này cũng sẽ trở thành sự thật đối với
chúng ta và rằng ngôi nhà của Thiên Chúa là Giáo hội của tương lai sẽ huy hoàng
hơn ngôi nhà của quá khứ mà chúng ta hiện đang hối tiếc; tuy nhiên, chúng ta có
thể hy vọng vào điều đó và cầu xin Chúa ban cho chúng ta điều đó với tinh thần
khiêm nhường và ăn năn.
Chúng ta chứng kiến một số dấu hiệu đáng khích lệ về
phương diện này, một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất chính là việc tìm kiếm
sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Trong cuộc phỏng vấn với một nhà báo Công Giáo
trên hành trình trở về từ Nam Sudan, Đức Tổng Giám Mục Justin Welby cho biết:
“Khi các Giáo hội làm việc cùng nhau, – mà trong quá khứ đã từng là đối phương
của nhau, tấn công nhau, thiêu sống linh mục của nhau, và đã lên án nhau. nhau
theo cách mạnh mẽ nhất – thì trong trường hợp đó, có một điều gì đó thuộc về
tâm linh đã xảy ra. Có một sự giải phóng của Thánh Linh Thiên Chúa, và điều này
mang lại cho tôi niềm hy vọng lớn”.
Thưa các Cha đáng kính, thưa anh chị em, lời tiên tri của
Khácgai mà tôi đã bình luận có liên quan đến một ký ức cá nhân và tôi xin lỗi
nếu tôi dám nhắc lại ở đây sau khi một số anh chị em có thể đã nghe tôi kể lại.
Tôi làm như vậy với niềm tin chắc rằng lời tiên tri làm bùng phát niềm tin cậy
và hy vọng mỗi khi nó được công bố và lắng nghe với đức tin.
Ngày mà Bề trên Tổng quyền của tôi cho phép tôi rời vị
trí giảng dạy tại Đại học Công Giáo Milan, để dành trọn thời gian cho việc rao
giảng, chính xác là có lời tiên tri của Khácgai trong Các Giờ Kinh Phụng vụ.
Sau khi tham dự Phụng Vụ Giờ Kinh, tôi đến đây trước tượng Thánh Phêrô này. Tôi
muốn xin Thánh Tông Đồ chúc lành cho chức vụ mới của tôi. Vào một thời điểm nào
đó, khi tôi đang ở quảng trường, lời của Thiên Chúa mạnh mẽ hiện về trong tâm
trí tôi. Tôi quay về phía cửa sổ của Đức Giáo Hoàng trong Điện Tông tòa và bắt
đầu lớn tiếng tuyên bố: “Hãy can đảm lên, Đức Gioan Phaolô II, hãy can đảm lên,
các Hồng Y, giám mục, và tất cả mọi người trong Giáo hội, và hãy làm việc vì
Thầy ở cùng anh em, Chúa phán”. Việc đó rất dễ thực hiện vì trời đang mưa và
không có ai đứng xung quanh.
Tuy nhiên, vài tháng sau, vào năm 1980, tôi được bổ nhiệm
làm Giảng thuyết Phủ Giáo hoàng và được diện kiến Đức Thánh Cha để bắt đầu Mùa
Chay đầu tiên của mình. Từ đó lại vang vọng trong tôi, không phải như một trích
dẫn và một kỷ niệm, mà như một lời sống động cho thời điểm đó. Tôi đã chia sẻ
những gì tôi đã làm ngày hôm đó tại quảng trường Thánh Phêrô. Sau đó, tôi quay
sang Đức Giáo Hoàng, người lúc đó đang theo dõi bài giảng từ một nhà nguyện bên
cạnh, và mạnh mẽ lặp lại những lời của Khácgai: “Hãy can đảm lên, Đức Gioan
Phaolô II, hãy can đảm lên các Hồng Y, giám mục và dân Chúa, và bắt tay vào
việc, bởi vì Thầy ở với anh em, Chúa phán. Thần Khí của Thầy sẽ ở cùng anh em”.
Và từ phản ứng, đối với tôi, dường như những lời nói đó đã đem lại những gì đã
hứa hẹn: đó là lòng can đảm (ngay cả khi Đức Gioan Phaolô II là người cuối cùng
trên thế giới cần được khuyến khích để có lòng can đảm!).
Hôm nay tôi dám công bố lại lời đó, vì biết rằng đó không
chỉ là một câu trích dẫn, mà là một lời hằng sống luôn thực hiện những gì nó
hứa. Vì thế, hãy can đảm lên, thưa Đức Thánh Cha Phanxicô! Chúa phán: Hãy can
đảm lên, hỡi các Hồng Y, giám mục, linh mục và tín hữu của Giáo Hội Công Giáo,
và hãy làm việc, vì Thầy ở cùng anh em. Thần Khí của Thầy sẽ ở bên anh em!
NB. Bản dịch của JB Đặng Minh An